Sơ Lược Tiểu Sử Ông Thanh Sĩ Đệ Tử Đức Huỳnh Giáo Chủ
Mục lục
A- VÀI NÉT VỀ ÔNG THANH-SĨ
1. Thân-Thế:
Ông Thanh Sĩ, tên thật là Trần Duy Nhứt, sanh năm Mậu Thìn (1928) tại Ấp Phú Thạnh, xã Phú Long, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc, Nam Phần Việt Nam.
Thân phụ ông Thanh Sĩ là ông Chế Văn Hương và thân mẫu là
bà Trần Thị Mười. Do điều bất hạnh xẩy ra trong gia đình, ông Thanh Sĩ phải
mang họ mẹ và lớn lên bên cạnh mẹ cùng với người em ruột là Trần Duy Nhì trong
một hoàn cảnh nghèo khó.
Từ thuở nhỏ, ông có tính tình hiền hòa, khiêm cung, lễ độ với
mọi người. Dáng ông cao ráo, mảnh khảnh, tiếng nói trong trẻo, thanh sảng.
Vì hoàn cảnh khốn khó, ông Thanh Sĩ phải thôi học lúc chưa hết lớp ba trường làng. Mặc dầu không có cơ hội tới trường lớp nhiều nhưng ông có kiến thức vượt hẳn lớp người cùng thời nhờ bẩm chất thông minh, có chí tìm hiểu kinh sách và năng trau dồi đạo đức.
Vì hoàn cảnh khốn khó, ông Thanh Sĩ phải thôi học lúc chưa hết lớp ba trường làng. Mặc dầu không có cơ hội tới trường lớp nhiều nhưng ông có kiến thức vượt hẳn lớp người cùng thời nhờ bẩm chất thông minh, có chí tìm hiểu kinh sách và năng trau dồi đạo đức.
2. Hành-Trạng và Quá-Trình Hoằng Pháp:
Năm 1942 (Nhâm Ngọ), nhân đọc quyển Giác Mê Tâm Kệ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, ông Thanh Sĩ thấy được con đường đạo. Vào ngày rằm tháng bảy năm đó, ông thượng ngôi Tam Bảo và tự làm lễ qui y tại nhà. Lúc đó ông vừa tròn 15 tuổi.
Năm 1943, ông lâm bệnh nặng. Trong lúc mọi người tưởng ông
không qua khỏi thì bỗng nhiên ông mượn bút mực viết bài “Khải tấu cáo hoàng
thiên” rồi nhờ người đặt bàn hương án cầu nguyện, đọc và đốt dùm bài này. Sau
đó, tự nhiên ông khỏi bệnh.
Năm 1944 (Giáp Thân), ông Thanh Sĩ quyết chí đến diện kiến
Đức Huỳnh Giáo Chủ đang ngụ tại Sài Gòn để xin qui y trực tiếp. Khi ông đến nơi
thì từ trên lầu cao, Đức Huỳnh Giáo Chủ vẩy tay bảo ông hãy về vì Ngài đã hiểu
ý.
Năm 1945 (Ất Dậu), sau khi Nhựt đầu hàng quân đội Đồng
Minh, Mặt Trận Việt Minh bắt đầu hoạt động mạnh, gây nên cuộc xung đột đẵm máu
với các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và tạo ra biến cố Đốc Vàng (16-4-1947) khiến Đức
Huỳnh Giáo Chủ phải đột ngột ra đi. Không sống được trong vùng Việt Minh, gia
đình ông Thanh Sĩ phải xuống thuyền di cư về Thánh Địa Hòa Hảo vào tháng 2 nhuần
năm Đinh Hợi (1947).
Trong khoảng thời gian 1945-1947, ông Thanh Sĩ đã sáng tác
nhiều thi thơ có nội dung xiển dương đạo pháp nhưng vì khói lửa chiến tranh nên
bị thất lạc hết.
Năm 1948 (Mậu Tý), em ông là Trần Duy Nhì bị bệnh chết.
Ngày 16-4 âm lịch năm đó, lần đầu tiên ông đăng đàn thuyết pháp ứng khẩu mở màn
cho thời kỳ châu thuyết (1948-1952) qua nhiều tỉnh hạt: Châu Đốc, Long Xuyên, Cần
Thơ, Sađec, Vĩnh Long, Phú Lâm (Sài Gòn), … tổng cộng trên 40 địa điểm trong một
hoàn cảnh rất khó khăn của đất nước.
Năm 1952 (Nhâm Thìn), sau khi chùa Tây An Cổ Tự (Xã Long Kiến,
Tổng Định Hòa, Quận Chợ Mới, Tỉnh Long Xuyên) được trùng tu xong, ông Thanh Sĩ
bắt đầu thời kỳ thuyết pháp ứng khẩu định kỳ vào các ngày sóc vọng (rằm, 30 mỗi
tháng) tại đó. Ông lập ra Ban Hoằng Pháp – chính ông được bầu làm Giám đốc cùng
3 giảng viên: Thiện Duyên, Thiện Ngôn, Thiện Hạnh và thư ký là ông Bùi Xuân Cứ;
ông cũng lập chương trình tổ chức 3 khóa huấn luyện đạo đức (mỗi khóa 4 tháng)
để đào tạo các giảng viên:
– Khóa I khai giảng vào ngày rằm tháng giêng năm Giáp Ngọ
(1954) đào tạo được 22 giảng viên với danh hiệu là Khóa Hòa Hảo.
– Khóa II khai giảng tiếp sau đó và đã đào tạo được 30 giảng
viên với danh hiệu là Khóa Tây An.
Trong khi Khóa III chuẩn bị tiếp tục khai giảng thì tình
hình biến động nên ông đã vội xin xuất ngoại.
3. Thời-Kỳ Đông-Du:
Đầu năm 1955 (đúng ngày rằm tháng giêng năm Ất Mùi), ông Thanh Sĩ lên Sài Gòn xin phép sang Nhựt với lý do du học và nghiên cứu Phật pháp.
Trước khi rời Việt Nam, ông để lại hai câu thơ như sau:
“Loạn Nam cơ Bắc khổ ai bi,
Mượn cớ Đông Du đãi lịnh kỳ.”
Cùng đi với ông có ông Thiện Hạnh (trong Ban Hoằng
Pháp chùa Tây An Cổ Tự) giúp việc thông ngôn cho ông trong giai đoạn đầu. Một
tháng sau, ông Thiện Hạnh về Việt Nam và ông Lâm Văn Lẹ sang thay.
Sau khi đến Nhựt, ông Thanh Sĩ cùng ông Lâm Văn Lẹ xin vào
học tại Đại Học Đường Waseda. Việc này gặp phải khó khăn vì cả hai ông không có
bằng tú tài và ông Thanh Sĩ còn trở ngại tiếng Nhựt. Nhờ sự can thiệp của Tòa Đại
Sứ Việt Nam lúc bấy giờ, Viện Đại Học Waseda đã mở cuộc trắc nghiệm đặc biệt và
xác nhận hai ông có đủ trình độ nên cho nhập học.
Khả năng ngoại ngữ của ông Thanh Sĩ phát triển phi thường;
chỉ ba tháng sau, ông đã sử dụng được thông thạo tiếng Nhựt lẫn tiếng Anh. Sang
năm thứ hai, ông Lâm Văn Lẹ phải về Việt Nam báo hiếu vì cha đau nặng. Sau 4
năm, ông Thanh Sĩ tốt nghiệp bằng Cử nhân tại Waseda và được mời ở lại trường
làm giảng viên. Năm đầu, ông phụ trách giảng các môn Lịch Sử, Giáo lý Phật Giáo
và Triết học; năm sau, do khả năng ông phát triển nhanh, ông phụ trách thêm nhiều
môn học khác như: Xã Hội học, ngôn ngữ học. Ông cũng được mời diễn giảng tại
các lớp tu nghiệp cho các giáo sư của trường.
Trong suốt thời gian tại Nhựt, ngoài việc dạy học, ông
Thanh Sĩ không ngừng sáng tác, thường xuyên tiếp xúc với Uûy Hội Phật Giáo Quốc
Tế tại Nhựt cùng nhiều tôn giáo khác và thực hiện các công tác giáo sự quan trọng
ở hải ngoại.
4. Sự-Nghiệp Giáo-Lý:
Kể từ năm 1948 đến cuối cuộc đời, ông Thanh Sĩ đã để lại một sự nghiệp hoằng dương đạo pháp thật to tát:
* Lúc còn ở Việt nam, mỗi buổi đăng đàn thuyết pháp ứng khẩu
của ông thường kéo dài từ 2 đến 6 tiếng đồng hồ và qui tụ hằng ngàn hằng vạn
người đến nghe. Sau phần thuyết giảng bằng tản văn, ông tiếp tục giảng bằng vận
văn một cách siêu thoát trác tuyệt. Một số thi bài do anh em đồng đạo PGHH sưu
tập hoặc tốc ký ghi được gồm trên 30 tác phẩm; trong đó, được in thành sách
chia thành hai giai đoạn sau đây:
– Giai đoạn 1948-1952: gồm có các quyển: Châu Thuyết, Đám
Mưa Giông, Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh, Lời Khuyên Tu Hiền, Tỉnh Thế, Bán Dạ Đông
Thiên, Cảm Xuân, Thi Lục, …
– Giai đoạn 1952-1954: gồm có các quyển; Thuyết Pháp Ứng Khẩu,
Chú Nghĩa và nhiều bài đăng trong tập san Giác Tiến do Ban Hoằng Pháp chùa Tây
An Cổ Tự ấn hành.
* Trong thời gian tại Nhựt, dù rất đa đoan việc học hành,
nghiên cứu và dạy học, ông Thanh Sĩ cũng không ngừng sáng tác nhắc nhở việc tu
học cho các đồng đạo ở quê nhà. Từ 1957 đến 1967, ông viết xong 17 tác phẩm bằng
văn vần sau đây: Lời Vàng Trong Mộng, Vạn Niên Huynh Đệ, Rằm Tháng Mười, Đâu Là
Phàm Thánh, Tiếng Nói Trong Hoa Sen, Hỡi Quê Nhà, Đã Chết Mà Sống, Tôi Còn Đây
Mà, Tôi Không Quên, Ánh Sáng Từ bi, Đường Giải Thoát, Thần Cơ Thật Luận, Con
Thuyền Đại Đạo, Đời Mạt Pháp, Là Phật Tử, Tình Đạo Phật, Đến Liên Hoa. Các quyển
này đã được in và đóng chung thành tập có tên là HIỂN ĐẠO, dầy trên 1300 trang.
Ngoài ra, trên 630 lá thư được ông viết gởi về đồng bào và đồng đạo ở quê nhà để
trả lời các nghi vấn về đạo pháp cũng đã được sưu tập và ấn hành thành hai quyển
: Lá Thư Đông Kinh I và Lá Thư Đông Kinh II; một số băng nhựa cũng đã được ông
đích thân xướng âm ghi vào và gởi về Việt Nam.
5. Lập Nguyện:
Với tâm bồ tát độ đời, ông Thanh Sĩ đã từng lập nguyện rất lớn.
Trong “Vạn Niên Huynh Đệ”, ông đã thệ nguyện luân lưu cứu
thế:
“… Xác này còn cũng vẫn tiến lên,
Xác dầu mất cũng nguyền tái thế.
Đến chừng nào ngục môn đều phế,
Không còn người tồi tệ mới thôi.”
Trong “Lời Vàng Trong Mộng”, ông xác quyết:
Nguyện đem cái xác mọn này,
Gánh đau sầu, cứu mê say cho đời.
Đến khi nào hết người khổ não,
Ta mới vui lòng đáo Tây phang.
Ngày nào còn kẻ khốn nàn,
Ta còn ở thế mở đàng Từ Bi.”
Trong “Đâu Là Phàm Thánh”, ông cũng lập thệ:
Chừng nào được cứu an vạn vật,
Đây mới là chịu dứt chuyển thân.
Còn khổ đau một kẻ trên trần,
Đây còn phải lao thân khắp chốn.
Nguyện cứu thế dầu thân khốn đốn,
Cũng xem thường chẳng núng nao lòng.”
Qua các lời thệ nguyện trên cũng như qua cuộc đời xả thân
hoằng pháp của ông đủ để nói lên tâm bồ tát của ông dũng mãnh như thế nào rồi.
6. Những Ngày Cuối Đời:
Cơ duyên ông Thanh Sĩ đến với người tín đồ PGHH và đồng bào
Việt Nam thật là đậm đà gắn bó. Lòng mến đạo của ông sâu xa bao nhiêu thì lòng
yêu nước của ông cũng nồng nàn bấy nhiêu.
Như một cơ duyên đã mãn, một giai đoạn chuyển thân trợ đạo
đã kết thúc, mùa xuân năm 1972, ông Thanh Sĩ lâm trọng bịnh trong lúc đang dạy
học tại Đại Học Waseda Nhựt Bổn và phải vào bệnh viện tịnh dưỡng. Vào ngày
26/12 năm Nhâm Tý (nhằm 29-1-73), ngay sau khi Đài BBC loan tin Hiệp Định Ba Lê
được ký kết, hứa hẹn cho một cuộc ngưng chiến tại Việt Nam, ông trút hơi thở cuối
cùng, thọ 46 tuổi.
Nhục thân của ông đã được những người bạn Nhựt làm lễ hỏa
táng tại Tokyo vào ngày 31-1-73 và tro cốt được chuyển về Việt Nam sau đó. Hàng
vạn tín đồ PGHH đã cung nghênh tro cốt của ông một cách trọng thể và đưa về an
táng bên cạnh mộ phần của từ mẫu ông – bà Trần Thị Mười – tại Xã Long Kiến, Quận
Chợ Mới, Tỉnh An Giang.
Ông Thanh Sĩ mất đi để lại một sự thương tiếc cho hàng triệu
tín đồ PGHH và một vĩ nghiệp đạo đức tồn tại mãi mãi về sau.
* * *
Nhóm anh em tín đồ PGHH chúng tôi đang định cư tại Tiểu
bang Massachusetts và một vài nơi khác tại Hoa Kỳ nhận thấy quyển CHÚ NGHĨA về
Pháp Môn Học Phật Tu Nhân là một quyển sách rất ích lợi cho người cư sĩ tại gia
trên đường hành đạo. Quyển sách này gồm các tài liệu do ông Thanh Sĩ thuyết giảng
bằng văn xuôi, ông Vương Kim ghi chép và cho ấn hành tại Việt Nam trước đây.
Sách chú giải tỉ mỉ về các nét đại cương của Pháp Môn Học Phật Tu Nhân – mà Đức
Huỳnh Giáo Chủ từng nhắc nhở – một cách giản dị dễ hiểu, đáng được người cư sĩ
học Phật tu Nhân dùng làm kinh nhựt tụng. Do đó, chúng tôi đã vượt khó khăn về
thì giờ lẫn sự hạn hẹp về tài chánh cho tái ấn tống quyển sách này nhân dịp đón
chào thiên niên kỷ mới.
Chúng tôi nguyện đem công đức này hồi hướng đến khắp cả
chúng sanh đều sớm viên thành Phật Đạo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Hoa Kỳ, đầu Xuân năm 2000 – P.L. 2544
Một Nhóm Tín-Đồ PGHH Định Cư tại Hoa-Kỳ
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.