BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

CHÚ GIẢI THI VĂN GIÁO LÝ - TẬP 1 - PHẦN 1

Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ là bộ pháp bảo, hàm chứa giáo thuyết căn bản, giúp người tín đồ PGHH hiểu biết tông chỉ và phương thức hành đạo. Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo khẳng định Ngài không lập một tôn giáo mới lạ. Ngài chỉ là vị thánh tăng vưng lịnh Đức Thế Tôn hạ giới xuống trần hưng truyền chánh pháp. Cho nên Ngài đã “nối theo chí Thích Ca ngày trước” và “rút trong các Luật các Kinh” để thành lập một giáo thuyết khế cơ, giản dị, dễ học, dễ tu cho căn cơ thấp kém của phần lớn chúng sanh trong thời Mạt pháp.

CHÚ GIẢI THI VĂN GIÁO LÝ - TẬP 1 - PHẦN 1

Nội Dung


THAY LỜI TỰA
( Tái Bản tại Hoa Kỳ Lần 1, Năm 2010 )
Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ là bộ pháp bảo, hàm chứa giáo thuyết căn bản, giúp người tín đồ PGHH hiểu biết tông chỉ và phương thức hành đạo.
Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo khẳng định Ngài không lập một tôn giáo mới lạ. Ngài chỉ là vị thánh tăng vưng lịnh Đức Thế Tôn hạ giới xuống trần hưng truyền chánh pháp. Cho nên Ngài đã “nối theo chí Thích Ca ngày trước” và “rút trong các Luật các Kinh” để thành lập một giáo thuyết khế cơ, giản dị, dễ học, dễ tu cho căn cơ thấp kém của phần lớn chúng sanh trong thời Mạt pháp.
Tuy nhiên, dù cố giản dị đến đâu, một bộ Sấm Kinh chỉ vỏn vẹn khoảng 500 trang mà tóm lược cả “rừng kinh kệ” của chư Phật Thánh thì nội dung tất phải hàm súc cô đọng. Hơn nữa, về hình thức, lời lẽ có bình dị cũng không tránh khỏi việc cần sử dụng điển tích, điển văn, Hán ngữ, dụng ngữ Phật pháp, phương ngữ, …để diễn đạt tư tưởng. Đó là các lý do khiến người tu học đôi khi không dễ hiểu nếu thiếu phương tiện sưu tầm tra cứu.
Cố soạn giả Thiện Tâm là một tín đồ PGHH, một tu sĩ cả đời xả thân tu học, một giảng viên trong Ban Hoằng Pháp chùa Tây An Cổ Tự và Ban Phổ Thông Giáo Lý Giáo Hội Trung Ương Phật Giáo Hòa Hảo trước năm 1975. Ông nhận thức sự cần thiết của một bộ Chú Giải Sấm Giảng Thi Văn để giúp chư tín hữu khắc phục các trở ngại nói trên nên đã tự nguyện đứng ra làm công tác khó khăn nầy.
Văn-Tư-Tu là phương châm của người tu học Phật pháp: đọc nghe, suy nghiệm rõ ràng rồi hạ công tu tập thì mới thành tựu được Đạo Giải Thoát.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc nhở: “Coi rồi phải nhận cho rõ lý.”
Và: “Nghe cạn lời chớ có mờ hồ,
Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.”

Cố Soạn Giả tự nhận việc làm để thể hiện mục tiêu trên không thể hoàn hảo ngay từ bước đầu. Công tác sưu khảo biên sọan nầy cần có nhiều người góp sức, cần có sự tiếp tục và tiếp tục chỉnh đốn bổ sung mãi mãi,…
Tái bản và phát không bộ sách nầy, chúng tôi muốn nối vòng tay thể hiện hoài bão của cố Soạn Giả hầu giúp lợi ích trên đường tu học cho chư đồng đạo và tín hữu Phật giáo gần xa trong tinh thần khiêm tốn đó.
Chúng tôi chân thành cảm tạ quý bạn đạo, hữu danh cũng như ẩn danh, đã và sẽ yểm trợ tích cực về tịnh tài cũng như công sức để thực hiện hoàn thành Phật sự nầy.



Hoa Kỳ, Mùa Xuân Năm Canh Dần, 2010, P.L. 2554

BAN HIỆU ĐÍNH
Phụ chú: Phần Chánh Văn và các câu giảng trích trong các mục Chú Giải của Soạn giả được hiệu đính theo Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, ấn bản năm 2004 (SGTVTB 2004) của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo tại Hải Ngoại và được in chữ đậm (bold) nghiêng (italic).

LỜI NÓI ĐẦU
Lẽ ra phần Chú Giải Thi Văn Quyển Hạ đã tới tay quí vị khá lâu. Nhưng vì hoàn cảnh và thời gian trắc trở nên cho đến hôm nay tập sách nầy mới ra mắt quí vị. Soạn giả xin cáo lỗi, mong chư đồng đạo thông cảm cho.
Như quí vị đã biết qua các lời giới thiệu tại Quyển Thượng Tập 1/3 trang 8, bộ Chú Giải Thi Văn Quyển Hạ là gồm các bài Thi Văn Giáo Lý do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác từ khoảng tháng năm năm Kỷ Mão (1939) tới tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi (1947). Đức Huỳnh Giáo Chủ tùy cảnh tùy duyên mà sáng tác chớ chẳng phải nhất loạt. Sau nầy, những người có trách nhiệm sưu tập sắp xếp lại theo đề mục cho có thứ tự.
Trong quá trình chú giải, chúng tôi cũng không theo thứ tự đề mục trong Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ (Chánh Văn), mà tùy vào sự nhu cầu học hỏi của các đồng đạo khóa sinh nhiều hơn. Song đến phút cuối cùng chúng tôi cũng phải cố biên soạn mong hoàn tất Quyển Hạ nầy. Công việc chưa viên thành, vẫn còn đang tiếp tục...
Chúng tôi không quên chân thành cảm tạ quí vị điểm xuyết và góp ý cho những chỗ còn thiếu sót.

Soạn Giả THIỆN TÂM


Bài 1. LỘ CHÚT CƠ HUYỀN ( SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ 2004, tr. 221-223 )

XUẤT XỨ - VĂN THỂ - NỘI DUNG :
Sau ngày 18/5 năm Kỷ Mão (1939), Đức Giáo Chủ bắt đầu sáng tác loạt bài Thi Văn Giáo Lý và họa đáp các thi thơ do bá tánh thập phương đến chất vấn.
Bài thi văn thứ nhứt mang tựa đề “Lộ Chút Cơ Huyền” trong đây gồm có 10 đoạn thi ngắn, điệu văn vần, thể thi tứ cú hoặc bát cú, loại thuyết giáo.

Phần nội dung, Ngài nhận thấy cõi đời Hạ ngươn sắp đến ngày tàn hoại, nhân sanh phải trải qua cuộc tang thương biến đổi để lập lại Thượng Ngươn. Bởi đầy lòng từ bi nên Ngài và chư vị Phật Tiên không thể lặng nhìn trước cảnh nhân loại đang gánh quả đau thương tang tóc, do loài người tham ác tạo ra.
Cho nên các Ngài, “Ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân”. Vì thế, khoảng trung tuần tháng 6 năm Kỷ Mão (1939) Ngài hạ bút viết bài thi trên.
Chủ yếu là Ngài nói rõ định luật “Thành, trụ, hoại, không” và lý vô thường của vạn vật. Để rồi Ngài kêu gọi bá tánh tỉnh cơn mộng huyễn, giác ngộ tu hành hầu sau nầy được toại hưởng cõi đời an lạc:
“Đạo đức hiền lành kiến Tiên bang”.
Sau đây, chúng tôi xin chú giải từng đoạn:

CHÁNH VĂN
1. Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng,
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,
Tầm đấng hiền-từ cứu thế-gian.
Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ,
6. Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang.
LƯỢC GIẢI :
Nhận thấy cuộc đời sắp đến ngày cuối cùng, chư Phật Tiên lâm phàm cứu khổ nhân sanh. Hiện nay dù ta có đeo níu lợi danh quyền tước cho nhiều, khi rốt cuộc cũng nắm tay không, mà cảnh khổ lại kề một bên. Vậy ai là người hữu tâm hữu trí, sớm thức tỉnh tầm bậc chơn sư có đủ hạnh đức hiền từ mà nương theo tu hành để sau nầy đuợc hưởng cảnh thái bình an lạc của đời Thượng Ngươn thánh đức (đời TNTĐ là cảnh Tiên Dục-giới như Đao Lợi Thiên, mỗi tiên nhơn đều sống đến hàng vạn năm) .
CHÚ THÍCH :
CƠ HUYỀN: Cũng đọc là huyền cơ. Cơ là máy, huyền là sâu kín mầu nhiệm. Hiểu chung là máy trời mầu diệu sâu kín, thông thường khó mà hiểu đặng. Đức Giáo Chủ từng nói: “Huyền cơ máy tạo xoay vần”(Bóng Hồng).
TRẦN THẾ: Cũng gọi là thế trần. Trần là bụi, thế là cõi đời. Ý chỉ cõi đời chúng sanh đang sống đầy khổ đau khắc nghiệt mà ai cũng phải gánh chịu. Đức Giáo Chủ từng nói: “Cuộc trần ôi quá khổ !” (Thức Tỉnh một Nữ Tín Đồ). Hay là:“Cuộc thế trần nhiều đoạn khó khăn”. (Gởi Bác Sĩ Cao Triều Lợi).
LỢI DANH: Cũng gọi là danh lợi, hai điều trong trong sáu điều ham muốn). Có nghĩa tiền của và danh vị tước quyền, ai ham mến nó tuy được lợi lộc và danh vọng trước mắt nhưng có hại về sau. Vì nó như miếng mồi tất có lưỡi câu và thuốc độc trong đó (bả vinh hoa mồi phú quí).
“Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào”.(Ca dao)
Đức Giáo Chủ từng cảnh tỉnh:
“Lợi danh hai chữ mắt lờ trông”. ( Bà Năm Cò)
Nên Ngài khuyên nhắc môn đồ:
“Xin đừng đeo đắm lợi danh,
Bỏ trôi đạo đức hư danh dạy truyền”.
(bài Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa).
GIẤC MỘNG TRÀNG: Mộng là điềm chiêm bao. Tràng hay trường, nghĩa là dài. Hiểu chung là giấc mộng dài. Ý chỉ cuộc đời quá ngắn ngủi, mau lẹ. Chiêm bao trong đêm là giấc mộng ngắn. Còn kiếp người như giấc mộng dài; dù ta có gây tạo lợi danh quyền tước nhiều cở nào đi nữa, rốt cuộc cũng nắm tay không.
Đức Giáo Chủ hằng đánh thức ;
“Dương gian mau tỉnh trong tràng mộng,
Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao”.
(bài Hai Mươi Chín Tháng Chạp)

ĐỜI CÙNG:Cuộc đời sắp hết. Ý chỉ thời Hạ Ngươn sắp tàn cổi, đổi sang đời Thượng Ngươn an lạc tới đây:
“Hạ Ngươn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang”.(Q.1)
Hoặc là:
“Khắp lê thứ biến di thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thượng Ngươn”.(Q.2)
Nên Ngài thức tỉnh:
“Đời cùng tu gấp kịp thi,
Đặng xem báu ngọc ly kỳ năm non”.(Q.3)

TIÊN PHẬT: Tiên là bậc tu hành được trọn lành trọn sáng, không còn phạm mười điều ác và đã thoát tục, về cõi Thiên đường. Phật là các đấng đã hoàn toàn giác ngộ, tự giác giác tha và giác hạnh viên mãn.
HẠ PHÀM GIAN: Xuống cõi trần. Các vị Tiên Phật từ cõi siêu thoát chuyển kiếp hoặc hóa thân vào cõi trần gian độ rỗi chúng dân, nên gọi là lâm phàm.
“Ông Phật” ở đây là chỉ cho Đức Phật Thầy Tây An chuyển kiếp lại Đức Huỳnh Giáo Chủ. Còn “ông Tiên” là ám chỉ ông Cử Đa, đạo hiệu Ngọc Thanh, lúc còn tu Tiên tại núi Tà Lơn đã được chứng Đạo và được cả quần Tiên đều xưng tụng Ngài là Tiên Trưởng, thời gian sau đó được Đức Phật Thầy truyền pháp…
Cả thầy trò đầy lòng từ bi và có bản nguyện cứu khổ chúng sanh, nên gọi chung là “Tiên Phật hạ phàm gian”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ có câu:
“Thầy Khùng trò lại hóa Điên,
Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.

(Dặn Dò Bổn Đạo)
TÂM TRÍ: Tâm có hai thứ : vật chất và tinh thần. Về vật chất thì tâm tức là trái tim (nhục đoàn tâm). Về tinh thần thì có duyên lự tâm và chơn như tâm.
- Duyên lự tâm là lòng suy biết, lo lắng, duyên theo thất tình lục dục.
- Chân như tâm là cái tâm thường còn không biến đổi, không hoại diệt, cũng gọi là chân tâm hay Phật tánh.
Trí cũng có hai thứ:
a)-Thể trí: Tức là phần khôn biết trong tinh thần của con người ở thế gian. Trí nầy có giới hạn, nếu ai học hỏi nhiều thì sáng biết nhiều, học hỏi ít thì sáng biết ít.
b)-Trí huệ: Tức là cái trí sáng biết thông suốt vô cùng tận, không vật gì ngăn ngại được; do công đức tu hành khi diệt hết vô minh mà đặng trí nầy.
Tâm và Trí đồng một thể, tâm là thể của trí, trí là dụng của tâm, ví như ngọn đèn và ánh sáng. Khi tâm muốn rõ việc chi thì dùng trí mà phán xét tìm hiểu rồi đưa cho tâm quyết định. Đức Giáo Chủ dạy:
“Lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì…”
(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ)

Nói chung, tâm trí là chủ tể của xác thịt, là nguồn gốc của vũ trụ vạn hữu: “Nhất thiết duy tâm tạo”.
Trong Lăng Nghiêm Kinh, Phật có nói:
“Nhất pháp sở sanh, tùy tâm sở hiện,
Nhất thiết nhân quả, thế giới vi trần nhân tâm thành thể”(Các pháp có sanh ra là do nơi tâm biến hiện, mà tất cả các pháp, như: Nhân quả, phàm thánh, quyền thiệt…cho đến lớn như thế giới, nhỏ như bụi trần đã do nơi tâm mà hiện ra thì cũng do nơi tâm mà thành thể).
TẦM ĐẠO: Dùng tâm trí tìm hiểu nền đạo nào chơn chánh đúng chân lý, có mục đích tôn chỉ hẳn hòi và ông thầy hướng dẫn phải là bậc minh sư, tài đức gồm đủ để nương theo hầu tránh sự tu hành bị mê lầm lệch lạc:
“Tu hành tầm đạo một mai cứu đời”. (Q.3)
ĐẤNG HIỀN TỪ: Bậc đại hiền, hạnh đức viên dung, từ bi hỉ xả, bình đẳng khoan dung và có bản nguyện cứu khổ chúng sanh.
BÁ TÁNH: Trăm họ. Ý chỉ chung tất cả mọi người (thành ngữ: vạn dân bá tánh).
“Tỏ ít câu cầu chúc cho đời,
Mong bá tánh vạn dân giải thoát”.( Q.4)

ĐẠO ĐỨC: Đạo có nhiều nghĩa: con đường, bổn phận, chơn lý (bản thể) tuyệt đối và cũng gọi là chánh pháp hay chơn tánh. Đức là tâm lành, là thể hiện của nhân lành. Việc đạo đức là công việc hiền lành đạo nghĩa đúng theo con đường chánh pháp và chơn lý:“Ơn nhà đạo đức quyết đền ân”. (bài Tỉnh Bạn Trần Gian).
KIẾN TIÊN BANG: Thấy được nước Tiên, tức sống được cảnh đời Thượng Ngươn Thánh Đức tới đây. Trong Sấm Giảng Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo hòa Hảo đều có cho biết và xác định như vậy.
“Lập Thượng Ngươn tuổi cả dư muôn”. (Kim Cổ Kỳ Quan của Ô. Ba Thới)
“Theo ta đến chốn Tiên bang,
Đặng coi các nước hội hàng năm non”.
( Thiên Lý Ca)

CHÁNH VĂN
7. Thiên địa u-minh dĩ đạo tràng,
Thập bát chư hầu lụy há khan.
Đạo-lý tầm sâu, sâu chẳng cạn,
10. Đời cùng ly-loạn khắp chư bang.
LƯỢC GIẢI :
Xưa nay sự đổi thay của nhơn sanh và vũ trụ không ngoài cuộc vận xoay của ý Đạo. Đức Giáo Chủ còn cho biết trận đệ nhị thế chiến xảy ra, khiến nhân loại cả thế giới chung chịu bao nỗi đau thương khổ lụy. Chỉ có những người biết nương theo con đường Đạo lý mới mong cứu vãn, song mỗi hành giả phải gắng công đào sâu vào tâm não mới thấu đạt.
CHÚ THÍCH :
THIÊN ĐỊA: Trời đất
U MINH: Tối tăm, mờ mịt, mênh mông sâu thẳm không có ranh giới.
DĨ ĐẠO TRÀNG: Dĩ là lấy hay dùng; Đạo tràng hay đạo trường là trường dạy đạo hoặc chỉ nơi Phật thành đạo (Bồ Đề Đạo Tràng), Đạo tràng còn chỉ Chơn tâm, Phật tánh. Dĩ Đạo Tràng: chỉ nhà tu khi trực nhận Chơn tâm tức đắc đạo (ví dụ: Chúc ông mau đắc đạo tràng). Toàn câu “Thiên địa u minh dĩ đạo tràng” có nghĩa tuy trời đất mênh mông mù mịt, thường nhơn khó mà thấu đáo nhưng không lọt ngoài cái lý của Đạo (do Đạo mà thành).“Thiên ý không riêng mối đạo mầu”. (Thiên Lý Ca).
Bởi nhà tu khi đắc đạo thì chơn tâm bao trùm cả vũ trụ vạn hữu, không sự vật nào mà chẳng thấu đạt. Cũng như cả vũ trụ vạn hữu đều do tâm mà thành.
THẬP BÁT CHƯ HẦU: Mười tám nước nhỏ chung quanh phục tùng một nước lớn. Nghĩa bóng là chỉ khắp thế giới. Cũng như vạn quốc hay chư bang, chỉ hết thảy các nước đã có trên thế giới (hoàn cầu). Giảng xưa có câu: “Mười tám nước lai giáng hàng đầu”. (Kim Cổ Kỳ Quan).
Đức Giáo Chủ PGHH thường nhắc đến:
“Các nơi liệt quốc chư bang,
Chúc cầu bình trị trướng loan sum vầy”.
LỤY: Cũng đọc là lệ, nghĩa là nước mắt.
HÁ KHAN: Chẳng khô ráo. Nghĩa bóng: chỉ trận thế chiến thứ II (1939-1945) xảy ra khiến cho nhơn loại khắp thế giới đều gánh chịu tai nạn: giết hại lẫn nhau, thiên tai, địa ách, đói đau chết khổ xảy ra liên tiếp từ đợt nầy đến đợt khác, hiện giờ cũng chưa dứt, khiến dòng lệ của dân chúng chưa dừng được. Đức Giáo Chủ PGHH diễn tả cảnh ấy:
“Cha nọ bồng con vợ khóc òa,
Tan nát xóm-diềng khổ dữ a !
Nhà không kẻ ở, ôi ! nói trước.
Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha”.
(bài Để Chơn Đất Bắc)

ĐẠO LÝ: Lý lẽ của Đạo. Cái lý đương nhiên hợp với lẽ phải mà ai cũng công nhận.
Riêng chữ Đạo có 3 ý nghĩa: a) Con đường của tâm hồn, b) Bổn phận, c) Bản thể tuyệt đối.
Chữ Đạo ở đây là chỉ cho nghĩa thứ ba (bản thể tuyệt đối). Bởi nó sâu mầu khó tả, không thể dùng văn từ ngôn ngữ hay hình tướng mà hiểu đặng “Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.
LÝ: Là giáo lý, lời lẽ luận giải các kinh luật và pháp môn tu hành của Thầy Tổ và chư Phật Thánh đã dạy. Hành giả cứ nương theo đó mà học hỏi tu tiến đến chỗ thâm nhập chơn lý tuyệt đối và thành đạo quả.
Đức Thầy có câu:
“Hạ giái dạy khuyên truyền Đạo lý,
Giả dạng Điên Khùng mượn thi ca”.
ĐỜI CÙNG: Chỉ đời Hạ Ngươn sắp mãn để lập lại Thượng Ngươn. Cũng như quả địa cầu nầy sắp rụng để thay quả địa cầu khác. Vì nghiệp duyên của mỗi chúng sanh ở đây đã kết, rồi tùy theo nghiệp quả của mỗi chúng sanh mà chuyển sang cảnh giới khác để hưởng thụ cảnh vui khổ sang hèn nữa.
LY LOẠN KHẮP CHƯ BANG: Cảnh chiến tranh giặc loạn, đói đau khổ não khắp thế giới, không nước nào mà chẳng có.
CHÁNH VĂN
11. Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
Thiên địa diệt gian dĩ thiện riêng.
Cơ thâm họa diệc từ đây có,
Bộ máy thiê- cơ ắt đảo huyền,
Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định,
16. Huờn lai Thượng-cổ mới bình-yên.
LƯỢC GIẢI :
Cảnh thương hải tang điền xưa nay là qui luật của nhân sanh, vũ trụ lúc nào cũng chuyển biến luôn. Đó là sự trả vay giữa nhân và quả. Cơ thâm họa diệc (mưu sâu ắt họa cũng sâu), hiền còn dữ mất.
Đức Thầy cũng đã tiên tri đến hai năm Tuất Hợi nào đó, chúng dân sẽ được hưởng cảnh thái bình an lạc. Bởi định nghiệp của trời đất sẵn bày hễ hết Hạ Ngươn thì trở lại Thượng Ngươn thánh đức.

CHÚ THÍCH :
THƯƠNG HẢI TANG ĐIỀN: Do câu sách:
“Thương hải biến vi tang điền” hay “tang điền biến vi thương hải” (Biển xanh hóa ra ruộng dâu hoặc ruộng dâu trở thành biển xanh). Theo Phật học đây là luật vô thường, không một sự vật nào nằm y nguyên một chỗ.
Xưa có Ma Cô Tiên nữ, chính mắt bà chứng kiến ba lần ruộng dâu hóa ra biển xanh. Ý chỉ cuộc đời và vạn vật luôn thay đổi, không chi là bền chắc lâu dài. Các thi nhân Việt Nam thường viết:
“Trăm năm một cuộc bể dâu,
Người cùng cây cỏ khác nhau chút nào”.
(Nguyễn Trãi)
“Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”.
(Chu Mạnh Trinh)
Đức Giáo Chủ PGHH luôn nhắc nhở:
“Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”. (Q.5)
THIÊN ĐỊA DIỆT GIAN DĨ THIỆN RIÊNG:
Thiên địa là trời đất; Diệt gian là tiêu diệt phần gian ác; Dĩ là lấy dùng; Thiện riêng là dành lại người hiền. Nghĩa rộng cả câu: Theo định luật nhân quả của trời đất thì ngày chung cuộc những kẻ gian tà hung ác sẽ bị luật đào thải diệt vong, chỉ còn dành lại số hiền lương đức hạnh sống đời Thượng Ngươn thánh đức:
“Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời Thượng cổ”. (Q.2)

CƠ THÂM HỌA DIỆC: Cũng viết là “Cơ thâm thì họa diệc thâm”, nghĩa là nếu người mưu tính mẹo sâu kế độc để hại kẻ khác thì sau đó cũng sẽ bị kẻ khác dùng mưu kế sâu độc hại lại mình (nhân quả nghiêm minh).
Đức Giáo Chủ từng nhắc lại:
“Cơ thâm thì họa diệc thâm,
Nào trong sách sử có lầm ở đâu”. (Q.1)

THIÊN CƠ: Máy trời, cuộc vận chuyển của trời đất như một guồng máy không ngừng nghỉ, nhưng âm thầm kín đáo, thường nhơn khó mà biết được. Đức Giáo Chủ có câu:
“Máy thiên cơ mỗi phát mỗi thay”.( Q.2)
ĐẢO HUYỀN: Treo ngược xuống. Nghĩa bóng sự khổ sở đến cực điểm.
“Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ nay”.(ĐT)
TUẤT HỢI NHỊ NIÊN: Hai năm Tuất và Hợi. Đây là lời Đức Thầy tiên tri nhưng chỉ nói chi mà không nói can nên chưa đoán được năm Tuất Hợi nào. (Thiên cơ bất khả lậu !).
HUỜN LAI THƯỢNG CỔ: Huờn lai là trở lại. Thượng cổ là thời xưa. Ý chỉ đời Thượng Ngươn thánh đức. Theo sự vận chuyển của lý tam ngươn, hễ hết thượng thì tới trung rồi tới hạ. Thượng Ngươn thì con người hiền lương thánh đức nên thế giới thái bình an lạc. Qua Trung Ngươn, đức tánh con người kém dần, đến Hạ Ngươn thì lòng ngưòi hung ác gian xảo, giành giựt sát hại lẫn nhau nên phải chịu quả khổ sầu, tiêu diệt như đã thấy. Tới đây sắp đến chu kỳ lập lại Thượng ngươn (Thượng cổ) từ vô thỉ tới giờ chẳng biết bao nhiêu lần như vậy.
Đức Giáo Chủ PGHH cho biết:
“Việc đời nhiều nỗi sầu bi,
Hạ Ngươn đã đến loạn ly cơ đồ”.
Và:
“Chừng nào Thượng cổ hồi qui,
Thế trần mới hết khinh khi Phật Trời”.
CHÁNH VĂN
17. Điên nầy vốn thiệt ở núi Vàng,
Thương đời nói rõ việc lầm than.
 Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh,
20. Yên trí nghĩ suy biết đá vàng.
LƯỢC GIẢI :
Bốn câu thi trên Đức Giáo Chủ cho biết danh hiệu và nơi cư trú của Ngài, vì lòng từ bi thương xót sanh linh nên nói rõ những tai nàn thống khổ sắp tới để khuyến hóa mọi người sớm thức tỉnh tu hành hay rõ biết lòng tốt xấu mà lọc lừa:
“Lọc lừa rõ đặng vàng thau
Đem thân mua lấy mận đào thiên nhiên”.
(Bài Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

CHÚ THÍCH :
ĐIÊN: Trong Sầm Thi của Đức Giáo Chủ có đề hai bút hiệu: Ông Điên và ông Khùng. “Ông Khùng” là Thầy, “ông Điên” là vị đệ tử thứ nhứt:
“Thầy Khùng trò lại hóa Điên,
Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)

NÚI VÀNG: Nghĩa của chữ Kim Sơn. Đây chỉ nơi cư ngụ và cũng là Phật danh của Đức Giáo Chủ. Năm 1939 có một dị nhân đến xưng tụng Ngài: “Kim Sơn Phật ấy giáng sanh đành rành”. Bán lộ giang hồ kính tặng Kim Sơn Phật (Thơ Ông Bán Chiếu).
Thời gian sau, Ngài có xác định trong một bài thi khoán thủ “Kim Sơn Thượng Đẳng”.
LẦM THAN: vất vả, cơ cực, khổ sở lắm.
“Khiến dân phải chịu lầm than muôn phần”.
(Thơ Lục Vân Tiên)
Đức Giáo Chủ từng nói:
“Lầm than khói lửa với binh đao,
Âu Á lung tung nhuộm máu đào”.
(Ai Người Tri Kỷ)

YÊN TRÍ: Giữ tâm trí cho được yên lặng bình tĩnh mà suy nghĩ.
ĐÁ VÀNG: Cũng gọi là vàng đá. Đá là một thứ khoáng vật cứng chắc, thường dùng xây nhà hay lót đường. Nghĩa bóng chỉ cho lòng cứng rắn, chung thủy không ai lay chuyển đặng. Vàng là một thứ kim loại quí, giá trị cao, màu vàng, thường làm đồ trang sức. Nghĩa bóng chỉ cái gì quí giá đáng trân trọng, ghi nhớ hơn hết. Hai chữ đá và vàng ghép chung lại thành một từ ngữ để chỉ cho những sự chắc thật, trung thành giữa bạn bè, thầy trò, hay vợ chồng; tình nghĩa đối với nhau lúc nào cũng mặn nồng, chung thủy, không hề thay đổi phai lợt. Cổ văn thường nói: “Kim thạch chi ngôn khắc vu ngũ nội”(lời vàng đá khắc ghi vào ngũ phủ).
Vậy vàng đá còn tượng trưng cho lời nói và lòng chân thật, đối với chì thau để chỉ sự giả dối, không giá trị. Đức Giáo Chủ đã bảo:
“Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
Chì thau lắm chuyện lúc non hài”.
CHÁNH VĂN
21. Ý gì Tiên-Trưởng muốn khuyên đời,
Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi !
Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng,
24. Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời.
LƯỢC GIẢI :
Đại lược đoạn thứ 5 Đức Thầy cho biết lý do Ngài lâm phàm độ thế là vì thấy chúng sanh đang lặn ngụp trong vô minh dục vọng, đã theo đạo mà chẳng lo tu thân hành đạo. Ngược lại còn hành động các điều xấu ác thì mong gì kết quả. Tuy người tu hiện giờ hay bị người đời chê bai cười nhạo, nhưng sau nầy sẽ được cao quí. Thế nên Đức Thầy kêu gọi mọi người hãy sớm thức tỉnh tu hành cho kịp với thời gian:
“Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.
Cứu lương hiền chẳng cứu người hung,
Kẻ gian ác đến sau tiêu diệt’. ( Q.2)
CHÚ THÍCH :
TIÊN TRƯỞNG: Bậc Tiên gia, đứng đầu chư Tiên. Lúc ông Điên (biệt danh của Đức Giáo Chủ) còn tu tại núi Tà Lơn có dự cuộc thi và đã được trong hội quần Tiên tuyển chọn Ngài là bậc Tiên Trưởng.(Xin xem Giảng Tà Lơn sẽ hiểu thêm đầy đủ).
ĐẠO ĐỨC: Chữ Đạo có nhiều nghĩa: Đạo là con đường, là bổn phận, là chân lý (bản thể tuyệt đối). Đạo cũng chỉ Chánh pháp hay Chơn tánh. Đức là tâm lành là thể hiện của nhân lành. Việc đạo đức là công việc hiền lành đạo nghĩa, đúng theo con đường của chánh pháp và chơn lý. Đức Giáo Chủ từng nhắc nhở:
“Ơn nhà đạo đức quyết đền ân”. (Tỉnh Bạn Trần Gian)
NHUỐC NHƠ: Xấu xa, nhục nhã, bị người chê bai.
TỈNH GIẤC: Thức giấc. Ý nói chúng sanh trong cõi hồng trần cứ đắm say các vật chất: danh, lợi, tình như kẻ đang ngủ mê trong giấc mộng nên Đức Giáo Chủ đánh thức mọi người sớm “tỉnh giấc” để lo tìm đạo tu hành.
CHÁNH VĂN
25. Bi-động từ tâm gọi mấy lời,
Chúng sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi.
Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết,
28. Mà còn nhiều lắm, chúng sanh ôi !
LƯỢC GIẢI :
Đại ý bốn câu trên Đức Thầy cho biết: Vì thấy chúng sanh khắp thế giới đang gánh chịu những nỗi đói đau thảm khốc, chẳng những trong hiện tình mà thời gian tới đây sẽ còn nhiều hơn nữa nên Ngài động lòng từ bi, lâm phàm mở cơ phổ hóa.
CHÚ THÍCH :
BI ĐỘNG: Kích động tâm từ bi.
TỪ TÂM: Lòng hiền lành hay thương người mến vật và lo tìm phương cứu độ.
CHÚNG SANH: Chúng hữu tình, tức chỉ cho những loài có tri giác, có mạng sống. Gồm cả bốn loài: loài sanh bằng trứng, loài sanh bằng bào thai, loài sanh nơi ẩm thấp và các loại hóa sanh.
NAM BẮC: Hướng Nam và hướng Bắc. Nghĩa bóng là chỉ chung khắp thế giới (Đông, Tây, Nam, Bắc; Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, Thượng phương và Hạ phương). Bởi cuộc thế chiến xảy ra thì không một nước nào mà dân chúng chẳng khổ sầu rơi lệ.
KIM SƠN: Núi vàng, nhưng chữ Kim Sơn ở đây là chỉ Phật danh của Đức Thầy (Kim Sơn Phật), và còn có nghĩa là nơi chư Bồ Tát Đẳng giác an trụ. Trong Thi Văn Ngài có viết:
“Trì địa Kim Sơn đến cõi Bồng”.
THA THIẾT: Cũng gọi là thiết tha. Thiết là cắt; Tha là mài giũa. Nghĩa bóng là quá ân cần hoặc đậm đà tha thiết. Chữ tha thiết còn chỉ cho cảnh thảm khổ rất mực. Trong Quan Âm Tế Độ có câu:
“Liếc xem bên mái tả cung,
Tù nhân than khóc vô cùng thiết tha”.

Chữ thiết tha được Đức Giáo Chủ đặt ở đây, vì Ngài thấy cả chúng sanh đang gánh chịu cảnh thảm khổ mà động mối từ tâm thương xót.
CHÁNH VĂN
29. Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc,
Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời.
Đạo-hạnh huyền cơ khuyên đó kiếm,
32. Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi”.
LƯỢC GIẢI :
Dân tộc Việt Nam bị người Pháp đô hộ thời gian dài gần 80 năm. (Ý nói VN ta trước kia thôn tính nước Chiêm Thành và Chân Lạp nên bây giờ bị người Pháp đô hộ lại). Đây cũng là định luật của tạo công (nhân quả) bởi dân chúng quốc gia nầy lấn chiếm quốc gia khác, sau đó sẽ bị quốc gia khác chiếm lại, cứ vay trả trả vay với nhau không dứt. Đức Giáo Chủ hằng bảo:
“Nợ nần Tiên tổ đã gây nên,
Con cháu ngày nay phải báo đền”.
(Rứt Cái Ngu Đần)

CHÚ THÍCH :
NAM VIỆT CÚI LÒN: Người dân Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân Pháp, họ áp bức và bóc lột dân ta đủ cách.
LẼ TRỜI: Lẽ tạo hóa, tức định luật nhân quả. ĐẠO HẠNH: Đạo lý và hạnh đức tốt đẹp. Ví dụ:
Người biết ăn ở đối xử từ trong gia đình đến ngoài xã hội đều đúng theo lẽ phải toàn hảo toàn hòa. Chữ đạo hạnh ở đây chỉ cho nền Đạo:
“Ngôn từ đạo hạnh ý Thầy khuyên,
Hạnh Đức ân cần rán tập chuyên”. (Q.5)
HUYỀN CƠ: Hay cơ huyền(Xem lại CT tại tr. 9).

CHÁNH VĂN
33. Cổ-ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa.
Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,
36. Ly kỳ thiên định dĩ thiên la .
LƯỢC GIẢI :
Đức Giáo Chủ cho biết chư Phật Thánh trước kia đã tiên tri đến ngày tận diệt buổi ha ngươn, dân chúng chịu cảnh vô cùng khổ não. Vì phải trải qua cuộc chọn lọc hiền còn dữ mất, bởi luật trời căn cứ vào nhân quả mà quyết định, không một nước nào hay người nào thoát lọt được và đến lúc đó sẽ xảy ra nhiều cuộc lạ lùng chưa từng thấy: Nào cảnh thương hải tang điền, nào người già hóa trẻ.
CHÚ THÍCH
CỔ NGỮ:
Lời xưa. Những lời hay ý đẹp của người xưa nói ra để răn đời đã trở thành danh ngôn hoặc sấm ký. Như lời của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Đức Phật Thầy Tây An... Đức Giáo Chủ PGHH thường nhắc nhở:
“Lời xưa người cổ còn ghi…”.( Q.1) Hoặc là: “Lấy lời xưa kết lại ít tờ”.( Q.5)
HẰNG GHI: Thường ghi chép lưu lại trên Kinh sách.
THẬM KHỔ ĐA: Thậm là rất; Khổ là khổ sở đau đớn; Đa là nhiều, rất nhiều. Ý nói sắp tới đây cuộc khổ não sẽ xảy ra cho dân chúng rất nhiều, không kể xiết.
TẬN DIỆT NHƠN GIAN: Tận là dứt hết; Diệt là chẳng còn; Nhơn là người; Gian là không gian và thời gian, tức cõi trần gian chúng sanh đang ở. Ý nói theo chu kỳ của luật tuần hoàn và lý tam ngươn thì con người và cõi trần gian nầy, chỉ sống một thời gian nào đó rồi phải bị tận diệt để lập lại cuộc đời khác:
“Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắc chiu,
Nay tận diệt lập đời trở lại.
Khắp lê thứ biến di thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thượng Ngươn”. ( Q.2)
TRỰC TIÊN KHOA: Trực là ngay thẳng; Tiên là trước; Khoa là thứ bực hoặc màn lớp. Ý nói khởi đầu cuộc đổi đời từ Hạ ngươn sang Thượng ngươn thì màn chọn lọc hiền còn dữ mất, tốt còn xấu mất, là trước hết.
LÃO GIẢ HẬU QUI NHƠN ẤU GIẢ: Sau cuộc lập đời những người già sẽ trở lại trẻ. Đức Giáo Chủ PGHH từng cho biết:
“Chừng bảy núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi !”
(Đáp họa Ô. Lương Văn Tốt)
Hoặc: “Chừng lập hội thì già hóa trẻ,
Khắp hoàn cầu đổi xác thay hồn”. ( Q.2)

LY KỲ: Việc lạ lùng, khác thường khó suy đoán được, nhưng lại có xảy ra đúng như vậy:
“Sau đây nhiều chuyện ly kỳ,
Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi !”. ( Q.3)

THIÊN ĐỊNH: Trời đất đã định sẵn, không sai chạy được. Cũng hiểu như chữ luật trời, tức luật nhân quả. Trong bài “Thiên Lý Ca”, Đức Giáo Chủ đã cho biết:
“Muôn thu Thiên định nhứt kỳ,
Hạ ngươn sắc lịnh khai kỳ Long Hoa”.

DĨ THIÊN LA: Dĩ là dùng lấy; Thiên la là lưới trời, do chữ “thiên la địa võng”. Đức Lão Tử nói: “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt). Ý nói người có tội ác giấu người được chớ không giấu được luật trời đất. Đức Giáo Chủ cũng xác định:
“Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi !”. ( Q.5)
Và: “Cả trời nam lưới bủa thiên la”. (Nang Thơ Cẩm Tú)

CHÁNH VĂN
37. Tây-phương trở gót quá xa đàng,
Thương xót Nam-kỳ lại An Giang.
Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,
40. Yêu đời mê-muội luống bầm gan.
LƯỢC GIẢI :
Đại ý bốn câu trên Đức Giáo Chủ nói rõ tiền kiếp của Ngài đã tu hành chứng đạo và đã có ngôi vị bên Tây Phương Cực Lạc. Nhưng vì lòng thương xót chúng sanh nên Ngài trở lại khai hóa đạo mầu tại Thánh Địa Hòa Hảo, thuộc tỉnh An Giang. Ngài cũng nhận xét nhân sanh còn mải mê say cảnh đời ảo mộng, chưa chịu thức tỉnh tu hành, khiến Ngài đau xót cả tim gan.
CHÚ THÍCH :
TÂY PHƯƠNG: Hướng Tây. Đây chỉ cho cõi Cực Lạc. Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có giới thiệu: Cách đây mười muôn ức cõi Phật về hướng Tây, có một quốc độ tên là Cực lạc, do Đức Phật A Di Đà làm Giáo chủ, cõi nầy hoàn toàn thanh tịnh an vui, không còn khổ não như cõi Ta bà chúng sanh đang ở. Nên gọi đó là Cực lạc và cũng có tên là Tịnh độ (tịnh thổ). Đức Giáo Chủ có viết:
“Tây phương Cực lạc Khùng ngồi tòa sen”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)

Hoặc là:
“Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã,
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn”. ( Q.5)

NAM KỲ: Miền Nam nước Việt Nam. Khi người Pháp thống trị nước Việt Nam họ phân chia nước ta làm ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Thời tự chủ (nhà Nguyễn) “Nam kỳ” gồm có sáu tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang và Hà Tiên. Thời Pháp thuộc Nam kỳ chia nhỏ ra 20 tỉnh.
AN GIANG: Nguyên khởi thời nhà Nguyễn là tỉnh An Giang, qua thời Pháp thuộc chia làm hai: Long Xuyên và Châu Đốc. Đến 1956 sát nhập lại thành một (tỉnh An Giang), tới năm 1964 lại tách ra làm tỉnh Châu Đốc, còn lại phân nửa giữ tên An Giang như trước, cho đến bây giờ cũng sát nhập, lấy tên y như cũ (An Giang). An Giang được xem là “Thánh địa PGHH”, nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng nền Đạo.
Sấm thi Bửu Sơn Kỳ Hương có hai câu tiên tri:
“Sài Gòn mất, Gia Định còn,
Châu Đốc mất trước tiếng còn An Giang”. (Kim Cổ Kỳ Quan của Ô. Ba Thới)

MÊ MUỘI: Không sáng suốt, chỉ cho số người còn sống theo vô minh dục vọng. Đức Giáo Chủ có nhận xét:
“Thấy đời mê muội lầm than,
Ăn bạ nói càn tội lỗi chỉn ghê”.( Q.1)

CHÁNH VĂN
41. Thiên-Trước tòa sen có chỗ ngồi,
Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi.
Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả dối,
Xá phướn tăng-sư tạo việc tồi.
Thiên-cơ thế giới đà biến chuyển,
Từ rày trần hạ lợi danh trôi,
Tu hành giả dối khuyên khá đổi,
48. Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi”.
(Hòa Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão)

LƯỢC GIẢI :
Đoạn kết của bài “Lộ Chút Cơ Huyền”, Đức Thầy cho biết lúc chưa lâm phàm độ thế, Ngài đã có sẵn ngôi vị bên cõi Cực Lạc chẳng màng đến quyền tước vị danh nơi trần tục. Song vì lòng từ bi thấy số người tu chẳng đúng theo chánh pháp vô vi của đạo Phật, mãi chạy theo hình tướng dị đoan gây tạo danh lợi ảo huyền.
Cơ trời đã biến chuyển những gì hình thức hư dối điều tan biến theo định luật thành, trụ, hoại, không. Ngài khuyên khắp các giới tu hành hãy sớm bãi bỏ những hình tướng hư dối ấy. Trong sách (?) Tỉnh Thế Ngộ Chơn có câu:
“Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo,
Chân truyền cụ thất Đạo nan thành”.
(Nếu hành giả còn dùng sắc tướng thinh âm là người còn ngoại đạo, vì đã thất chân truyền nên đạo quả ắt khó thành).
CHÚ THÍCH :
THIÊN TRƯỚC: Cũng đọc là Thiên Trúc hay gọi là Tây Thiên Trước. Bởi nơi ấy có Phật giáng sanh và phát xuất đạo Phật, từ đó người tu Phật cũng gọi như vậy. Nhưng chữ Thiên Trước còn có nghĩa rộng là chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc (An Dưỡng Quốc) của Đức Phật A Di Đà. Trong Kệ Dân (Q.2) Đức Thầy có cho biết”
“Cảnh Thiên truớc thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần”.
Và:
“Cảnh Tây thiên báu ngọc đầy lầu,
Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng”. (Q.2)
TÒA SEN: Nghĩa của chữ Liên Hoa, dành cho người tu khi chứng quả được an tọa trên đó. Vì hoa sen tượng trưng cho sự trong sạch (cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê) ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt, lúc nào cũng tự tại vô ngại. Các Ngài tâm đức đã viên mãn giờ trở lại trần gian cứu độ chúng sanh mà tâm không hề ô nhiễm trong lưới mê trần trược.
Ở đây chỉ cho Đức Giáo Chủ PGHH đã thành Đạo trong nhiều tiền kiếp, nay vì lòng từ bi và có bản nguyện độ tận chúng sanh nên Ngài mới nhập thế cứu đời như Ngài từng thốt:
“Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng”. ( Q.5)
SÁU TỈNH: Do chữ “Nam kỳ lục tỉnh”. Nước Việt
Nam vào thời cựu trào nhà Nguyễn, miền Nam có sáu tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang và Hà Tiên qua thời Pháp thuộc mới chia thành 20 tỉnh.
XÁ PHƯỚN: Viết cho đủ là xá phướn lầu kho, giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo. Những vật nầy do các thầy nhưn bông làm ra để khi có các cuộc tang ma, làm tuần, cầu siêu, đem đốt cho người chết xuống cõi âm phủ xài được và xá hạc xá ngựa đó sẽ mang phướn sớ ấy đến Trời Phật được. Đúng là việc lạ lùng mê tín dị đoan nên Đức Giáo Chủ giác tỉnh họ:
“Xá với phướn là trò kỳ quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian,
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn.
Thấy lạc lầm đây động lòng son,
Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ”. ( Q.2)
TĂNG SƯ: Các thầy tu theo đạo Phật mang hình thức xuất gia cư trú các nơi: Chùa am, thiền viện đạo tràng…Song tăng sư có hai hạng:
1.-Hạng do tu học giáo lý, nghiên cứu kinh điển, tu hành đúng theo chơn lý và giáo hóa chúng sanh, đó là hạng tăng sư chơn chánh.
2.-Số tăng sư chuyên đi làm đám, bày các vật lễ cúng tế, như xá phướn lầu kho giấy tiền vàng bạc cầu cúng khiến cho chư thiện tín lạc vào mê tín và u tối thêm. Đó là hạng tăng sư hành động sai chơn lý của đạo Phật.
TẠO VIỆC TỒI: Làm những việc mê tín dị đoan, không đúng chơn lý và qui điều của Phật Tổ đã dạy khiến kẻ ngoại đạo chê bai làm mất phẩm giá của tăng đồ.
TRAI ĐÀN: Do Phạn ngữ Dâna (Scr.), phiên âm Đàn-na, có nghĩa cúng dường Tam Bảo và bố thí. Thuở xưa, các Phật tử hay môn đồ nhà Phật thường tổ chức trai- đàn; vua quan, trưởng giả, những nhà hảo tâm hùn của tiền, lúa gạo, thuốc men, y thực để cúng dường Đức Phật và chúng tăng cũng như bố thí cho dân nghèo cơm áo, vật dụng, thuốc men, nhà ở, v.v…Đồng thời thỉnh các tăng sư, trí thức thuyết pháp cho đại chúng nghe để họ sớm thoát cảnh khổ đau sanh tử. Đó là đúng ý nghĩa của cuộc trai đàn, nên làm.
Về sau, các cuộc trai đàn bị lệch lạc rất nhiều. Họ bày ra lễ vật cầu cúng đượm mùi mê tín như đã giải trên…Trai tăng thì có, nhưng phần bố thí chỉ tượng trưng chiếu lệ. Ban tổ chức làm ít cổ bánh và một số tiền kẽm xỏ vào cây hương, tới giờ cúng các cô hồn (xô giàng) phóng ra cho các trẻ em giành giựt, còn bao nhiêu thì dành lại làm của riêng.
Theo Đức Giáo Chủ PGHH thời này, chẳng phải muốn phá lệ mà chỉ khuyên các tăng sư nên sửa đổi cải bỏ cách cầu cúng làm chay không đúng ý nghĩa hai chữ trai đàn trong giáo lý nhà Phật.

Bài 2. CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHE ( SẤM GIẢNG THI VĂN TB 2004, tr. 223 )

CHÁNH VĂN
1. Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu sanh du lịch lục châu giang.
Kim Sơn thương mãi toàn lê thứ,
4. Thức tỉnh bá gia giấc mộng tràng.
(Hòa Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão)

XUẤT XỨ: Bấy giờ khoảng đầu tháng 7 năm Kỷ Mão (1939), trong gia đình Đức Ông bị mất một chiếc ghe nhỏ mình lườn, hai chèo. (Thời đó người ta dùng cây súc lớn bằng sao hoặc sến, cắt vừa tầm thước rồi đục khoét trong ruột để chèo đi. Nhỏ thì kêu ghe lườn, đóng cặp thêm đôi be gọi là ghe cà-vom). Đức Ông cho người nhà theo dò kiếm mấy ngày vẫn chưa được. Thấy Đức Ông lo lắng, Đức Thầy liền viết bài thi tứ cú nói trên, đọc cho Đức Ông nghe và bảo:“Ông Cả tìm mấy ông lão thông chữ Nho bàn thử”.
LƯỢC GIẢI :
Đại ý bốn câu thi trên Đức Giáo Chủ cho Đức Ông, thân sinh của Ngài biết lý do chiếc ghe nhỏ của Đức Ông bị mất, khó mà tìm ra mau được. Vì Ngài cùng một đệ tử đã mượn đi ngao du khắp sáu tỉnh miền Nam. Khi thì giả ra người mua bán, lúc lại giả kẻ chèo đò, ăn xin v.v…khắp đó đây để thức tỉnh bá gia sớm giác ngộ tu hành:
“Lục châu ta dạo bằng nay,
Khuyên trong lê thứ ngày rày tỉnh tâm”.( Q.1)

CHÚ THÍCH :
ĐỨC ÔNG: Thân phụ của Đức Thầy, tên thật là Huỳnh Công Bộ, lúc đó đang làm chức Hương Cả trong Ban Hội Tề làng Hòa Hảo.
LY GIA: Lìa khỏi nhà. Ý chỉ chiếc ghe Đức Ông đang cặm bến bỗng nhiên bị mất.
VỊ TẤT NAN: Khó mà biết hoặc chưa giải bày cho biết và cũng chưa tìm bây giờ được.
BỬU SANH: Bửu là báu quý. Sanh là sống trở lại. Riêng chữ Bửu là danh hiệu của vị Giáo Tổ Bửu Sơn Kỳ Hương, tức là Đức Phật Thầy Tây An và cũng là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Gọi tắt là Đức Thầy Bửu Sơn.
Trong Sấm Giảng quyển Nhứt, Đức Giáo Chủ có tường thuật lúc Ngài hành đạo nơi vùng núi báu, được gặp Đức Thầy Bửu Sơn truyền cho pháp diệu;
“Nhờ trời may mắn một khi,
Thẩn thơ lại gặp Đức Thầy Bửu Sơn.
Cúi đầu Điên tỏ nguồn cơn,
Động lòng bác ái ra ơn dạy truyền.
Thấy Điên tâm tánh quá thiềng,
Nội trong sáu khắc biết liền thiên cơ”.
DU LỊCH: Đi ngao du đó đây để xem phong cảnh và nhơn tình dân chúng.
LỤC CHÂU: Cũng như từ Lục tỉnh, tức sáu tỉnh Nam phần Việt Nam. Vào thời nhà Nguyễn, vua Gia Long chia làm 6 trấn: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang, Hà Tiên. Đến năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng đổi sáu trấn ra sáu tỉnh, tức là sáu châu. Đến thời Pháp thuộc, sáu châu được chia làm 20 tỉnh, rồi 21 tỉnh, tức thêm tỉnh Vũng Tàu, trước đó thuộc Bà Rịa. Danh từ “dạo lục châu” được Đức Giáo Chủ đề cập nhiều lần trong Sấm Giảng Thi Văn của Ngài:
“Khắp sáu châu nức tiếng người đồn”.(Sa Đéc) Hay là:
“Lục châu chưa giáp mà lòng ủ ê”.( Q.1)

KIM SƠN: (Xem lại CT tại tr. 21).
THƯƠNG MÃI: Mua bán. Lúc Đức Thầy đi dạo lục châu, Ngài thường giả ra kẻ mua bán, ăn xin chèo đò…
LÊ THỨ: Lê là đen; thứ là đông, nhiều. Cũng có
nghĩa như chữ lê dân (dân đen). Chỉ cho tất cả nhân dân. Ví dụ: Khắp lê thứ hay trong lê thứ.
THỨC TỈNH: Tỉnh thức kẻ còn mê để họ sớm biết tu hành theo lẽ phải:
“Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ”. ( Q.5)
GIẤC MỘNG TRÀNG: (Xem lại CT tại tr. 10 )
Bài 3. MẶC TÌNH AI ( SGTVTB 2004, tr. 223-224 )
XUẤT XỨ: Khoảng hạ tuần tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) Đức Giáo Chủ mới khai Đạo độ đời; bây giờ có nhiều người ở chung quanh thấy Ngài còn nhỏ tuổi mà đứng ra làm công việc lớn lao, vừa thuyết giảng viết kinh, vừa trị bịnh độ đời, nên họ đâm ra ghét ghen đố kỵ, tìm đủ lời chê bai châm chích.Bao tiếng thị phi ấy lúc nào Đức Giáo Chủ cũng gác để ngoài tai, ung dung tự tại chỉ một lòng lo độ tận nhơn sanh.
Hôm ấy Ngài vừa sáng tác vừa ngâm lên bài thi gồm 3 đọan với nhan đề “Mặc Tình Ai”.
CHỦ ĐÍCH: Ngài khuyên bá tánh vạn dân hãy kiên nhẫn tu hành và lo rèn chí lập thân. Vì chỉ có thời gian độc nhất nầy rất thuận lợi cho chúng ta tu thân hành đạo để sau nầy được toại hưởng điều quý báu.
CHÁNH VĂN
I. 1. Bá-gia mặn lạt mặc tình ai,
Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày.
Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi,
Ai người tâm đạo nghĩ càng hay;
5. Ai người thích đạo thấy chàng ray.
LƯỢC GIẢI :
Lúc Đức Thầy mở cơ phổ hóa có nhiều người bàn ra tán vào, nhạo chê đủ cách, nhưng lòng Ngài không màng kể. Bởi họ chỉ đứng xa bên ngoài nhìn vào sự tướng nên thấy Ngài chỉ là một thanh niên ít học như bao nhiêu thường dân khác. Chỉ có những người tâm đạo mới nhận ra Ngài đã đầy lòng từ bi độ chúng và càng nghĩ càng thấy cái đạo rất cao thâm mầu diệu. Còn những kẻ không thích Đạo (bỏ đạo) họ xem cái đạo như là một chướng ngại vật (chàng-ray) cản trở bước tiến của họ, thảo nào họ chẳng bình phẩm phiến diện.
CHÚ THÍCH :
BÁ GIA: Trăm nhà, ý chỉ chung tất cả dân chúng. “Nhứt gia hữu sự, bá gia ưu”. (Tục ngữ)
MẶN LẠT: Vị mặn và vị lạt. Nghĩa bóng là chê khen, thương ghét, kẻ nói vầy người nói khác. Đức Thầy có câu:
“Mặc tình ai nói thiệt hơn,
Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời”.
(Bài Để Chơn Đất Bắc)

MẶC TÌNH: Mặc kệ, tùy ý ai nói sao thì nói, chê khen gì cũng mặc:
“Kể chi miệng mối lưỡi lằn,
Mặc tình thế sự kêu thằng hay ông”.
(Bài Cây Đuốc Huệ)
TÂM ĐẠO: Trong lòng hàm chứa những điều đạo đức tốt lành, hợp với đạo lý. Ví dụ: Người có tâm đạo:
“Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy”.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
THÍCH ĐẠO: Bỏ đạo, không ưa đạo. Do câu:
“Chánh kỷ dĩ giáo nhơn giả thuận, thích kỷ dĩ giáo nhơn giả nghịch”(Có nghĩa: Biết tu sửa cho mình được chánh đúng với đạo rồi đem dạy đời, ấy là thuận vậy. Bằng bỏ mình không lo tu hành, đi dạy đời là lẽ nghịch vậy).
CHÀNG RAY: Chàng ràng cản trở như vật chướng ngại. Ý nói người “thích đạo” (bỏ đạo) thì họ coi cái đạo là một chướng ngại vật đối với họ.
CHÁNH VĂN
II. 6. Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,
Mặc sức dương-trần chữ đắng cay.
Có báu thì ta dành của báu,
9. Ai tầm cho giỏi mới được hay.
LƯỢC GIẢI :
Trong thời Pháp thuộc, chánh sách người Pháp quá gắt gao đối với các Đạo giáo nên Đức Giáo Chủ dạy các môn đồ phương cách tu hành là phải âm thầm kín đáo, không nên phô trương hình thức và dù cho người đời có chê bai gièm siễm cũng mặc:
“Mặc tình ai nói thiệt hơn,
Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời”.
(Bài Để Chơn Đất Bắc)

Mỗi hành giả phải xét biết cái đạo quí giá vô cùng, vàng ngọc cũng không sánh được. Cũng như chỉ có chơn tâm mới là thật, là trường tồn vĩnh cửu. Vậy mỗi người phải nên theo dõi mà gìn giữ tu sửa tâm tánh tất tương lai sẽ đạt thành đạo quả (thấy được chơn tâm).
CHÚ THÍCH :
THẦM THẦM TỐI TỐI: Thầm là ngầm; tối là kín đáo, không phô trương cổ võ bằng hình thức bên ngoài. Giảng xưa có câu:
“Niệm Phật thì niệm âm thầm,
Niệm lớn nhiều kẻ giận bầm lá gan”.
(Kim Cổ Kỳ Quan)
Còn Đức Thầy thì cho biết:
“Dân tình xài xể dập bầm,
Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh.
Xác trần ta mở oai thinh,
Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay”.
DƯƠNG TRẦN: Dương là cõi đời.Ý chỉ mọi người trong thế gian.
CHỮ ĐẮNG CAY: Lời lẽ chê bai châm chít. Trong thời gian Đức Giáo Chủ mới khai Đạo, có nhiều người dùng đủ lời đắng cay nặng nhẹ, gièm siễm chê bai, nhưng Ngài vẫn nhẫn nhịn, miễn sao giúp được số người giác tỉnh tu hành là Ngài an lòng:
“Cay đắng siễm gièm thân lão chịu,
Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông”.
Hoặc là:
“Thấy ta lại nói cay nói đắng,
Đắng với cay ta cũng chẳng màng”. ( Q.4)

CỦA BÁU: Trong đời có hai vật quí báu: Một, ở thế gian là vàng bạc ngọc ngà châu báu tiền của, hai, xuất thế gian thì có đạo tâm và Phật tánh…
Của báu ở đây Đức Thầy ám chỉ đạo tâm và Phật tánh của mỗi người. Hành giả phải dùng trí đạo mà gìn giữ không để mất. Bởi lẽ vàng bạc của cải bị mất, ta có thể tạo ra được, còn tâm tánh bị mất đi rồi muôn kiếp khó tìm, vì phải luân hồi sanh tử.
“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
(Cho Ô. Cò Tàu Hảo)

CHÁNH VĂN
III. 10. Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,
Có một hội nầy rán lập thân.
Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,
13. Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.
LƯỢC GIẢI :
Lòng Đức Giáo Chủ lúc nào cũng lo tìm cách giác tỉnh người đời sớm tỉnh ngộ quày đầu hướng thiện, dù ai có chê bai gièm siễm cũng mặc. Ngài kêu gọi khắp vạn dân hãy lo lập thân hành đạo, vì chỉ có cơ hội nầy là duy nhứt. Nếu ta không tinh tấn tu hành ắt phải huốt đi cơ hội may mắn , Đức Thầy thường thúc giục:
“Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng”. ( Q.2)

CHÚ THÍCH :
LẬP THÂN: Tự lập thân mình. Đã mang thân con người thì phải lo tu tập cho nên danh phận với đời. Sách Thánh có câu: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế dĩ hiển kỳ phụ mẫu hiếu chi chung giả”. Đức Thầy luôn nhắc nhở môn đồ:
“Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.
TRỄ CHẦY: Chậm muộn chần chờ giải đãi, không kịp với thời gian cơ hội, Đức Thầy luôn kêu gọi:
“Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng”.
KHUYA SỚM: Cũng gọi là sớm khuya. Khuya là từ 3 giờ đêm tới 6 giờ sáng, sớm là từ 6 giờ sáng tới 8 hay 9 giờ tối. Cũng có nghĩa là sáng và chiều, hoặc ngày và đêm. Chữ sớm khuya ở đây là chỉ cho hai thời lễ bái và niệm Phật của mỗi tín đồ PGHH. Đức Giáo Chủ từng dạy:
“Gắng công trì niệm sớm khuya”( Q.5). Hoặc:
 “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.( Q.4)
CẦN CHUYÊN: Cần là siêng năng không biếng trễ hay trù trừ lần lựa; Chuyên là chuyên nhứt làm một việc. Ví dụ: Chuyên nghiên cứu kinh sách, chuyên làm việc xã hội, chuyên tâm hành đạo. Vậy cần chuyên là siêng năng và nhứt tâm thi hành một việc mà lòng mình đã quyết định. Đức Thầy từng dạy”
“Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề”.
(Bài Để Chơn Đất Bắc)

Bài 3.- BÁNH MÌ
(SGTVTB 2004, tr.224)
XUẤT XỨ: Khoảng thượng tuần tháng 6 năm Kỷ Mão (1939), một sáng sớm, Đức Thầy đến thăm gia đình ông Nguyễn Duy Hinh, cách phía dưới Tổ Đình độ 300m. Gia đình ông Hinh có bà con với Ngài. Bấy giờ phía ngoài đường lộ có tiếng người rao bán bánh mì đi ngang. Tiếng rao nghe thảnh thót lọt vào tai mọi người. Đức Thầy liền tức cảnh viết hai bài thi: Một bài bát cú và một bài tứ cú.
Chủ đích là Ngài nói lên tinh thần thương yêu nước non nòi giống.
NỘI DUNG : Đại ý Đức Thầy mượn đề tài bánh mì để phê bình nền văn minh vật chất của Âu Tây. Họ chỉ tô vẽ cái nét đẹp hào nhoáng bên ngoài, chớ thực chất là thống trị dân tộc ta, khiến phải mất quyền tự chủ trên 70 năm qua.
CHÁNH VĂN
I. Mì kia gốc phải nước mình không ?
Nghe thấy rao mì thốt động lòng.
Chiếc bánh não-nùng mùi khách lạ,
Bát cơm đau đớn máu cha ông.
Văn-minh những vỏ trưng ba mặt,
Thấm-thía tim gan ứa mấy giòng.
Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,
. Say mì lắm kẻ bán non sông.
LƯỢC GIẢI :
Đại ý tám câu thi trên, khi Đức Thầy nghe tiếng người rao bánh mì mà kích động từ tâm: Đau xót cho dân tộc ta vì ham thích những gì mới lạ của ngoại bang mà vội quên đi tinh thần đạo đức cổ truyền.
Bấy lâu vì quá mê nhiễm nền văn minh vật chất mà nhiều người cam tâm làm tay sai cho giặc Pháp, khiến dân tộc ta bị họ thống trị gần thế kỷ nay.
CHÚ THÍCH :
MÌ: Tức là bánh mì, một thứ bánh làm bằng bột mì, do lúa mì xay ra, gốc từ Âu Tây sản xuất. Nghĩa bóng: Chỉ cho các vật liệu văn minh của người Pháp.
NÃO NÙNG: Cũng gọi là não nồng, hay não nề buồn bã áo não lắm: “Áo não tâm can cảnh mộng sầu”. Và : “Thấy bá gia gặp lúc não nùng”.( Q.4)
VĂN MINH: Văn là văn vẻ; minh là sáng sủa. Tức là cái văn vẻ sắc thái sáng sủa. Lối sinh hoạt của loài người khi đã tiến xa khỏi thời kỳ dã man và khi đã khai hóa đến chỗ sáng sủa. Nhưng chữ văn minh ở đây là chỉ cho số người học đòi theo nếp sống mới của Âu Tây:
“Văn minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi”. (Q.3) Hoặc là:
“Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
Nghiệp tổ tiên con cháu cứ vày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.
(Trao Lời Cùng Ô. Táo)

TRƯNG BA MẶT: Nền văn minh của Âu Tây quá chú trọng về vật chất, họ chỉ trưng bày ba mặt bên ngoài là: khoa học, kinh tế và cơ khí; nhưng còn mặt bên trong là tinh thần đạo đức. Bởi thiếu mặt đạo đức làm nòng cốt nên họ dễ đưa nhơn loại đi đến họa diệt vong.
BẢY MƯƠI NĂM TRỞ NGƯỢC: Tính từ Hiệp ước 1862 là năm quân đội Pháp chiếm ba tỉnh miền đông Nam Việt, rồi lấy luôn Nam kỳ lục tỉnh, tới năm 1939 là 77 năm.
SAY MÌ: Mê thích bánh mì. Ý chỉ sự mê đắm, say nghiện nền văn minh vật chất của Pháp.
NON SÔNG: Cũng gọi là núi sông. Nghĩa của chữ giang sơn. Bán non sông là bán nước.
CHÁNH VĂN
II. Khải hoàn dân chúng mới nhàn an,
Dân mảng còn mê giấc mộng tràng.
Thảm-thê thế sự mùi cay đắng,
Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang.
LƯỢC GIẢI :
Một quốc gia khi bị mất quyền tự chủ, dân chúng phải chịu cảnh điêu linh, đói đau giặc loạn, thật là thảm khổ vô ngần. Cho đến khi nào đất nước được phục hồi, dân chúng mới toại hưởng cảnh thái bình an lạc.
Muốn được vậy, Đức Thầy kêu gọi mọi người sớm tỉnh cơn mộng huyễn, hướng thiện tu hành để thoát ly cảnh khổ. Bấy giờ, Ngài rất đau lòng khi thấy dân chúng nước ta còn bị người Pháp đô hộ.

Bài 5. Ông LƯƠNG VĂN TỐT hỏi ĐỨC THẦY họa (SẤM GIẢNG THI VĂN GIÁO LÝ 2004, tr. 225-226 )

Ông Lương Văn Tốt là một cụ đồ ở kinh Đồng Tân, xã Mỹ Hội Đông (Long Xuyên). Tuy là một nho gia nhưng ông rất hâm mộ Phật pháp, nên có làm bài thi tứ cú đến chất vấn Đức Huỳnh Giáo Chủ. Hôm ấy khoảng cuối tháng 6 năm Kỷ Mão (1939).
Đây là bài thi ông Tốt hỏi:
CHÁNH VĂN
Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh,
Xin ông phân cạn chúng nghe rành.
Ba ngàn thế-giới ai là chủ ?
Mở lượng từ-bi dạy chúng sanh .
LƯỢC Ý: Đại lược bài thi trên, ông Tốt muốn tỏ ý rằng ông là người rất hâm mộ đạo đức, nhưng chưa biết danh hiệu của Đức Thầy. Ông muốn hỏi khắp “ba ngàn thế giới” ai là chủ và xin Đức Thầy mở lòng từ bi giải bày cho ông và bá tánh được rõ.
Đức Giáo Chủ liền rút viết họa đáp bài thi trên và hỏi lại một bài tứ cú. Còn tặng thêm ông Tốt một đoạn giảng song thất lục bát biến thể, dài 26 câu.
Đây là bài thi Đức Thầy đáp họa:
CHÁNH VĂN
Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh,
Ngặt vì pháp-luật khó phân rành.
Càn-khôn muốn biết ai là chủ,
Tu hành theo dõi đến mây xanh.
LƯỢC GIẢI :
Nội dung bốn câu thi trên, Đức Giáo Chủ cho ông Tốt biết: Ngài vưng lịnh Đức Thế Tôn, tức Đức Phật Thích Ca khai hóa đạo mầu, song chưa nói rõ danh hiệu, vì trong thời Pháp thuộc, người Pháp dùng chánh sách bạo tàn đàn áp các tôn giáo nên Ngài chưa thể nói rõ danh tánh. Vậy ông muốn biết ai là chủ trong trời đất, hãy rán tu hành cho thấu đạt lý chơn không, tức là cái chơn tâm diệu minh (không mà chẳng không của mình). Bởi nếu người còn đứng ngoài ngưỡng cửa của đạo thì dù có được giải bày thế nào, cũng không thấu hiểu được.
Bài thi Đức Thầy hỏi lại ông Tốt:
CHÁNH VĂN
Vì sao thế-giới lại ba ngàn ?
Học đã rành chưa đến hỏi han ?
Đã lãm nho văn thì phải đối,
Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang.
LƯỢC GIẢI :
Bài thi trước Đức Thầy chỉ giải đáp ẩn ý. Bài thi nầy Ngài hỏi vặn lại: “Vì sao gọi thế giới lại ba ngàn?” Nếu ông là người thông suốt nho văn, hãy đáp thử xem. Nếu ông Tốt giải bày đúng đắn hoàn toàn, tất được thấy cảnh Phật Tiên trước mắt.
CHÚ THÍCH :
BA NGÀN THẾ GIỚI: Theo Phật học, đây là nghĩa của câu “Tam thiên đại thiên thế giới” tức là một Thế giới lớn, như thế giới Ta bà .
- Một Tiểu thiên thế giới gồm 1.000 thế giới nhỏ;
- Một ngàn Tiểu thiên thế giới hiệp lại là một
Trung thiên thế giới (gồm 1.000.000 nhỏ);
- Một ngàn Trung thiên thế giới hiệp lại là một Đại thiên thế giới (1.000.000.000 thế giới nhỏ).
Thế thì một “Tam thiên đại thiên thế giới”, hay là một “Đại thiên thế giới” gồm có 1 tỷ thế giới nhỏ.
Để rõ hơn khái niệm nầy, xin ghi chép tóm lược như sau:
Một thế giới gồm có: 1 núi Tu Di, 1 mặt trời, 1 mặt trăng, 1 tứ châu thiên hạ ở chung quanh núi Tu Di (Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiện Bộ Châu, Bắc Cu Lư Châu) và nhiều cõi trời. Trái đất chúng ta ở thuộc Nam Thiện Bộ Châu. Trái đất gồm có 5 châu nhỏ là: Á Châu, Âu Châu, Mỹ Châu, Phi Châu, Úc Châu. Nước Việt Nam thuộc Á Châu.
Bên trên chúng ta còn có các cõi trời thuộc tam giới: Dục Giới (Kâmavacara), Sắc Giới (Rupâvacara) và Vô Sắc Giới (Arupâvacara). Tạm ghi như sau:
A.- DỤC GIỚI: Dục giới nói chung là cảnh giới của các chúng sanh còn ưa thích ngũ dục: sắc, thinh, hương, vị, xúc. Cảnh giới nầy bao gồm cả lục đạo: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, Nhơn, A-tu-la, Thiên. Riêng về Dục-giới thiên (còn có tên là Lục-dục thiên) thì gồm có 6 tầng trời. Chư thiên (tiên) trong 6 tầng trời nầy vừa hưởng phước lạc về ngũ dục vừa trông nom các chúng sanh trong các cõi A- tu-la, Nhơn và địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Các ngài ủng hộ nền đạo lý, xem xét thế gian, che chở người hiền đức tu hành khỏi bị bọn hung thần phá hại. Đặc biệt, tại cung Trời Đâu Suất có Đức Di-Lặc Bồ-Tát thường giáo hóa chư tiên. Sáu từng Trời Dục giới gồm có:
1&2.Tứ-thiên vương và Đao-lợi thiên: chúng sanh ở cõi nầy hành dâm như con người trên trái đất.
3. Dạ-ma thiên: hành dâm qua sự bồng bế nhau.
4. Đâu-suất thiên: hành dâm qua sự nắm tay nhau.
5. Hóa-lạc thiên: hành dâm bằng quây mặt nhìn nhau cười.
6. Tha-hóa Tự-tại thiên: hành dâm bằng cách ngó liếc nhau.
B..-SẮC GIỚI: Ở cõi Trời nầy chúng sanh (chư thiên) không còn ham muốn ngũ dục nhưng còn hình thể. Đây là cõi của chư Tiên chư Thánh tu hành đắc quả từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Các ngài có thân chánh báo tốt đẹp, có cung điện nguy nga tráng lệ. Cõi Trời Sắc giới có 20 từng do Đức Phạm Thiên Vương cai quản. Hai mươi từng Trời Sắc giới gồm 5 lãnh vực sau đây:
Sơ thiền thiên: Có 4 từng: 1.Phạm-thân thiên, 2. Phạm-chúng thiên, 3. Phạm-phụ thiên, 4. Đại-phạm thiên
Nhị thiền thiên: Có 3 từng: 1.Thiều-quang thiên, 2.
Vô-lượng-quang thiên ,3. Quang-âm thiên.
Tam thiền thiên: Có 3 từng: 1. Thiểu-tịnh thiên. 2.
Vô-lượng-tịnh thiên, 3. Biến-tịnh thiên.
Tứ thiền thiên: Có 3 từng: 1.Vô-vân thiên, 2.
Phước-sanh thiên, 3. Quảng-quả thiên.
Tịnh phạm địa thiên: Có 7 từng: 1.Vô-tưởng thiên,
2. Vô-phiền thiên, 3. Vô-nhiệt thiên, 4. Thiện-kiến thiên,
5. Sắc cứu-cánh thiên, 6. Hòa-âm thiên, 7. Đại tự-tại thiên.
C.-VÔ SẮC GIỚI : Đây là cõi Trời cao hơn hết.
Các đại tiên ở cõi nầy không còn giữ sắc tướng, không có vật chất, thân thể, quốc độ. Các ngài chỉ còn giữ cái tâm thức (thọ, tưởng, hành, thức) mà thôi. Các ngài trụ trong sự thiền định thâm diệu. Do đó, cõi nầy còn có tên là Tứ- Không thiên. Cõi trời Vô-sắc giới có 4 từng: 1. Không Vô- biên xứ, 2.Thức Vô-biên xứ, 3. Vô Sở-hữu xứ, 4. Phi- tưởng Phi phi-tưởng xứ.
PHẬT THẾ TÔN: Tức là Đức Thế Tôn. Ý chỉ bậc tu hành đã hoàn toàn giác ngộ, được mọi người trong thế gian và cả tam giới đều kính trọng tôn quí nên tôn xưng Ngài là Đức Thế Tôn hay Phật Thế Tôn. Đây là chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni, do công năng hạnh đức tu hành và cứu độ vạn loại chúng sanh mà cả thế gian tôn xưng Ngài có đủ 10 danh hiệu như sau :
1. Như Lai.
2. Ứng Cúng.
3. Chánh Biến Tri.
4. Minh Hạnh Túc.
5. Thiện Thệ.
6. Thế Gian Giải.
7. Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu.
8.. Thiên Nhơn Sư
9.. Phật
10. Thế Tôn.
Ở đây Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo trả lời cho ông Tốt biết, Ngài đã vưng lịnh Đức Thế Tôn lâm phàm khai hóa chúng sanh, chưa nói rõ danh hiệu:
“Lão đây vưng lịnh Phật Tôn,
Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành”.
(Thiên Lý Ca)

TỪ BI: (Xem lại chú thích tại Q. Thượng Tập 1/3, tr. 40 và 198).
CÀN KHÔN: Càn là trời, khôn là đất. Đó là hai quẻ trong bát quái (càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài). Càn khôn ở đây chỉ cho cả thế giới, hay cả vũ trụ vạn hữu. Đức Thầy từng nói:
“Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,
Tây phương yêu chúng chẳng ngồi lâu”.
(Đáp Họa lời Ông Tùng)
ĐẾN MÂY XANH: Tận chân trời hay tận da trời.
Khi gặp trời quang mây tạnh, ta nhìn xa thẩm tận chân trời, chỉ thấy da trời một màu xanh biếc; nhưng dù ai đi mãi cũng không bao giờ tới hay rờ nắm được, vì nó vô hình. Nghĩa bóng là chỉ cái chơn tâm của mình, nó không có hình tướng sắc màu (nên gọi là chơn không) nhưng nó vẫn có và thông suốt vô cùng tận (nên gọi là diệu hữu).
Nếu ai tu hành thấu đạt chơn tâm hoặc lý sắc không mới biết được ai là chủ tể của càn khôn vũ trụ (vạn vật duy tâm tạo). Nên Đức Thầy mới khuyên ông Tốt:
“Càn khôn muốn biết ai là chủ,
Tu hành theo dõi đến mậy xanh”.

NHO VĂN: Cũng gọi là văn nho, tức là văn chương chữ nghĩa của Nho Giáo:
“Văn nho bàn luận nhiều ông lắc đầu”.
(Để Chơn Đất Bắc)
TƯỜNG LÃM: Xem biết rõ mọi việc, từng trải qua, từng hiểu qua, không thiếu sót.
“Chí tâm tường lãm thấp cao,
Dạy cho rõ biết Thiên Tào nơi đâu”.
(Thiên Lý Ca)

TIÊN BANG: Nước Tiên, cõi Tiên. Ý chỉ cõi đời Thượng ngươn thánh đức tới đây. Đức Thầy nói:
“Cửa Tiên Bang hỡi còn khóa cổng”.
(Nang Thơ Cẩm Tú)
“Theo ta đến chốn Tiên bang,
Đặng coi các nước hội hàng năm non”.
(Thiên Lý Ca)

Tiếp đây là đoạn giảng Đức Thầy tặng thêm cho ông Tốt, gồm 26 câu chia làm 5 đoạn, biến thể từ song thất lục bát.
CHÁNH VĂN
1. “Đời văn-vật say mê khổ thảm,
Người nào đà tường lãm nho văn;
Xưa nay mèo-mã lung lăng,
4. Làm cho quên mất Đạo hằng thánh nhơn”.
LƯỢC GIẢI:
Đoạn nầy Đức Thầy nói rõ tâm lý người đời, vì mê say theo nền văn minh vật chất của Âu Tây mà phải đắm nhiễm trụy lạc, vội quên mất nền luân thường đạo lý của thánh hiền chỉ dạy từ xưa, rồi phải chuốc lấy sự thảm khổ về sau.
CHÚ THÍCH :
Văn minh vật chất, trái với văn minh tinh thần. Từ ngày luồng văn minh vật chất của Âu Tây tràn vào xứ ta, họ bày những thói ăn chơi, xa hoa, trụy lạc làm cho dân ta mê say, rồi bỏ hết nề nếp tốt đẹp của ông cha ta từ trước:
“Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
Nghiệp tổ tiên con cháu giày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.
(Trao Lời Cùng Ông Táo)

MÈO MÃ: Xem CT tại Q. Thượng Tập 2/3, tr.209.
ĐẠO HẰNG:Xem lại CT tại Q.Thượng Tập 1/3, tr.230 &280.
THÁNH NHƠN: Cũng gọi là Thánh nhân. Đây chỉ cho Đức Khổng Tử và Mạnh Tử. Những người sáng lập nền Thánh Giáo (Nho).
CHÁNH VĂN
5. “Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh,
Phận làm người thủng-thỉnh sửa sang.
Tay xuống bút nói lang chuyện thế,
Bày Đạo mầu cứu-tế nhơn sanh;
Kìa kìa các bực công khanh,
10. Miễu son tạc để đành rành chẳng sai”.
LƯỢC GIẢI :
Thời nay chúng ta rất may mắn được gặp Đức Giáo Chủ khai Đạo phổ độ nhân sanh. Vậy mỗi người cũng nên sớm thức tỉnh lo tu tròn đạo làm người là điều trước nhất.
Xưa nay các bực Công Hầu Khanh Tướng đều nhờ hành tròn bổn phận, trung hiếu xong đền mà được miễu son tạc để, sách sử nêu ghi.
CHÚ THÍCH :
KẺ CÓ CƠN: Người không bình thường, khi vầy khi khác. Ở đây Đức Thầy tự xưng hay giả dạng để đánh lạc hướng người Pháp:
“Ta Khùng mà chẳng có cơn,
Cũng không có tánh giận hờn bá gia”.
Mà là: “Có cơn giả dạng dắt đời Hạ Ngươn”.

CÔNG KHANH: Các quan chức cao cấp phò trong trào vua thời trước (phong kiến), chia ra có nhiều bực: Công, Hầu, Bá, Tước, Tử, Nam. Văn chương thường dùng công hầu khanh tướng, hay tam công cửu khanh. Nhưng đời nhà Chu (Trung Quốc) dùng chữ Tam công là Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Còn cửu khanh là chín bực: Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo, Trung Tể, Tư Đồ, Tôn Bá, Tư Mã, Tư Khấu và Tư Không. Cung Oán Ngâm Khúc có câu: “Bả công danh lừa gả Công Khanh”. Trong bài “Để Chơn Đất Bắc”, Đức Thầy cũng viết:
“Kìa kìa các bực công khanh,
Miễu son tạc để đành rành chẳng sai”.

CHÁNH VĂN
11. “Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,
Rứt bụi trần bận bịu làm chi.
Làm cho rồi phận tu-mi,
14. Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm-Non”.
LƯỢC GIẢI :
Đức Thầy kêu gọi hàng Nho gia trí thức hãy sớm liệu xét, buông bỏ những gì trần tục, nhuốc nhơ để gìn tròn bổn phận nam nhi quân tử, tức sau nầy sẽ được kiến diện cảnh kỳ diệu tại vùng Năm Non Bảy Núi.
CHÚ THÍCH :
BẬN BỊU: Vướng víu, lòng muốn rứt bỏ nhưng khó xa rời được.
TU MI: Râu mày hay mày râu. Đây chỉ cho hàng nam nhi quân tử:
“Ai là người quân tử tu mi,
Phải sớm sửa thân mình cho vẹn”.
(Kệ Dân, Q.2)

NĂM NON: Xem CT tại Q.Thượng Tập 2/3, tr.80.
CHÁNH VĂN
15. “Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi !
Tu hành ắt được thảnh-thơi,
Lại xem được Phật được Trời báu thay!
Thân hành đạo đắng cay phải chịu,
Phận làm người phải liệu cho xong.
Cần chi gạn hỏi viển-vông,
22. Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi”.
LƯỢC GIẢI :
Đoạn nầy Đức Thầy cho biết trước, chừng nào miền Bảy Núi có đài lầu điện ngọc hiện ra thì người già trở lại trẻ. Hiện giờ nếu ai giác ngộ tu hành, sau nầy sẽ được thong thả an vui và còn kiến diện được Phật Trời trong ngày lập hội
Trên đường tu tiến dầu có gặp cảnh gian nan khổ khó hay bị người đời gièm pha cay đắng mình cũng cố gắng chịu đựng vượt qua, miễn làm sao cho xong cái đạo làm người là tốt. Ngài cũng nói với ông Tốt khỏi cần phải thắc mắc xa vời, nếu đạo người chưa vẹn thì sau nầy ắt khó gặp ngày an vui thư thả.
CHÚ THÍCH :
BẢY NÚI:Xem CT tại Q.Thượng Tập 1/3, tr.106 GIÀ HÓA TRẺ: Theo cơ sấm của Đức Phật Thầy Tây An (Bửu Sơn Kỳ Hương) và của Đức Huỳnh Giáo Chủ (PGHH) thì đến ngày cuối cùng, thời Hạ Ngươn sẽ chuyển thành thời Thượng Nguơn thánh đức. Bấy giờ có cuộc hội của Trời Phật mở cơ chọn lọc, hiền còn dữ mất, người già hóa trẻ. Như Ngài từng cho biết:
“Sau lập hội thì già hóa trẻ,
Khắp hoàn câu đổi xác thay hồn”.
(Kệ Dân, Q.2)
Và: “Lão giả hậu qui nhơn ấu giả”.
(Lộ Chút Cơ Huyền)
THÂN HÀNH ĐẠO: Nói cho đủ là “Lập thân hành đạo”.
ĐẮNG CAY: Cũng gọi là cay đắng. Hai mùi vị trong ngũ vị tân (đắng, cay, chua, mặn, ngọt). Nghĩa bóng là chỉ cho lời nói gắt gỏng, nặng nề, chê bai gièm siểm, làm cho người khó chịu chua xót. Ví dụ: Lời nói cay đắng lắm.
Đức Thầy từng khuyên:
“Chịu cay đắng tu hành mới giỏi,
Ta thương đời len lỏi xuống trần”. (Q.4)
Và:
“Cay đắng siểm gièm thân lão chịu,
Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông”.
(Phòng Vắng Đêm Khuya)

VIỄN VÔNG: Xa xôi, lòng vòng. Ví dụ: Nói xa xôi lòng vòng khó nghe.
CHÁNH VĂN

23. “Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa,
Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong.
Thấy đời trần hạ long-đong,
26. Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia”.
(Hoà Hảo, tháng 6 năm Kỷ Mão)

LƯỢC GIẢI :
Đây là đoạn kết, Đức Thầy tặng ông Lương Văn Tốt. Ngài khuyên ông ít lời vắn tắt để tình nghĩa thầy trò giữ được bền chặt. Điều quan trọng là ráng lo trau sửa cho thân tâm được hiền lành là cao qúy. Sống trong đời chẳng lúc nào yên. Nếu không lo tu hành tinh tấn thì ngày Hội Long Vân tới ắt không dễ gì có mặt.
CHÚ THÍCH :
TÌNH NGHĨA: Cũng gọi là nghĩa tình. Có nghĩa tình cảm và ân nghĩa. Ý chỉ việc cư xử với nhau có ân nghĩa tốt đẹp và đúng đắng.
“Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
Vui lòng cha mẹ mà gìn gia cang”.
(Sám Giảng, Q.3)

LONG ĐONG: Vất vả, nay đây mai đó, nhiều rủi ro và số phận long đong.
TRAU TRỈA: Cũng gọi là trau tria. Trau là giồi mài chải chuốc, đánh bóng. Trỉa là tỉa xén bớt. Chữ trau trỉa ở đây có nghĩa như chữ tu sửa.
MÂY RỒNG: Nghĩa của chữ Long vân. Ý chỉ sự thi cử đỗ đạt, hay chúa tôi, Thầy Tớ đồng sum hợp, Sấm Giảng Q.1, Đức Thầy có câu:
“Chừng sau đến Hội rồng mây,
Người đời mới biết Điên nầy là ai”.

Bài 6. THIÊN LÝ CA ( SẤM GIẢNG THI VĂN GIÁO LÝ 2004, tr. 235-246 )


XUẤT XỨ: Vào thượng tuần tháng bảy năm Kỷ Mão (1939), có ông Cả Châu, tức Phan Ngọc Châu ở Cù lao Tây, xã Tân Long, Châu Đốc, đến Thánh Địa Hòa Hảo gặp Đức Thầy. Ông trình ra một bài thơ và bạch với Ngài: Trước đây ông có gặp một cụ lão, xưng là ông đò chuyên đưa người về Bồng Lai Tiên Cảnh. (Ông đò vừa chèo ghe vừa rao: “Đò tôi đưa người về Bồng lai Tiên cảnh ai, có rảnh thì đi, còn mắc nợ thì ở lại dương gian”). Cụ có cho ông một bài thơ và một chén muối cục dặn rằng ông hãy rán tu hành, về sau nếu khi gặp ai có bịnh thì lấy nửa muỗng muối nầy lóng nước trong cho uống là hết. Nói rồi ông bèn bỏ đi mất tới giờ; ông chưa lần nào gặp lại cụ lão đưa đò ấy nữa.
Đức Thầy liền nhận bài thơ cầm lên xem lượt qua, rồi cầm bút viết xen vào một ít đoạn. Viết xong, Ngài đưa lại bảo ông Châu, ông xem thử coi có hạp không ? Đọc xong, ông Châu rất thán phục rồi xin qui y với Đức Thầy.
VĂN THỂ: Thiên Lý Ca là một bài văn vận biến thể, có nhiều giọng điệu khác nhau: Nào tứ cú, bát cú Đường luật, khoán thủ, thuận nghịch đọc, nào thất ngôn trường thiên, thượng lục hạ bát…Dài 312 câu.
Khởi đầu bằng bài thơ có ba chữ khoán thủ Phan Ngọc Châu:
“PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,
NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò”.
Và chấm dứt bởi câu:
“Không làm thì ắt mang eo,
Làm xong vượt khỏi qua đèo chông gai”.

NỘI DUNG: Trước nhứt, Đức Giáo Chủ khuyên nhắc ông Châu hãy ghi nhớ lời giáo huấn của Ngài vào thâm tâm và mạnh tin ngọc báu-quí còn tàng ẩn trong non Tiên miền Nam nước Việt. Ý nói nơi tâm của mỗi người đều có Phật tánh. Từ trước, ông Châu cũng như mọi người bị mê mờ lạc ngõ, nay may mắn được Đức Thầy trở lại khai đường dẫn lối. Vậy mỗi người hãy sớm thức tỉnh quày đầu.
Bài pháp giáo nầy hàm chứa biết bao giáo nghĩa cao thâm và cơ huyền diệu lý. Mỗi hành giả khi xem đến hãy rán suy tầm cho thấu đáo như Ngài nói:
“Ít câu mà ý nhiệm sâu,
Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn ngoan”.

Ngoài ra, Đức Thầy còn tiết lộ cơ huyền và định luật thăng trầm của tạo hóa cho người đời được rõ hầu sớm biết ăn năn cải dữ về lành.
CHÁNH VĂN
1. “PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,
NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò.
CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa,
4. Núi truông qua đặng rán lần dò”.
CHÚ THÍCH :
CHỮ DẠ: Chữ là ghi để, chạm khắc, dạ là tấm lòng. Nghĩa chung là ghi nhớ mãi trong lòng, không nên xa rời.
NGỌC ẨN NON CÔN: Do câu tục ngữ xuất phát từ văn chương Trung Hoa: “Ngọc ẩn non Côn, vàng rơi sông Lệ”(có nghĩa ai muốn ngọc quí phải lên núi Côn Lôn đập từ khối đá, lâu ngày mới tìm ra được. Còn muốn có vàng tất phải xuống sông Lệ mà đãi từ rổ bùn mới được). Nghĩa bóng là chỉ cho sự tu phải dày công cực nhọc mới kết quả.
Còn ở Việt Nam ta, tại xã Thị Nại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc phần), cũng có hòn núi “Côn Sơn”, là nơi có hai vị khai quốc công thần: Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Đán trí sĩ. Đặc biệt trên đỉnh Côn Sơn có ngôi chùa của Huyền Quang Tôn Sư (Tổ thứ ba của phái Trúc Lâm, một Thiền phái lớn xuất phát từ lòng dân tộc Việt Nam). Nghĩa bóng : Về sự là nơi chỉ cho các danh nhân: Phật, Tiên, Thánh cư trú; về lý thì nói nơi tâm của mỗi người đều có Phật tánh (ngọc quí).
Giảng “Giác Mê” của Phật Thầy có đoạn:
“Đi đâu cho khó nhiều đàng,
Kìa non Bửu tự, nọ ngàn Ma ha.
Kiểng nào kiểng chẳng có hoa,
Non nào non chẳng có toà thiên thai*”.
*(Thiên thai là cảnh chư Tiên ở)

TỢ LỬA LÒ: Như lửa có sẵn trong lò, khói lên là cháy. Đây thuộc về điển tích xuất phát từ câu chuyện thầy trò Tổ Bách Trượng như sau:
Qui Sơn vốn là học trò của Tổ Bách Trượng (Hoài Hải). Một hôm Qui Sơn đang đứng hầu Thầy.
Thầy kêu hỏi:
- Qui Sơn ứng tiếng.
- Dạ ! Con là Linh Hựu đây (Qui Sơn). Tổ Bách Trượng bảo:
- Ngươi hãy vào trong, khươi bếp lấy cho ta cục lửa.
Qui Sơn, vậng lời Thầy, vào nhà bếp khươi tìm mãi không thấy lửa, trở ra thưa:
- Dạ ! Trong lò không có lửa.
Tổ Bách Trượng liền rời chỗ ngồi đi vào bếp, cầm đôi đũa khươi sâu, gấp lên được cục than còn đỏ rực đưa lên cho Qui Sơn thấy và hỏi:
- Đây không phải là cục lửa sao ?
Tổ Qui Sơn nghe tiếng Thầy hỏi và thấy cục lửa, hoát nhiên tỏ ngộ…
Câu chuyện trên ngụ ý: Tâm của mỗi hành giả đều có tánh Phật, cũng như lửa có sẵn trong lò. Ở đây, Đức Giáo Chủ muốn cho ông Châu và mọi người biết tâm của mỗi hành giả đều sẵn có tánh Phật. Sở dĩ chúng ta còn phải nhọc tâm tìm kiếm bên ngoài là vì chưa chịu quay về nội tâm để trực nhận cái “Bản lai thanh tịnh của chính mình”:
“Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”. (Q.1)
ĐƯỜNG DÊ: Con đường của dê đi. Trong một cánh rừng rộng lớn, có đủ các loài thú hung dữ như: cọp, beo, sư tử, lang, sói…và hiền từ như: dê, thỏ, hươu, nai…Mỗi loài đều đi theo đường riêng của nó. Người bị lạc trong rừng nên tìm con đường của dê thỏ mà đi thì không bị nguy hiểm. Nghĩa bóng là người sống trong đời phải nương con đường hiền lành đạo đức mới đưọc bình yên. Đức Thầy nhắc nhở trong bài Sa Đéc:
“Nay rừng bụi có người mở ngõ,
Thì noi theo dấu thỏ đàng dê”.
BƯỚC NGỰA: Dấu chân của ngựa đi. Xưa người ta săn bắn hay đánh giặc bị lạc trong rừng. Nếu muốn ra khỏi rừng đến vị trí của mình thì tìm theo dấu chân của ngựa. Bởi ngựa vốn từ ngoài đi vào rừng, cho nên người bị lạc cứ đi theo dấu chân ngựa mà trở ra, tất sớm muộn gì cũng ra khỏi rừng.
Hai từ ngữ: Đường dê và bước ngựa có ngụ ý chúng sanh từ trước tới giờ bị vô minh vọng nghiệp dẫn lạc vào rừng mê khổ, chưa thoát ly ra được. Nay may mắn gặp Đức Thầy vạch ra con đường đạo đức. Nếu chúng sanh nào biết nương theo đó tu hành tất được ra khỏi vòng sanh tử.
NÚI TRUÔNG: Núi là nhiều đá vun lại cao lên mà thành. Truông là khu đất bỏ hoang cây cỏ um tùm khó đi qua như truông mây, nghĩa bóng là chỉ đường đi rất khó khăn trở ngại. Ví dụ : Qua truông, qua núi, qua suối, qua đèo. Đây cũng chỉ sự tu hành bị lắm điều khó khăn cản trở.
LƯỢC GIẢI:
Đại ý bốn câu thi trên, Đức Thầy khuyên ông Châu nên ghi tạc lời nhắc nhở của Ngài vào tâm, đừng để dạ lo lắng, bởi ông đã có căn tu từ trước. Nhưng vì mấy lúc nay bị lệch lạc hay thối thất sao đó mà chưa ra khỏi vòng trần khổ mặc dù Ngài đã có nhắc nhở ông nhiều lần.
Nay may mắn gặp Đức Thầy ra đời khai vạch con đường đạo đức. Vậy ông hãy nương theo đó mà hành trì và cố gắng lướt qua các chặng đường khó khăn, ắt có ngày sẽ vượt khỏi bánh xe luân hồi sanh tử.
CHÁNH VĂN
5. “Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít,
Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o,
Tường-tận đã nghe xê cống líu,
8. Hương thôn bỏ xế xự xang hò”.
Đọc ngược lại bốn câu chót (tứ tuyệt thuận nghịch đọc).
9. “Hò xang xự xế bỏ thôn lương,
Líu cống xê nghe đã tận-tường,
O-ó tiếng gà coi nguyệt cảnh,
12. Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn”.
(Hai bài thi tứ cú thuận nghịch đọc trên đây xin miễn luận giải, vì có ẩn ý thiên cơ, việc chưa tới).
13. “Quỉ ma hay phá rối người tu,
Đạo-đức chư nhu rán chí hành.
Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
16. Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh”.
CHÚ THÍCH:
QUỈ MA: Cũng gọi là ma quỉ. Có hai loại ma quỉ:
1/- Những kẻ lúc còn sống tạo ác nghiệp, khi chết bị đọa vào A tu la, Ngạ quỉ, sống chung lộn với cảnh giới loài người. Có số ủng hộ người hiền, cũng có số quậy phá dân chúng đòi ăn đồ cúng kiếng (mê tín dị đoan).
2/- Ám chỉ những kẻ còn sống tại thế gian, hay trêu chọc khuấy phá kẻ khác, gây rối trật tự, xóm làng xã hội: “Nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba là học trò”(Tục ngữ).
Còn thứ ma quỉ khác là những kẻ hung hăng bạo ác hay phá hại người tu và các Đạo giáo. Họ là tay sai của Thiên-ma Ba-Tuần (tức Ma vương, ở từng trời thứ 6: Tha Hóa Tự Tại, cao nhất của cõi Trời Dục Giới) xuống trần quậy phá, làm chướng ngại Đạo Phật.
Các thứ ma quỉ kể trên gọi là ngoại ma. Song người tu còn đương đầu với loại nội ma nữa: ma thất tình lục dục, ma phiền não (tham, sân, si) hay ma Ngũ uẩn. Đức Thầy từng cho biết:
“Làm gian ác là quỉ là ma,
Làm chơn chánh là Tiên là Phật” (Q.2)
Nên Ngài hằng khuyên trong Quyển 5:
“Giữ đừng cho Ma Vương dẫn dắt,
Thường nhớ câu đại lực đại hùng.
Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung,
Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm.
Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,
Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi”.
CHƯ NHU: Chư là các, là nhiều người; Nhu là nho. Chư nhu là chỉ các Nho sĩ, cũng gọi là học trò. Đây chỉ hầu hết tín đồ PGHH.
LỜI THỀ NƠI PHẬT CẢNH: Lời thề là lời thệ nguyện; tại tư gia của mỗi tín đồ PGHH đều có thờ ngôi Tam Bảo, có đủ Phật, Pháp, Tăng nên đó là biểu tượng cho nơi Phật cảnh.
TIẾNG NGUYỆN CHỐN NON XANH: Lời hứa nguyện trước chư vị Sơn thần, Năm Non Bảy Núi để chứng minh cho mình quyết chí tu hành.
Nghĩa chung là ý nói hầu hết tín đồ PGHH mỗi ngày hai thời cúng: Sáng và chiều đều có quì nguyện trước Ngôi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và chư quan Cựu Thần, cùng chư vị Sơn Thần Năm Non Bảy Núi chứng minh cho lời nguyện hứa của mình là “Cải hối ăn năn làm lành lánh dữ qui y theo mấy Ngài tu hiền theo Phật đạo”. Không một ai dám quên lãng lời nguyện ấy.
LƯỢC GIẢI:
Bốn câu thi vừa qua, đại lược Đức Thầy cho biết thời nay các ma tà quỉ quái hay khuấy rối người tu. Vậy các môn đồ hãy tu chí thành chí thật mới thu phục được chúng ma quỉ. Nhứt là phải nhớ rằng mỗi ngày hai thời lễ bái, sáng và chiều, chúng ta đã sám hối và hứa nguyện trước 10 phương chư Phật, Pháp, Tăng cũng như các Quan Cựu Thần và chư vị Sơn Thần Năm Non Bảy Núi chứng minh cho sự phát thệ qui y của mình.
CHÁNH VĂN
17. “Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt,
Nghe cho tường giọng Bắc hòa Nam.
Thích Ca còn phế tước hàm,
Đài cao cửa rộng mà ham tu hành.
Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc,
22. Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu”.
CHÚ THÍCH:
KHOAN NHẶT: Khoan là chậm, nhặt là nhanh (mau). Một bản đờn khảy lên nghe tiếng khi mau, khi chậm, có lúc trầm, lúc bổng…Ở đây Đức Thầy muốn nói lời Kệ Giảng của Ngài ví như một bản đờn, phải có những lúc trầm, bổng, nhặt, khoan. Người nghe tâm hồn mới rung cảm được. Trong bài Nang Thơ Cẩm Tú, Ngài viết:
“Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn,
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
Cúi đầu trước quy-y Phật pháp”.
GIỌNG BẮC HÒA NAM: Đây là một thể văn vần viết lối song thất lục bát, 4 câu một đoạn, hai câu đầu 7 chữ, câu thứ 3 sáu chữ, câu thứ tư 8 chữ. Viết bao nhiêu đoạn cũng được. Hai câu 7 chữ đọc nhanh và nhặt (bổng), đến câu thứ 3 và 4 đọc giọng khoan (trầm) chậm và lơi ra.
Lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình (Hòa Hảo) mỗi tối Ngài hay nói: “Để tôi ca Tiên cho các ông nghe nhen !”. Rồi Ngài liền đọc đoạn giảng theo điệu “Giọng Bắc hòa Nam” như đoạn nói trên.
THÍCH CA: Phiên âm Phạn ngữ Cakyas, Tàu dịch là Năng nhơn, tức người có năng lực từ bi rộng lớn. Thích Ca cũng là họ của Phật Tổ, tên là Sĩ Đạt Ta hay Tất Đạt Đa. Đức Thầy có câu:
“Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ,
Sẽ có người nối nghiệp hoàng gia”. (Q.5)

TƯỚC HÀM: Tước là chức vị; hàm là cấp bực phẩm trật của nhà vua ban cho các quan chức. Tước hàm của Sĩ Đạt Ta được vua Tịnh Phạn ban cho là Đông Cung Thái Tử. Đức Thầy từng nhắc trong bài Luận Việc Tu Hành:
“Mình vàng Thái tử ngôi còn bỏ,
Vóc ngọc Đông cung tước phế liền”.
LỜI NGỌC: Nói cho đủ là lời vàng tiếng ngọc. Giáo pháp của chư Phật Thánh giáo hóa nhân sanh quí báu hơn vàng ngọc bởi toàn là lời hay ý đẹp, giúp người học hành theo đó trở thành Phật Thánh như các Ngài, có thể nói ngàn vàng cũng khó sánh. Người xưa từng nói: Nghe được một lời nói tốt lành, quí báu hơn được ngàn vàng. (Nhứt nhơn thắng ngữ đắc thiên kim).
NHIỆM SÂU: Huyền diệu sâu kín và nhiệm nhặt.
“Ít câu mà ý nhiệm sâu,
Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn ngoan”.

LƯỢC GIẢI:
Sáu câu giảng vừa qua, ý nói: Lời pháp giáo của Đức Thầy ví như một bản đờn, có đủ giọng điệu trầm, bổng nhặt khoan, khiến cho người nghe dễ cảm thông và thức tỉnh. Ngài kêu gọi ông Châu cũng như mọi người hãy nhìn gương hạnh của Đức Phật khi xưa, đang sống trong cung vàng điện ngọc, tước vị Thái Tử Đông Cung mà Ngài còn gác bỏ, lên đường tầm ra chánh đạo cứu khổ nhân sanh.
Bài giảng Ngài viết ra đây sẽ luận giải tường tận những giáo lý cao siêu mầu diệu. Vậy ông Châu và mọi người nên lắng nghe cho thấu đạt.
CHÁNH VĂN
23. “Thiên ý không riêng mối đạo mầu,
Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu.
Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu,
26. Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu”.
CHÚ THÍCH:
THIÊN LÝ: Ý trời, nhưng ý Trời không ngoài ý đạo:“Thiên địa u minh dĩ đạo tràng”(Lộ Chút Cơ Huyền).
YẾU LÝ: Lý lẽ cốt yếu.
NHIỆM CAO SÂU: Mầu diệu, sâu kín, cao xa lắm:
“Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.
NAM ĐỊA: Đất nước Việt Nam:
“Cõi Trung ương nhằm đất nước Việt Nam”.
(Trao Lời Cùng Ông Táo)

THÂM DIỆU: Sâu kín, mầu nhiệm, khéo léo. Do câu: “Vô lượng thậm thâm vi diệu pháp”. Đức Thầy từng bảo: “Huyền pháp thâm trầm thơm bất tuyệt”. (Cho Ông Tham Tá Ngà)
“Xả thân tầm đạo vô vi,
Nhiệm mầu thâm diệu nan tri lão bày”.

(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
TÀ TÂM: Lòng tà vạy gian ác, ngược lại với tâm chơn chánh thiện lương. Đức Thầy hằng dạy: “Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đuổi tư tưởng xấu xa, thay vào những tư tưởng ôn hòa đạo đức”. Và:
“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà” (GMTK, Q.4).

LƯỢC GIẢI:
Đại ý bốn câu trên, Đức Thầy cho biết ý Trời không ngoài ý đạo. Ngài đã thuận theo ý Trời mà khai truyền Thánh Đạo. Đem nguồn giáo lý thâm sâu mầu diệu giác tỉnh nhơn sanh sớm tu thân hành đạo hầu xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia an lạc. Ngài cũng kêu gọi mọi hành giả, trước nhứt là phải lọc sạch vọng tâm tà vạy trở thành chơn chánh thiện lương là kết quả.
CHÁNH VĂN
27. “Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng,
Lẽ nhiệm-mầu chưa hản trò ôi !
Đêm ngày buồn-bã vô hồi,
30. Kìa trên Tiên cảnh vị ngôi sẵn dành.
Đạo rải khắp năm canh tỏa bút,
Dạy tận-tường chẳng chút nào sai.
Cổ nhơn tích để phân bày,
34. Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm.
Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng,
Thả ra khơi cứu dẫn khách trần.
Phù-sanh lắm cuộc lao thân,
38. Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau.
Trông đợi người tài cao đức trọng,
Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao.
Chí tâm tường-lãm thấp cao,
42. Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu”.
CHÚ THÍCH:
NGUỒN BẠCH THỦY: Nguồn:cội gốc. Bạch thủy: Nước trắng trong. Nước từ nguồn chảy ra rất trong sạch không lộn chút cặn nhơ. Ý nói lời pháp giáo của Đức Giáo Chủ từ trí bát nhã ban ra, có diệu năng làm tan hết lòng trần tục và tưới mát muôn loài được thấm nhuần phát triển: “Nước Ma Ha tưới tắt lòng phàm”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
CHƯA HẢN: Chưa hiểu tường tận, chắc chắn.
TIÊN CẢNH: Cũng gọi là cảnh Tiên, tức là con đường thoát tục, chỉ cõi Trời Sắc giới và Vô Sắc giới do người tu 10 điều lành mà được. Cảnh Tiên đây còn chỉ cõi đời Thượng nguơn thánh đức, trong bài giảng nầy Đức Thầy có nói:
“Theo ta đến chốn Tiên bang,
Đặng coi các nước hội hàng năm non”.

NĂM CANH: Cách tính thời gian thuở xưa: một đêm có 5 canh, mỗi canh có 2 giờ, canh một là 7 giờ đêm tới 9 giờ đêm. Cứ thế mà tính tới.
TỎA BÚT: Tỏa tức là túa ra, bủa ra. Bút là cây viết. Nghĩa chung, Đức Thầy dùng viết mực sáng tác Sấm kinh ban rải khắp nơi.
CỔ NHÂN: Người xưa. Những bậc có công ích cho đời, đã mãn phần; sách sử thường ca ngợi và ghi chép lại.
“Lời xưa người cổ còn ghi”( Q.1).
ĐƯỜNG CHƠN NẺO CHÁNH: Con đường chơn chánh. Nghĩa của Bát Chánh Đạo tức 8 nẻo đưa con người ra khỏi sanh tử; có diệu năng đối trị Bát tà. Đức Giáo Chủ cho biết: Bát Chánh Đạo là: “Quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ tấn triển trên đường giải thoát”.
BÁT NHÃ: Phiên âm của Phạn ngữ Prajna. Có nghĩa là trí huệ sáng suốt. Bát nhã có ba bậc: 1. Văn tự bát nhã (Sự sáng suốt, thông hiểu qua sách vở, thầy dạy, thuộc thế trí biện thông), 2. Quán chiếu bát nhã (Cái trí thấu suốt, phân biệt các pháp do tịnh lự, tư duy mà có), 3.Thật tướng bát nhã (Cái linh trí sáng suốt của Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng sanh, còn gọi là vô sư trí hoặc trí tuệ bên kia bờ do tu chứng mà có). Bát nhã ví như con thuyền (bát nhã thoàn), có diệu năng đưa mọi người vượt sông mê sang qua bờ giác, thoát khỏi mọi khổ ách.
KHÁCH TRẦN: Tất cả chúng sanh sống trong cõi đời đều gọi chung là khách trần.
PHÙ SINH: Phù là nổi, sinh là sống. Nghĩa bong: Kiếp sống con người và vạn vật rất ngắn ngủi, như đám mây, như bọt nước tan biến nhanh chóng.
LAO THÂN: Thân cực nhọc khổ sở.
TA THÁN:Ta là than thở, thán là hờn trách. Tiếng than thở hờn trách.
THIÊN VÕNG: Nói cho đủ là Thiên la địa võng. Ý chỉ luật Trời đất hay luật Nhân quả.
TƯỜNG LÃM: Tường là hiểu rõ ràng. Lãm là xem biết hết. Nghĩa chung là người đã hiểu thông mọi vật, mọi lẽ trong trời đất một cách rõ ràng. Hiểu như chữ bác lãm. Trong bài “Không Buồn Ngủ”, Đức Thầy viết:
“Nào ai biết tâm ta đời bác lãm,
Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây”.
THIÊN TÀO: Cũng như chữ Thiên Đình. Chỗ Trời ở, cung đình, triều đình trên Trời.
LƯỢC GIẢI:
- Đức Thầy dùng trí sáng suốt thuyết ra giáo lý thâm sâu mầu diệu khuyến hóa nhân sanh, nhưng ít có người thấu đạt. Ngài cũng cho ông Châu và tín đồ hiểu rằng: Ai có căn tu thì ngôi vị Phật Tiên đã dành sẵn.
- Hằng đêm Ngài luôn dùng bút mực giải bày giáo lý ban bủa khắp bàng nhân bá tánh. Bao nhiêu gương hạnh, tốt lành của người xưa đã ghi trong sách sử, vậy mọi người hãy noi theo mà tìm ra con đường chánh đạo để thực hành.
- Cảnh trần khổ mênh mông như bể cả, thế mà chúng sanh mãi lặn ngụp. Nay may mắn gặp Đức Thầy xông thuyền Bát Nhã cứu vớt, kêu gọi chúng ta hãy bước lên để sớm giải thoát cảnh sầu đau giả tạm.
Đức Giáo Chủ cũng rất mong đợi người có tài trí đức hạnh, thành tâm thật ý tìm hiểu rõ luật trừng phạt của Trời đất, để sớm thi hành đạo nghĩa, hầu trở về con đường siêu thoát của Phật Tiên.
CHÁNH VĂN
43. “Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế,
Bởi ít ai cải chế đường tà.
Sợ e nhiễm trược đọa sa,
46. Sợ cho lắm kẻ chan-hòa lụy tuôn.
Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.
Mảng lo tìm kiếm tước quờn,
50. Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.
Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
Rán tầm vào đến chỗ an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
54. Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.
Câu bát-chánh rán mài chạm dạ,
Tứ mục-điều người khá hành y.
Muôn thu Thiên định nhứt kỳ,
58. Hạ nguơn sắc lịnh khai kỳ Long-Hoa”.
CHÚ THÍCH:
CẢI CHẾ ĐƯỜNG TÀ: Cải chế là sửa đổi để sắp đặt lại. Đường tà là con đường tà vạy xấu ác. Nghĩa chung là cổi bỏ con đường tà vạy tội lỗi để trở lại con đường chơn chánh thiện lương. Như bỏ 8 điều tà, làm theo 8 điều chánh (bát chánh) xa bỏ tà đạo trở về với chánh đạo.
NHIỄM TRƯỢC: Cũng gọi là trược nhiễm, có nghĩa là ô nhiễm những điều trần trược, xấu ác ở thế gian. Đức Giáo Chủ dạy:“Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai”.
ĐỌA SA: Cũng viết là sa đọa. Có nghĩa rơi rụng vào chổ thấp hèn. Đây có ý chỉ người còn sống bị sa đọa vào con đường trụy lạc (tứ đổ tường), hoặc lúc sanh tiền tạo nhiều nghiệp ác, khi chết bị đọa vào ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh:
“Phước nhiều Tiên cảnh lên rày,
Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê”.
CHÁNH KỶ HÓA NHƠN: Câu sách: “Chánh kỷ dĩ giáo nhân giả thuận, thích kỷ dĩ giáo nhân giả nghịch”(Người lo tu thân xử kỷ cho đúng rồi mới dạy đời là lẽ thuận; còn kẻ bỏ mình không lo tu sửa lại đi dạy đời là lẽ nghịch vậy).
TƯỚC QUỜN: Cũng gọi là quyền tước, có nghĩa quyền oai và chức phận, nghĩa của chữ danh vị (một trong ngũ dục).
“Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
Sang oai quyền hối lộ gần xa”. (Q.5)

THẤT KỲ VỌNG TƯỞNG: Những vọng tưởng mong cầu mà không thành đạt. Trong đời có hai hạng người:
1. Hạng ngoài đời thì lúc nào cũng nuôi hy vọng được giàu sang vinh hiển hơn người, những việc chẳng thành thì đâm ra chán nản làm điều xằng bậy.
2. Hạng tu hành, song chưa nắm được chân lý nên có nhiều cao vọng ước mơ mau đạt đạo quả hay sớm có nhiều pháp linh kỳ diệu, nhưng chưa đạt thành như ý thì đâm ra thối chuyển bỏ đạo thôi tu.
TRONG BUỔI KHỔ: Chúng sanh đang sống trong hiện cảnh đang gánh chịu vô vàn đau khổ. Thân tâm đã gánh chịu 8 nỗi khổ, còn thêm các nỗi khổ bên ngoài dồn tấp đến: nào thiên tai địa ách, nào chiến tranh giặc loạn, đói đau, bệnh tật. Đức Giáo Chủ cảnh tỉnh:
“Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,
Sao dân còn triếu mến trần mê.
Mắt nhìn ngoại quốc thảm thê,
Nam bang cảnh khổ cũng kề bên tai”.
(Để Chơn Đất Bắc)

CHỖ AN CƯ: Nơi sống an ổn bình yên. Đây là nghĩa thông thường. Chữ an cư Đức Thầy đặt trong câu giảng nầy là cái tâm an tịnh của mỗi hành giả, tức chỉ cảnh Niết Bàn (bất sanh bất diệt).
Năm 1939, có lần Đức Thầy đứng trước sân Tổ Đình giải thích về cảnh khổ sau nầy. Một ông lão hỏi Ngài:
- Cảnh khổ như vậy có chỗ nào trốn khỏi không Thầy ? Ngài đáp:
- Chun dưới bàn Thông Thiên thì khỏi.
Ý Ngài muốn nói có tu thân hành đạo mới chứng Niết Bàn Cực lạc hoặc sống đời Thượng nguơn thánh đức mới là dứt khổ.
HỈ XẢ ĐẠI TỪ: Cũng gọi là Từ Bi Hỉ Xả, tức bốn đại đức (bốn tâm vô lượng) của chư Phật (Xem lại chú thích tại Q. Thượng Tập 1/3, tr. 40).
CÂU BÁT CHÁNH: chỉ Bát Chánh Đạo, 8 con đường chơn chánh dẫn đến quả giải thoát viên mãn: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh nghiệp, Chánh tinh tấn, Chánh mạng, Chánh ngữ, Chánh niệm, Chánh định.
TỨ MỤC ĐIỀU: Cũng gọi là Tứ Diệu Đề hay Tứ Diệu Đế. Sở dĩ gọi Tứ Mục Điều là Tứ Diệu Đề, vì Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đề luôn đi cặp với nhau. Bát Chánh Đạo (Đạo Đề) là một trong Tứ Diệu Đề.
MUÔN THU: Thu là một trong bốn mùa của một năm (Xuân, Hạ, Thu, Đông) nên một mùa Thu là chỉ cho một năm; muôn thu là 10 ngàn năm (biểu tượng cho thời gian lâu dài): “Ngàn năm mới có một thời”.
THIÊN ĐỊNH: Trời đã định sẵn. NHỨT KỲ: Có một kỳ (một lần)
HẠ NGUƠN: Nguơn cuối cùng. Căn cứ vào luật tuần hoàn của lý tam nguơn được phân định và diễn tiến như sau:
1. Thượng nguơn: gồm có Thượng nguơn thượng, Thượng nguơn trung,Thượng nguơn hạ.
2. Trung nguơn: gồm có Trung nguơn thượng, Trung nguơn trung, Trung nguơn hạ.
3. Hạ nguơn: gồm có Hạ nguơn thượng, Hạ nguơn trung, Hạ nguơn hạ.
Cứ thế mà luân chuyển mãi, hễ hết Hạ nguơn hạ thì chuyển sang Thượng nguơn thượng, Thượng nguơn trung dần dần xuống… Hiện nay, nhằm vào Hạ nguơn hạ, sau đó sẽ chuyển sang Thượng nguơn thượng. Trong Giảng ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:
“Hạ nguơn nay đã hết đời,
Minh Hoàng cầu Phật lập đời Thượng Nguơn”.

Đức Thầy cũng bảo trong bài“Để Chơn Đất Bắc“:
Việc đời nhiều nỗi sầu bi,
Hạ Nguơn đã hết loạn ly cơ đồ.

LONG HOA: Tức hội “Long Hoa”. Hội là tụ họp lại đông đảo, Long là rồng (chỉ cho vị Thánh Vương), Hoa là các loại bông tốt đẹp. Người ta thường nói“đẹp như hoa“, để chỉ cho người hiền lương đức hạnh. Hội Long Hoa do Tiên Phật lập ra, để chọn bậc hiền tài và đức hạnh tốt đẹp họp lại chào mừng vị Thánh vuơng của đời Thượng nguơn thánh đức tới đây. Đức Thầy từng bảo:
“Hội Long-Hoa chọn kẻ tu mi,
Người hiền đức đặng phò chơn chúa”( Q. 2).
Theo tài liệu của Vương Kim, tác giả quyển “Đời Thượng Nguơn”, đây là một cuộc thi cử chọn lọc hiền còn dữ mất:
“Long-Hoa Tiên-Phật đáo ta-bà,
Lừa-lọc con lành diệt quỉ ma”.
(Thức Tỉnh một Nữ Tín Đồ)
Và:
“Lập rồi cái Hội Long-Hoa,
Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu.
Gian tà hồn xác cũng tiêu
Thảm thương bá tánh chín chiều ruột đau”(Q.3) Cho nên ở đây, Ngài giục thúc:
“Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn”.
Đức Huệ Lựu (Sư Vải Bán Khoai) bảo:
“Bởi trần lỗi quá muôn phần,
Cho nên lập hội Long-Hoa chọn người.
Hiền từ thì đặng thảnh thơi
Nghinh ngang khó trốn lưới trời bớ dân”.

Nghiên cứu bài Thiên Lý Ca nầy thì cứ khoảng trên dưới mười ngàn năm là có một lần lập Hội như vậy để chọn lọc hiền còn dữ mất, lập lại đời Thượng nguơn Thánh đức:
“Muôn thu thiên định nhứt kỳ,
Hạ nguơn sắc lịnh khai kỳ Long-Hoa”.
Hoặc:
“Chớ mong yến thử ẩm hà,
Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con ?
Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia.
Cả kêu lớn nhỏ quày vìa,
Trên hoà dưới thuận chớ lìa chớ phân.
Long-Hoa hội ân cần lo lập
Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn”.
Vì thế, Đức Thầy cũng từng kêu gọi:
“Mau chơn bước đến Long-Hoa hội,
Chầu Phật hòa vui cõi Đại-Đồng”.
(Bài Cho Bà Năm Cò)

LƯỢC GIẢI:
Xét việc thế gian, Đức Giáo Chủ u buồn khi thấy nhiều người tu hành mà không cải sửa những điều tà ác xấu xa, mãi để trược nhiễm dục trần rồi phải chuốc lấy sự sầu khổ sau nầy.
Rủi gặp nghịch cảnh đưa đến thì buồn lòng thối chuyển đường tu. Lại có số người chẳng lo trau thân gìn đạo, mãi đua đòi danh vọng bạc tiền rồi khi gặp việc khó khăn thử thách cũng bỏ đạo thôi tu.
Chúng sanh sống trong cõi ta-bà đều chung chịu cảnh khổ đau sầu hận, nên Đức Giáo Chủ khuyến giáo mỗi người hãy sớm tìm cách thoát ly. Song cả thế gian chẳng nơi nào không có khổ, chỉ có quay về nội tâm chuyển hóa lòng vị tư, nhân ngã để trở thành “Hỉ Xả Từ Bi”, dứt nghiệp sanh tử luân hồi mới hết khổ.
Đồng thời hành giả hãy nương theo pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo mà hành trì. Chính đó là con đường đưa nhà tu đến chỗ an cư thật sự, bởi chỉ có: Niết bàn tịch tịnh là đường vô sanh” hay “Về Cực-lạc mới là hết khổ”.
Đức Giáo Chủ còn cho biết theo chu kỳ của lý tam nguơn, hễ hết Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn thì lại quay về Thượng nguơn. Tiến trình ấy trên dưới mười ngàn năm xảy ra một lần qua việc lập Hội Long-Hoa, chọn lọc “hiền còn dữ mất”.
CHÁNH VĂN
59. “Rán vẹt phá sương mù trước mắt,
Chớ để cho quỉ dắt linh hồn.
Lão đây vưng lịnh Phật-Tôn,
62. Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.
Khá chí tâm họ- hành kinh sám,
Thoát nơi miền hắc-ám phong ba.
Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
66. Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.
Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn,
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút mây.
Chớ nên bắt-bẻ Phật Thầy,
70. Ngày sau phải chịu đọa- đày chớ than”.
CHÚ THÍCH:
SƯƠNG MÙ: Cũng gọi là mù sương, tức hơi nước trong lớp khói mỏng án trước mặt. Đây chỉ cho vô minh (mê si che mờ tâm trí mình khiến không nhận được đâu là chân, thật ).
LINH HỒN: Phần thiêng liêng vô hình trong con người, còn được gọi là thần thức ( đối với thể xác hay thân tứ đại là phần hữu hình).
HỌC HÀNH KINH SÁM: Học hành là học hiểu và trì hành. Kinh sám là lời kinh kệ Sấm Giảng của Đức Thầy đã sáng tác, để cho môn đồ nương theo đó mà học hiểu và giữ gìn, tu sửa. Như Ngài từng cho biết:
“Ta yêu chúng viết ra giảng kệ,
Khuyên tăng đồ cùng các tín đồ.
Nghe cạn lời chớ có mờ hồ,
Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo”.(Q.4)
HẮC ÁM: Cảnh tối tăm mờ ám. Ý chỉ cõi đời ác thế ngũ trược, hoặc Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, do nghiệp tham, sân, si chôn nhốt trong đó.
PHONG BA: Gió sóng. Nghĩa bóng: thảm cảnh do thiên nhiên gây nên hay làn sóng văn minh vật chất không tốt của Tây phương tràn vào Việt Nam.
HIỀN NHƠN: Người hiền lành, trọn lành, trọn sáng, không vi phạm tam nghiệp, thập ác, tám điều răn cấm. Đức Thầy luôn nhắc nhở:
“Hiền nhơn bổn phận tu mi,
Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền cơ”. (Q.3)
NỢ THẾ: Nợ đời, gồm có: 1. Ân nợ tức nợ Tứ Đại Trọng Ân (nợ cộng đồng) mà mọi người trên đời đều thọ nhận nên cần đền trả , 2. Nghiệp nợ là nợ cá nhân do Tam nghiệp (thân, khẩu, ý) gây ra, trói buộc chúng sanh phải chịu luân hồi khổ não nên muốn giải thoát là nhứt thiết phải đền trả nợ nầy qua công phu tu tập.
TINH THẦN: Phần sáng suốt trong tâm hồn để hiểu biết, phân biệt lẽ phải trái. Thí dụ: Vật chất ảnh hưởng đến tinh thần.
NGÚT MÂY: Sự mê mờ tăm tối, tức là vô minh hay mê si che mờ trí huệ của mình. Đức Thầy có viết:
“Tinh thần hiệp vén ngút mây”.
PHẬT THẦY: Tức là Đức Phật Thầy Tây An. Ngài quê ở làng Tòng Sơn, thuộc Cái Tàu Thượng, nay là xã Mỹ An Hưng, tỉnh Đồng Tháp (Nam phần Việt Nam). Ngài sanh vào giờ Ngọ, ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) niên hiệu Gia Long thứ VIII. Ngài khai đạo vào đầu xuân Kỷ Mão (1849). Chánh danh của Ngài là Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh, người trong Đạo cũng như người đời đều xưng tụng Ngài là Đức Phật Thầy Tây An. Ngài khai sáng Tông phái Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ. (Xem lại Chú thích tại Q. Thượng Tập 1/3, tr.84-86).
LƯỢC GIẢI:
Đại lược Đức Thầy khuyên nhà tu, hãy phá tan màn vô minh cho trí huệ sáng tỏ hầu soi tan hay thuyết phục đám tà ma quỉ quái, để chúng không còn ám ảnh xúi giục tâm trí ta làm điều xằng bậy.
Đức Giáo Chủ lâm phàm khai Đạo là có sắc lịnh của Phật Thế Tôn, để đến ngày kết cuộc:
“Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân”.
Và: “Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,
Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”(Q.4).

Ngài cũng khuyên mọi người phải lo học hiểu và hành trì lời Sấm Kinh, để sau nầy được thoát cảnh chiến tranh biến đổi, hoặc sa đọa vào chỗ thấp hèn đen tối.
Và Hội Long Hoa sắp mở để chọn lọc hiền còn dữ mất, nên Ngài kêu gọi khắp nhân sanh sớm quay đầu hướng thiện cho kịp thời kỳ Long Hoa đại hội.
Đã đặt chân vào cửa Đạo, mỗi người phải đền xong nợ thế, tức vừa đền đáp Tứ ân, vừa ngăn chừa 10 điều ác, vẹn tròn ân nghĩa. Đức Phật và Đức Thầy đầy lòng từ bi độ chúng, thế mà có nhiều nguời nhạo chê bác bẻ, e ngày kết cuộc phải chuốc lấy sự sầu đau hận tủi.
CHÁNH VĂN
71. “Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển,
Xứ “Hà-tiên” linh-hiển cơ quan.
Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng,
74. Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra.
Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn,
Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông.
Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng,
78. Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.
Phật chỉ dạy qui tam lập hội,
Dựng cho rồi một cội thành ba.
Chớ mong yến thử ẩm hà,
82. Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con ?
Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia.
Cả kêu lớn nhỏ quày vìa,
86. Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân.
Long-Hoa hội ân-cần lo lập,
Lập cho rồi tam-thậ-lục nhơn”.
CHÚ THÍCH:
HÀ TIÊN: Chữ Hà có nhiều nghĩa: Hà là sông, là chữ dùng để hỏi: Làm sao? Cái gì ? Ở đâu ? ; Tiên là trước, là đầu mối, là địa danh. Hiểu chung hai chữ Hà Tiên có ba nghĩa:
- Hà tiên là tiếng dùng để hỏi “Ông là vị Tiên nào? Ở đâu? Như ông Chín Diệm (Nguyễn Kỳ Trân) hỏi Đức Thầy: “Vị tri đại đức giáng hà tiên”.
- Hà Tiên là địa danh, tức tỉnh Hà Tiên.
- Hà tiên là sông trước, tức sông Tiền Giang.
Năm 1939, nước lớn lúa ngoài đồng bị ngập lụt. Con đường trước cửa Tổ Đình nước ngập tràn qua lộ. Ông Mười (một đông y sĩ) từ nhà ở chợ Mỹ Lương đi xuống Tổ Đình ; khi ông Mười gần tới cửa Tổ Đình, Đức Thầy đã đứng sẵn tại đó đợi ông, chấp tay vái chào rồi hỏi:
- Nghe ông Mười thông suốt chữ Hán, hôm nay xin phép ông cho tôi hỏi một vài chữ được chăng ?
Ông Mười cười đáp:
- Muốn hỏi gì thì cứ hỏi, chớ xin phép xin tắc gì cậu! (Lúc đó ông Mười chưa qui y, nên mới xưng hô với Ngài như vậy).
Đức Thầy hỏi tiếp:
- Hà Tiên là gì ông Mười ?
- Việc đó dễ ợt, có gì khó đâu mà cũng hỏi. Hà Tiên là một trong 20 tỉnh Nam Kỳ của mình, nằm phía trên tỉnh Rạch Gía, giáp biên giới Miên-Việt. Nơi ấy có lăng Mạc Cửu và nhiều cảnh đẹp như Thạch Động, Đá Dựng, Mũi Nai.
Đức Thầy vừa cười vừa nói:
- Ông giải nghĩa không đúng rồi ông Mười ơi !
- Cậu nói sao ? Theo cậu, Hà Tiên có nghĩa như thế nào?.
- Ông chịu thua đi tôi sẽ giải nghĩa cho nghe !
- Thì chịu thua đó, cậu giải đi, nếu giải không đúng lý thì không được với tôi nghe !
Bấy giờ nước ngập sát mé đường, Đức Thầy liền ngồi xuống vừa lấy tay khoát nước vừa nói:
- Hà là sông, Tiên là trước. Nói chung hai chữ Hà Tiên là sông trước, tức là sông Tiền Giang trước mặt mình đây. Còn sông bên kia (sau lưng) là sông Hậu Giang. Có thế mà ông không hiểu lại trả lời là tỉnh Hà Tiên làm sao đúng với câu hỏi của tôi.
Đức Thầy giải xong, ông Mười và mọi người nghe từ đầu tới giờ đều thì thầm bàn tán:
- Ý phàm sao bằng ý Phật !
Tóm lại chữ Hà Tiên mà Đức Thầy dùng trong câu giảng “Xứ Hà Tiên linh hiển cơ quan”, có nghĩa là Sông Trước (Tiền Giang).
NHƠN HOÀNG: Vị vua cõi người. Đây chỉ cho vị Chuyển Luân Thánh Vương của cõi đời Thượng nguơn Thánh đức tới đây.Trong Sấm Giảng (Q.3), Đức Thầy viết:
“Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.
Ấy là đến lúc xuê xang,
Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Nguơn”.
Á ĐÔNG: Á là Châu Á . Thế giới có năm châu: Á, Âu, Mỹ, Phi, Úc. Nước Việt Nam ở phía Đông Nam châu Á tức thuộc vùng Á Đông nói chung.
GIỐNG DÒNG: Cũng nói dòng giống hay nòi giống. Ví dụ: Dòng giống Rồng Tiên hay dòng giống Lạc Long. Đức Thầy từng nói:
“Thiệt chẳng hổ giống dòng Nam Việt,
Từng nêu cao khí tiết Lạc Hồng”.
(Tế Chiến Sĩ Trận Vong Vườn Thơm)
CỘT ĐỒNG NHÀ NAM: Thành ngữ nầy do câu:
“Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt”, xuất phát từ thời Bắc thuộc lần thứ hai.
Sau khi Mã Viện, tướng nhà Đông Hán, đánh thắng Hai Bà Trưng , liền sát nhập đất Giao Chỉ thuộc về nhà Hán. Mã Viện cho chỉnh đốn binh lương, đem quân đánh dẹp các nơi, đi đến đâu cho xây thành đắp lũy đến đó, cải cách chính trị trong các quận. Mã Viện đem phủ trị về Mê Linh và dựng cây cột đồng ở chỗ phân chia địa giới, có khắc sáu chữ: “ĐỒNG TRỤ CHIẾT, GIAO CHỈ DIỆT” (Chừng nào cây đồng trụ nầy đổ thì người Giao Chỉ phải mất nòi). Bấy giờ người Giao Chỉ chúng ta vì sợ mất nòi giống nên mỗi người đi ngang qua chỗ đó đều liệng vào gốc đồng trụ một hòn đá, cốt ý làm cho cột đồng đứng vững để dân Giao Chỉ trường tồn. Lâu ngày như vậy đá chồng chất lên cao như ngọn núi, cột đồng trụ không thể ngã được.
Dùng thành ngữ “Cột đồng nhà Nam”, Đức Thầy có ý biểu dương tinh thần đoàn kết của quốc dân ta thời ấy và muốn khuyến khích người sau noi dấu.
YẾN THỬ ẨM HÀ: Yến thử (con vật giống như loài trâu nước) uống nước sông Hà. Do câu trong sách “Ấu học Huỳnh Lâm”: “Tiêu-liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến-thử ẩm hà bất quá mãn phúc”(Chim tiêu-liêu thân hình nhỏ xíu, làm ổ trên rừng, bất quá nó chỉ làm một cây thôi, chớ đâu làm hết rừng cây cho được. Còn con yến-thử thân lớn như con trâu, bụng to, uống nước thật nhiều nhưng nó chỉ uống đầy bụng thôi, chớ không thể nào uống hết nước sông Hà được). Điển nầy có hai dụng ý: Ý thứ nhứt nói người có tâm trí nhỏ hẹp mà muốn làm việc lớn bao hàm thế gian thì không thể được.Ý thứ hai nói người có lòng tham lam bao gồm tiền của thật nhiều đi nữa, cũng chỉ hưởng được một đời thôi, chớ chẳng thể sống hưởng hoài được. Ở đây Đức Thầy muốn nói đến ý thứ hai.
MƯỜI NGÀN NĂM LẺ CỬA NHÀ ĐÂU CON: Câu nầy có ý nói tất cả chúng sanh đã có từ vô thỉ, quê quán đều ở cõi Niết Bàn hay Cực Lạc, cùng gốc một bản thể với chư Phật Thánh Tiên. Nói gần hơn, gốc mỗi chúng ta đều có mặt trong đời trước đây trên mười ngàn năm (tức từ thời Thượng nguơn Thánh đức), nhưng vì lòng còn tham nhiễm của tiền vật chất trong cõi hồng trần mà nay lại nỡ quên đi quê hương nhà cửa, chạy theo cảnh giả tạm, rồi phải luân hồi sanh tử cho đến giờ mà chưa chịu quày về quê xưa cảnh cũ của mình.
TAM THẬP LỤC NHƠN: tức 36 vị Thánh Tiên. Vào năm 1939, lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình Hòa Hảo bấy giờ ông Nguyễn Chi Diệp có hỏi Ngài:
-Nhờ Đức Thầy cho biết ý nghĩa bài thi, Ngài đáp họa cho ông Huỳnh Hiệp Hòa:
“Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
Khóc tử lang tâm biến họa dân.
Tà quái hạ nguơn khai ác chiến,
Ất niên bình thự kiến quân thần”.
(SGTVTB2004, tr. 281)

Đức Thầy nói:
- Các ông rán tu rồi sau thì biết !
Ông Diệp và mọi người cứ nài nỉ mãi Ngài mới nói:
- Tôi chỉ cho các ông biết một phần thôi còn bao nhiêu thì tự suy luận ! Vào khoảng cuối thời kỳ Hạ nguơn, có 3.600 manh mối tà đạo ra đời dùng đủ phương tiện, có khi tà pháp tàn hại sanh linh: “Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân”. Bấy giờ cũng có 36 vị Phật Thánh “Tam thập lục nhơn” ra đời trừ dẹp số ấy, lập hội Long Hoa, kiến tạo đời Thượng nguơn Thánh đức, đem lại sự thái bình an lạc cho dân chúng.
LƯỢC GIẢI:
Đoạn giảng trên ý nói năm Thìn nào đó, tại sông Tiền Giang sẽ hiển rõ cơ quan của trời đất cho dân chúng biết. Đến đó khắp bá tánh đều hiệp nhau trên con đường hiền lành đạo đức để lập hội Nhơn Hoàng.
Vì lòng từ bi, Đức Giáo Chủ giải bày cho nhơn sanh rõ, khi nào có Thánh vương xuất hiện thì cả vùng Đông Nam Á sẽ rạng rỡ khắp năm châu. Có điều là mỗi người phải tưởng nhớ đến nòi giống Lạc Hồng đã trải năm ngàn năm và đã từng thương yêu đoàn kết xây dựng cột trụ vững chắc cho nước nhà đến ngày hôm nay.
Ngài còn cho biết theo lời truyền dạy của Tổ Thầy thì cả tam giáo Phật Thánh Tiên cần hiệp nhứt để lo độ dân cứu nước. Chẳng nên say đắm những vật chất tạm giả hiện tiền, vì những thứ đó đã làm cho chúng ta phải lìa quê hương bản xứ và chuyển luân trong sáu nẻo luân hồi trên mười ngàn năm rồi.
Mỗi khi nhắc đến chuyện đó, Đức Giáo Chủ quá thương xót chúng sanh, nên Ngài kêu gọi toàn dân hãy thương yêu đoàn kết lẫn nhau. Nhứt là phải quay về con đường đạo đức để được có mặt dự Hội Long Hoa, gặp Phật gặp Thầy. Bởi ngày ấy Phật Trời sẽ phân định hiền còn dữ mất, và “Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.
CHÁNH VĂN
89. “Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn,
90. Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo.
Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc,
Đứng sau lưng hình-vóc dảy chưn.
Nước kia lửa nọ tưng-bừng,
94. Thảm cho thế-sự lẫy-lừng nạn tai.
Thời cũng tại không ai tu niệm,
Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang.
Đến nay là buổi tai-nàn,
98. Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.
Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo động,
Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.
Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
102. Nạn-tai dồn-dập xóm làng còn chi.
Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo ,
Lòng hằng lo ngay thảo nghe con.
Tương dưa giữ phận cho tròn,
106. Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân”.
CHÚ THÍCH:
LÔI ÂM GIỤC KHỞI TIẾNG ĐỜN: Lôi Âm nói cho đủ là Lôi Âm Tự ở Tây Thiên Trước, tức chùa Lôi Âm (Ấn Độ) nơi Đức Thích Ca thường cư ngụ thuyết pháp. Tiếng đờn là chỉ cho lời thuyết giáo của Phật. Ý nghĩa nguyên câu là Đức Thầy nói về giáo pháp của Đức Phật Thích Ca giáo hoá chúng sanh:
“Đờn lôi âm khởi điệu êm tai”(D. P. Quang Minh).
THẤT SƠN: Bảy Núi (Xem lại CT tại Q. Thượng
Tập 1/3, tr. 106-108).
DẤY LOẠN: Cuộc loạn lạc nổi lên.
LẲNG LƠ: Tánh cợt nhả, lả lơi, chỉ người đàn bà không có hạnh nết“Gái lẳng lơ tiếng quyển lời đờn” (Q.5)
BAO BIẾM: Kiêu căng tự đắc và hay chê bai, biếm nhẽ người.
“Mặc ai biếm nhẽ gần xa,
Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm”. (Q.1)
TAM THIÊN LỤC BÁ: Ba ngàn sáu trăm (3.600) manh mối tà đạo. Đức Thầy từng viết:
“Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
Khóc tử lan tâm biến họa dân”.
(Họa Thơ Ô.Huỳnh Hiệp Hòa)

THÂN DẬU: Chỉ hai năm Giáp Thân và Ất Dậu (1944&1945), cuối thế chiến thứ hai.
NÁO ĐỘNG: Không an ổn NHÀ TRỐNG RUỘNG HOANG: Cảnh chạy giặc: nhà dỡ vách bỏ trống vì sợ giặc đốt, đồng ruộng bỏ hoang.
LƯỢC GIẢI:
Đại lược các câu giảng trên Đức Thầy nói Sấm Kinh của Ngài lấy gốc từ Đức Phật Thích Ca thuyết giáo; nó ví như tiếng đờn dễ rung cảm các căn lành sớm thức tỉnh tu hành. Ngài còn cho biết chừng nào tại vùng Bảy Núi miền Nam nước Việt có giặc loạn xảy ra, cảnh hiểm nguy sẽ đến với dân chúng như: nước dâng, lửa cháy, thây thi nằm chật đất, đầy tiếng kêu than thảm thiết.
Cảnh trạng đó là do từ trước tới giờ rất ít người tạo nhân lành, chỉ lo chê bai nhạo báng người tu, khinh khi Trời Phật, gây việc hung ác, nên phải trả quả. Ngài còn nói rõ đến ngày kết cuộc sẽ có ba ngàn sáu trăm (chỉ số nhiều) manh mối tà đạo xuất hiện; họ bày đủ mưu mô xảo quyệt, khí giới tối tân để tàn hại sanh linh.
Đoạn tiếp, Đức Giáo Chủ tiên tri đến hai năm Thân và Dậu, dân chúng phải chịu nạn tai dồn khiến Thần Thánh cũng không yên; nào cảnh nhà trống ruộng hoang xóm làng tan tác, tiếng than khóc khắp nơi, lệ tràn khô ráo.
Do đó, Đức Thầy khuyên dạy khắp chúng dân sớm quày đầu hướng thiện, ghi nhớ lời giáo huấn của Phật của Thầy để thiệt thi cho tròn vẹn hai điều trung và hiếu, đó là then chốt của đạo làm người. Đồng thời phải chừa nghiệp sát sanh bằng cách vẹn gìn trai giới, kiên nhẫn tu hành chờ đến hai năm Thân Dậu, Phật Trời sẽ phân định việc hư nên còn mất cho cả nhân loại.
CHÁNH VĂN
107. “Trong một giáp ân-cần suy tính,
Muốn làm hiền rán nhịn đừng than.
Đến nay gần buổi khoa tràng,
110. Minh-Quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi.
Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ,
Hết đa- binh qui cổ diệt kim.
Gia vô bế hộ im-lìm,
114. Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia.
Thì dân-chúng danh bia hậu thế,
Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành.
Diệt tà lập chánh đành-rành,
118. Ba màu nắm chặt Nam-thành xử phân.
Trong tam giáo ân-cần mở Đạo,
Trường ngoại bang phục đáo như xưa.
Phật Tiên vận-chuyển lọc-lừa,
122. Chúng sanh rán nhớ muối dưa hội nầy”.
CHÚ THÍCH:
MỘT GIÁP: Giáp là chữ thứ nhứt trong thập can; mỗi can chỉ một năm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Một giáp nhỏ là 10 năm, một giáp lớn là 60 năm.
KHOA TRÀNG: Cũng gọi là khoa trường thi cử. Học văn chương tới kỳ hạn phải vào truờng thi để biết đậu rớt cao thấp. Còn kẻ học Đạo hay hành Đạo cũng có cuộc thi. Giảng xưa Bửu Sơn Kỳ Hương có câu:
“Phật thi đức, trào quốc thi văn,
Nhơn tùng thi chánh nhơn tăng thi lòng”.

Theo Sấm thi PGHH thì việc thi cử có nhiều cách: thi cả đức lẫn tài trí, trong lúc đang tu đã có thi rồi. Thi cử trải qua thời gian dài dặt, coi ai có bền lòng hay không . “Ít ai giữ đặng chí bền, Tu theo nước lớn ròng bèn thả trôi”. Thi với vật chất tức đối đầu trưốc Danh Lợi Tình câu nhữ; thi với tà đạo thì thính linh lôi kéo; cuối cùng thi tại trường thi Đại Hội Long Hoa thì hiền còn dữ mất. Đức Giáo Chủ từng khuyến tấn: “Nếu chần chờ e trễ kỳ thi”. Và:
“Đến kỳ thi danh thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn” (Nang Thơ Cẩm Tú)

MINH QUÂN: Ông vua sáng suốt minh chánh. Đây chỉ cho vị thánh vương đời Thượng nguơn Thánh đức.
CƠ TRỜI THẤY LỘ: Sắp tới đây, bộ luật tuần hoàn của tạo hóa sẽ hiển lộ xoay chuyển cho dân chúng thấy rõ trước mắt.
QUI CỔ DIỆT KIM: Tiêu diệt thời nay để xây chuyển lại thời xưa. Bởi người xưa thật thà chơn chất, con người nay thì xảo quyệt gian tà:
“Tận kim bởi quả kim điêu xảo,
Thế cổ vì nhân cổ thật thà”.(Thanh Sĩ)
Đức Thầy từng nói:
“Người xưa tuy ít chữ nôm na,
Chớ chơn chất người ta ngay thẳng”.

GIA VÔ BẾ HỘ: Nhà không đóng cửa, chỉ cho đời thái bình an lạc, như thời Nghiêu Thuấn thuở trước. Nhà dân chúng khỏi lo đóng cửa, ngoài đường của rơi không người lượm. Đây chỉ cho đời Thượng nguơn Thánh đức.
NAM THÀNH: Thành trì nước Việt Nam.
TRONG TAM GIÁO: Ba nền đạo lớn mà dân tộc Việt Nam ta đã tôn thờ từ trước: Phật Giáo, Lão Giáo và Thánh Giáo.
PHỤC ĐÁO NHƯ XƯA: Được hưng phục trở lại như thời xưa. Vào thời nước nhà có quyền tự chủ (Đinh, Lê, Lý Trần, Lê tức thời Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, các vua nhà Trần, các vua nhà Hậu Lê), người Việt ta rất tôn sùng Tam Giáo. Các nhà vua thuở đó thường mở khoa thi chọn người dung thông tam giáo ra giúp nước, nên cả nước đều xem Tam Giáo là Quốc Đạo. Sự đoàn kết của toàn dân rất chặt chẽ và đủ tinh thần nghị lực đuổi giặc xâm lăng phương Bắc.
LƯỢC GIẢI:
Bốn câu giảng trên Đức Thầy cho biết PGHH ra đời một năm sau là lâm vào vòng pháp nạn: nhưng Ngài khuyên môn đồ đã dốc chí tu hiền thì phải rán nhẫn nhịn và kiên tâm bền chí cho qua một con giáp lớn (60 năm) mới hết khó khăn. Và phải đợi khi nào có vị Thánh vương xuất hiện, người tu sẽ hoàn toàn tự do thong thả.
Đức Giáo Chủ còn nói: Đến hai năm Thân Dậu nào đó, cơ huyền tạo hóa sẽ lộ rõ, chiến tranh chấm dứt; đời Hạ nguơn sẽ chuyển lại thời Thượng nguơn Thánh đức như xưa. Khi ấy toàn dân chung hưởng cảnh thái bình an lạc (Gia vô bế hộ), ai ai cũng đều biết lo tu hành đạo đức.
Bấy giờ cả dân chúng đều thống nhứt qui ngưỡng theo tinh thần Tam Giáo, khi ấy chư Phật Thánh Tiên (Tam Giáo) căn cứ nghiệp quả của mỗi chúng sanh mà mở cơ chọn lọc “Diệt tà lập chánh”.
Hiện giờ chư Phật Thánh Tiên đều lâm phàm khai Đạo, khuyên nhủ nhân sanh sớm thức tỉnh qui về nẻo đạo, trai giới vẹn gìn, đó là nguyên nhân hưởng sự thái bình sắp tới. Bằng ai không hồi tỉnh, mãi gây nghiệp sát hại, hành động gian tà hung ác tất đành chịu cuộc chọn lọc “hiền còn dữ mất”.
CHÁNH VĂN
113. “Trên cùng dưới sum vầy một buổi,
Dựng mười hai may rủi mới hay.
Làm cho rõ mặt râu mày,
126. Thượng-nguơn hồi-phục là ngày an-cư.
Cuối Thân Dậu y như Thượng-cổ,
Thời nhơn-sanh hết khổ đến may.
Đế-Vương xuất thế là ngày,
130. Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca.
Phân chỉ rành gần xa để dạ,
Chớ đảo điên phải đọa phải sa.
Nghĩ suy cho thấu mới là,
134. Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi.
Khuyên sanh chúng nhớ lời ta tỏ,
Trước sau cùng chỉ rõ mối đàng.
Nhơn-sanh giữ phận chớ than,
138. Minh-Vương xuất thế mới an dân lành”.
CHÚ THÍCH:
DỰNG MƯỜI HAI: Tức mười hai bến nước. Sở dĩ hiểu các chữ nầy do thành ngữ “Mười hai bến nước”, là vì Đức Thầy viết câu nầy có kèm hai chữ rủi may. Có nghĩa sống trong xã hội loài người có nhiều hạng khác nhau do hai từ may và rủi. Như may thì đặng giàu sang vinh hiển, sung sướng an vui. Rủi thì gặp nghèo hèn, gian lao cực khổ.
Mười hai bến nước gồm có: Sĩ (học trò), Nông (làm ruộng), Công (thợ thuyền), Thương (buôn bán), Ngư (chài lưới), Tiều (đốn củi), Canh (trồng tỉa), Mục (chăn nuôi), Công (tước Công trong hàng quan lại), Hầu (tước Hầu…), Bá (tước Bá…), Tước (tước Tước….). Trong văn chương người ta thường dùng thành ngữ 12 bến nước để chỉ cho duyên phận của người phụ nữ, khi đi lấy chồng; được may thì nhờ, gặp rủi thì đành phải chịu:
“Linh đinh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước gởi mình vào đâu? (Ca Dao)

Ở đây, Đức Thầy dùng thành ngữ “dựng mười hai” tức 12 bến nước trong câu giảng nầy là ý chỉ khuyên người tu hành trước khi tu phải chọn nền Đạo mà qui theo. Nếu được chánh đạo là may, còn lâm vào tà đạo là rủi. Như Ngài đã xác định và dặn dò môn đồ:
“Chọn bến nước rủi may trong đục,
Nếu chần chờ lục đục trễ chơn”.
(Vọng Bắc Hòa Nam)

ĐẾ VƯƠNG: Đế nghĩa là vua mà Vương cũng là vua, nhưng ở đây hai chữ đi cặp là muốn nói tới Đức Minh Vương tức ông vua minh chánh sáng suốt: “Thương Minh Vương bắt chước Thuấn Nghiêu, Lòng hiền đức nào ai có biết”. (Kệ Dân, Q.2)
HỒNG LẠC: Cũng gọi là Lạc Hồng ý chỉ cho vua Lạc Hồng họ Hồng Bàng. Nhà vua có công lập quốc và gầy dựng nòi giống Việt Nam ta. Do đó, người Việt Nam từ trước đến nay đều cho mình là con Rồng cháu Tiên, hay con cháu Lạc Hồng:
“Hồng Lạc giống xưa rất tuyệt vời,
Và: “Bay mùi thơm cả Tây Đông,
Bắc Nam nhơn vật Lạc Hồng thảnh thơi”.

LƯỢC GIẢI:
Đoạn Giảng trên ý cho biết hiện giờ đất nước Việt Nam đang bị mất quyền tự chủ, như trong một gia đình thiếu người cha cai quản. Nền Đạo gặp hồi pháp nạn nhưng tín đồ hãy tin tưởng sẽ có một ngày chúa tôi thầy trò sum hiệp. Người tu hành đang sống trong cảnh rủi, đầy gian lao khổ nạn, song nếu biết nhẫn nại lo tu thân sửa tánh cho đến ngày lập lại Thượng Nguơn tất được thong thả an vui.
Đức Giáo Chủ cũng cho bá tánh hiểu thêm đến hai năm Thân Dậu, nước ta chẳng còn khổ như đã thấy. Vì đến đó “Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”, lập lại đời Thượng nguơn an lạc.
Do đó, hiện giờ Ngài kêu gọi vạn dân và môn đồ hãy ghi nhớ lời phân chỉ hầu lo trau thân hành đạo, không nên làm ngược lại mà sau nầy phải chịu đọa sa khổ não. Đồng thời hãy dùng trí tuệ xét suy cho thấu đạt chơn lý của Đạo để làm định hướng trên đường tu tiến hầu sau nầy cả nòi giống đều được thảnh thơi an hưởng.
CHÁNH VĂN
139. “Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm,
Xin giúp chí bền, chí dục tâm.
Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực,
Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.
* * *
143. Từ bi Trời Phật độ quần sanh,
Cứu khổ tai ương vạn sự lành,
Đệ-tử gội nhuần ân đức cả
146. Chung thân quyết chí dốc tu hành”.
CHÚ THÍCH:
GỘI ƠN: Nhờ các bậc bề trên ban ân huệ xuống. Ví dụ: Nhờ Trời Phật, vua, quan hay nhờ cha mẹ giúp đỡ.
CHÍ BỀN: Cũng gọi là bền chí. Ý nói đã quyết chí tu hành, dù gặp sự gian lao trở ngại cũng bền dẻo, kiên tâm trì chí cho đến khi thành công. Đức Thầy từng dạy: “Đạo Phật là đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ” bền bỉ dẻo dai, dung hòa nhẫn nại.
QUAN ÂM: Xem lại CT tại Q.Thượng Tập 2/3, tr. 196-197.
Ý NHIỆM: Sự mầu nhiệm trong tâm ý con người. TỪ BI: Xem lại CT tại Q. Thượng Tập 1/3, tr 40.
QUẦN SANH: Cũng gọi là quần sinh. Quần là bầy, đông nhiều, chỉ cho số người đông; Sanh là các giới chúng sanh trong xã hội loài người. Đức Thầy từng nói: “Với quần sanh họ mang cái ơn rất nặng, cho nên họ phải dìu dắt sanh linh đi tìm chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của thiện tín”.
GỘI NHUẦN ÂN ĐỨC CẢ: Nhờ ơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) giác tỉnh và ban phúc huệ cho chúng sanh thấm nhuần lý diệu mầu Phật pháp giác ngộ tu hành:
“Nhuần gội ơn trên rải đạo mầu”. (Tối Mùng Một)
LƯỢC GIẢI:

Đoạn nầy gồm hai bài thi tứ cú. Ý nói chúng sanh đang sống trong thời Hạ nguơn mạt pháp mà được giác tỉnh tu hành theo chánh đạo là nhờ ơn Trời Phật ban bố. Vậy mỗi người hãy nuôi chí bền lòng tu tiến cho đạt đạo. Đồng thời hãy cầu nguyện Đức Quan Âm Bồ Tát dùng thần lực hộ trì thêm cho chúng ta sớm thấu đạt lý mầu nhiệm nơi tâm ý mình.
Chư Phật luôn có lòng từ bi bác ái, lúc nào cũng muốn cứu vớt nhơn sanh, nên các Ngài truyền dạy mỗi người hãy rán làm lành lánh dữ, để thoát khỏi tai nạn trong thời biến hoại tới đây. Chúng ta đã gội nhuần ân đức của các Ngài thì hãy quyết tâm dốc chí tu hành hầu đền đáp những đặc ân mà mình đã thọ nhận.
CHÁNH VĂN
147. “Buồn vơi mượn bút tay đề,
Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang.
Tay chèo miệng nói lang-mang,
150. Chúng-sanh cách trở nghèo-nàn hỡi ai.
Lục-châu ta dạo bằng nay,
Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan.
Động tình tá quốc an bang,
154. Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh.
Bây giờ ta mượn kệ kinh,
Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an.
Bữa xưa giảng-kệ một nang,
158. Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa.
Ngày nay ta cũng nôm-na,
Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,
162. Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân”.
CHÚ THÍCH:
BUỒN VƠI: Hơi buồn (từ thường dùng để mở đầu câu văn có tánh cách buồn than).
LANG MANG: Cũng viết là lan man. Có nghĩa nói chuyện nầy kế tiếp sang chuyện khác, không dứt. Ở đây Đức Thầy nhắc lại lúc đi dạo lục châu, tay Ngài vừa chèo miệng vừa kể chuyện khuyên tu không dứt.
LÊ THỨ: Lê là đen; Thứ là đông, nhiều. Có cùng nghĩa như chữ lê dân (dân đen) để chỉ tất cả dân chúng.
TÁ QUỐC AN BANG: Bảo vệ giang san tổ quốc và giúp cuộc trị an cho quốc gia dân tộc.
BỮA XƯA GIẢNG KỆ MỘT NANG: Bữa xưa chỉ thời thời của Đức Phật Thầy, trên 100 năm trước. Giảng kệ là lời Sấm Giảng khuyên tu của Đức Phật Thầy. Một nang có hai nghĩa:
1/- Một nang thơ hay cái cẩm nang do người trước (bậc thầy hay cha mẹ) lưu chiếu lại để dặn dò người sau hoặc kẻ dưới tay y theo đó mà thi hành công việc.
2/- Một nang là cái mo nang gói những kỷ vật lưu để đời sau, bảo vệ được lâu ngày không bị chuột, gián gậm rách. Ở đây chỉ cho cái mo nang do Đức Phật Thầy gói các kỷ vật và quyển Sấm Truyền lưu để từ trên 100 năm trước, người sau tìm ra được ở Tòng Sơn. (Loại cau ăn trầu, mỗi buồng có vỏ bao bọc bên ngoài gọi là mo nang. Thời xưa người ta dùng mo nang để cắt làm quạt, hoặc để gói cơm, gói trầu cau vôi thuốc đem theo đường, không bị hư ướt).
Khi xưa, Đức Phật Thầy Tây An rời khỏi làng Tòng Sơn đi vân du các nơi rồi sau đó dừng chân tại Trà Bư, gần mộ Phật Mẫu ở Rạch Cái Nai, xã Hội An ngày nay. Bấy giờ bịnh ôn dịch lan tràn khắp nơi, bịnh nhơn đến nhờ Ngài điều trị rất đông. Ở làng Tòng Sơn cũng thế, dân làng nhờ ông Đoàn Văn Viên và Đoàn Văn Điểu (Bà con chú bác với Ngài) đến Trà Bư nài nỉ yêu cầu Ngài trở về làng độ bịnh cho dân chúng. Ngài không nhận lời vì nơi đây bịnh nhơn còn rất đông. Ngài bảo các ông ấy trở về Đình, vào chỗ Ngài nghỉ lúc trước, tìm lấy cái nang bằng mo cau, dùng làm đảy đựng vật dụng mà Ngài đã để lại đó. Trong đây có cây thẻ năm ông, ai có bịnh hãy vạt một miếng, khẩn vái Trời Phật rồi về nấu nước uống thì bịnh chi cũng tiêu trừ.
Thật vậy, trong cái mo nang còn lại, người ta thấy có một quyển Sấm Giảng, một tấm trần đỏ và một cây cờ ngũ sắc (thẻ năm ông). Tấm trần đỏ thì được thượng lên thờ tại Đình, quyển Sấm Giảng được truyền tay nhau đọc, còn cây cờ ngũ sắc thì chỉ trong ít ngày người ta thỉnh về uống sạch chẳng những lá cờ mà còn cả cán cờ, chưn nhang và tro nhang trên bàn cũng không còn. Bằng phương pháp đơn sơ như vậy, Đức Phật Thầy đã chận đứng được luồng bịnh ôn dịch tại làng Tòng Sơn.
DỜI THOÀN: Cũng đọc là dời thuyền. Ý chỉ lúc Đức Phật Thầy rời đình Tòng Sơn ra đi bằng chiếc xuồng bần.
NÔM NA: Tiếng nói thông thường của người dân Việt. Chữ Nôm là một thứ chữ đặc biệt của người Việt, dùng từ thời chúa Nguyễn trở về trước. Chữ viết hình thể giống chữ Hán vì mượn nét chữ Hán nhưng không phải chữ Hán, song đọc ra âm Việt Nam nên ai cũng nghe hiểu.
Sau đó, theo trào lưu tiến hóa của nước nhà mà Đức Thầy viết Sấm Giảng bằng chữ quốc ngữ như ngày nay.
TUẤT HỢI: Hai năm Tuất và Hợi. Đức Giáo Chủ tiên tri đến hai năm đó, Phật Trời sẽ phân định đâu ra đấy. Đây là Thiên cơ, chúng tôi không dám quyết định là năm nào mà chỉ dẫn vài chỗ Ngài đã nói trùng hợp như sau:
“Tuất Hợi nhị niên giai tiền định,
Huờn lai thượng cổ mới bình yên”. Và:
“Sáng ngày con chó sủa tru,
Chừng heo cắn ổ hiềm thù mới yên”.
Hay là:
“Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân”.

LƯỢC GIẢI :
-Đoạn nầy Đức Thầy cho biết tiền thân của Ngài đã an tâm tu dưỡng nơi cảnh Tiên, nay vì quá thương xót chúng dân nên lâm phàm dùng bút mực viết ra Kệ Giảng, khuyên bá tánh thức tỉnh tu hành. Ngài chèo ghe khắp đó đây, miệng không ngớt khuyên nhủ bá tánh tỉnh tâm tu niệm.
-Lúc mới ra đời, Ngài có mượn chiếc ghe của Đức Ông đi dạo qua sáu tỉnh miền Nam. Nhân thấy khắp chúng sanh đang trong cảnh nước mất nhà tan, đói đau nghèo khổ, khiến Ngài kích động mối tình yêu dân mến nước, nên quyết tâm bảo vệ quốc dân Việt Nam cho đến ngày quang vinh tươi sáng.
-Trước nhất, Ngài mượn lời Kinh Giảng kêu gọi mọi người hãy sớm trau sửa thân mình cho tròn vẹn. Đức Giáo Chủ cũng nhắc lại tiền thân của Ngài (tức Đức Phật Thầy Tây An) cách đây trên 100 năm, khi Ngài rời khỏi làng Tòng Sơn, Ngài có lưu lại cho đời một quyển Sấm Truyền để trong cái mo nang mà sau đó tín đồ đã tìm gặp.
-Ngày nay, Ngài trở lại cũng dùng Kệ kinh khuyên lơn trần thế hãy sớm thức tỉnh tu hành hầu khỏi nạn khổ sầu sắp tới. Điều cần nhất là mỗi người hãy rán kiên nhẫn tu hành chờ tới hai năm Tuất Hợi, Phật Trời sẽ định ngôi phân thứ, toàn dân đến đó sẽ hưởng cảnh vui tươi thong thả.
CHÁNH VĂN
163. “Chim Ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót cho gần người nay.
Người nay rồi vẹn thảo ngay,
Thì là thấy tạn mặt mày người xưa.
Nguyện cầu gắng chí sớm trưa,
168. Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành.
Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành,
Mau mau trau trỉa chữ lành cho xong.
Đến chừng lập hội mới mong,
172. Trở về chúa cũ mới hòng xuê-xang.
Người hiền như thể cỏ lan.
Người hung chết rất chật đàng thảm thay.
Cả kêu kìa hỡi là ai,
176. Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau.
Lui chơn ra khỏi cho mau,
Tìm trong lánh đục tẩu-đào mới ngoan.
Theo ta đến chốn Tiên-bang,
180. Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non”.
CHÚ THÍCH :
CHIM Ô ĐÀ DỰA CẦU NGÂN: Chim ô nói cho đủ là chim ô thước, tức là chim quạ và chim khách. Hai loại chim nầy đều có sắc lông đen nhánh nên gọi là ô; chim khách có đặc tính là báo tin có khách đến. Theo truyền thuyết, chim quạ thì đội đá bắc cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau tại sông Ngân Hà. Ý nói những người có duyên lành với nhau thì sớm muộn gì cũng hội hiệp.
Hai người vốn là hai ngôi sao trên nền trời (sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ), chữ Ngâu là do chữ Ngưu đọc trại. Chàng Ngưu Lang thì lo việc chăn nuôi, cày cấy, còn Chức Nữ thì lo thêu dệt vá may. Cả hai rất siêng năng, Thượng Đế thấy thương nên cho hai người kết duyên tơ tóc, nhưng khi thành đôi bạn thì lại sanh lười biếng. Thượng Đế bắt tội đày mỗi người một nơi ngăn cách bởi sông Ngân Hà. Hằng năm cứ tới ngày mùng bảy tháng bảy hai người mới được gặp nhau một lần tại bến sông nầy.
Tương truyền lúc Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, có chim ô thước đến đội đá bắc cầu cho đôi đàng hiệp mặt.
Tóm lại, Đức Thầy dùng điển tích nầy trong đoạn giảng nói trên là ý nói chúng ta (môn đồ) cùng Ngài đã có duyên thầy trò với nhau từ lũy kiếp. Nay Ngài mới trở lại dìu dắt chúng ta tiến lên con đường Đạo:
“Bấy lâu chạnh cám ô ngân,
Ngày nay hiệp mặt phân trần sạ duơn”.

Giờ đây tuy thầy tớ còn xa cách, song môn đồ nào biết xử sự thảo ngay cho tròn vẹn ắt một ngày kia chúa tôi, thầy tớ sẽ trùng phùng.
NGƯỜI XƯA: Là nghĩa của người cổ, tức người đã có mặt độ đời trên 100 năm về trước. Ở đây chỉ cho Đức Phật Thầy Tây An, vì Ngài đã nhiều lần chuyển kiếp giáo độ chúng sanh.
THẢO NGAY: Cũng gọi là ngay thảo. Thảo là tôn kính và vâng lời dạy bảo của ông bà cha mẹ. Ngay là trung thành ngay chánh với tổ quốc. Thảo và ngay là hai vấn đề then chốt của đạo làm người:
“Thế gian ngay thảo đáp đền,
Ngày sau sẽ được chăn mền thơm tho”.
TRAU TRỈA: Cũng viết là trau tria. Có nghĩa là trau chuốt giồi mài cho trơn láng tốt đẹp, nghĩa của sự tu.
CHÚA CŨ: Ông vua rất minh chánh đã có nhiều lần cai quản đất nước Việt Nam, giờ đây sắp trở lại trị vì.
XUÊ XANG: Sung sướng tốt đẹp.
CỎ LAN: Cũng gọi là hoa lan, loại cỏ phụ sinh, sống gá rễ trên các loại cây khác, rễ bám vào da cây hoặc lan tủa ngoài không khí; có giống bám trên đá, có giống được trồng trong chậu, dưới đất. Hoa lan có mùi thơm và đẹp. Có rất nhiều loài lan: chi lan, phong lan, thạch lan, xuân lan,... Lan lại còn biểu trưng cho tư chất trang nhã, phong lưu và đẹp đẽ:
“Hiệp chung một cuộc chi lan,
Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau”.
(Bài Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

QUAN TRƯỜNG: Trường quan lại. Chỉ cho các quan chức thời Pháp thuộc:
“Quan trường miệng nói vang rân,
Mà tâm dính chặt hồng trần bụi nhơ”. (SG, Q.1)

TIÊN BANG: Nước Tiên. Chỉ cho cảnh siêu thoát hay đời Thượng nguơn Thánh đức tới đây.
NĂM NON: Xem lại CT tại Q. Thượng Tập 2/3, tr. 80-81.
LƯỢC GIẢI :
Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết Ngài và hầu hết tín đồ đều có duyên lành với nhau từ lũy kiếp và Ngài cũng đã có nhiều lần mở cơ phổ hóa; thế mà chúng sanh ít ai thấu hiểu. Nay là thời cùng cuối của buổi Hạ nguơn, Ngài có trách nhiệm độ chúng sanh sớm trau giồi thân tâm cho trọn trung trọn hiếu để ngày lập hội gặp lại Ngài.
Trên đường tu hành, Ngài cũng khuyên mọi người hãy chuyên cần hai thời công phu lễ bái và siêng xem Kệ Giảng, vì Ngài đã kể hết mọi việc trong đó. Vậy mọi người hãy nên trau sửa cho thân tâm mình sớm được trọn lành trọn sáng.
Có được như vậy, đến ngày Hội Long Hoa tới đây thầy tớ chúa tôi đồng sum hiệp. Khi đó, người hiền quí báu như cỏ lan, ai trông nhìn cũng yêu kính. Còn kẻ hung ác sẽ bị luật nhân quả đào thảy diệt vong.
-Đức Giáo Chủ cũng kêu gọi những giới quan chức thời Pháp thuộc hãy tháo ra cho khỏi kiếp cúi lòn để trở về với con đường thanh bai cao khiết hơn. Nhứt là hiệp mặt chúa tôi thầy tớ trong ngày đại hội tại vùng Năm Non Bảy Núi.
CHÁNH VĂN
181. “Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ,
Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông.
Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn,
Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý.
Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,
Rán nghĩ suy bền chí mới mầu.
Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu,
Đặng trở lợi với cha cùng chúa.
Nếu chẳng lo cũng như lá úa,
Lá úa vàng nó rụng người ôi !
Ngàn năm mới có một đời,
192. Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân.
Ai muốn gần bệ ngọc các lân,
Thì phải rán lập thân nuôi chí.
Ta cho đó ít câu hữu lý,
Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn.
Đục trong đà tỏ nguồn cơn,
198. Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha”.
CHÚ THÍCH :
ĐẠO PHẬT: Xem lại CT tại Q. Trung , tr. 16.
LAO LÝ: Lao lung, tù tội, lo lắng sầu khổ. HUYỀN BÍ: Sâu kín mầu diệu vô cùng.
LỢI DANH:Cũng nói danh lợi: tiếng tăm và lợi lộc.(Xem lại CT tại tr. 9 Tập nầy).
MỘNG SẦU: Giấc chiêm bao sầu khổ. Ý chỉ cõi đời là giả tạm, lại còn là việc khổ đau sầu hận. Giống như người mơ tưởng việc không đâu rồi chuốc lấy sự buồn khổ.
“Lâm sầu mộng ở trong trần thế”.(Thiên Lý ca).
NGÀN NĂM: Mười lần của 100 năm, đây chỉ cho số nhiều. Ví dụ: Việc đó cả ngàn đếm không xuể đâu.
“Cả ngàn năm nhơn tâm xao xuyến,
Sao tu hoài chẳng thấy ai thành”.(GMTK, Q.4)
PHẬT TRỜI XỬ PHÂN: Đến ngày lập Hội, Trời
Phật căn cứ vào luật nhân quả mà phân định, thưởng phạt công minh, chẳng sai chạy ly nào. Bài Bóng Hồng có câu:
“Có ngày mở rộng qui khôi,
Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân”.

BỆ NGỌC CÁC LÂN: Bệ ngọc là bực thềm trước cung vua, được làm bằng ngọc ngà châu báu. Các lân: các là lầu gác, lân là chất phi kim loại, có ánh sáng tự phát. Nếu để nó vào bóng tối thì tự nó sẽ phát ra ánh sáng. Hiểu chung, bệ ngọc các lân là chỉ cho nội điện của bậc vua chúa ngự, người ta xây đắp toàn bằng ngọc ngà châu báu, tự nó chiếu ra ánh sáng. Nghĩa bóng: nơi cao quý. Đức Thầy từng cho biết:
“Mấy người còn được xác thân,
Thì là đài ngọc các lân dựa kề”.(SG, Q.3)
LẬP THÂN: Gây dựng sự nghiệp cho mình. NUÔI CHÍ: Gây, theo đuổi một chí hướng.
DIỆT TÂM TRẦN: Trừ diệt lòng nhơ xấu tà ác của trần tục bằng cách giữ tâm không khởi các tà niệm chúng sanh . Đức Thầy hằng khuyên:
“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.(GMTK, Q. 4)
NGUỒN CƠN: Đầu đuôi, duyên cớ.
ĐỜN BÁ NHA: Bá Nha làm quan Thượng Đại Phu đời Tống, thời Chiến quốc (Trung Hoa), vốn là một tay chơi đàn cự phách. Trong chuyến đi nước Sở trở về, nhân một đêm trăng sáng, ông cao hứng đem đàn ra dạo tại bến Hàm Dương. Trong lúc tiếng đàn du dương, bỗng nhiên dây đứt. Ông lấy làm lạ nên sai quân lên bờ thì tìm thấy một người đốn củi, tên Chung Tử Kỳ, rình nghe. Không tin Tử Kỳ, chỉ là một hàn sĩ sống nơi hoang vắng mà thưởng thức được ngón đàn của mình, Bá Nha liền gạn hỏi Tử Kỳ: “Vừa rồi ta đã đàn bản gì?”. Tử Kỳ liền thưa: “Đó là bản Khổng Tử than khóc Nhan Hồi.” Bá Nha rất đỗi ngạc nhiên, liền mời Tử Kỳ lên thuyền uống rượu và nghe đàn. Lên dây nắn phím xong, Bá Nha đàn tiếp với ý nghĩ mình đang ở chốn non cao. Nghe qua, Tử Kỳ khen hay bảo: “Tiếng đàn của Ngài vòi vọi ở chốn non cao” (Nga nga hồ chí tại cao sơn). Bá Nha dạo tiếp một bản khác. Tử Kỳ nói: “Ý Ngài cuồn cuộn như dòng nước chảy”(Dương dương hồ chí tại lưu thủy). Bá Nha liền kết bạn tri âm với Tử Kỳ và mời Tử Kỳ về Tống để chung hưởng cảnh nhàn hạ. Tử Kỳ cảm ơn mà từ chối vì còn cha mẹ già phải phụng dưỡng. Năm sau đó, Bá Nha tìm lại cảnh cũ để cùng Tử Kỳ uống rượu thưởng đàn thì than ôi người bạn tri âm năm trước đã hóa ra người thiên cổ. Bá Nha vô cùng thương tiếc, đem đàn ra tận mộ phần bạn gảy một bản ai bi thống thiết cuối cùng, rồi đập vỡ đàn không chơi nữa, vì biết rằng không còn ai trên đời thưởng thức được tiếng đàn của mình. Điển tích “Đờn Bá Nha” nhằm chỉ ít có ai hiểu, thông cảm được mình. Cụ Phan Bội Châu cũng từng than:
“Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm’.
Bỗng nghe qua khóc trộm thương thầm,
Chung Kỳ chết ném cầm không gảy nữa.”
(Do Ban H.Đ. sưu tầm)

LƯỢC GIẢI :
Trong đoạn giảng trên đây, Đức Giáo Chủ muốn nhắc lại thời Đinh, Lê, Lý, Trần…tinh thần Đạo Phật luôn sáng tỏ. Vì cách tu hành của các Tăng Ni, Phật tử theo sát với nếp sống vô vi của Đạo Phật. Song từ khi lối tu hữu vi của Thần Tú từ Trung Hoa truyền đến xứ ta thì Đạo Phật cơ hồ như bị mờ lu xuống dốc. Bởi việc hành Đạo và truyền Đạo chỉ chú trọng dính mắc vào âm thinh sắc tướng bên ngoài.
- Vì lòng từ bi và bản nguyện chấn hưng Phật giáo, Đức Giáo Chủ lâm phàm mở cơ phổ hóa, giải rõ sự sâu kín mầu diệu trong đạo pháp để khuyên mọi người hãy suy xét cho thấu đạt chơn lý.
- Đồng thời phủi bỏ lợi danh, tài sắc, vì những thứ đó là ảo ảnh gạt lường dắt chúng ta vào giấc mộng triền miên sầu khổ! Ngài khuyên mỗi người nên quay về chánh pháp vô vi chơn thực của ông cha ta từ trước. Bằng không được vậy khác nào như những chiếc lá vàng trên thân cây, sớm muộn gì cũng rơi rụng.
- Theo luật tuần huờn, cả bao ngàn năm mới có cơ hội may mắn, Phật Trời ân xá bớt tội căn và lập hội để phân xử, chọn lọc hiền còn dữ mất. Vậy ai muốn gần được đài mây Chúa Thánh thì hiện giờ phải lập thân hành đạo bền chí tu hành, diệt lòng tham nhiễm tài sắc lợi danh thì sẽ được toại nguyện.
- Và vì lòng quá thương xót sanh linh, Đức Thầy mới kể hết sự tình: hư, nên, tốt, xấu cho mọi người cùng nghe thấy. Lời lẽ của Ngài ví như tiếng đàn của Bá Nha, những người xem nghe hiện giờ phải có tâm hồn Tử Kỳ mới mong lãnh hội.
CHÁNH VĂN
199. “Mặc ai biếm nhẻ gần xa,
Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.
Đây khuyên đó đắng cay rán chịu,
Mặc người trên bận-bịu chẳng phê.
Muốn cho thân vượt khỏi lề,
Cắm sào trì chí một bề lo tu.
Kim ngọc nan tri tường đông hải,
Phật tà phàm tục tất nan tri.
Ẩn xác phàm phu gìn Thích-đạo,
Mặc tình thế sự chúng khinh-khi.
Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo,
Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi.
Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo,
Kim thời bá-tánh gọi ngu-si.
Nợ thế đền xong mong giai lão,
214. Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi”.

CHÚ THÍCH :
BIẾM NHẺ: Chê bai nhạo báng, nói xa nói gần:
“Dương trần biếm nhẻ gần xa,
Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm”. (Q. 1)
CHẲNG PHÊ: Không đồng ý, chẳng chấp thuận.
VƯỢT KHỎI LỀ: Lề là bờ lề của một con lộ, ở đây chỉ con đường luân hồi sanh tử, chúng sanh cứ đi quanh quẩn trong đó mà khó vượt ra được. Nên Đức Giáo Chủ khuyên chúng ta phải tu hành cho thoát khỏi cái lề sanh tử để được giải thoát an vui.
TRÌ CHÍ: Giữ chí bền lo tu niệm, không lý do gì chùn chơn thối bước.
KIM NGỌC NAN TRI TƯỜNG ĐÔNG HẢI: Kim ngọc là vàng ngọc châu báu. Nan tri là khó biết. Tường Đông hải: ai muốn có ngọc đều phải xuống biển Đông mà bòn. Nghĩa bóng là nói cái Đạo không ngoài bản tâm, ai muốn thấu đạt Đạo phải quay về nơi tâm và cố gắng tu hành mới kết quả. Bởi cái Đạo không có hình tướng sắc màu hay ngữ ngôn đối đãi. Người đứng ngoài cửa nhìn qua loa khó mà thấu đạt. Cho nên hành giả nào muốn thấu đạt, tất phải quay về nội tâm và cố gắng tu học giáo lý mới mong kết quả. Kinh Phật đã bảo:
“Đạo giả vô chung thủy,
minh minh hà xứ tầm.
Thanh tịnh vô vi pháp,
chánh đạo hiện chơn tâm”. Tạm dịch:
“Đạo vốn chẳng đầu đuôi sau trước,
Khắp muôn phương khó bước tìm ra.
Nếu tâm buông hết vọng tà,
Tự nhiên tánh đạo lộ ra nơi lòng.”
PHẬT TÀ PHÀM TỤC TẤT NAN TRI: Trong tâm của mỗi người đều có Phật ma hay Tiên phàm lẫn lộn. Nếu chúng ta chỉ nhìn hình tướng bên ngoài khó mà phân biệt được mà cần phải xét toàn diện từ hành động ngôn ngữ cả đến tư tưởng của họ mới hiểu được và đánh giá được.
THÍCH ĐẠO: Đạo Phật cũng gọi là đạo Giác ngộ do Đức Thích Ca khai mở và Ngài là Giáo Chủ:
“Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có”.
KIẾN HUYỀN VI: Thấy được lẽ sâu kín mầu nhiệm của Đạo. Đây chỉ cho người tu thấu đạt chơn lý.
HIỀN THẦN: Người tôi hiền.
HIẾU NGHĨA: Thích làm việc nghĩa, việc phải, giúp đời, nhưng chữ hiếu nghĩa ở đây có nghĩa là tu tròn nhân đạo. Đức Thầy hằng khuyên: “Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên” và : “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”.
LƯỢC GIẢI :
Người đã quyết tâm hành thiện thì dù cho đời có nhạo chê phỉ báng cũng không màng kể. Họ chỉ tự xét lòng mình có thật sự nhân từ ngay chánh hay không, khỏi cần thanh minh biện lẽ với ai.
Đức Giáo Chủ khuyên khắp môn đồ trên đường tu dù gặp kẻ cường quyền chưa chấp nhận hay người đời có đối xử cay đắng cở nào ta cũng vẫn nhịn chịu. Nhứt là mình đã dốc chí tu cho ra khỏi lề sanh tử thì hãy trì chí cho đến ngày thành quả, đừng bận tâm đến việc trở ngại hay nghịch cảnh chung quanh.
Vàng ngọc là thứ quí giá trong đời nên khó tìm được; ai muốn được nó phải lặn xuống biển mới bòn ra. Cũng như chúng sanh sống trong đời, trong tâm của mỗi người, Phật ma tà chánh lộn xộn. Nếu chỉ nhìn qua loa bên ngoài tất khó hiểu, phải dùng cặp mắt trí huệ mới xét rõ đặng. Đức Thầy cũng nói chư Phật Thánh lâm phàm độ thế còn tiềm ẩn trong sắc thân tứ đại như nhau nên khách trần khó thấu hiểu.
Người đời thường hiểu ngược lẽ chơn, những bực biết hiếu trung ngay thảo thì họ lại cho là kẻ ngu si. Song nhà tu chơn chánh không vì thế mà nản lòng thối chí, cứ lo cho mình vẹn tròn câu trung hiếu và trả xong nợ thế mới là quí báu, sách sử cần ghi.
CHÁNH VĂN
215. “Lâm sầu mộng ở trong trần-thế,
Việc tu hành như ế chợ đông.
Mảng lo danh lợi não-nồng,
218. Chữ tu để dạ chớ hòng lợt-phai.
Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng,
Sửa tâm lành như miếng hoa thơm.
Đến chừng hoa nở nhụy đơm,
222. Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa.
Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận,
Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây.
Kìa kìa súng nổ trời Tây,
226. Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang.
Hung-đồ với lũ dọc-ngang,
Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu.
Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ,
230. Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi ?
Buồn đời xuống bút làm thi,
Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân.
Nào nào dân có biết ân,
234. Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi”.
CHÚ THÍCH :
LÂM SẦU MỘNG: Lâm là lâm vào, mắc vào. Sầu mộng là giấc chiêm bao sầu khổ. Ý nói kiếp sống của con người trong cõi trần gian quá ngắn ngủi, lại gặp nhiều khổ đau sầu hận, thế mà chúng sanh cứ mãi lầm lũi vào:
“Phù sanh nhược mộng đời lao khổ,
Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm”.( Q.5)
TRẦN THẾ: Xem lại CT tại tr. 9 Tập nầy.
NÃO NỒNG: Cũng gọi não nùng. Có nghĩa: não nề buồn bã lắm. Ví dụ: Tiếng than khóc nghe não nùng lắm:
“Xuống dương thế dạo trong lê thứ,
Thấy bá gia gặp lúc não nùng”.(GMTK, Q.4)
ĐẠO LÝ: Xem lại CT tại tr. 14 Tập nầy.
SÚNG NỔ TRỜI TÂY: Tiếng súng nổ bên Âu Tây. Chỉ trận thế chiến thứ nhì, Tây Âu bị Đức-Ý đánh trước.
THÂN DẬU TAI ĐẦY SẤM VANG: Vào hai năm Thân Dậu (1944-1945), quân Đồng Minh dội bom quân Nhựt tại Sài Gòn, Việt Nam.
HUNG ĐỒ: Cũng gọi là hung đảng, tức lũ hung đồ, đảng dữ dọc ngang chuyên đánh lộn quậy phá. Đức Thầy có câu:
“Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
Dư đảng dọc ngang cấp Ma Ha”.
GANH HIỀN GHÉT NGÕ: Cũng viết là ghét ngõ ganh hiền. Có nghĩa hay ghét ghen đố kỵ những người có tài đức phẩm hạnh hay giàu sang hạnh phúc hơn mình. Đây là một tánh xấu (đố kỵ), không thể chấp nhận. Đức Thầy cảnh giác:
“Thấy chúng sanh ghét ngõ ganh hiền,
Lo chế nhạo những người tu tỉnh”.(GMTK, Q.4).

CỐ LỲ: Dạy hoài, dạy mãi người ta không nghe mà vẫn nói. Đây là vì lòng Đại Từ Đại Bi mà Đức Thầy phải cố gắng dạy hoài chớ không phải cố lỳ như người thường.
LƯỢC GIẢI :
-Chúng sanh sống trong cõi trần như trong giấc mộng, vừa ngắn ngủi, vừa gánh chịu sầu khổ. Lời giác tỉnh tu hành của Đức Thầy chẳng khác nào hàng hóa ở chợ bị ế. Vì nghiệp chướng khiến người đua chen theo danh lợi rồi phải khổ vì nó, nên Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ hãy ghi nhớ đường tu đừng để phai lợt.
-Trên bước tu hành dầu gặp lắm tiếng đời gièm siểm cũng mặc, cứ lo trau sửa thân tâm mình cho tốt đẹp thơm quí là được. Tâm lý người đời hễ thấy việc trồng hoa thì sợ khó, nhưng khi hoa trổ bông thì khởi lòng tham muốn.
-Đức Giáo Chủ đem giáo lý giải bày cặn kẽ và khuyên mỗi người rán dẹp lòng mê si, hờn giận, để lo hành đạo cho kịp thời kỳ. Hiện giờ đây cũng thấy cuộc chiến tranh đã khởi dậy bên trời Âu, rồi đến các năm Thân Dậu sẽ tới đất Việt Nam mình. Đến chừng thấy cảnh máu đổ thịt rơi, người ngang tàng hung dữ mới chịu quày đầu hướng thiện thì đã muộn.
-Bởi nền đạo Đức Thầy mới khai mở, như ngọn đèn mới đốt chưa sáng tỏ, nên có lắm người ghét ghen đố kỵ, đón ngõ ngăn đường. Ngài cũng buồn khi thấy chúng sanh còn mê tối nên động lòng từ bi mà sáng tác Sấm Thi thức tỉnh; dù ai không tin nghe Ngài cũng khuyên đời mãi mãi. Thế mà bá tánh đâu xem đó là ân nghĩa, khi có bịnh thì tới nhờ điều trị, lúc bịnh lành thì lơi đi sự kính tin Trời Phật.
CHÁNH VĂN
235. “Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,
Nay gặp người quái lạ tỏ phân.
Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
238. Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia.
Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ,
Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa.
Phật-nhi tâm tánh thật-thà,
242. Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi ?
Dương-trần thường bạc như vôi,
Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung.
Lúc áo-não cội thung lo liệu,
Gắng bền lòng bận-bịu vì ai.
Thất-Sơn lộ vẻ đài lầu,
248. Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta”.
CHÚ THÍCH :
LỜI CHÂU NGỌC: Lời của chư Phật Thánh, hay các danh nhân nói ra để dạy đời có lợi ích nên ai cũng tôn trọng như châu ngọc báu quý. Ví dụ: Lời vàng tiếng ngọc.
NGƯỜI QUÁI LẠ: Người khác thường. Lúc Đức Giáo Chủ mới khai sáng nền đạo mỗi cử chỉ hành động đến cách trị bịnh đều có khác hơn người thường; người thường thì tỏ ra mình là Phật Thánh còn Ngài thì tự xưng là “Điên Khùng”, khờ dại. Lúc tiếp chuyện với mọi người, có khi Ngài tỏ ra nửa hư nửa thật, nếu ai chịu khó xét kỹ mói thấy tài đức, tâm hạnh và trí thông minh của Ngài vượt hơn kẻ tầm thường. Ngài cũng từng thố lộ:
“Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
Sau danh thể sạ hương khắp chốn”.
NON TẦN: Chỉ cho vùng Bảy Núi; theo Sấm Giảng của Đức Phật Thầy Tây An (BSKH) và Giáo lý PGHH thì vùng Bảy Núi (Thất Sơn) được gọi là Non Tần. Đức Giáo Chủ đã xác định:
“Ở đây một buổi ghe lui,
Về trên Bảy Núi ngùi ngùi thương dân.
Thầy trò chẳng nại tấm thân,
Rảo khắp Non Tần bận nữa thử coi”.(SG, Q.1)
PHẬT NHI: Phật nhỏ, cũng gọi là Phật tử ( con Phật, Phật chưa thành).
CỘI THUNG: Cây thung là một loại cây thân lớn, cao có thể trên 20 mét. Vỏ nứt nẻ, màu xám nhạt, lá hình bầu dục, trái có răng ngắn, hoa hợp thành hình tháp, có thể làm thuốc trị bịnh nhuận trường và thanh huyết. Nghĩa bóng: chỉ người cha cai quản trong gia đình, do thành ngữ “Thung cỗi huyên già” (Thung chỉ người cha, huyên chỉ người mẹ). Đức Thầy thường dùng:
“Gẫm xác trần còn cách cội thung,
Đâu có được giũ mùng quạt gió”. Và: “
Lo bề cúc dục cội thung,
Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời”.
THẤT SƠN LỘ VẺ ĐÀI LẦU: Theo Cơ Sấm của BSKH và Sấm giảng của PGHH cho biết kết cuộc tại vùng Bảy Núi (Thất Sơn) sẽ có đền đài điện ngọc lộ ra. Đến đó người đời mới thấy rõ sự mầu nhiệm của Tiên Phật:
“Lầu đài núi Cấm lộ nay mai.
Thức tỉnh chúng sanh mới tỏ bày”. Và:
“Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi !”.
NHIỆM MẦU: Sự sâu kín mầu diệu trong Đạo Phật.
LƯỢC GIẢI :
-Lời Sấm Kinh của Đức Thầy là chiếu theo lời của chư Phật Thánh truyền dạy; nó quí báu như vàng ngọc, nên Ngài khuyên môn đồ hãy ghi nhớ vào lòng để thực hành vì đời sống dưới thời Pháp thuộc, nên sự độ đời của Ngài có khác hơn các ông Đạo thường tình. Do thế, có lắm người cho là kỳ quái, khó mà tin được. Ngài hằng khuyên mọi người và môn đồ, đã qui y theo Đạo thì đối với hai thời lễ bái phải chuyên cần để sau nầy được xem các lân quốc tranh giành châu báu tại vùng Bảy Núi.
-Đoạn nầy Đức Thầy cho biết nhân một đêm trời trong thanh lặng, Ngài tỏ lời khiêm nhượng với ông Châu và môn đồ rõ rằng Ngài chỉ là một Phật tử như bao nhiêu người khác, nhưng đã quyết nối chí chư Phật dùng lời chân thật khuyến dạy nhân sanh. Vậy ông và mọi người còn phân vân tà chánh nữa chi.
-Ở đời ít ai theo đạo được chung thủy đến cùng, nhưng khi gặp tai nạn mới chịu hồi tỉnh lòng hung ác của mình. Cho nên Đức Thầy khuyên mỗi người khi tỉnh thức hãy sớm lo tròn nhân đạo. Nhứt là ân Tổ Tiên Cha Mẹ cần phải báo đền và hãy tinh tấn bền lòng tu tỉnh, chẳng nên bám víu theo cảnh giả tạm sầu đau của thế gian nầy nữa.
CHÁNH VĂN
249. “Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,
Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây.
Bây giờ nương bóng cờ tây,
252. Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn.
Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,
Ta quyết gìn chủng-tộc giang-sơn.
Ta khùng mà chẳng có cơn,
256. Cũng không có tánh giận hờn bá gia.
Cười rồi khóc thiết-tha lịu-địu,
Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.
Chẳng cần trà, quả, nồng hương,
260. Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu.
Nghe kệ sám như ru giấc mộng,
Lo chê cười hầu họng reo vang.
 Ỷ mình nhiều của giàu sang,
264. Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa”.
CHÚ THÍCH :
BÓNG CỜ TÂY: Bóng cờ tam sắc của người Pháp ở Tây Âu nên gọi cờ Tây. Lúc Đức Thầy mới khai Đạo (1939) dân ta sống dưới thời Pháp thuộc.
ĐÒI CƠN: Lắm khi, lắm lúc, nhiều lần, từ hồi, từ lúc. Truyện Kiều có câu: “Nghĩ nhiều cơn lại sụt sùi đòi cơn”.
DẠ NGỌC: Lòng trong trắng quí báu như ngọc ngà. Nghĩa bóng là chỉ cho tâm hồn thanh tịnh của chư vị Phật Tiên. Đức Giáo Chủ từng nói:
“Nhắc ra thì dạ ngọc đớn đau,
Không nhắc đến biết dâu dân sửa”.(GMTK, Q.4)
CHỦNG TỘC: Nòi giống dòng họ của mình.
GIANG SƠN: Sông và núi. Ý chỉ đất nước, dân tộc.
Ví dụ: Giang sơn tổ quốc Việt Nam. Đức Thầy có câu:
“Mao Việt giang sơn bờ cõi vững,
Đuổi loài Phiên tặc lội về không”.
(Phỏng Đá Trả Lời)
ĐƯỜNG CHƠN TU: Nghĩa của chữ Bát Chánh Đạo. Là con đường chơn chánh đúng với chơn lý, có diệu năng đưa được người giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
TÔNG TỔ: Ông cha tổ tiên dòng họ của mình.
LƯỢC GIẢI :
-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ phải nuôi chí bền lòng để chịu đựng qua thời gian khó khăn dài dặc. Bao nhiêu cơ mầu và giáo lý huyền diệu thâm sâu Ngài đã bày tỏ trong bài giảng nầy. Hiện giờ, Ngài phải nương thời Pháp thuộc và tạm mượn thân phàm tục nói hết mọi việc hư nên tốt xấu.
-Vì lòng quá yêu sanh chúng lâm cơn đồ thán, nên lòng Ngài xót xa nhiều đoạn và lúc nào cũng quyết tâm dốc chí bảo trì giống nòi và giang sơn tổ quốc.
-Ngài thấy cảnh đau thương tang tóc của chúng sanh: nào là chiến tranh loạn lạc, nào vợ xa chồng, con lìa cha như đàn gà chiu chít, thật là cảnh nửa khóc nửa cười. Ngài giác đời chẳng cầu hương đăng trà quả, miễn sao mọi người đều biết trở về với con đường đạo đức là quí.
Vì mãi say mê trong giấc mộng trần gian, bá tánh không màng nghe đến lời Kệ kinh Sấm giảng, mảng lo chế nhạo người tu. Và ỷ mình nhiều tiền lắm của, rồi phụ bạc lời giáo huấn của ông cha mình từ trước.
CHÁNH VĂN
265. “Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét,
Lấy tâm thần xem xét thể nao ?
Sấm vang thì lộ bảng vàng,
268. Chư nhu thế giới khắp tràng tới thi.
Chữ thi gần chữ sầu-bi,
Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi.
271. Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,
Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.
Ham vui quyền quí dại ngu,
274. Chữ sang danh vọng như mù đi đêm.
Ta nào có nói thêm cho chúng,
Quá yêu đời viết túng ít câu.
Ít câu mà ý nhiệm sâu,
278. Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan.
Đây sắp đến lầm than khắp chốn,
Việc tu hành đâu tốn tiền chi.
Nầy nầy lời lẽ rán ghi,
282. Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây”.
CHÚ THÍCH :
TÂM THẦN: Phần khôn biết của con người, gồm có tâm và trí. Tâm chủ trì, tâm là chủ thể quyết định; Thần là trí quán xét sáng suốt, biết rõ không lầm. Đức Thầy bảo:
“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”.(GMTK, Q.4)
Và:“Lấy tâm lấy trí xét soi”.(Dặn Dò Bổn Đạo) .
THẾ NAO: Ý hỏi :Thế nào, việc ấy ra sao ?
BẢNG VÀNG: Tấm bảng ghi tên những người ứng thi được đậu.
“Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn”.(Nang Thơ Cẩm Tú)

CHƯ NHU: Chư là nhiều, Nhu là Nho. Chư nhu là chỉ cho một số thí sinh hay học trò đến trường thi cử.
SẦU BI: Buồn rầu áo não. Bởi có đi thi tất có đậu rớt, người được đậu tất vui mừng, người bị rớt thì đau khổ.
LY KỲ MÁU RƠI: Cảnh chiến tranh giặc loạn làm cho người chết máu chảy thịt rơi rất lạ lùng. Cảnh ấy Đức Giáo Chủ đã diễn tả:
“Tình riêng tham báu,
Đổ máu tuôn rơi.
Khùng mới nói chơi,
Chư bang hàng phục”. (Hố Hò Khoan)
CỦA BÁU: Vàng bạc và ngọc ngà châu báu.
QUYỀN QUÍ: Chức tước và quyền quí cao sang.
MÙ ĐI ĐÊM: Đã mù mà lại đi trong đêm tối. Nghĩa bóng là chỉ những người từ trước tới giờ chưa gặp nền đạo chánh mà theo, giờ đây được may mắn gặp Đức Thầy khai Đạo mà họ vẫn chưa tỉnh ngộ, lại khinh chê nên chẳng khác kẻ mù đi đêm. Đức Thầy có câu:
“Buồn cho lê thứ hết mù tới đui”.(SG, Q.1)
VIẾT TÚNG: Đây là lời khiêm nhượng của Đức Thầy. Tuy Ngài đã bác lãm văn chương giáo lý, nhưng lúc nào Ngài cũng tỏ mình còn nghèo văn chương chữ nghĩa lắm. Hôm nay vì lòng từ bi mà Ngài viết ít lời vậy thôi.
Ý NHIỆM SÂU: Đức Giáo Chủ PGHH sáng tác Sấm Giảng, tuy Ngài dùng văn chương bình dân, giản dị nhưng lý nghĩa rất thâm sâu mầu diệu, như Ngài đã nhiều lần lưu ý tín đồ:
“Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy”. (GMTK, Q.4)

LẦM THAN: Cơ cực, khổ sở. Ví dụ: Dân ở đây đời sống rất cơ cực lầm than.
VIỆC GÌ TRÊN MÂY: Hiện tương mầu nhiệm xảy ra trong bầu trời, thường được Đức Thầy nhắc đến trong Sấm Giảng Thi Văn của Ngài. Thí dụ:
“Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy
Dòm lưng trời lửa cháy liên miên”
(Đến Làng Nh. Nghĩa)
Hoặc:“Khuyên dân lòng chớ có sờn
Rán tu thì được xem đờn trên mây.”
LƯỢC GIẢI :
-Đức Giáo Chủ mới khai Đạo PGHH có nhiều người kính tin, nhưng cũng có lắm kẻ không ưa, chỉ trích. Ngài không màng kể, còn khuyên mọi người hãy dùng tâm trí mà nhận xét coi thật hư, đúng sai thế nào. Và Ngài nói rõ chừng nào điện ngọc lầu đài tại Núi Cấm hiện ra thì chư nhu khắp bốn phương đều đến tranh giành thi cử.
-Hễ có thi tất có kẻ đậu người rớt. Đậu thì vui mừng, bằng rớt thì sầu bi đau khổ, bởi đây là cuộc chọn lọc hiền còn dữ mất. Đến đó, những kẻ không lo tu hành hiền đức dù có than trời trách đất cũng vô hiệu, vì họ từ trước không gieo nhân lành thì giờ đây đâu có quả thiện để hưởng.
-Còn những kẻ mãi chạy theo danh vọng, cao sang quyền tước, rồi làm điều xấu xa tội ác, chẳng chịu hối cải thì ngày kết cuộc như người mù mà lại đi đêm (đã tối lại càng tối thêm). Đức Thầy vì quá yêu sanh chúng nên đem giáo pháp chơn chánh hiền từ giáo hóa khắp nơi. Tuy Ngài thường thốt lời khiêm nhượng, nhưng trong đây hàm súc rất nhiều ý nghĩa cao sâu, mầu diệu. Vậy ai là người trí hãy để tâm suy xét.
-Ngài còn cho biết từ đây bá tánh khắp hoàn cầu phải chịu lầm than đói khổ, để khuyên mọi người, mọi nơi đều sớm tỉnh ngộ tu thân hành thiện. Việc tu hành chẳng những không tốn tiền bạc mà sau nầy còn được xem các điều kỳ diệu diễn ra trên nền trời:
“Ôi ! Khổ thảm bốn bề sóng dậy,
Dòm lưng trời lửa cháy liên miên.
Tiêu điều sản vật điền viên,
Thần thông biến hóa dưới miền trung ương”
(Đến Làng Nhơn Nghĩa)

CHÁNH VĂN
283. “Ta mắc lánh tà-tây đa sự,
Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.
Ai là đáng bực tu-mi,
286. Thương đời ta mới làm thi khuyên đời.
Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến,
Nên phải làm kẻ mến người khinh.
Người hiền tâm trí thông-minh,
290. Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo học cổ nôm-na ít tiếng,
Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.
Chữ nhu ta học âm thầm,
294. Ai là người trí rán tầm cho ra.
Để đến lúc phong-ba biến-chuyển,
Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.
Mới là sợ chết ước-mong,
298. Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian”.
CHÚ THÍCH :
LẼ NI: Lẽ nầy, việc đó, lẽ vừa qua.
TU MI: Râu mày, chỉ cho hàng nam tử. Ví dụ: Bực tu mi nam tử hay làm được việc lớn.
HỌC CỔ: Cũng gọi là học xưa, nền học cũ của Thánh Hiền dạy, chú trọng về luân thường đạo lý xử sự cho tròn đạo làm người. Nam có Tam cang, ngũ thường. Nữ có Tam tùng Tứ đức. Đức Thầy từng dạy:
“Theo tài học cũ nôm na,
Hỡi ai trí thức tầm mà cạn sâu”. (Dặn Dò Bổn Đạo)
“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
Tam cang trung trực người rằng ngu si”.
(Để Chơn Đất Bắc)
XAO XUYẾN NHƠN TÂM: Náo động lòng người.
CHỮ NHU: Cũng gọi là chữ Nho. Gồm cả chữ Tàu của Trung Quốc và chữ Nôm của Việt Nam.
PHONG BA: Sóng gió, chỉ thảm cảnh do thiên nhiên gây ra như động đất, sóng thần, bão táp hoặc làn sóng vật chất từ phương tây tràn vào.
LƯỢC GIẢI :
Bởi người Pháp dùng chánh sách gắt gao đối với các tôn giáo Việt Nam, nên Đức Thầy xưng hiệu là Điên Khùng và giả vờ nửa hư nửa thực để đánh lạc hướng họ. Vậy ai là người tu mi nam tử hãy sớm đọc Kinh Giảng của Ngài, vì Ngài thương xót chúng sanh mới viết ra.
-Lại thêm cơ trời vận chuyển lúc nầy chưa thuận tiện nên Ngài phải ẩn nhẫn để đợi cơ may vận phước đưa đến. Do đó, công cuộc dạy đời của Ngài phải có kẻ khinh người mến. Song chỉ có những kẻ hung dữ mê mờ mới chống kình với Ngài, còn người có tâm trí sáng suốt thì lúc nào cũng tìm học để tu sửa thân tâm.
-Ngài đem học thuyết đạo đức của ông cha từ xưa khuyến dạy nhân sanh, làm cho mọi người phải ngạc nhiên vì họ thấy lúc bình thường không thấy Đức Thầy có học Nho hay nghiên cứu kinh văn Phạn ngữ, mà nay Ngài họa đáp các thể thơ đủ loại đều thông suốt. Theo Ngài cho biết đó là do Ngài đã âm thầm tu học từ nhiều kiếp trước.
-Ngài cũng tiên tri cho dân chúng hiểu, chừng cuối đời Hạ Nguơn sẽ có các cuộc phong ba biến chuyển (Thương hải tang điền) trước khi lập lại Thượng Nguơn. Đến đó, những kẻ hung dữ dù có hối cải lo tu cũng không kịp.
CHÁNH VĂN
299. “Tiếng đờn hò líu cống-xang,
Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới,
Ta ra đời nên mới đổi thay.
Bởi vì lời lẽ thẳng ngay,
304. Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.
Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,
Kệ khuyên trần nước đổ lá môn.
Khắp cùng làng xóm hương thôn,
308. Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu.
Dạy đạo-đức người tu rạng lý,
Mong cho người hữu chí làm theo.
Không làm thì ắt mang eo,
312. Làm xong vượt khỏi qua đèo chông-gai”.
(Hòa Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão, 1939)

CHÚ THÍCH :
TIẾNG ĐỜN: Cũng gọi tiếng đàn. Hò liếu cống xang là những phiếm bực trong phiếm đờn. Nghĩa bóng chỉ cho lời Sấm Giảng của Đức Thầy. Ngài viết có đủ nhạc điệu nhặt khoan trầm bổng, người nghe dễ rung cảm . Đức Thầy từng thốt:
“Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
Cúi đầu trước qui y Phật pháp”.
(Nang Thơ Cẩm Tú)

PHẬT CẢNH: Cũng gọi là cảnh Phật. Có hai nghĩa: Hiểu rộng là cảnh Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà; hiểu hẹp là cảnh Phật tại gia, tức ngôi Tam Bảo:
“Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh”.(Thiên Lý Ca)
NƯỚC ĐỔ LÁ MÔN: Lá môn không bao giờ dính nước, nên đổ bao nhiêu nước nó cũng chảy trớt hết. Nghĩa bóng là chỉ cho lời khuyên dạy của Đức Thầy đã nhiều lần mà người ta chưa chịu nghe nhận.
RẠNG LÝ: Sáng tỏ chơn lý của Đạo hay đạt được Đạo quả.
ĐÈO CHÔNG GAI: Đèo là con đường leo qua núi, rất khó đi, lại gặp nhiều chông gai cản trở. Nghĩa bóng là chỉ cho đường tu rất khó khăn trở ngại; tuy nhiên, nếu hành giả vẹn giữ Đạo, tất sẽ vượt qua dễ dàng.
LƯỢC GIẢI :
-Lời khuyên nhủ của Đức Thầy êm ả như bản đờn, thế mà ít người thức tỉnh qui đầu Phật pháp. Bởi từ trước có số người tu Phật sai lạc chơn lý, khiến lòng người giảm lòng tin đối với Đạo Phật vốn không dời đổi. Song vì muốn hạp cơ duyên của mỗi chúng sanh và hoàn cảnh xã hội hiện đại mà Đức Giáo Chủ PGHH có thay đổi đôi phần về nghi thức và phương tiện hành đạo.
-Cổ ngữ hằng bảo: “Lời thật mất lòng” và “thẳng nét mực tàu tất phải đau lòng gỗ”. Thật vậy, Đức Giáo Chủ đã làm cuộc cách mạng trong Đạo Phật, từ bỏ lối tu hữu vi, lìa đời yếm thế đổi ra vô vi nhập thế, thi hành Bồ Tát hạnh, tất nhiên phải có số người ghét ghen đố kỵ.
-Ngài cũng buồn lòng khi thấy số đông dân chúng chẳng quan tâm suy xét lời cảnh giác của Ngài để lo cải sửa, họ xem tiếng khuyên ấy như nước đổ lá môn. Dù vậy, nhưng vì lòng từ bi mà Ngài vẫn khuyên hoài khuyên mãi.
Đoạn kết của bài Thiên Lý Ca, Đức Thầy cũng nói rõ cho ông Châu và hầu hết môn đồ được biết lời trần tình của Ngài là quyết làm sao cho ngọn đèn chơn lý của Đạo Phật được tỏ rạng khắp nơi, để mỗi hành giả đều thấu đạt. Nếu ai không tin và chẳng làm theo ắt khó tránh khỏi tai nạn hiểm nghèo sắp đến; bằng ai thi hành theo, ắt đặng vượt qua các chặng đường chông gai hiểm trở và sớm được trở về với quê xưa cảnh cũ của mình:
“Cảnh Niết bàn là nơi cứu cánh,
Về chốn ni xa lánh hồng trần”.(GMTK, Q.4)

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget