GIẢNG GIÁC MÊ
Thừa
nhàn gẫm sự giác mê,
Phàm trần
thoát khỏi mọi bề mới ngoan.
Nợ tiền
duyên Bồ đề giống trước,
Vẹn một
mình mới trọn ba thân.
Máy
thiền rộng thẩm vô phân,
Tri âm
lãnh ngộ thấy gần chẳng xa,
Lướt
phong ba mấy người chí cả.
Khỏi
ái hà là họa tiền duyên.
Tai
nghe mắt thấy nhìn tường,
Cách
nhau một vách mà nên Thánh phàm.
Nhớ Bắc
Nam dưỡng thân tứ đại,
Sao tu
hành nào nại thỉ chung;
Sắc
mài đã trọng thửa công,
Bửu
Sơn đã tới tay không để về.
Dốc một
lòng lên non đào giếng,
Cam lồ
rửa sạch tánh mê,
Nước
trong thì thấy nguyệt kia xa gì.
Danh lợi
đề đã nên tiếng sãi,
Lạc ở
mình cớ dễ chẳng tan;
Súng
kia nhắm dạng đề làng,
Thiên
cơ dễ biết ngộ duyên quân Thần,
Đã cầm
cân non già từng nhắc.
Dạ hai
lòng tráo chác đấu đong.
Lọc lừa
thời đặng nước trong,
Ma Phật
trong lòng lựa phải tầm đâu.
Mở cửa
lầu ra vào ngày tháng.
Một ngọn
đèn soi rạng mười phương;
Muốn
cho thấy chúa Tâm vương,
Vào
non bỉ ngạn kiết tường hoa khai.
Dốc giồi
mài công phu lừa lọc,
Kết tri
âm mảng đọc tâm kinh.
Kiếp
mình thức tử tri sanh,
Sá chi
dế lổ đành rành đặng mây.
Bỏ giống
kia mới rằng của lạ,
Như
bán hàng một gia khó chi.
Nhơn
nào quả nấy chẳng sai,
Ai từng
mặt bạc mày chì giống nhau.
Bửa
cháu rau đã an phận khó,
Còn
hơn người bán chó treo dê.
Khát
thời uống nước Tào khê,
Đói ăn
Ma phạn, tối về canh tân.
Thiệt
kim ngân xá chi lửa dục,
Đặng
nhiều đồng khéo đúc thì nên.
Miễn
là neo nọc cho bền,
Gió
vây mặc gió vững thuyền thì thôi.
Từng
giồi mài ơn che mặt bạc,
Chi
cho bằng xài xạc áo tơi.
Cớ chi
bán lụa ầu hồi,
Hội
lành nở bỏ mà vui chốn nào.
Muốn
ăn cơm mận nước đào,
Aùo dà
gậy trúc tiêu dao tháng ngày.
Cám ơn
Thầy lòng thờ án ná,
Mấy ai
hầu đặng cá nhớ nôm?
Có cây
mới biết hoa thơm,
Thuyền
chèo đến biển nỡ hềm đò phu!
Một thuyền
một bạn ngao du,
Làm
sao đến biển Diêm phù gieo câu.
Bỏ
sang giàu giữ ba điều khó,
Lánh
khỏi dòng cây cỏ mới ngoan.
Ngày hằng
mở cửa tam quan,
Hương
gìn đèn đốt cho an tư bề.
Nương
ngụ nhờ ba căn liều mọn,
Kẻo một
mình nhọc dọn sửa sang.
Đi đâu
cho khó nhiều đàng?
Kìa
non Bửu tự nọ ngàn Ma ha!
Kiểng
nào kiểng chẳng có hoa,
Non
nào non chẳng có tòa thiên thai!
Đất nọ
liền mượn cầu ai bắc,
Bịnh
vô căn phục dược làm chi!
Đừng
nghe lời lẻ thị phi,
Làm
sao mắt thấy tai nghe thì làm.
KIM CANG
Kệ rằng:
Đạo phật
cùng người chẳng bao xa!
Làm
lành nên Phật, dữ làm ma.
Quí tiện
đua theo dường danh lợi,
Nào ai
thoát khỏi chốn Diệm la?
Người
đời chẳng khác ngựa qua cửa sổ,
Thiểu
niên rồi trẻ lại thấy già.
Chi cho
bằng an phận đươc nhẫn nhục.
Ắt là
tảo ngộ chốn Di Đà.
***
Thọ
truyền giáo đạo Thích Ca,
Màu
thiền tấm ấn phép nhà nhiệm thay!
Chim
cò bay trong rừng sương tuyết,
Người
vô tình chẳng biết dấu xưa.
Một
thuyền vượt biển vô biên,
Phàm trần
thoát khỏi về miền Tây Phương.
Sự chẳng
toan dọn đào giếng trước,
Đến
cơn nghèo khát nước tầm đâu?
Những
lời điên đảo dối nhau,
Thiệt
vàng thì ít giả thau thì nhiều.
Công
đã liều ăn sương nằm tuyết,
Lên
non tầm cho biết ky nam.
Việc
chẳng làm than tân rằng khó,
Của ở
đời ai khó cho không?
Phật
Trời há dễ tư công,
Không
tu mà đặng cho không máy thiền.
Đạo
Thánh hiền tầm đâu cho khó,
Ai dạy
mình, mình lại dạy ai!
Ngọc
nhà luống bỏ chẳng mài,
Tiểu
tâm vì bởi cậy tài nên xa.
Giác
suy xa ấy là người quân tử,
Xét phận
mình ngày đủ ba phen.
Ai đốt
đèn nhà ta đặng tỏ,
Kẻ
gian tà đâu dám phạm xâm.
Loài cầm
thú còn hay biết ổ,
Huống
chi người nở bỏ tứ ân!
Trách
ai bụng lượng vô phân,
Để
theo tranh tụng giành phần thịt kia.
Trông chi
chì, vàng mười thì bỏ,
Chim
ham mồi mắc khó nào hay.
Ai
trau công quả cho dày,
Đất
bùn có thuở mọc rày hoa sen.
Đất gần
miền gắng công chèo lấy,
Dại
chi sao ngồi vậy chẳng toan.
Tuy là
tấn dị thối nan,
Trượng
phu kia hỡi cho bền chí trai.
Khối sắt
mài nên kim mới kể,
Chí
anh hùng lấp bể làm non.
Sắt
kia vào lửa mẻ mòn,
Gan
vàng tiết đá lòng son mấy người?
Sự nực
cười nước kia chảy ngược,
Bạch hạt
bay trượng trước nhành hoa.
Trống
kia chặp bảy chặp ba,
Trực nhìn
dường thấy Bửu tòa Thiên thai.
Chỉn lạ
hay trâu cày đáy biển,
Người
đã cười hả miệng cùng nhau.
Màu
thiền đắc ý cũng mầu,
Còn
hơn chen chúc công hầu vương khanh.
Những
đua tranh tiền ma gạo quỉ,
Của ở
đời ai có cho không.
Tây
phương trước mặt chẳng bao xa,
Cách
nhau vì bởi ái hà biển mê.
Những
che khen cười nhau lộn xạo,
Gẫm ở
mình ngay thảo nổi chi!
Dốc
lòng niệm chữ từ bi,
Lấy
dao trí huệ cắt đi cho rồi.
Bởi
dây dùng không bề khó dứt,
Sao
trách rằng Trời đất không binh.
Chớ khen
những đảng không minh,
Ở mình
lại giác lấy mình rằng khôn.
Chốn hải
môn ra vào ngày tháng.
Giữ
lái lèo tốt gió thì hơn.
Hay
buôn mới gọi nhiều tiền,
Điên đầu
cũng gọi rằng người làm chi!
Chốn hải
môn lánh mình khỏi trước,
Giả
chơn ai đặng nước hoa sen.
Có
công hay học thì nên,
Chẳng
cầu ai dễ đem quyền tới cho.
Ham ăn
chim mới mắc dò,
Lưới
mê thoát khỏi ngoài vòng mới ngoan.
Quyết
lìu mình giồi mài trí huệ,
Kẻo
bán đồ nhi phế uổng công.
Rối tơ
khéo gở thì xong,
Lọc lừa
thời đặng nước trong khó gì!
Há dạy
chi nên ai phải dạy,
Tới cửa
thiền thì thấy Đế vương.
Kim Cang
Kệ rằng:
Thủy
thanh nguyệt ảnh hiện tự nhiên,
Tảo tận
trần ai mãn thế duyên.
Thủy
nguyệt quang âm minh cảnh chiếu
Danh
như bổn tánh đoạn tiền khiên.
***
Ngâm
thôi vào chốn tam quyền,
Nhã
quang định tánh vào thiền sửa sang.
Lấp ba
đường để thông một cửa,
Thuyền
ra vời mặc thửa rộng khơi.
Sớm thời
Nam thiệm dạo chơi,
Tối về
Trước quốc gần đời Ma ha.
Chốn
lâm tuyền ngao du cũng toại,
Gẫm
hai đường cũng toại vừa hai.
Bạn thuyền
bát nhã hôm nay.
Chơi
hoa lấp kiểng gồi mài kim cang.
Ba xe
lửa đỏ rõ ràng,
Nước
nhà một gáo tưới tan tư bề.
Nhà
gìn đề mật Ma ha,
Phòng
khi luyện được để hòa làm viên.
Chiếc
đơn điền dõi miền địa hậu.
Cõi vô
thường còn để trên không.
Vào
non ngũ uẩn mới thông,
Luyện
nên linh dược thì lòng mới an.
Việc
hành thoàn kể đâu cho xiết,
Người
vô tình chẳng biết chèo bơi.
Làm
nguời cho biết sự đời,
Tu
nhơn tích đức để lời thảo ngay.
Voi
kia ai mượn thày lay,
Bởi
mình lại khiến lấy dây buộc mình.
Chốn
quang minh về Ta hay chọn,
Muốn tầm
hiền hãy chọn người khôn.
Cùng
nhau biển ái nguồn ân,
Vui
chi một phút lửa phàm cháy ram.
Đầu
đuôi xét lại cho cam,
Trầm
hương thì bỏ son chàm lại đeo.
Vì bỉnh
thoại nói rằng thời dễ,
Gẫm
trong mình như thể cá ươn.
Trẻ thơ
vụn lượng khá thương,
Có đâu
biết sự chiến trường chông gai.
Mặc ý
ai khôn ngoan chèo lấy,
Tới
liên trì thì thấy hoa sen
Sãi
mùa lỡ dở tèm hem,
Chớ
nên sức học dám chen khoe mình.
Nôm na
lộn lạo sử kinh,
Dám
chê thượng trí dám khinh sãi mùa.
Nên hư
chẳng tốn tiền mua,
Câu
nào đắc ý thì chua trong lòng.
Thập
thủ liên huờn thi. (1)
Riêng
chiếm non Bồng một cảnh Tiên,
Tu trì
phép đạo khác màu thiền.
Nước
kinh rửa sạch lòng trần tục,
Phù Phật
đành dưng kẻ thiện duyên.
(1)
Nhiều người cho rằng mười hai liên huờn này là của Cậu Hai Lãnh thường gọi là cậu
Hai Gò sặc làm. Nhưng xét lại với câu”Công ơn đạo đức sánh Trùm che” thì chỉ có
Đức Phật Thầy mới dám sánh như thế. Hơn nữa chỉ có Đức Phật Thầy mới được “cỏ
cây trên dưới đua chào rước; thú vật cha con thấy sợ e” Hoặc giả Cậu Hai Lãnh
thừa sứ mạng của Đức Phật Thầy chép ra rồi người ta thấy vậy lầm nhận Cậu hai
Gò Sặc là tác giả đó chăng?
Sáu ngả
quỉ tăng nhiều chỉ bảo,
Ba đường
tội phước khắp răn truyền.
Từ bi
đã có lòng siêu độ,
Biển
khổ sông mê thấy những phiền!
Thấy
những phiền cho cuộc ở đời,
Xa tầm
non núi một phương Trời.
Hoa
thơm trước mặt thơm tho nực,
Thú dữ
bên mình nhả nhớn chơi.
Nghiêng
chén hải lan vui chốn chốn,
Cum
cây trăng Sở dạo nơi nơi.
Quên
năm Giáp tý năm nào cả,
Luyện thuốc
linh đơn tế độ người.
Độ người
thẳng tới cõi Thiên thai,
Chẳng
nhuộm màu đời có mấy ai?
Giày cỏ
đến lui Trời đất rộng,
Ao sen
xài xạc núi sông dài.
Kiểng
vui ý hiệp son giồi phấn.
Thú lạ
tình ưa đá chẳng phai.
Nghiêng
ngửa cội tòng nghe tiếng gió,
Dọc
ngang mặc thích thế không hai.
Thế
không hai có bực người lành,
Trên đảnh
mình ngâm chữ thái bình.
Một tấm
lòng nhàn mây sắc trắng,
Trăm
đường tục lợi nước màu xanh.
Dạy đời
hằng giữ câu vi thiện,
Tưởng
đạo vui theo dạ chí thành.
Cửa Phật
tau giồi công đức lớn,
Ngâm tầm
mùi đạo rất tinh minh.
Đao rất
tinh minh có dễ đâu,
Một thầy
dạy biết đạo kia mầu.
Tụng
kinh lạy Phật trừ loài dữ,
Niệm
chú thư phù trị bịnh đau.
Dụng
phép về Tây nương chiếc dép.
Cất
thân qua biển cởi cây lau.
Hòa
Nam đã thấu công phu nọ,
Nên Phật
Mâu ni tế ngõ hầu...
Ngõ hầu
trở lại chốn Trời nghe,
Thong
thả tình dầu uống nước khê.
Mặt ẩn
công danh dường dép sút,
Mắt
nhìn phú quới tợ mây che.
Cỏ cây
trên dưới đua chào rước,
Thú vật
cha con thảy sợ e.
Miệng
động ra tay sôi nấu đá,
Phật
Tiên nào biết tấm lòng nghe.
Lòng
nghe muốn ở đạo tu non,
Rảnh
việc nào lo nỗi mất còn.
Kiểng
vật có Trời dành sửa dọn,
Giang
san nhiều chỗ tính vuông tròn.
Giàu
sang cửa tía càng thêm bực,
Cây
trái rừng xanh gẫm rất ngon.
Đến chỗ
đều vui ai rõ đặng,
Bốn
mùa phơi phới phấn giồi son.
Giồi
son giồi phấn tốt chi đây!
Đâu
dám khoe cùng thú vị này.
Niệm
chữ Di Đà thình dạ chánh,
Soi
gương trí huệ cứu người ngay.
Bạn
cùng nhựt nguyệt vui mùi đạo,
Dạo khắp
san khê thỏa dạ Thầy. (1)
Ca
khúc huỳnh lương thêm khoái khoái,
Trong
đời tiền bạc chẳng thò tay.
Thò
tay lần đếm chuổi Bồ đề,
Chẳng
biết cuộc đời gẫm ngỡ quê.
Nong nả
non Thần giồi luyện phép,
Náu
nương cửa Thánh sửa sang nghề.
Giấy
tinh đốt cứu người đau đớn,
Nước
lã phun lành kẻ ủ ê.
Linh
nghiệm hạ trần ai chẳng kính?
Công
ơn đạo đức sánh trùm che.
Đức
sánh trùm che bực Thánh Hiền,
Đạo mầu
nghĩa nhiệm tấm lòng siêng.
Lánh
nơi thành thì tình đời trải,
Gặp lúc
thái bình giấc ngủ yên.
Lăng
líu tiếng chim kêu náo nức,
Rỡ
ràng hoa hội trổ Tiên Thiên.
Trân
trân danh lợi cười ai mến,
Riêng
chiếm non bồng một cảnh Tiên.
Đọc
câu này đủ thấy là lời của Đức Phật Thầy rồi.
Giảng xưa về Đức Phật Thầy
Vô
Danh
Ngồi
buồn tưởng lại lời Thầy.
Hồi
năm Kỷ dậu Đông Tây nhộn nhàng.
Lúc
đương dịch bắt muôn ngàn,
Thiên
hạ sảng hoàng làng xóm thất kinh.
Trời
xui ách nuốc thình lình,
Thầy
thấy động tình quyết độ cho an.
Cứu
trong bá tánh lâm nàn,
Khi ấy
Thầy xuống tại làng Tòng sơn.
Xóm
làng chưa rõ nguồn cơn,
Thiên
hạ dân chúng giả chơn khó tường.
Động
lòng Thầy mới chạnh thương,
Cứu
người dương thế tai ương trong đời.
Ai mà
bị chứng thiên thời,
Đem
vào Thầy độ vậy thời cũng yên.
Phù
linh hay tợ thuốc Tiên,
Bịnh
chi Thầy cũng độ yên muôn ngàn.
Hết
phù Thầy bước lại bàn,
Thỉnh
bông cúng Phật chưn nhan làm phù.
Bốn
mùa Đông, Hạ, Xuân, Thu,.
Gần xa
đều tới thỉnh phù độ thân
Thầy
ngồi lời mới tỏ phân,
Cứu
trong thiên hạ khỏi phần gian nan.
Độ người
bịnh hoạn muôn ngàn,
Bông
hoa cùng giấy, chưn nhang làm phù.
Sau Ta
chịu chữ lao tù,
Nói
cho bá tánh trước sau ghi lời.
Xóm
làng nghe nói rụng rời,
Lẽ nào
Thầy lại chịu đời gian nan.
Tiếng
Thầy đồn nức bốn phang,
Siểng ho
cổ xạ muôn ngàn bịnh nhơn.
Điên
cuồng chí những bịnh đơn,
Bịnh hậu
thổ huyết gặp cơn hội này;
Mấy
người noi gốc làm Thầy,
Trùng
tang thằng Bố lại Thầy xin cho.
Gặp Thầy
thiên hạ hết lo,
Trong
các chứng bịnh siểng ho phung cùi.
Rùng
rùng bá tánh tới lui,
Về
chùa sư Nhựt ở thời hôm mai.
Dặn
cùng già trẻ gái trai,
Giữ
lòng niệm Phật lâu dài đừng quên.
Thảo
ngay nhơn nghĩa cho bền,
Thờ
cha kính mẹ tưởng trên Phật Trời.
Nói
cho lớn nhỏ ghi lời.
Nhứt
tâm niệm Phật, Phật Trời độ cho.
Giàu
nghèo chưa chắc mà lo,
Giữ
lòng niệm Phật, Phật cho coi đời.
Di đà
sau chữ mựa rời,
Gắng
lòng tụng niệm đừng dời đổi thay.
Quan
âm Bồ tát đừng phai,
Thường
hành bình đẳng thấu ngoài Tây Phương.
Người
lành Trời Phật yêu thương,
Lâm chung
Phật độ chỉ đường về Tây.
Bịnh
nhơn đem tới đông vầy,
Kêu la
than khóc lay Thầy cứu sanh.
Thầy
đương bày tỏ ngọn ngành,
Bịnh
nhơn than khóc động tình Thầy thương.
Vội
vàng liền thỉnh chưn hương,
Để vào
tô nước giải đường quỉ ma.
Bịnh nằm
đang khóc đang la,
Phù Thầy
phun giải bịnh mà như không.
Thầy
ra dạy khắp Tây Đông,
Chỗ
nào có bịnh nằm trông Phật Thầy.
Đau
lâu bịnh ốm vóc gầy,
Người
thời phù thủng mặt mài tay chưn.
Kẻ thời
lớn bụng eo lưng,
Kẻ thời
đau cổ trặc chân nhức đầu.
Người
thời đau bụng đau hầu,
Phù Thầy
phun giải đau đau cũng lành.
Ai ai
đều cũng kỉnh thành,
Chẳng
phen thuốc Phật đã thành phép Tiên.
Muôn
ngàn thiên hạ đều kiêng,
Đau chẳng
tốn tiền mà mạnh như xưa.
Dầm Trời
thiên hạ như mưa,
Ban
mai đến tối phát chưa rồi bùa.
Người
đi đến trước vô chùa,
Mấy
người tới trể lạy đùa ngoài sân.
Kẻ lui
người tới rần rần,
Hương
trà lễ vật cúng dâng ồn ào.
Tro
nhang đốt chẳng biết bao,
Một
đôi ba chậu thỉnh sao đủ rày.
Giấy
vàng rọc nhỏ ngón tay,
Thầy ngồi
tưởng Phật phát rày sau lưng.
Mấy
người cố ý mau chưn,
Thỉnh
rồi ra khỏi xây lưng trở vào.
Chen
vai lộn lạo biết nào,
Phù Thầy
đang phát lòn vào thỉnh đi.
Thầy
ngồi tưởng Phật từ bi,
Nói rằng
bá tánh ham chi cho nhiều.
Lòng
thành một mãy cũng siêu,
Mình
muốn cho nhiều người khác thì không.
Bởi vì
bá tánh rất đông,
Kẻ thời
thỉnh đặng người trông tối ngày.
Linh
thời một lá cùng hai,
Mấy
người chậm trể tối ngày về không.
Phật
Trời đâu có tư công,
Cây
nhang cũng độ chẳng trông của nhiều.
Bạc
vàng Phật cũng chẳng yêu,
Lòng
lành một mãy cũng siêu việc mình.
Nói
cho bá tánh tỏ tình.
Mấy
người tới số Thầy xin đặng nào.
Muôn
ngàn thiên hạ biết bao,
Đau
căn Thầy độ bịnh nào cũng an.
Tiếng
đồn thấu tới tai quan,
Bắt Thầy
về tỉnh Ang giang châu thành.
Lúc
này Thầy chịu nhọc nhành,
Ở nơi
Dũ lý như thành Văn vương.
Ngày
nay bá tánh mới tường,
Lời Thầy
ghi trước mọi đường chẳng sai.
Cám
thương mấy chú đội cai,
Canh
giờ Thầy muốn ra ngoài như chơi.
Chẳng
qua hệ số ở Trời,
Khiến quan
chủ tỉnh tha thời Thầy ra.
Nạn
nghèo lúc ấy mới qua,
Thầy về
nương ngụ tại mà Tây An.
Cơn buồn
Thầy mới thở than,
Thương
sau thiên hạ nhiều đường khổ thay!
Thân
thầy đâu quản đắng cay,
Vì
thương bá tánh chịu rày gian nan.
Vò đầu
chắt lưỡi thở than,
Việc đời
đã đến gắng toan mựa chầy.
Ắt là
cơ nghiệp về Tây,
Như vầy
nhà nước sau đây khổ nhiều.
Chúng
sanh tua nhớ mấy điều,
Lời Thầy
ghi trước làm nêu để đời.
Tam kỳ
lục tỉnh các nơi,
Khai
kinh đắp lộ thay đời trị dân.
Thuế thâu
vô lượng vô phân,
Chưn
ban vạn vật không cần món chi;
Bất kỳ
dưới nước đường đi,
Hẹ
hành cải ớt vật gì cũng thâu.
Trên rừng
non núi đâu đâu,
Dưới
sông ngoài biển bất câu chỗ nào.
Lời Thầy
phân nói thấp cao,
Còn
lúc cựu trào chưa thấy mặt Tây.
Ngày
sau tàu chạy trên mây,
Dưới
sông thương mãi ghe đi khỏi chèo.
Thung
dung bất luận giàu nghèo,
Dưới
sông tàu rước trên bờ xe đưa
Nam
thanh nữ tú đều ưa,
Đường
đi ngàn dậm xe đưa vài giờ.
Chúng
sanh nào rõ tri cơ,
Lời Thầy
nói trước tình cờ thinh không.
Bây giờ
nói chuyện minh mông,
Việc
nào chưa đến cũng không thấy gì.
Chúng
sanh nhớ lời Thầy ghi,
Ngày
sau may vải, chỉ thì khỏi se.
Ai ai
đều những không dè,
Việc đời
Thầy nói lắng nghe không cùng.
Ngày
sau vùi lửa nóc mùng,
Đàn bà
sung sướng vô cùng thảnh thơi.
Giàu
thời tột bực ăn chơi,
Nghèo
thời cùng khổ mãn đời khó khăn.
Làm cầu
đắp lộ thẳng băng,
Trong
thành ngoài chợ lăng xăng phố lầu.
Nam, Tần
hai nước tóm thâu,
Ngày
sau hai nước chịu sầu lâu năm.
Sông
dài cá lội biệt tăm,
Thầy
thương bá tánh ngồi nằm không an.
Vào ra
thấy đá ngổng ngang,
Thầy
kêu bá tánh xóm làng phân qua.
Chỉ
cho lớn nhỏ trẻ già,
Đá này
bá tánh sau mà cũng ăn.
Bây giờ
rừng bụi tứ giăng,
Ngày
sau có lộ thẳng băng giữa đồng.
Thầy
phân mấy lẽ chí công.
Sau dầu
mấy chuyện có không thời tường.
Thảo
ngay cứ thẳng một đường,
Thiên
cơ Trời định lẻ thường chớ mong.
Sau đừng
phát mộ thinh không,
Ắt
mang nạn khổ chẳng trông thấy đời.
Nên hư
muôn việc ở Trời,
Mai chiều
cũng đến việc đời gần đây.
Chốn
này non núi cỏ cây,
Thoàn
tàu sau chạy vô đây sá gì.
Lời
xưa Thầy dặn nhớ ghi,
Trẻ
già trai gái đều thì ngóng trông.
Thất
sơn làng xóm rất đông,
Có
thành có thị có sông giữa đồng.
Nói cho
lớn nhỏ ghi lòng,
Ngày
sau mới biết rõ trong sự tình.
Giữ lời
Thầy dạy đinh ninh,
Hết
Tây rồi lại thiệt tình tới U.
Lành
thời niệm Phật công phu,
Dữ thời
chịu chữ lao tù hổ ngươi.
Lúa đổi
một giạ hai người,
Bây giờ
Thầy nói chuyện đời như không.
Chúng sanh
nào có rõ thông,
Phật
Trời không tưởng mà trông đến đời.
Dặn
trong bá tánh ghi lời,
Chừng
đến việc đời Châu đốc huyết lưu.
Chúng
sanh sao chẳng cần ưu,
Còn
ham dục lợi còn cưu tranh điền.
Lời Thầy
xưa nói muôn thiên,
Nhắc
sơ ít chuyện kẻo phiền lòng đây.
Từ Thầy
chịu lịnh về Tây,
Có sắc
Thiên tào triệu Thầy qui lai.
Chúng
sanh tối mắt điếc tai,
Lời Thầy
ghi trước có sai đâu là...
Không
tin hỏi mấy ông già,
Kể
phân mấy chuyện phải mà cùng chăng.
Hay là
kiếm chuyện nói nhăng,
Thấy rồi
đặt để lăng xăng ngạo đời.
Lòng
tôi kỉnh Phật trong Trời.
Dám
đâu mà lại buông lời vọng ngôn.
Việc đời
như mõ đánh vồn,
Thiện
nam tín nữ ai khôn giữ mình.
Khuyên
trong lớn nhỏ tỏ tình,
Mấy lời
Thầy dặn đừng khinh ngạo đời.
Nhớ
xưa Hiền Thánh truyền lời,
Nhơn
vô viễn lự việc đời khó phân.
Khuyên
cùng lớn nhỏ cho cần,
Tưởng
mà niệm Phật giữ lần thân ta.
Mặc
tình trai gái trẻ già,
Tùy
lòng niệm Phật đừng mà cười chê
.
Sám Giảng
về Đức Cố Quản
Của
ông Vương-Thông
Một
môn đệ của Cậu Hai Nhu
Nam
trào kế trị quốc gia,
Nhơn
dân lạc nghiệp gần xa phục tùng.
Xét
xem lục tỉnh Nam Trung,
Quan
quân hiếm kẻ anh hùng trí tri.
Thời
Trời vận khiến nước suy,
Phật
cho Thầy xuống để ghi mấy lời.
Khiến
nên thiên hạ đổi dời,
Nhơn dân
đồ khổ trong thời thiết tha.
Kế năm
Kỷ dậu Thầy ra,
Lúc
đương dịch bắt người ta muôn ngàn.
Nhờ Thầy
độ giải dân an,
Phật
còn thương chúng sao quan bắt Thầy.
Gian
nan luống chịu bấy chầy,
Nhờ Phật
độ Thầy khiến bụng quan tha.
Thầy về
chùa chánh ở mà,
Gần xa
bổn đạo vào ra thăm Thầy.
Khi
vui Thầy mới tỏ bày,
Để sau
bổn đạo biết Thầy dở hay.
Nước
Nam sau có giặc Tây,
Nhơn
dân đồ khổ lời Thầy ghi cho.
Giàu
nghèo chớ chắc đừng lo,
Chí
tâm niệm Phật Trời cho thấy đời.
Hạ
Nguơn nay đã biến dời,
Tây
qua sửa dọn thay đời Đế vương.
Chư hầu
bá quốc thông thương,
Mai
sau gặp thấy Đế vương mới hòa.
Phật
ra ngự chốn non tòa,
Mấy lời
Thầy dạy ghi mà đừng quên.
Rồi
đây biết lẽ hư nên,
Ai tin
giữ đặng tâm bền thốt ra.
Kế năm
Mậu ngũ Tây qua,
Đánh
phá thành lũy nước nhà tang hoang.
Nam kỳ
hiếm kẻ trung cang,
Ra mà
cự dịch thát oan dân Trời.
Tây
dương ỷ thế ỷ tài,
Tàu đồng
súng sắt bắn hoài phải thua.
Kẻ lên
trên núi cất chùa,
Người
ra làm mộ đánh đùa chẳng dung.
Nước
Nam hiếm kẻ anh hùng,
Nghề văn
nghiệp võ trí trung kiệt hào.
Các
quan lập trận đề đao,
Đánh
dư tăm trận, trận nào cũng thua.
Dốc
lòng trả nợ ngay vua,
Thời
Trời vận khiến chịu thua lai hàng.
Tây
dương thành lũy sửa sang,
Khai
kinh đắp lộ chiêu an dân Trời.
Nam
suy Tây đặng thạnh thời,
Tại lẽ
ở đời kiến việc hư nên.
An Nam
Khách trú Cao mên,
Làm
xâu đóng thuế hư nên mặc tình.
Nghĩ
xưa hồi thuở triều Minh,
Bắt
cha chém đạo động tình nhơn dân.
Minh
quân đại đức đại ân,
Cớ sao
đày Phật cất phần coi chim.
Bây giờ
nghỉ lại các điềm,
Tây
qua lấy nước giận hiềm chi ai.
Điềm
Trời ách nước mang tai,
Bá
quan dân võ trong ngoài gian nan.
Nhơn
dân đói rách cơ hàn,
Biết
làm sao đặng cho toàn hiển vinh.
Bây giờ
đến lúc gập ghình,
Giặc
thời lấy nước lánh mình đi đâu.
. .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . ..
Để cho
Trời Phật định phân,
Làm
tôi phải trả nghĩa nhân cho toàn.
Quán
Ngài tại tổng An lương,
Trong làng
Thạnh mỹ bốn phương phục tùng.
Khăng
khăng hai chữ hiếu trung,
Tờ ra
chiêu mộ anh hùng các nơi.
Ai ai
cũng ở giữa Trời,
Nghe
Ngài chiêu mộ vưng lời thảo ngay.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . .. . .
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . .. . . . . . . .
Anh
hùng xuất trận đề đao,
Ngay
vua sống thác quản bao thân này.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .
Sống
thời làm tướng thác nay thành thần.
Lẽ Trời
nay đã định phân,
Dầu chẳng
thành thần, Phật rước về Tây.
Giặc
vô bốn phía phủ vây,
Rập bô
nó bắn gãy cây hư đồn.
Đội
cai thất vía kinh hồn,
Đâm đầu
mà chạy lũy đồn tan hoang.
Lao
xao dân lộn với quan,
Kẻ chạy
về làng người lội xuống sông.
Con
kêu mẹ sợ quên bồng,
Tai
nghe súng bắn vợ chồng bôn phi.
Trời
xui Tây thạnh Nam suy,
Biết
làm sao đặng phục qui Nam trào.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bây giờ
nhớ đến lời Thầy,
Nhứt nhơn
cư hiểm nạn Tây nan tầm.
Khen
trong nam nữ đồng tâm,
Làm
lành đừng dữ họa thâm đến mình.
Ngài về
chiếm cứ Láng Linh,
Ở mà ẩn
sĩ một mình tu thân.
Thời
Trời còn khiến nhơn dân,
Nghe
Ngài về đó rần rần đến thăm.
Chịu bề
khổ hạnh mấy năm,
Khai
kinh mở ruộng nhất tâm tu hành.
Thân
Ngài chẳng quản rách lành,
Ở
trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người
trung đứng giư mặt Trời,
Đắng
cay bao quản vận thời chớ than.
Trích
cò nghe ác la vang,
Đậu
khoai nuôi bữa bắp rang đỡ lòng.
Vận còn
Trời khiến long đong,
Thiên
hạ đồng lòng tiếng dậy đồn linh.
Thấu
tai về đến triều đình,
Chiếu
vua sai khiến biểu mình cầm binh.
Như vầy
trọn điệu trung trinh,
Ngưỡng
vâng sắc chỉ chiêu binh cầm quyền.
Khuyên
trong bá tánh chư viên,
Lòng
trung đặng một màu thiền hòa hai.
Ngồi
trong có lịnh qui tai,
Cớ sao
chẳng có một ai trả lời.
Thình
lình chúng sĩ bồi hồi,
Quân
báo Tây nó tới lui cưa cầu.
Chư
viên lớn nhỏ ứng hầu,
Ra mà
cự địch trịnh hầu bắn tan.
Trẻ
giá chồng vợ khóc than,
Đem nhau
mà chạy tan hoang dân Trời.
Ngài
còn ghi dạ mấy lời,
Phút
tan một trận dởi dời trải qua.
Cậu
còn dìu dắt lịnh bà,
Đem ra
cho khỏi lánh mà lúc nguy.
Thiên
cơ trần thế bất tri,
Khiến
nên phụ tử chia ly rã rời.
Cậu
Hai lời nguyện giữa Trời,
Thuận
thời trở lại ẩn mà tu thân.
Phong
trần ai cũng phong trần,
Nương
theo phước mẹ thảo thân cho toàn.
Lịnh
bà về cảnh Tây phang.
Cậu
còn ở lại sửa sang chùa chiền.
Thung
dung một tấm lòng thiền,
Cầu mẹ
về đặng cảnh Tiên thanh nhàn.
Thường
lệ măng mọc tre tàn,
Tiếng mình
cũng gọi con quan đã rồi.
Láng
Linh Cậu ở lần hồi,
Lập
chùa cầu Phật dạy thôi lời lành.
Quản
bao thân phận rách lành,
Lần hồi
rẫy bái chữ nhành Thầy ghi.
Như vầy
mới trọn đạo nghì,
Ngay
vui thảo chúa kính vì Thánh Tiên.
Lời
ghi sau có trường yên,
Đế đô
tại núi Phật Tiên trị đời.
Chư
châu chư quận khắp nơi,
Đều
vào làm hội ngôi Trời chiêu dân.
Hội đồng
thập bát quân thần,
Đều
vâng lịnh Phật ân cần âu ca.
Thuận
đời thiên hạ hiền hòa,
Nhà
lành con thảo thật thà lòng ngay.
Bửu sơn
bốn chữ tỏ bày,
Vốn của
Phật Thầy ở tại Long Châu.
Thiện
nam tín nữ đâu đâu,
Ai có
báu ấy đem hầu vưng vua.
Bây giờ
xin chớ hơn thua,
Thời
lòng tưởng Phật tìm chùa tụng kinh.
Có
lòng bức trần cũng linh,
Chẳng
cần có cốt có hình làm chi.
Tánh Cậu
một nết từ bi,
Bổn đạo
nói gì chẳng thốt chẳng la.
Ghi lời
hiếu nghĩa mẹ cha.
Lạy Trời
cầu Phật vậy mà sớm khuya.
Nam mô
Bồ tát chẳng lìa,
Nhứt
tam niệm Phật xưa ghi định phần.
Cậu
còn ở giữa phong trần,
Đắng
cay bao quản nhọc thân chi nài.
Mặc dầu
bữa bắp bữa khoai,
Bữa
cơm bữa cháo nào ai biết lòng.
Canh
tràng lụy ứa ròng ròng,
Nhớ lời
Thầy dạy ghi lòng đợi trông.
Đêm
khuya chong ngọn đèn hồng,
Ngồi
mà tưởng Phật cầu lòng tỏ gương.
Ngày
ra nhắm ngó đường mương,
Bao
nhiêu nước chảy đoạn trường bấy nhiêu.
Lóng
nghe gà đã gáy chiều,
Ngùi
ngùi tưởng sự chín chiều ruột đau.
Thân cậu
như cá trong sao,
Nằm co
trong giếng khó khăn vậy mà.
Công
lao tiêu tứ thiết tha,
Chí
tâm mà đợi lịnh cha xưa truyền.
Luận
bày tỏ sự bá niên,
Minh tâm
đặt để lưu truyền hậu lai.
Kỷ-dậu
niên, ngũ ngoạt, thập ngũ nhựt.
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.