Nội Dung
Hiện
ĐẠO LÀM NGƯỜI
Tôn chỉ của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ Phật Giáo Hòa Hảo gồm có đạo Nhân và đạo Phật.
Đạo Nhân là nấc thang đầu, đạo Phật là nấc thang chót, nghĩa là chúng ta trước
ph...
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ - Chương VI: Lưu cư
ĐỘNG CƠ. – Gần gót một năm ra cứu đời, dùng huyền diện của
Tiên gia độ bịnh, ra thi thơ Sấm Giảng thức tỉnh người đời, nhứt là những người
có căn t...
Chương V: Sứ Mạng Của Đức Huỳnh Giáo Chủ
Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời trị bịnh một cách mầu
nhiệm, thuyết pháp, cho bài thi cùng viết Sấm Giảng một cách phi phàm, người đời
càng tọc...
Chương III: ĐỨC THẦY ra tay tế-độ
Gây đức tin: Sở dĩ Ngài trổ tài “dùng huyền diệu
của Tiên gia” chữa bịnh một cách thần diệu như thế là để chứng tỏ Ngài không phải
là hạng phà...
Chương VIII: Tổ-chức hàng-ngũ
Đức Thầy vẫn biết tham vọng của quân phiệt Nhựt muốn thực
hiện cái ác mộng làm chủ Đông Á, như Ngài đã thấy thâm tâm của họ, khi chiếm
Đông Dương hay Tân G...
Chương VII: Vận-động độc-lập
Ngay khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1045, chánh quyền Nhựt
lên thay thế chánh quyền Pháp, các đảng phái quốc gia được tự do hoạt động. Đức
Huỳnh Giáo Chủ,...
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
***
Bửu Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên
Sơn Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền
Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc
Hương Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên
Tác giả Vương Kim
...
Chương IV: Đăng sơn
Mặc dầu với phương pháp chữa bịnh một cách huyền diệu, cho
thi bài, viết Sấm Giảng, đã tỏ ra “không học mà thông” và ám thông
tâm lý tức đã có tha tâm thông,...
LỤC TỔ HUỆ NĂNG - PHÁP BỬU ĐÀN KINH
PHÁP BỬU ĐÀN KINH - LỤC TỔ HUỆ NĂNG BẢN PDF
Mục lục
Hiện
Pháp
Bảo Đàn Kinh
Lục Tổ Huệ Năng nói
Môn
Nhân Pháp Hải chép lại
Cổ Quân Tì Khưu Đức...
Nội Dung
Hiện
ĐẠO LÀM NGƯỜI
Tôn chỉ của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ Phật Giáo Hòa Hảo gồm có đạo Nhân và đạo Phật.
Đạo Nhân là nấc thang đầu, đạo Phật là nấc thang chót, nghĩa là chúng ta trước
ph...
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ - Chương VI: Lưu cư
ĐỘNG CƠ. – Gần gót một năm ra cứu đời, dùng huyền diện của
Tiên gia độ bịnh, ra thi thơ Sấm Giảng thức tỉnh người đời, nhứt là những người
có căn t...
Chương V: Sứ Mạng Của Đức Huỳnh Giáo Chủ
Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời trị bịnh một cách mầu
nhiệm, thuyết pháp, cho bài thi cùng viết Sấm Giảng một cách phi phàm, người đời
càng tọc...
Chương III: ĐỨC THẦY ra tay tế-độ
Gây đức tin: Sở dĩ Ngài trổ tài “dùng huyền diệu
của Tiên gia” chữa bịnh một cách thần diệu như thế là để chứng tỏ Ngài không phải
là hạng phà...
Chương VIII: Tổ-chức hàng-ngũ
Đức Thầy vẫn biết tham vọng của quân phiệt Nhựt muốn thực
hiện cái ác mộng làm chủ Đông Á, như Ngài đã thấy thâm tâm của họ, khi chiếm
Đông Dương hay Tân G...
Chương VII: Vận-động độc-lập
Ngay khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1045, chánh quyền Nhựt
lên thay thế chánh quyền Pháp, các đảng phái quốc gia được tự do hoạt động. Đức
Huỳnh Giáo Chủ,...
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
***
Bửu Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên
Sơn Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền
Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc
Hương Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên
Tác giả Vương Kim
...
Chương IV: Đăng sơn
Mặc dầu với phương pháp chữa bịnh một cách huyền diệu, cho
thi bài, viết Sấm Giảng, đã tỏ ra “không học mà thông” và ám thông
tâm lý tức đã có tha tâm thông,...
LỤC TỔ HUỆ NĂNG - PHÁP BỬU ĐÀN KINH
PHÁP BỬU ĐÀN KINH - LỤC TỔ HUỆ NĂNG BẢN PDF
Mục lục
Hiện
Pháp
Bảo Đàn Kinh
Lục Tổ Huệ Năng nói
Môn
Nhân Pháp Hải chép lại
Cổ Quân Tì Khưu Đức...
Đức Cố Quản Trần Văn Thành ( ? - 1873 ) Người làng Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, làm chức Chánh Quản Cơ dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức. Ông quy y với đức Phật Thầy ở Xẻo Môn, sau khi đức Phật Thầy vào núi Sam cất chùa,Sau khi 3 tỉnh miền Tây mất, ông có chiêu binh chống lại Pháp, ở Bải Thưa và Láng Linh, một trận Pháp bao vây năm 1873 ông bị mất tích, nghĩa quân tan rã. Một đời của ông vì đạo, vì nước, đúng với tôn chỉ tu nhân của đức Phật Thầy.Vào năm 1851, Phật Thầy Tây An chỉ giáo cho vị đệ tử Trần Văn Thành (Đức Cố Quản) cùng một số đạo hữu lên núi tìm gỗ “lào táo” là loại gỗ chắc để làm trụ cột, gọi là “cây thẻ”; khi tìm được gỗ, cho vuốt búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Do lòng tôn kính các di tích của Đức Phật Thầy nên các đạo hữu Bửu Sơn Kỳ Hương thường gọi 5 Cây Thẻ là Năm Ông Thẻ.
Đức Cố
Quản Trần Văn Thành ( ? - 1873 ) : Người làng Bình Thạnh Đông,
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, làm chức Chánh Quản Cơ dưới thời Thiệu Trị và Tự
Đức. Ông quy y với đức Phật Thầy ở Xẻo Môn, sau khi đức Phật Thầy vào núi Sam
cất chùa, ông giao hết ruộng đất, nhà cửa cho cháu, rồi đưa cả vợ con theo đức
Phật Thầy, ông được giao cho trông nom trại ruộng ở Láng Linh. Sau khi 3 tỉnh
miền Tây mất, ông có chiêu binh chống lại Pháp, ở Bải Thưa và Láng Linh, một
trận Pháp bao vây năm 1873 ông bị mất tích, nghĩa quân tan rã. Một đời của ông
vì đạo, vì nước, đúng với tôn chỉ tu nhân của đức Phật Thầy. Ông là đệ tử đầu
tiên của đức Phật Thầy, vừa cao niên, lại có chức phận Chánh Quản Cơ đàng cựu,
nên người đời tôn xưng ông là đức Cố Quản. Ông được Phật Thầy giao cho cắm bốn
cây thẻ quanh vùng Thất sơn, một cây ở Kinh đào, một cây ở Vĩnh Hanh, còn hai
cây kia người ta không nhớ, đức Phật Thầy dạy về sau đừng ở trong khu vực bốn
cây thẻ đó, vì khi tới đời, núi nổ có đền đài cung điện, đá văng sẽ chết người. Vào
năm 1851, Phật Thầy Tây An chỉ giáo cho vị đệ tử Trần Văn Thành (Đức Cố
Quản) cùng một số đạo hữu lên núi tìm gỗ “lào táo” là loại gỗ chắc để
làm trụ cột, gọi là “cây thẻ”; khi tìm được gỗ, cho vuốt búp sen và khắc
bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Do lòng tôn kính các di tích của Đức Phật
Thầy nên các đạo hữu Bửu Sơn Kỳ Hương thường gọi 5 Cây Thẻ là Năm Ông
Thẻ. Xem bài viết Năm Ông Thẻ Mỗi cây thẻ đều có thời gian xuất hiện khác nhau, bao giờ đủ 5 cây thẻ xuất hiện là thời kỳ phát triển thịnh vượng và bình an.
Năm 1840,
Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em
vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại
cuộc bảo hộ của Việt Nam.
Nhờ có sức
khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên ông được cử làm suất đội (chỉ
huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia).
Dưới
thời Thiệu Trị, ông từng đem quân đánh dẹp phe nổi dậy ở Láng Cháy (Tri
Tôn) . Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm
Chánh Quản Cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn
biên giới phía Tây Nam .
Năm 1846,
Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn. Cuối năm Đinh Mùi (1847), xét
thấy tình hình biên giới Tây Nam đã ổn định, thực hiện chính sách "ngụ
binh ư nông", triều đình cho giải ngũ một số binh sĩ, trong đó có cơ biền
của Trần Văn Thành. Trước khi về lại quê nhà, ông được ban thưởng nhiều phẩm
vật cùng một tờ chiếu khen là "Quản cơ tinh binh".
Tháng
2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần
lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời
kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng
lệnh vua, Trần Văn Thành trở lại đội ngũ.
Sau khi
đi Pháp chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ thất bại,
năm 1865, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh miền
Tây Nam Kỳ. Do sức ép của Pháp, triều đình lệnh cho ông Giản phải lùng
bắt Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương), và ông Giản đã phái
Trần Văn Thành thực hiện nhiệm vụ này, nhưng ông chỉ làm cho lấy có .
Ngày 20
tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một
đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp
thành Châu Đốc, buộc Tổng đốcPhan Khắc Thận phải đầu hàng,
tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.
Để cứu nguy
nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ chức dân binh đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để
ngăn quân Pháp , đồng thời mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc
khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh
Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp
tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi
Sập tiếp tay) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại
Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá .
Ngoài ra,
ông còn can dự vào việc giết viên Chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti
ở Vũng Liêm .
Cuộc cản phá
thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay
thuộc Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng
Linh dựng trại, khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn
bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm.
Láng
Linh một cánh đồng rộng trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất này
thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa
bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú (nay đều thuộc huyện Châu
Phú tỉnh An Giang).. Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô
số cây thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa) , lại ít có kênh rạch
thông vào...
Theo lời kể
của nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi nghĩa Bảy Thưa là Hưng
Trung doanh (nay thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú).
Xung quanh có các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: đồn Cái Môn, đồn
Lương (đều thuộc Thạnh Mỹ Tây), đồn Giồng Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm
canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú),
v.v... (xem thêm bản đồ chiến khu Bảy Thưa). Mỗi đồn đều được trang bị súng
thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,... với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.
Súng của nghĩa quân Bảy Thưa,
hiện trưng bày tại bảo tàng An Giang
Trần Văn
Thành phất cờ chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867, và lấy
tên Binh Gia Nghị đặt cho đội quân của mình. Theo tờ
trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ lực lượng của Trần Văn Thành có
khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần
đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương). Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành
cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia,
nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả.
Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua
súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào
việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp . Cuối
năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần
hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp
truy nã, treo giải thưởng cao .
Năm 1871,
một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng
chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị
phục kích.Sang
năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được,
thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến
năm sau, họ mới phát lệnh hành quân. Bắt đầu
từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá
đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn Nghệ (thuộc xã Vĩnh
Hanh, huyện Châu Thành, An Giang) rồi kéo dần vào rừng. Họ nã đại bác vào
phía trước và cho dân dọn đường phía sau. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa
lui dần. Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng và sợ đĩa. Ngày 19 tháng
3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ
Tây, huyện Châu Phú). Tuy có hào sâu nhưng vì súng của nghĩa quân bắn
không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được
trong đồn. Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay
thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông Hậu, rồi cho quân dùng
xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để
tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc . Biết mình
đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và
nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó.
Theo nhà văn Sơn Nam khoảng
9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng
2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm
Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng
4 năm 1873 tường thuật:
Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến
lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa
binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò
để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...
Trước
hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì
quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này,
bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống. Ngoài
ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo
cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn
Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long)
ở Vũng Liêm.
Xong trận,
quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, về cái chết của ông, đến này vẫn chưa được làm rõ.Trong trận đánh lần thứ hai này, Đức Cố Quản mất tích luôn, nhằm ngày 21 tháng
2 năm Quí Dậu (1873), nêu một tấm gương sáng vị quốc vong thân cho muôn đời
ngưỡng vọng.
Mô phỏng lò rèn của nghĩa quân
Bảy Thưa tại Dinh Sơn Trung
Nhận
xét
Nhà
văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa của ông
như sau:
Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm
lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức,
thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên,
bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những
nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...
Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An
Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá,
tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân
vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về
Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc
canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873,
mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông
người yêu nước từ các tỉnh.
Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh
giá cao, vì:
-Việc
tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại
chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu "ống lói".
-Biết
dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân Pháp.
Nguyễn
Thị Thạnh (1825-1899), vợ
Quản Cơ Thành, là người ở rạch Sa Nhiên, thôn Tân Quy Đông, huyện Vĩnh An,
tỉnh An Giang (nay là phường Tân Quy Đông, thị xã Sa
Đéc). Bà là người vợ nhân hậu, đảm đang, văn võ đều khá giỏi. Trong công
cuộc kháng Pháp của chồng, ngoài việc lo cơm nước, thuốc men và động viên binh
sĩ; bà còn cùng với hai người con gái là Trần Thị Hè và Trần Thị Nên đi vận
động mọi người đóng góp tiền của lương thực, tham gia đào kênh (kênh Bà Dâu),
khẩn ruộng, trồng dâu nuôi tằm dệt vải,...tạo nguồn vật dụng và lương thực cho
căn cứ .
-Thủ
lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải
chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra
"bất chiến tự nhiên thành". Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là
"chiến đấu không thỏa hiệp".
Tưởng
nhớ:
Nho
sĩ Cao Văn Cảo, người cùng thời, có làm bài thơ chữ Hán tưởng
niệm ông. Vô danh dịch như sau:
Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng
Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn.
Trời đất biết cho lòng sốt sắng,
Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn.
Đền thờ tỏ dấu dân trong nước,
Thơ vịnh nêu tình khách viết văn.
Những đứa phản thần qua đến cửa,
Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn.
Năm 1909,
một tu sĩ trong giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tên là Vương Thông
có viết tập thơ Nôm thể lục bát có tên là
"Trần Quản Cơ dữ Gia Nghị Binh", kể về khởi nghĩa Bảy Thưa,
trong đó có nhiều câu nói đến tinh thần "an bần, lạc đạo", lòng quả
cảm và tiết tháo của ông, trích hai đoạn ngắn:
Thân ngài (Trần Văn Thành) chẳng quản rách lành,
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người trung đứng giữa mặt trời,
Đắng cay bao quản vận thời chớ than.
Trích cò le át la vang,
Đậu khoai nuôi bữa bắp rang đỡ lòng...
Và:
An Giang có một ông (Trần Văn Thành) đây
Chữ dạ ngay thầy ái quốc ưu dân.
Thà thua xuống láng xuống bưng,
Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần...
Dinh Hưng Trung
Thờ Trần Văn Thành
Trần
Văn Thành được tôn thờ ở nhiều nơi, như: Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành,
Dinh Hưng Trung, Dinh Sơn Trung...Ngoài ra, tên ông còn dùng để đặt tên cho
trường học và đường phố trong tỉnh An Giang.
Ông
Thành và bà có tất cả sáu người con: ba trai, ba gái, theo thứ tự sau: Trần Văn
Nhu, Trần Thị Hè, Trần Văn Chái, Trần Thị Nên, Trần Thị Núi và Trần Văn Trạng.
Trừ trai út mất năm 7 tuổi, hai trai còn lại đều khá danh tiếng:
·Trần Văn Nhu (1847-1914), còn gọi là Cậu hai
nhà Láng (người miền Nam gọi con đầu lòng là thứ hai), người
lập ra Bửu Hương tự (tức chùa Láng) và cũng là người kế truyền
mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương sau khi cha mất. Lúc khởi
nghĩa Bảy Thưa bị đánh dẹp (1873), mẹ ông cùng ông và những
người thân tín khác, bị Pháp truy nã rất gắt nên phải lẩn trốn nhiều nơi.
Năm 1897, ông Nhu trở về căn cứ cũ lập Bửu Hương tự (nay là Đền
thờ Quản cơ Trần Văn Thành), phát "lòng phái" để thu nhận tín đồ.
Ông Nhu mất tại Trà Bang (Rạch Giá) ngày 25 tháng 3âm
lịch năm 1914. Xem về tiểu sử Ông Trần Văn Nhu
·Trần Văn Chái (1855-1873), bị thương ở bắp đùi rồi
bị quân Pháp bắt khi cùng chiến đấu với cha tại bản doanh Hưng Trung. Sợ con
không thể chịu nổi sự tra tấn của đối phương sẽ khai báo bí mật của nghĩa quân,
bà Thạnh (vợ Quản Cơ Thành) liền nhờ người đưa thư khuyên con nên tự vẫn để
tròn khí tiết .
Không
rõ Trần Văn Thành và Trần Văn Chái được chôn cất ở đâu. Trong khu mộ của dòng
họ Trần ở gần chùa Bửu Hương tự thuộc xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), không
có phần mộ của hai người.
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích… XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.