DownLoad Hiển Đạo Phần 1 PDF DownLoad Hiển Đạo Phần 2 PDF DownLoad Hiển Đạo Phần 3 PDF
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
GIỚI THIỆU QUYỂN HIỂN ĐẠO CỦA ÔNG THANH SĨ
THAY LỜI TỰA
***
Người tín đồ PGHH là người tin tưởng và hành trì theo giáo
pháp Học Phật Tu Nhân của Đức Huỳnh Giáo Chủ, cũng là người hướng cuộc đời về Đức
Phật với tâm niệm thoát khỏi sanh tử luân hồi khổ não.
Tin tưởng Phật pháp và hành trì theo giáo pháp được chọn lựa
mà không hiểu rõ giáo pháp đó cũng như việc hành trì chỉ qua loa chiếu lệ thì
không sao đạt đến mục tiêu mong muốn. Muốn hiểu rõ giáo pháp, người Phật tử thuần
chánh chẳng những học hỏi nơi minh sư của mình mà còn cần học hỏi nơi các thiện
tri thức, nơi những đồng đạo đi trước hoặc đồng hành đã ít nhiều đạt đến mục
tiêu tỏ ngộ. Muốn tránh giải đãi trong việc hành trì, thậm chí thối chuyển trên
đường tu học, người Phật tử cần liên tục lắng nghe lời nhắc nhở, khuyến tu chơn
chánh bên tai.
Bộ HIỂN ĐẠO là một tác phẩm lớn được biên soạn bằng tâm huyết
và công phu của ông Thanh Sĩ - một đệ tử xuất sắc của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Tác
phẩm nầy có 16 quyển chánh được viết dưới thể văn vần. Sách bao gồm nhiều đề
tài khác nhau, chiết giảng rất cụ thể, rành mạch giáo lý Học Phật Tu Nhân của Đức
Huỳnh Giáo Chủ và kinh luận Phật- Đà. Lời lẽ HIỂN ĐẠO trong sáng tao nhã và
tình lý khuyến tu vô cùng súc tích thiết tha; do đó, HIỂN ĐẠO giúp ích thật nhiều
những ai hữu duyên càng thêm tinh tấn trên bước đường hành đạo.
Nhận thấy HIỂN ĐẠO là một tác phẩm đạt được hai mục tiêu lớn
như nói trên: giúp người Phật tử hiểu rõ thêm Đạo Phật và thêm tinh tấn trong
việc hành trì, Nhóm Chủ Trương Tái Bản chúng tôi không ngại phương tiện eo hẹp
và công khó để ra mắt HIỂN ĐẠO kỳ nầy nhằm phổ biến trợ duyên bạn đạo khắp nơi.
HIỂN ĐẠO Tái Bản Năm 2004 thay vì in lại từng quyển nhỏ thường
rất dễ thất lạc, chúng tôi đã gộp in thành ba tập, mỗi tập dầy khoảng 500 trang
với bản đánh máy mới rõ ràng và với cố gắng trình bày trang nhã để giúp quí bạn
đạo tiện lưu trong tủ sách gia đình.
Chúng tôi ước mong quí bạn đạo hữu duyên với tác giả Thanh
Sĩ sẽ thích thú đón nhận HIỂN ĐẠO Tái Bản Năm 2004. Chúng tôi cũng ước mong việc
làm nầy phần nào thể hiện được tâm niệm mà Tác Giả đã từng ký thác như sau:
Máy Đạo không xa xôi,
Quay đầu lại thấy rồi;
Thấy ra mau hay chậm,
Là do sức tỉnh hồi.
***
Kinh kệ cần lo tiếp tục truyền,
Tỉnh hồn bá tánh giấc sầu miên;
Bỏ đi lối sống theo ma quỉ,
Tìm đến đường sanh cõi PHẬT TIÊN.
Công lớn ngọc vàng đâu dám sánh,
Đức cao tước lộc khó so duyên;
Hỡi ai nối chí theo THẦY, TỔ.
Kinh kệ cần lo tiếp tục truyền.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ quí bạn đạo, hữu danh cũng
như ẩn danh, đã yểm trợ tích cực về tịnh tài và công sức để thực hiện việc tái
bản HIỂN ĐẠO kỳ này.
Hoa Kỳ, mùa Phật Đản và mùa Khai Đạo PGHH Năm 2004.
NHÓM CHỦ TRƯƠNG TÁI BẢN
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ THANH SĨ
1. Thân Thế Ông Thanh Sĩ:
Ông Thanh Sĩ, tên thật là Trần Duy Nhứt, sanh năm Mậu Thìn (1928) tại Ấp Phú Thạnh, Xã Phú Long, Quận Châu Thành, Tỉnh Sa Đéc, Nam Phần Việt Nam.
Thân phụ Ông Thanh Sĩ là Ông Chế Văn Hương và thân mẫu là
Bà Trần Thị Mười. Do sự bất hạnh xẩy ra trong gia đình, Ông Thanh Sĩ phải mang
họ mẹ và lớùn lên bên cạnh mẹ cùng với người em ruột là Trần Duy Nhì trong một
hoàn cảnh nghèo khó.
Từ thuở nhỏ, Ông có tính hiền hòa, khiêm cung, lễ độ với mọi
người. Dáng ông cao ráo, mảnh khảnh, tiếng nói trong trẻo, thanh sảng.
Vì hoàn cảnh khốn khó, Ông Thanh Sĩ phải thôi học lúc chưa
hết lớp ba trường làng. Mặc dầu không có cơ hội tới lớp nhiều nhưng ông có kiến
thức vượt hẳn lớp người cùng thời nhờ bẩm chất thông minh, có chí tìm hiểu kinh
sách và năng trau giồi đạo đức.
2. Hành Trạng và Quá Trình Hoằng Pháp:
Năm 1943 (Quí Mùi), nhân đọc quyển GIÁC MÊ TÂM KỆ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ông Thanh Sĩ thấy được con đường đạo. Vào ngày rằm tháng bảy năm đó, Ông thượng ngôi Tam Bảo và tự làm lễ quy y theo Đạo tại nhà. Lúc đó Ông vừa tròn 16 tuổi.
Năm 1944 (Giáp Thân), Ông lâm bịnh nặng. Trong lúc mọi người
tưởng Ông không qua khỏi thì bỗng nhiên Ông mượn bút mực viết bài "Khải tấu
cáo Hoàng Thiên" rồi nhờ người đặt bàn huơng án cầu nguyện, đọc và đốt dùm
bài này. Sau đó, tự nhiên Ông khỏi bệnh.
Cũng năm 1944, Ông Thanh Sĩ quyết chí đến diện kiến Đức Huỳnh
Giáo Chủ đang ngụ tại Sài Gòn để xin quy y trực tiếp. Khi Ông đến nơi thì từ
trên lầu cao, Đức Huỳnh Giáo Chủ vẩy tay bảo Ông hãy về vì Ngài đã hiểu ý.
Năm 1945 (Ất Dậu), sau khi Nhựt đầu hàng quân Đồng Minh, Mặt
Trận Việt Minh bắt đầu hoạt động mạnh, gây nên cuộc xung đột đẵm máu với các
tín đồ PGHH và tạo ra biến cố Đốc Vàng (16-4-47) khiến Đức Huỳnh Giáo Chủ phải
đột ngột ra đi. Không sống được trong vùng Việt Minh, gia đình Ông Thanh Sĩ phải
xuống thuyền di cư về Thánh Địa Hòa Hảo vào tháng hai nhuần năm Đinh Hợi
(1947).
Trong khoảng thời gian 1945-1947, Ông Thanh Sĩ đã sáng tác
nhiều thi thơ có nội dung xiển dương Phật pháp nhưng vì khói lửa chiến tranh
nên đã thất lạc hết.
Năm 1948 (Mậu Tý), em Ông là Trần Duy Nhì bị bịnh chết.
Ngày 16-4 âm lịch năm đó, lần đầu tiên Ông đăng đàn thuyết pháp ứng khẩu, mở
màn cho thời kỳ châu thuyết (1948-1952) qua nhiều tỉnh hạt: Châu Đốc, Long
Xuyên, Cần Thơ, Sa Đéc, Vĩnh Long, Phú Lâm (Sài Gòn),.. tổng cộng trên 40 địa
điểm trong một hoàn cảnh rất khó khăn và phức tạp của đất nước.
Năm 1952 (Nhâêm Thìn), sau khi Chùa Tây An Cổ Tự (Xã Long
Kiến, Tổng Định Hòa, Quận Chợ Mới, Tỉnh Long Xuyên) được trùng tu xong, Ông
Thanh Sĩ bắt đầu thời kỳ thuyết pháp ứng khẩu định kỳ vào các ngày sóc vọng (rằm,
30 mỗi tháng) tại đó. Ông lập ra Ban Hoằng Pháp - chính Ông được bầu làm Giám Đốc,
làm việc cùng 3 giảng viên: Thiện Duyên, Thiện Ngôn, Thiện Hạnh và thư ký là
ông Bùi Xuân Cứ; Ông lập chương trình tổ chức ba khóa huấn luyện đạo đức (mỗi
khóa 4 tháng) để đào tạo các giảng viên:
- Khóa I khai giảng vào ngày rằm tháng giêng
năm Giáp Ngọ (1954) đào tạo được 22 giảng viên với danh hiệu là Khóa Hòa Hảo.
- Khóa II khai giảng tiếp theo đó và đã đào tạo
được 30 giảng viên với danh hiệu là Khóa Tây An.
- Khóa III được chuẩn bị tiếp tục khai giảng
thì tình hình biến động nên Ông đã vội vàng xin xuất ngọai.
3. Thời Kỳ Đông Du Sang Nhật:
Đầu năm 1955, đúng ngày rằm tháng giêng năm Ất Mùi, Ông Thanh Sĩ lên Sài Gòn xin phép sang Nhựt với lý do du học và nghiên cứu Phật pháp.Trước khi rời Tổ quốc, Ông để lại hai câu thơ như sau:
"Loạn Nam cơ Bắc khổ ai bi,
Mượn cớ Đông du đãi lịnh kỳ."
Cùng đi với Ông có ông Thiện Hạnh, giảng viên Ban Hoằng
Pháp Tây An Cổ Tự, giúp việc thông ngôn cho Ông trong giai đọan đầu. Một tháng
sau ông Thiện Hạnh trở về nước và ông Lâm Văn Lẹ sang thay.
Ông Thanh Sĩ cùng ông Lâm Văn Lẹ xin vào học tại Đại Học Đường
Waseda. Việc nầy gặp phải khó khăn vì cả hai ông không có bằng tú tài và Ông
Thanh Sĩ còn trở ngại tiếng Nhựt. Nhờ sự can thiệp của Tòa Đại Sứ Việt Nam lúc
bấy giờ, Viện Đại Học Waseda đã mở cuộc trắc nghiệm đặc biệt và xác nhận hai
ông có đủ trình độ nên cho nhập học.
Khả năng ngọai ngữ của Ông Thanh Sĩ phát triển phi thường;
chỉ ba tháng sau Ông đã sử dụng được thông thạo tiếng Nhựt lẫn tiếng Anh. Sang
năm thứ hai, ông Lâm Văn Lẹ phải về Việt nam báo hiếu vì cha đau nặng. Sau bốn
năm, Ông Thanh Sĩ tốt nghiệp cử nhân tại Waseda và đặc biệt được mời ở lại làm
giảng viên. Năm đầu, Ông phụ trách giảng các môn Lịch sử, Giáo Lý Phật Giáo và Triết
Học; năm sau, do khả năng Ông phát triển nhanh, Ông phụ trách thêm nhiều môn học
khác như: Xã Hội Học, Ngôn Ngữ Học. Ông cũng được mời diễn giảng tại các lớp tu
nghiệp cho các Giáo Sư của trường.
Trong suốt thời gian tại Nhựt, ngoài việc dạy học, Ông
Thanh Sĩ không ngừng sáng tác, thường xuyên tiếp xúc với Ủy Hội Phật Giáo Quốc
Tế, với nhiều tôn giáo khác tại Nhựt và thực hiện các công tác giáo sự quan trọng
ở hải ngoại.
4. Sự Nghiệp Giáo Lý của Ngài Thanh Sĩ:
Kể từ năm 1948 đến cuối cuộc đời, ông Thanh Sĩ đã để lại một sự nghiệp hoằng dương Đạo pháp thật to tát:
* Lúc còn ở Việt Nam, mỗi buổi
đăng đàn thuyết pháp ứng khẩu của Ông thường kéo dài từ 2 đến 6 tiếng đồng hồ
và qui tụ hằng vạn người đến nghe. Sau phần thuyết giảng bằng tản văn, Ông tiếp
tục giảng bằng vận văn một cách siêu thoát trác tuyệt. Một số thi bài do anh em
đồng đạo PGHH sưu tập hoặc tốc ký ghi được gồm trên 30 tác phẩm; trong đó, được
in thành sách gồm hai giai đọan sau đây:
- Giai đọan 1948-1952 có các quyển:
Châu Thuyết, Đám Mưa Giông, Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh, Lời Khuyên Tu Hiền, Tỉnh Thế,
Bán Dạ Đông Thiên, Cảm Xuân, Thi Lục,...
- Giai đọan 1952-1954 có các quyển:
Thuyết Pháp Ứng Khẩu, Chú Nghĩa và nhiều bài đăng trong Tập San Giác Tiến do
Ban Hoằng Pháp Chùa Tây An Cổ Tự ấn hành.
* Trong thời gian tại Nhựt, dù rất đa đoan việc học hành,
nghiên cứu và dạy học, ông Thanh Sĩ cũng không ngừng sáng tác nhắc nhở việc tu
học cho các đồng đạo ở quê nhà. Từ năm 1957 đến năm 1967, Ông viết xong 17 tác
phẩm bằng văn vần sau đây: Lời Vàng Trong Mộng, Vạn Niên Huynh Đệ, Rằm Tháng Mười,
Đâu Là Phàm Thánh, Tiếng Nói Trong Hoa Sen, Hỡi Quê Nhà, Đã Chết Mà Sống, Tôi
Còn Đây Mà, Tôi Không Quên, Ánh Sáng Từ Bi, Đường Giải Thoát, Thần Cơ Thật Luận,
Con Thuyền Đại Đạo, Đời Mạt Pháp, Là Phật Tử, Tình Đạo Phật, Đến Liên Hoa. Các
quyển nầy đã được in và đóng chung thành tập có tên là HIỂN ĐẠO, dầy trên 1500
trang. Ngoài ra, trên 630 lá thư được Ông viết gởi về đồng bào và đồng đạo ở
quê nhà để trả lời các nghi vấn về Đạo pháp cũng được sưu tập và ấn hành thành
hai quyển: Lá Thư Đông Kinh I và Lá Thư Đông Kinh II; một số băng nhựa cũng được
Ông đích thân xướng âm ghi vào và gởi về Việt Nam.
5. Lập Nguyện:
Với tâm bồ tát độ đời, ông Thanh Sĩ đã từng lập nguyện rất lớn.
Trong “Vạn Niên Huynh Đệ”, Ông đã thệ nguyện luân lưu cứu
thế:
“Xác nầy còn cũng vẫn tiến lên,
Xác dầu mất cũng nguyền tái thế;
Đến chừng nào ngục môn đều phế,
Không còn người tồi tệ mới thôi.”
Trong “Lời Vàng Trong Mộng”, Ông xác quyết:
“Nguyện đem cái xác mọn này
Gánh đau sầu, cứu mê say cho đời.
Đến khi nào hết người khổ não,
Ta mới vui lòng đáo Tây phang.
Ngày nào còn kẻ khốn nàn,
Ta còn ở thế mở đàng Từ Bi.”
Trong “ Đâu Là Phàm Thánh”, Ông cũng lập thệ:
“Chừng nào được cứu an vạn vật,
Đây mới là chịu dứt chuyển thân;
Còn khổ đau một kẻ trong trần,
Đây còn phải lao thân khắp chốn;
Nguyện cứu thế dầu thân khốn đốn,
Cũng xem thường chẳng núng nao lòng.”
Qua các lời thệ nguyện trên cũng như qua cuộc đời xả thân hoằng pháp của Ông, đủ để nói lên tâm bồ tát của Ông dũng mãnh như thế nào rồi.
6. Những Ngày Cuối Đời của Ông:
Cơ duyên ông Thanh Sĩ đến với người tín đồ PGHH và đồng bào Việt Nam thật là đậm đà gắn bó. Lòng mến Đạo của Ông sâu xa bao nhiêu thì lòng yêu nước của Ông cũng nồng nàn bấy nhiêu.
Như một cơ duyên đã mãn, một giai đoạn chuyển thân trợ Đạo
đã kết thúc, mùa xuân năm 1972, ông Thanh Sĩ lâm trọng bệnh trong lúc đang dạy
tại Đại Học Đường Waseda Nhựt Bổn và phải vào bệnh viện tịnh dưỡng. Vào ngày
29-1-1973 (26-12 năm Nhâm Tý), ngay sau khi Đài BBC loan tin Hiệp Định Ba Lê được
ký kết, hứa hẹn cho một cuộc ngưng chiến tại Việt Nam, Ông trút hơi thở cuối
cùng, thọ 46 tuổi. Nhục thân của Ông đã được những người bạn Nhựt làm lễ hỏa
táng tại Tokyo vào ngày 31-1-1973 (28-12 năm Nhâm Tý) và tro cốt được chuyển về
Việt Nam sau đó. Hàng vạn tín đồ PGHH cùng đồng bào mến mộ Ông đã đón rước tro
cốt của Ông một cách trọng thể và đưa về an táng trước nhà từ mẫu Ông - bà Trần
Thị Mười - tại xã Long Kiến, Huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang vào ngày 17-2- 1973 tức
ngày rằm tháng giêng năm Quý Sửu.
***
Kể từ khi qui y vào Đạo năm 16 tuổi (1943), ông Thanh Sĩ có
12 năm hoằng pháp độ sinh tại quê hương Việt Nam và 18 năm trên đất Nhựt. Đúng
như ý nghĩa đạo danh “Thanh Sĩ”, Ông đã sống một cuộc đời hoàn toàn trong sạch,
không mảy may vướng bận quyền tước, tình ái, lợi danh. Đối với Đức Huỳnh Giáo
Chủ, Ông đã chứng tỏ là một đệ tử trung trinh gương mẫu; Ông luôn luôn nhẫn nhục
vượt qua mọi cam go chướng ngại để thực hiện lời giáo huấn và hạnh nguyện của Đức
Thầy. Ông Thanh Sĩ mất đi để lại một sự thương tiếc cho hàng triệu tín đồ PGHH.
Vĩ nghiệp đạo đức của Ông qua những lời pháp nhũ, nay đã có ảnh hưởng vượt
không gian và chắc chắn sẽ mãi mãi tồn tại trong thời gian.
Hoa kỳ, ngày 18 tháng 5 năm Giáp Thân ( 2004 )
NHÓM CHỦ TRƯƠNG TÁI BẢN
Tải Bản Mp3 Hiển Đạo - SƯ THÍCH HUỆ DUYÊN TỤNG
Tải trọn bộ Hiển Đạo bản mp3 của Ngài THANH SĨ gồm 16 quyển được Sư THÍCH HUỆ DUYÊN tụng .Kính mời quí Cô/Bác, Anh/Chị, các vị đạo hữu, thân hữu nhấp vào các mục để tải về máy tính, thẻ nhớ hoặc điện thoại.TẢI QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG MP3 TẢI QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - SƯ THÍCH HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THÍCH HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - SƯ THÍCH HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG MP3 TẢI QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - SƯ THÍCH HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THÍCH HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3 TẢI ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.