BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Thi Văn Giáo Lý Năm Đinh Hợi (1947)

THI VĂN GIÁO LÝ của Đức Huỳnh Giáo Chủ (Do chính tay Ngài viết hoặc xướng họa) NHỮNG BÀI SÁNG TÁC NĂM ĐINH-HỢI (1947)

Tải Trọn Bộ Sấm Giảng - Thi Văn Giáo Lý PDF
Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ Của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ PHẬT GIÁO HOÀ HẢO

THI VĂN GIÁO LÝ

của 
Đức Huỳnh Giáo Chủ
(Do chính tay Ngài viết hoặc xướng họa)

NHỮNG BÀI SÁNG TÁC NĂM ĐINH-HỢI (1947)


Mục lục



ANH PHIỆT XƯỚNG: (1)

Non nước ngửa nghiêng vẫn ngủ ỳ?
Ai ôi tỉnh dậy, dậy rồi đi.
Đi lo sự-nghiệp trai thời loạn,
Khỏi thẹn người xưa lúc gặp thì.
***
ĐỨC THẦY họa:
Lặng-lẽ tính toan đâu ngủ ỳ!
Chỉnh-tu binh-mã để rồi đi.
Khi đi muôn sói đều tan-vỡ,
Rõ mặt hùng-anh tạo thế thì…

Miền-Đông, mùa xuân năm 1947
(1) Bài nầy của anh mười Phiệt, thuộc nhóm Bình-Xuyên (làm đã từ lâu) đọc có ý kích-thích Đức Thầy trong khi Ngài đang nằm nghỉ trưa. Đức Thầy liền ứng-khẩu đáp-họa liền làm cho anh em Bình-Xuyên vỗ tay hoan-nghinh nhiệt-liệt.
***

TẶNG CHIẾN-SĨ BÌNH-XUYÊN

Trước khét tiếng trong làng dao búa,
Lúc quân thù thống-trị nước non Nam.
Khách giang-hồ tựu ngũ, tùng tam,
Quyết khuấy nước chọc trời cho thỏa chí.
Dân-chúng trách đám người không biết nghĩ,
Cứ quanh năm suốt tháng phá hương-thôn.
Vì an-ninh giặc Pháp cử binh-rồn,
Khi sa lưới phải lao tù nơi hải-đảo.
Rồi vượt biển bao nài cơn gió bão,
Về quê nhà tánh cũ vẫn nghinh-ngang.
Lúc hoàn-cầu tiếng súng nổ vang,
Bừng tỉnh giấc bàng-hoàng suy nghĩ lại.
Từ thưở bé bao phen tang-hải,
Khi kiêu-hùng đem lại những chi đâu?
Nhìn non sông đượm vẻ âu-sầu,
Lòng yêu nước bắt đầu tim sóng dậy.
Cờ độc-lập Bắc, Nam, Trung phe-phẩy,
Trước gió chiều hãnh-diện với lân-bang.
Bỗng phương Âu vô-số bọn tham-tàn,
Tàu, bôm, súng đem sang non nước Việt.
Ách nô-lệ dân đà chán biết,
Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm-lăng.
Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng:
Thà cam chết, không làm dân bị trị.
Bọn cách-mạng giả-danh đang rối trí,
Khu Bình-Xuyên tiếng súng nổ vang tai.
Đoàn dũng-binh tiếng đếm một hai…
Nhắm hướng có quân thù xông lướt đến.
Đạp thành-lũy cứu giống-nòi yêu mến,
Làm rơi đầu, đổ máu biết bao ngàn.
Tiếng anh-hùng nổi dậy khắp giang-san,
Thay những tiếng bạo-tàn cơn thất-chí.
Xông trận-địa nêu gương trang dũng-sĩ,
Tự-hào rằng Nam-Việt kém chi ai.
Ngàn muôn năm ghi nhớ khách anh-tài,
Trong sách sử tiếng Bình-Xuyên luôn chói rạng.
Miền-Đông, 10-1-1947



TẾT Ở CHIẾN-KHU

Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng,
Uống rồi vùng-vẫy khắp Tây-Đông.
Đem nguồn sống mới cho nhơn-loại,
Để tiến, tiến lên cõi đại-đồng.
***
Rượu xuân càng nhấp càng say,
Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.
***
Ngày tết năm nay ở chiến-khu,
Bưng biền gió lốc tiếng vi-vu.
Xa xa súng nổ thay trừ-tịch,
Dân Việt còn mang nặng mối thù.
***
Mối thù nô-lệ trả chưa xong,
Pháp-tặc còn trêu giống Lạc-Hồng.
Dùng thói dã-man mưu thống-trị,
Thì ta quyết chiến dễ nào không!
***
Dễ nào không dám gắng hy sinh,
Giữ vững non sông đất nước mình.
Tự-lập nghìn xưa gương chói rạng,
Anh-hùng khởi xuất chốn dân-binh.
***
Dân-binh Nam-Việt mấy ai bì?
Không súng tầm-vông cũng vác đi.
Xông lướt trận-tiền ngăn giặc mạnh,
Liều thân cứu nước lúc lâm-nguy.
***

Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn,
Lòng mang Đại-Nghĩa để thân khinh.
Máu đào xương trắng phơi đầy-nội,
Quyết đổi tự-do mới thỏa tình.
***
Thỏa tình được sống dưới trời Đông,
Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng.
Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt,
Từ đây non nước thoát nguy-vong.
Bình-Hòa (Chợ-lớn) ngày 2-1 Đinh-Hợi (1947)
***

KỶ-NIỆM RỪNG CHÀ-LÀ

Rừng Chà-Là, rừng Chà-Là vạn tuế…!
Thành lũy ấy chông gai bao xiết kể,
Muôn quân thù đâu dám dẫm chơn vô,
Đây là nơi tướng Việt thiết mưu-mô.
Chờ cơ-hội quét tan loài xâm lược.
Tranh độc-lập để bảo-tồn non-nước,
Biết bao lần chúng giặc phải cuồng-điên.
Vì đem quân cả phá Bình-Xuyên,
Chạm chán với chiến-binh hùng-dũng.
Một năm qua bền gan không nao núng,
Dù thảo-lương thiếu túng chịu gian-nan.
Nơi rừng xanh chịu lắm cảnh cơ-hàn,
Mưa nắng táp, gió sương dầu-dãi.
Nước Nam-Việt ở ven bờ Nam-hải,
Ngàn xưa từng chống lại họa xâm-lăng.
Bạch-Đằng Giang công-nghiệp ấy ai bằng,
Quân Việt ít đánh tan Mông-Cổ mạnh.
Nay giặc Pháp buông-lung, kêu-hãnh,
Ỷ-lại vào tàu chiến với phi-cơ.
Nơi sa-trường chúng gặp cảnh bất ngờ,
Sức kháng-chiến ngàn xưa nay sống dậy.
Nơi Hành-dinh gió vàng phe phảy,
Khách viễn-phương mượn lấy tờ hoa.
Vài câu văn thô-kịch gọi là,
Để kỷ-niệm chốn “Bình-Xuyên” anh-dũng.
Hòa-Hảo tặng chiến-sĩ Liên-khu Bình-Xuyên (2-47)
***

ÔNG TRẦN-VĂN-SOÁI và ÔNG NGUYỄN-GIÁC-NGỘ

Tôi vừa hội-hiệp với ông Bửu-Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra, tôi và ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên-nhân còn điều-tra; trong mấy anh em phòng-vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo-cáo rằng tôi bị bắt hay mưu-sát thì các ông đừng-tin và náo-động.
Cấm chỉ đồn-đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ.
Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu-Vinh điều-tra kỹ-lưỡng rồi về sau.
Phải triệt-để tuân lịnh.
Ngày 16-4-47; 9 giờ 15 đêm
Ký tên: S

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget