Nội Dung
THAY LỜI TỰA
(Tái Bản tại Hoa Kỳ Lần 1, Năm
2010)
Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh
Giáo Chủ là bộ pháp bảo, hàm chứa giáo thuyết căn bản, giúp người tín đồ PGHH
hiểu biết tông chỉ và phương thức hành đạo.
Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo
khẳng định Ngài không lập một tôn giáo mới lạ. Ngài chỉ là vị thánh tăng vưng lịnh
Đức Thế Tôn hạ giới xuống trần hưng truyền chánh pháp. Cho nên Ngài đã “nối
theo chí Thích Ca ngày trước” và “rút trong các Luật các Kinh” để thành lập một
giáo thuyết khế cơ, giản dị, dễ học, dễ tu cho căn cơ thấp kém của phần lớn
chúng sanh trong thời Mạt pháp.
Tuy nhiên, dù cố giản dị đến
đâu, một bộ Sấm Kinh chỉ vỏn vẹn khoảng 500 trang mà tóm lược cả “rừng kinh kệ”
của chư Phật Thánh thì nội dung tất phải hàm súc cô đọng. Hơn nữa, về hình thức,
lời lẽ có bình dị cũng không tránh khỏi việc cần sử dụng điển tích, điển văn,
Hán ngữ, dụng ngữ Phật pháp, phương ngữ, …để diễn đạt tư tưởng. Đó là các lý do
khiến người tu học đôi khi không dễ hiểu nếu thiếu phương tiện sưu tầm tra cứu.
Cố soạn giả Thiện Tâm là một
tín đồ PGHH, một tu sĩ cả đời xả thân tu học, một giảng viên trong Ban Hoằng
Pháp chùa Tây An Cổ Tự và Ban Phổ Thông Giáo Lý Giáo Hội Trung Ương Phật Giáo
Hòa Hảo trước năm 1975. Ông nhận thức sự cần thiết của một bộ Chú Giải Sấm Giảng
Thi Văn để giúp chư tín hữu khắc phục các trở ngại nói trên nên đã tự nguyện đứng
ra làm công tác khó khăn nầy.
Văn-Tư-Tu là phương châm của
người tu học Phật pháp: đọc nghe, suy nghiệm rõ ràng rồi hạ công tu tập thì mới
thành tựu được Đạo Giải Thoát.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc
nhở: “Coi rồi phải nhận cho rõ lý.”
Và:“Nghe cạn lời chớ có mờ
hồ,
Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.”
Cố Soạn Giả tự nhận việc làm để
thể hiện mục tiêu trên không thể hoàn hảo ngay từ bước đầu. Công tác sưu khảo
biên sọan nầy cần có nhiều người góp sức, cần có sự tiếp tục và tiếp tục chỉnh
đốn bổ sung mãi mãi,…
Tái bản và phát không bộ sách
nầy, chúng tôi muốn nối vòng tay thể hiện hoài bão của cố Soạn Giả hầu giúp lợi
ích trên đường tu học cho chư đồng đạo và tín hữu Phật giáo gần xa trong tinh
thần khiêm tốn đó.
Chúng tôi chân thành cảm tạ
quý bạn đạo, hữu danh cũng như ẩn danh, đã và sẽ yểm trợ tích cực về tịnh tài
cũng như công sức để thực hiện hoàn thành Phật sự nầy.
Hoa Kỳ, Mùa Xuân Năm Canh Dần,
2010, P.L. 2554
BAN HIỆU ĐÍNH
Phụ chú: Phần Chánh Văn và các
câu giảng trích trong các mục Chú Giải của Soạn giả được hiệu đính theo Sấm Giảng
Thi Văn Toàn Bộ, ấn bản năm 2004 (SGTVTB 2004) của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo tại
Hải Ngoại và được in chữ đậm (bold) nghiêng (italic).
LỜI NÓI ĐẦU
Lẽ ra phần Chú Giải Thi Văn
Quyển Hạ đã tới tay quí vị khá lâu. Nhưng vì hoàn cảnh và thời gian trắc trở
nên cho đến hôm nay tập sách nầy mới ra mắt quí vị. Soạn giả xin cáo lỗi, mong
chư đồng đạo thông cảm cho.
Như quí vị đã biết qua các lời
giới thiệu tại Quyển Thượng Tập 1/3 trang 8, bộ Chú Giải Thi Văn Quyển Hạ là gồm
các bài Thi Văn Giáo Lý do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác từ khoảng tháng năm năm
Kỷ Mão (1939) tới tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi (1947). Đức Huỳnh Giáo Chủ tùy cảnh
tùy duyên mà sáng tác chớ chẳng phải nhất loạt. Sau nầy, những người có trách
nhiệm sưu tập sắp xếp lại theo đề mục cho có thứ tự.
Trong quá trình chú giải,
chúng tôi cũng không theo thứ tự đề mục trong Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ (Chánh
Văn), mà tùy vào sự nhu cầu học hỏi của các đồng đạo khóa sinh nhiều hơn. Song
đến phút cuối cùng chúng tôi cũng phải cố biên soạn mong hoàn tất Quyển Hạ nầy.
Công việc chưa viên thành, vẫn còn đang tiếp tục...
Chúng tôi không quên chân
thành cảm tạ quí vị điểm xuyết và góp ý cho những chỗ còn thiếu sót.
Soạn Giả
THIỆN TÂM
Bài 1.- SAY (SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ 2004, tr. 252-254)
XUẤT XỨ:
Ngược dòng lịch sử nhân loại
nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng, vào những tháng mới khai Đạo tại Tổ Đình
Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã thật hiện những cách truyền thừa qua đường lối
“Tam độ nhất như”. Nhờ đường lối đó mà Ngài thâu phục tín đồ một cách mau lẹ.
Song song với việc trị bịnh, Ngài còn thuyết giảng cho mọi người đến quy y thụ
giáo nghe và khuyên họ lo tu hành. Ngoài ra, Ngài còn viết Sấm Giảng. Chỉ trong
vòng bốn tháng Ngài đã sáng tác được năm quyển giảng dài, mỗi quyển trên dưới
500 câu. Có một điều đặc biệt là Ngài viết một mạch không cần giấy nháp và bôi
xóa. Ngoài 5 quyển giảng lớn Ngài còn sáng tác những thi thơ ngắn để trả lời
cho những ai đến chất vấn hoặc trao tặng. Căn cứ tiến trình sắp xếp theo thứ tự
và thời gian. Tám bài thi tứ cú khoán thủ mang tựa đề “SAY” được liệt vào những
trang trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ: 193 + 194 (?) vào những năm đầu mới khai Đạo.
Được biết bài này Đức Thầy sáng tác vào khoảng tháng 9 năm Kỷ Mão (1939).
VĂN THỂ:
Bài nầy thuộc thể văn thất
ngôn tứ cú Đường luật, bài khoán thủ đặc biệt (độc nhứt vô nhị). Lối thuyết
giáo, dài 32 câu, lối khoán thủ chỉ viết chữ “SAY” suốt từ câu đầu đến câu
chót. Bài thi “SAY” khởi đầu bằng câu: “Say mùi tục lụy vẫn lao đao”, và chấm dứt
bởi câu: “Say dìu trăm họ vượt mây truông”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ so sánh giữa
mùi tục lụy và chơn lý giải thoát của kiếp tục tiên. Kế đó Ngài luận giải giá
trị cái đạo huyền vi của chư Phật và Bồ Tát. Rồi Ngài bình phẩm giữa anh chàng
Lưu Khánh và tiên trưởng Trần Đoàn, và câu chuyện của Tiết Nhơn Quí say bị mang
họa như thế nào.
Sau cùng Ngài khuyên người đời
nên tập say theo chí Lão Khùng, thì nạn tai được vượt qua và thành công chắc chắn
trên đường đưa đất nước đến ngày phục hưng đoàn tụ.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Giáo Chủ mượn cơn say để
nói lên lập trường đấu tranh vì chánh nghĩa, vì dân tộc. Rồi Ngài xác định tông
tích của bản thân cho mọi người vững lòng tin để sách tấn đồng bào, đồng chí hướng
vươn cao ngọn đèn chơn lý, đồng tâm phò trợ Đức Thánh Vương, đưa nhân loại
thoát vòng kềm kẹp của thực dân Pháp. Đó là thỏa nguyện vọng của Ngài.
CHÁNH VĂN:
SAY
1.-“Say mùi tục lụy vẫn
lao-đao,
Say nỗi kẻ ngu rất hỗn-hào.
Say thấm Đạo lành ban vạn vật,
4.-Say đời chưa rõ chuyện vàng
thau”.
CHÚ THÍCH:
SAY:
Choáng váng, chóng mặt, hừng chí, mất một phần trí khôn hoặc mê man vì chất độc
của rượu hay thuốc. Nhưng chữ SAY ở đây Đức Thầy tạm mượn làm đề tài bàn luận
việc đời, việc Đạo cho rõ nét.
LAO ĐAO: Lâm
vào tình cảnh phải ứng phó với nhiều khó khăn vất vả. Thí dụ: Cuộc sống lao
đao.
HỖN HÀO: Vô lễ,
hỗn xược, không giữ được khuôn phép. Thí dụ: Cháu không được hỗn hào với người
trên.
ĐẠO LÀNH: Đạo
là con đường hợp với lẽ phải. Lành: Nghĩa của chữ Thiện. Con đường đưa đến việc
thiện cho người nắm bắt. Đức Thầy có câu: “Đạo lành mở cửa nơi miền Nam bang”.
VẠN VẬT: Nói
chung muôn loài vạn vật. Những gì ta thấy chung quanh, bao gồm: Cây cỏ sông núi,
các loài động vật và con người. Đức Thầy có câu: “Phá bức tường mây nhìn vạn vật”.
VÀNG THAU: Vàng
là loại kim khí quí, không đổi dạng, có tỷ trọng nặng nhất, sắc vàng óng ánh.
Thau: Kim loại nhẹ, pha kẽm sắc vàng nhạt. Nghĩa bóng: Giữa cái quí giá (báu)
và không quí giá lẫn lộn nhau. Sự giả thiệt đan xen nhau. Đức Thầy có câu: “Bây
giờ chưa biết vàng thau”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Say là bệnh ghiền thường sự của
thế gian. Nếu say mùi tục lụy phải lao đao thân xác, vì cơn say nó làm cho tâm
trí đảo điên, kẻ ngu trở nên hỗn hào láo xược.
Ngược lại, nếu hành giả say thấm
đạo lành thì cơn say chỉ là một phương tiện giúp họ tiến tu, hoặc mượn cơn say
đem đạo mầu ban rải khắp nơi nơi trong bá tánh, từ loài người cho đến vạn vật.
Đó là cái say của bậc thức giả. Như trường hợp bản thân của Đức Thầy cũng mượn
đề tài “SAY” để nói lên ý chí của kẻ đạt Đạo.
Đúc kết cái say của tuồng đời
chưa phận biệt được đâu chân đâu giả (vàng thay còn lẫn lộn), tà chánh chưa
phân minh. Vậy hành giả phải điều chỉnh cái say cho đúng lẽ, đúng lý để hòa vào
cái say của Phật Thánh.
CHÁNH VĂN:
5.-“Say ngọc bồ-đề đức hạnh
cao,
Say dân ngu muội tưởng điên
nào.
Say chừng nó biết ta Tiên-trưởng,
Say chén quỳnh-tương chốn núi
cao”.
CHÚ THÍCH:
BỒ ĐỀ: Tiếng
phạn Bodhi. Dịch là Chánh giác hay Giác ngộ. Còn có nghĩa nữa: Đạo lý hay trí
tuệ. Đức Thầy có câu: “Lòng bồ đề sắt đá dám kình”.
ĐỨC HẠNH: Đức:
Có lòng nhơn, ăn ở hợp với đạo lý. Hạnh: Nết na. Tâm lành và nết tốt. Đức Thầy
có câu: “Chốn Phật đường rán trau đức hạnh”.
NGU MUỘI: Ngu:
Đần độn, tối tăm. Muội: Tối không hiểu việc. Nghĩa bóng: Hành động thiếu lý
trí. Đức Thầy có câu: “Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.
TIÊN TRƯỞNG: Đứng
đầu quả Tiên.
QUỲNH TƯƠNG: (Xem
chú thích bài Nang Thơ Cẩm Tú, Q.Hạ, Tập 1/2, Trang 382).
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 8)
Thật sự, cái say của Đức Huỳnh
Giáo Chủ là với dụng tâm chánh giác “Say đạo pháp say mùi hương khói”. Càng
ngày càng điêu luyện tâm đức được cao. Còn cái say của trần thế là say điều ngu
muội, cho Đức Thầy là điên thật. Ngài càng say chừng nào chúng dân biết Ngài là
vị Tiên trưởng. Say chén rượu đào nơi non Bồng nước Nhược mới thỏa dạ Ngài luống
ước ao.
CHÁNH VĂN:
9.-“Say thời vận bĩ vẫn còn
xa,
Say chuyện trần gian lắm
cáo-xà.
Say lấy gậy thiền toan dẹp hết,
12.-Say chờ Thiên-lịnh phán
cho ta.
***
Say Đạo huyền-vi nước tịnh-dương,
Say câu Bồ-Tát rưới cho thường.
Say mê Tiên-cảnh ôi thanh-nhã,
16.-Say việc trần-gian lắm họa-ương”.
CHÚ THÍCH:
VẬN BĨ: Vận:
Khí số. Bĩ: Xấu. Khí số gặp lúc xấu. Nghĩa bóng:Chưa tới thời kỳ, chưa gặp vận
may. Đức Thầy có câu:
“Vận thời luân chuyển đưa Ta tới,
Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh
điên”.
TRẦN GIAN: Trần:
bụi. Gian: khoảng giữa cõi đời. Nói chung cõi chúng sanh đang ở. Đức Thầy có
câu: “Trần gian khói lửa với binh đao”.
CÁO XÀ: Con
chó cùng với loài chồn và con rắn. Nghĩa rộng: Chỉ loài độc dữ. Ở đây Đức Thầy
muốn chỉ những người bưng bợ theo giặc Pháp.
GẬY THIỀN: Còn gọi
là thiền trượng. Gậy của nhà thiền. Nghĩa bóng: Chỉ giáo pháp của chư Phật. Đức
Thầy có câu: “Dẹp cáo cầy dùng cây thiền trượng” (Diệu Pháp Quang Minh).
THIÊN LỊNH: Lịnh
Trời. Nghĩa bóng: Chờ đợi thời cơ. Đức Thầy có câu:
“Đợi cơ thiên địa xây vần đến,
Chờ cuộc phong lôi đổi vận lành”.
SAY ĐẠO HUYỀN VI NƯỚC TỊNH
DƯƠNG: Say mê mùi đạo Phật. Vì nền đạo này phát xuất
từ gốc cứu khổ của Đức Phật Thích Ca và Quan Âm Bồ Tát. Do câu chuyện như sau:
Theo truyện Tây Du Ký lược thuật: Thánh Anh La Sát là con trai của Ngưu Ma
Vương và Thiết Phiến Công Chúa. Sau trận mượn quạt Ba Tiêu để quạt tắt Hỏa Diệm
Sơn. Phật Bà Quan Âm hàng phục được Thánh Anh La Sát bắt luôn về Phổ Đà Sơn,
giáo hóa y cho tâm ý y hoàn toàn phục thiện. Cũng may Thánh Anh La Sát thật tâm
cải hối. Phật Bà mới đổi lại pháp danh là Hồng Hài Nhi. Từ đó thầy trò thường
đi sát bên nhau. Mỗi lần ra trận Hồng Hài Nhi hai tay cầm tịnh bình (nước phép)
và nhành dương liễu để cứu độ chúng sanh lâm nạn. Nếu đem so bửu pháp tác dụng
của nước tịnh bình và nhành dương liễu, Phật Bà chỉ thua Đức Phật Thích Ca mà
thôi. Ngoài ra Đức Quan Âm không thua một vị Phật nào khác. Nên câu: “Say đạo
huyền vi nước tịnh dương” là Đức Tôn Sư muốn nói: Ngài say mùi đạo vô vi huyền
diệu của Đức Quan Âm Bồ Tát. Đó là nền Đạo vừa cao siêu, vừa thiết thực và vừa
giản dị.
BỒ TÁT: Nói
cho đủ là “Bồ Đề Tát Đỏa”. Tiếng phạn Bodhisatha, nghĩa là: Người đã hoàn toàn
giác ngộ, đạt đến chỗ bất thối chuyển. Thường dùng lục độ vạn hạnh giáo hóa
chúng sanh. Trong Kinh ví như xe trâu, chở nặng bao nhiêu cũng không biết mỏi,
bất chấp nơi nào, quốc độ nào nếu có một chúng sanh đang đau khổ, lòng biết ăn
năn hối lỗi, dùng tâm hướng thẳng về bản nguyện của các Ngài, tất hàng hàng Bồ
Tát bất thối lâm phàm cứu độ.
TIÊN CẢNH: Còn gọi
là cảnh Tiên, cảnh thoát tục. Bậc tu trên núi đã chứng đắc đạo quả. Đức Thầy có
câu: “Kìa trên Tiên cảnh vị ngôi sẵn dành”.
THANH NHÃ:
Thanh: Trong sạch. Nhã: Tao nhã, thanh nhã. Vừa trong sạch, vừa tao nhã, cũng gọi
cảnh Tiên. Cảnh hoàn toàn thoát tục, không còn bận bịu trần ai.
TRẦN GIAN: Trần:
Bụi bặm. Gian: Gian nan. Cõi đời chúng sanh đang sống.
HỌA ƯƠNG: Hiểm
họa, tai ương. Gặp điều không tốt.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 9 đến
câu 14)
Đức Huỳnh Giáo Chủ giả say vì
thời vận bĩ vẫn còn xa lắm, nhưng tính theo cái mốc thời gian hiện giờ thời vận
bĩ đã cách nay 2/3 thế kỷ. Xa là lúc mới sáng tác bài “SAY” này. Chớ hiện giờ
không còn xa nữa. Cái say của người dương thế là cái say lừa đảo có dụng tâm
mánh khóe chẳng khác nào loại độc địa cáo xà. Nếu suy rộng cái say của người Việt
thân Pháp, trở lại hại quê hương đất Việt. Trông thật gớm ghiếc!
Đức Huỳnh Giáo Chủ mượn cơn
say để dùng cây thiền trượng của nhà tu quyết một lòng dẹp tan những chướng ngại
vật của kẻ trần gian đang gây hiểm họa.
Ngài mượn cơn say để chờ Trời
Phật phân định phán quyết cho Ngài thi hành sứ mạng trong những ngày sắp tới mới
là hợp lý.
Để xác định cơn say, Đức Huỳnh
Giáo Chủ bày tỏ lập trường, Ngài đang say với mùi đạo huyền vi của Đức Phật Tổ
và Đức Phật Bà Quan Âm Nam Hải. Say với nước tịnh bình trút xuống trần gian để
cứu độ muôn dân qua cơn ách nạn: “Nạn trời ách nước thình lình”. Đức Giáo Chủ
luôn hăng say dùng tâm bi mẫn đem phép nhiệm mầu rưới xuống trần gian bằng linh
dược của Tiên Thánh. Đồng thời Ngài báo tin cho nhơn loại biết Ngài đang say mê
Tiên cảnh. Vì cõi này hoàn toàn trong sạch thanh bai đẹp gấp trăm ngàn lần cõi
chúng ta đang ở. Nếu chúng sanh không sớm tìm đường giác ngộ, càng mê say cảnh
ô trọc càng mang lắm họa ương.
CHÁNH VĂN:
17.-“Say-sưa chuyện cổ nhắc chừng
đời,
Say nói với trần việc tả-tơi.
Say biểu trì tâm đừng vội-vã,
20.- Say buồn lũ chó sủa mùi
dơi.
** *
Say của Thần-Tiên rứt cuộc đời,
Say câu diệu lý hỡi người ơi!
Say như Lưu-Khánh ai thèm chịu,
24.- Say thể Trần-Đoàn mới thảnh
thơi”.
CHÚ THÍCH:
CHUYỆN CỔ: Chuyện
xưa, chuyện cách đây từ một thế kỷ trở về trước. Thí dụ: Như chuyện Đức Phật Thầy
Tây An ở Núi Sam, chuyện thế chiến thứ nhất, chuyện các anh hùng cứu nước thời
Trịnh - Nguyễn phân tranh và xa hơn nữa; Chuyện Phù Đổng Thiên Vương cỡi ngựa sắt
và dùng roi sắt; Chuyện Lý Thường Kiệt phạt Tống bình Chiêm…
SAY SƯA CHUYỆN CỔ NHẮC
CHỪNG ĐỜI, SAY NÓI VỚI TRẦN VIỆC TẢ TƠI: Ý nói
Đức Huỳnh Giáo Chủ say mê chuyện cổ tích. Chuyện nước nhà tự chủ qua các triều
đại: Đinh, Lê, Lý, Trần. Tổ tiên ta xưa hai lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đất
nước hoàn toàn độc lập, toàn dân an hưởng cảnh thái bình nhà nhà no ấm, chớ
không phải như ngày nay và mai sau nữa, hồng trần sẽ trở lại màu u ám, giặc giã
tràn lan làm cho muôn dân phải chịu lắm điều cơ cực.
TRÌ TÂM: Gìn
giữ tâm lặng yên một chỗ. Nghĩa bóng: Bảo thủ lập trường trung với nước, hiếu với
dân, đừng vội vã phóng mình theo lũ giặc.
VỘI VÃ: Bôn
chôn, phóng túng.
LŨ CHÓ SỦA MÙI DƠI: Bạ
đâu tin đó, bạ đâu làm đó. Nghĩa bóng: Hành động thiếu suy xét, thiếu phân biệt
rõ ràng, hư thật, tà chánh.
THẦN TIÊN: Thần:
Những bậc có công trạng với nước và đầy lòng trung quân ái quốc, khi chết được
vua phong làm Thần. Thí dụ: Tuyên Trung Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Thượng Đẳng Đại Thần
Nguyễn Trung Trực…Tiên: Người tu trên núi được trường sanh bất lão, có nhiều
pháp thuật. Thí dụ: Như Ngài Cử Đa, Trần Đoàn, Lão Tử, Nguơn Thỉ…Thần Tiên: Những
vị đã dứt hồng trần, có mặt trên đời là để cứu nước non dân tộc, các Ngài làm
vì bổn phận hay vì một sứ mạng Trời Phật đã giao phó. Như Đức Huỳnh Giáo Chủ
xác nhận:
“Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông
pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền môn trở gót Phật Đà nam
mô”.
DIỆU LÝ: Diệu:
Tốt đẹp. Lý: Lý lẽ. Chơn lý cao sâu mầu nhiệm.
SAY CÂU DIỆU LÝ HỠI NGƯỜI
ƠI: Say mê chơn lý diệu huyền của đạo Phật vì đạo
Phật là đạo thật tế, dung thông cả tam giáo (Nho, Thích, Lão). Nó không chấp hữu
mà cũng không chấp vô: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Sắc chẳng khác
gì không, không chẳng khác gì sắc). Đức Huỳnh Giáo Chủ xác nhận trong bài Tỉnh
Bạn Trần Gian nên Ngài khuyên:
“Diệu huyền chơn lý noi đường
sáng,
Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra”.
Cho nên say câu diệu lý, lòng
rỗng bụng đầy, không vướng mắc một sắc thái nào trong cõi đời ô trọc. Lìa cả
tánh nhân ngã, ngã nhân để đạt đến chỗ phi ngã, phi hữu, phi vô để vào cõi vô
sanh “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
LƯU KHÁNH: Biệt
hiệu Phi Sơn Hổ, một trong ngũ hổ đời nhà Tống bên Trung Hoa. Địch Thanh, Thạch
Ngọc, Trương Trung, Lý Nghĩa và Lưu Khánh.
Sau khi được phong “Bình Tây Đại
Nguyên Soái”, Địch Thanh đem quân đánh Tây Liêu, lộn đường sang Thợn Thợn gặp
Thoại Ba Công Chúa kết nghĩa phu thê. Trên đường tiến quân, Địch Thanh bị tướng
Liêu là Tinh Tinh La Hải có phép thuật vây hãm tuyệt đường lương thực. Địch
Thanh sai Lưu Khánh sang Thợn Thợn quốc xin binh tiếp viện với Thoại Ba Công
Chúa. Nhưng còn sợ Lưu Khánh hay uống rượu sẽ làm hỏng đại sự. Địch Thanh bắt
Lưu Khánh thề độc, không uống rượu lúc đi đường; muốn nhắc nhở Lưu Khánh, Địch
Thanh cho mang trước ngực tấm bảng “cấm uống rượu” để nhớ mà chừa.
Nhưng chứng nào tật nấy. Khi
sang đến gần Thợn quốc, gặp một quán rượu, con ma men nổi dậy, Lưu Khánh bèn
nghĩ: Uống tạm vài chén thôi, đâu có hại chi. Nghĩ thế bèn vào quán kêu rượu thịt
ngồi nhăm nhi. Chén chú chén anh cho đến say mèm đến nỗi bị quân sĩ nước Thợn
đi tuần lột lưng lấy được quốc thư đem về dâng cho Thoại Ba Công Chúa. Nàng bèn
truyền lịnh bắt Lưu Khánh đánh 10 hèo, mặc cho Lưu Khánh hết lời năn nỉ, để chừa
đi tánh uống rượu. Rồi nàng mới truyền lịnh xuất quân đi giải vây để cứu Địch
Thanh.
Ở đây ý Đức Thầy trách chàng
Lưu Khánh và khuyên mọi người chớ học đòi theo tất xấu ấy, nhứt là tín đồ PGHH
vì vướng vào vừa phạm giới vừa hỏng việc quốc gia.
TRẦN ĐOÀN: (Xem
chú thích từ Trần Di ngủ, Quyển Hạ, Tập 1/2, trang 292). Từ Trần Đoàn ở đây Đức
Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng sanh hãy noi theo gương sáng của Ngài Trần Đoàn, tức
là say với “Trà tiên, rượu thánh” cho tâm hồn thảnh thơi, đất nước thái bình,
toàn dân lạc nghiệp âu ca.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 17 đến
câu 24)
ĐHGC say sưa chuyện cổ tích và
thường nhắc nhở nhơn sanh rán học đòi theo gương tốt đẹp của người xưa. Người
xưa tuy bề ngoài ô dề nhưng bên trong lòng thật dạ ngay. Trái lại người đời nay
lòng xảo dạ gian. Nên Đức Tôn Sư PGHH nói rõ cho trần gian biết cũng vì gian xảo
nên dương trần phải chịu cảnh tả tơi khổ sở.
Đức Huỳnh Giáo Chủ đầy lòng từ
ái khuyên bảo mọi người rán trì tâm chờ đợi sẽ có ngày an vui thong thả, chớ đừng
vội vã chạy theo lũ giặc ngoại bang lai căn mất gốc, và nhứt là:
“Đừng bạ đâu tin bướng nghe
càn,
Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.
Cái say của bậc Thần Tiên là
cái say thoát tục rứt bỏ cuộc đời “Cư trần bất nhiễm, Lẫn tục đừng mê”. Các
Ngài say với diệu lý thâm huyền của chơn lý đạo Phật. “Sự vô sự”, “vi bất vi” để
bước xa trên đàng giải thoát, chớ chẳng phải say như anh chàng Lưu Khánh, lãnh
nhiệm vụ tối mật cầu viện binh bên Thợn Thợn quốc qua giải vây mà chẳng dằn được
cơn say, thật là quá quắc.
Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên
chúng ta say như Trần Đoàn, uống rượu Thánh để mừng vua Tống Thái Tổ mới lên
ngôi, thiên hạ thật sự thái bình. Say như vậy mới đáng nên say.
CHÁNH VĂN:
25.-“Say mãi say hoài say vẫn
say,
Say cho bá-tánh tập xong bài.
Say như Nhơn-Quí thì mang họa,
28.-Say của lão Khùng ách nạn
bay”.
CHÚ THÍCH:
SAY MÃI SAY HOÀI SAY VẪN
SAY, SAY CHO BÁ TÁNH TẬP XONG BÀI: Ý Đức Tôn Sư PGHH xác
định: Nếu biết cách say thì ta cứ say mãi, say hoài, say càng nhiều càng tốt.
Càng say ta càng đem nguồn đạo lý ban bủa trong sanh chúng và càng làm mọi người
say mê tu tỉnh. Càng say ta càng tu tập ôn bài cho nhuần nhuyễn đến chừng nào
được thành công mới là toại chí.
SAY NHƯ NHƠN QUÍ: Tiết
Nhơn Quí tên thật là Tiết Lễ, người ở Thái Bình Trang, huyện Long Môn, tỉnh Sơn
Tây (Trung Hoa). Thân phụ là Tiết Anh, thân mẫu là Phàn Thị, gia thế vốn giàu
có nhất vùng, bởi cha ông là viên ngoại.
Ông là một danh tướng đời nhà
Đường (từ năm 618 đến năm 906). Vua Đường Thế Dân nằm mộng thấy hiền thần ứng
vào Tiết Nhơn Quí, lúc công danh còn lận đận ông là một hỏa đầu quân. Bởi lòng
ganh tỵ yểm tài của tướng tiên phuông Trương Sĩ Quí trong lúc chinh Đông, dựa
vào công cán của Tiết Nhơn Quí ghi cho rể hắn là Hà Tôn Hiến.
Đến khi Nguyên soái Uất Trì
Cung thân hành đi chấm công để ban thưởng hầu tìm kiếm hiền thần. Trương Sĩ Quí
sợ cơ mưu bại lộ, liền bày ra kế độc dụ cho Nhơn Quí vào Hồ Lô Cốc đốt cho chết
để phi tang dấu tích. Nhưng nhờ Tiên Y của bà Cửu Thiên mà chín anh em đều
thoát nạn. Từ đó ở ẩn cho đến khi Đường Thế Dân bị Cáp Tô Văn rượt chạy rơi xuống
đầm lầy.
Nhơn Quí mới ra tay cứu chúa,
sau được phong Nguyên Soái, giúp Đường Thế Dân hoàn tất cuộc chinh Đông, chinh
phục Cao Ly. Tiết Nhơn Quí được phong vương tước.
Lúc bấy giờ, vua Đường Thế Dân
có một người chú tên là Lý Đạo Tông, tuy đã già nhưng rất háo sắc. Nguyên con
gái của Trương Sĩ Quí đang có hềm thù với Tiết Nhơn Quí, hiện nàng này ngày đêm
đang say đắm với Lý ĐạoTông, cùng bày mưu để hãm hại Nhơn Quí.
Một hôm có việc lai kinh mà
không có chiếu triệu hồi. Đạo Tông biết được tìm cách mời cho bằng được Tiết
Nhơn Quí ghé vào dinh, thiết tiệc đãi đằng, ép uống rượu cho đến say mèm, rồi
khiêng Nhơn Quí bỏ vào phòng con gái (người vợ chánh thất của Lý Đạo Tông) để
vu oan. Quận chúa vì xấu hổ nên dập đầu tự vận.
Nhân đó, Lý Đạo Tông đến đầu
cáo với vua Đường rằng: Tiết Nhơn Quí tự ý lai kinh, ghé vào dinh đòi thiết tiệc
rồi cưỡng hiếp Quận Chúa.
Trước sự việc đành rành, vua
Đường bắt tội Nhơn Quí đem chém, nhờ Từ Mậu Công rỗi tấu việc vua ban chiếu chỉ
từ ba năm trước: “Dẫu Nhơn Quí có tội gì cũng tha”, nên chỉ giam vào ngục cho đến
Tây Phiên xâm lăng. Có Nguyên Soái Tô Bửu Đường tài cao phép giỏi, không ai
đánh lại. Nhơn Quí mới được tha và được phong “Chinh Tây Đại Nguyên Soái”, lúc
đến Bạch Hổ Quan bị giặc vây vào hiểm địa. Tiết Đinh San là con làm Nhị Lộ
Nguyên Soái ra tiếp viện lại bắn lầm Tiết Nhơn Quí vong mạng.
Ở đây, Đức Thầy đánh giá, Tiết
Nhơn Quí vì không đề phòng lầm mưu lũ gian thần hãm hại để lâm vào cảnh say,
thiếu chút nữa chiếc đầu lìa khỏi cổ. Nếu không nhờ quới nhơn ủng hộ 10 chức
Nguyên Soái cũng mang họa vào thân. Cho nên, Đức Thầy giác tỉnh mọi người hãy lấy
đó làm bài học để răn mình.
SAY CỦA LÃO KHÙNG: Là
“Say Đạo pháp say mùi hương khói” hoặc giả “Say thấm Đạo lành ban vạn vật”,
“Say chừng nó biết Ta Tiên Trưởng, Say chén quỳnh tương chốn núi cao”. Hơn nữa,
Ngài “Say Đạo huyền vi nước tịnh dương, Say câu Bồ Tát rưới cho thường, Say mê
Tiên cảnh ôi thanh nhã”. Tóm lại, cái say của Đức Huỳnh Giáo Chủ là cái say của
bậc Thần Tiên, say như Trần Đoàn Lão Tổ vừa rứt cuộc đời vừa cải sửa cho đời, vừa
dựng nền xã tắc cho đức Thánh Vương và vừa dìu trăm họ vượt tai nàn thống khổ.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 25 đến
câu 28)
Đức Huỳnh Giáo Chủ xác định phải
biết cách say mới xứng đáng con người. Nếu nhận được ta cứ mãi say. Càng say
càng luân lưu giáo đạo, càng tập nhiễm bá tánh “Say đạo pháp, say mùi hương
khói”, cho mọi người tu tập làm tròn bổn phận một nhà tu.
Nếu say như Nhơn Quí thì tai vạ
vướng vào thân. Vì Nhơn Quí quá say nên không còn tự chủ. Cái say của Nhơn Quí
là cái say của men rượu, cái say của kẻ cuồng trí. Đường đường một vị nguyên
soái phải ăn uống cho có chừng mực, bao đời để quá say. Âu cũng là định mệnh an
bày.
Vậy ta hãy tập say như Đức Huỳnh
Giáo Chủ “Say câu diệu lý, hỡi người ơi!”. Nghĩa là ta phải sửa đổi cái say của
thế nhân thành cái say của một bậc thoát tục, mới xứng đáng là một tín đồ ngoan
đạo trong thế kỷ 21 này. Say được như vậy ách nạn đều qua hết.
CHÁNH VĂN:
29.-“Say cho tiêu hết giống
con buôn,
Say của Thánh-Nhơn xuất lập tuồng.
Say tạo một nền qui vạn vật,
32.-Say dìu trăm họ vượt mây
truông”.
CHÚ THÍCH:
GIỐNG CON BUÔN: Giống
kẻ chuyên nghề buôn bán (hàm ý coi khinh). Thí dụ: Tính toàn như lối con buôn,
thủ đoạn con buôn.
SAY CHO TIÊU HẾT GIỐNG
CON BUÔN: Đức Huỳnh Giáo Chủ say thật. Nhưng lấy cơn say
để diệt trừ giống làm con buôn cho thực dân Pháp, cõng rắn cắn gà nhà. Xét thấy
hạng chạy theo Pháp quốc không phải là ít. Đức Giáo Chủ lấy cơn say để tiêu diệt
bọn họ.
SAY CỦA THÁNH NHƠN XUẤT
LẬP TUỒNG: Đức Huỳnh Giáo Chủ say vì mùi thánh giáo. Được
biết Ngài có mặt trong đời là do một nhân duyên lớn. Vừa hưng truyền đạo pháp
cho nền Phật giáo, vừa trợ giúp cho vị Thánh Vương an bang tái thế ở cuộc đời tận.
Nên Ngài mượn cơn say để nói lên chí khí của bực Thánh nhơn cho mọi người rõ thấu
và còn gọi là đạo Thánh nhơn.
Mặc dù nền Đạo này phát tích từ
Trung Quốc. Nhưng tổ tiên ta đã nhờ giềng mối này un đúc thành bậc trí nhân
quân tử, giữ vững nước nhà, trung thành với tổ quốc và hiếu thảo với cha mẹ,
cho nên Đức Thầy mới đặt để là nơi phát tích lập tuồng.
SAY TẠO MỘT NỀN QUI VẠN
VẬT, SAY DÌU TRĂM HỌ VƯỢT MÂY TRUÔNG: Đức Huỳnh Giáo Chủ giả
dạng say để nói lên cái hoài bão phi thường cho mọi người được biết, hoài bão
đó phải chăng là “Lấp biển vá trời”. “Đấng anh hùng dựng nên thời thế” mặc dù đất
nước bị bọn thực dân giày đạp nhưng chí quật cường không phút nào xao lãng:
“Dòm êm trời thì cứ ra tay.
Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng
lai, Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão”. Ngài quyết định phải tạo lập một nền tự
chủ, đánh đuổi bọn giặc Pháp ra khỏi bán đảo Đông Dương, xây dựng một nền móng
quốc gia thật sự “Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng, Đưa nhơn loại đi vào
vòng hạnh phúc”. Nhưng thời thế cứ đổi thay khiến Ngài phải tạm vắng mặt một thời
gian chừng đúng lúc, đúng thời cơ Ngài sẽ trở về để hoàn thành sứ mạng “Chúa vững
ngai vàng sãi mới yên”. Hoặc giả: “Chừng nào Thầy lại gia trung, Thì trong bổn
đạo bóng tùng phủ che”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 29 đến
câu 32)
Đức Huỳnh Giáo Chủ mượn cơn
say để nói lên hoài bão chí khí của một bực thức giả yêu nước, yêu đời, yêu nền
đạo Thánh đã un đúc trên 25 thế kỷ qua, hiện giờ đã bị mai một. Hôm nay, Ngài
có sứ mạng dung hòa tam giáo (Nho, Thích, Lão), Ngài ví mình như Đức Khổng Tử
thuở xưa, phải an bang định quốc cho Đức Minh Vương ngự trị chốn ngai vàng. Trước
trừ tiêu giống con buôn chạy theo Pháp quốc, sau dựng xây đất nước thanh bình,
toàn dân hưởng cảnh trời Nghiêu đất Thuấn, cả vạn vật đồng qui về một mối nhà
Phật con Tiên.
“Trên cùng dưới sum vầy một buổi,
Dựng mười hai may rủi mới hay.
Làm cho rõ mặt râu mày,
Thượng nguơn hồi phục là ngày
an cư”.
Đến chừng đó, chúng dân mới biết
giá trị của nền đạo PGHH và bản lĩnh của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Bài 2. THI XUÂN (SẤM GIẢNG THI VĂN TB 2004, tr. 261-262)
XUẤT XỨ:
Nhân dịp xuân về trên quê hương
đất mẹ mến yêu. Xuân qua rồi xuân lại đến, bốn mùa cứ tiếp diễn dần xoay theo
thời gian không cố định. Vào dịp cuối Đông để nhường bước cho mùa Xuân đến. Thi
nhân xưa nay thường mượn cảnh xuân để thi thố tài ba hòa vui cùng đất nước, quê
hương, tổ tiên, nòi giống, cho nên hàng loạt thi thơ sáng tác đăng lên văn đàn
nghệ thuật.
Cũng nhân dịp xuân về, Đức Huỳnh
Giáo Chủ mượn cảnh xuân để nói lên tiếng lòng trắc ẩn qua cái nhìn thực tiễn của
bậc chân tu. Những cảnh rước xuân, áo quần lòe loẹt, bánh trái dẫy đầy, tục lệ
cúng gà đượm mùi mê tín…Những bài thi xuân này được viết vào ngày cuối năm nhằm
ngày 28 tháng chạp năm Kỷ Mão (1939) Ngài viết tại Tổ Đình Thánh Địa Hòa Hảo.
VĂN THỂ:
Đức Huỳnh Giáo Chủ viết bài
“THI XUÂN” này bằng thể thơ thất ngôn tứ cú Đường luật. Tất cả 11 bài, dài 44
câu. Khởi đầu bằng câu “Rước xuân năm mới tiếng đì đùng” và chấm dứt bởi câu
“Cơn buồn chấp bút chuyển huyền thông”. Tuy viết thi Đường nhưng Đức Huỳnh Giáo
Chủ có vài bài phá lệ, không theo khuôn khổ Đường thi. Chứng tỏ là Ngài không
muốn hoàn toàn lệ thuộc vào luật thơ Đường. Đây cũng là cách phá chấp của bậc
thơ Thần. Như Ngài đã bày tỏ “Miệng nhích môi đầy văn tao nhã, Hạ bút thần thơ
đã đề khai”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ tả cảnh
xuân sang, tục lệ mê tín cổ hủ của người Tàu bày đặt làm mê hoặc giống dân Việt
Nam. Nhân cơ hội vui xuân, Ngài khuyến khích mọi người rán tầm Đạo Ma ha, xem
tường Đạo lý. Rồi Ngài kêu réo giống dân Hồng Lạc rán lo tu để nhờ Trời Phật
che chở sống sót qua cảnh chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên.
Sau cùng Ngài so sánh kiếp sống trần trược của buổi Hạ nguơn, và cái vui đẹp gặp
Phật gặp Thầy của buổi thanh nhàn đời Thượng nguơn Thánh đức sắp đến.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ cải sửa cái
hủ hóa của tục lệ đầu xuân rồi Ngài khuyên đời giác tỉnh tầm đạo Thích Ca trước
nỗi khổ đớn đau của người dân bị mất nước “Chiến tranh thảm khốc toàn lê thứ,
Lo nỗi đói đau giống Lạc Hồng”.
CHÁNH VĂN:
THI XUÂN
1.-“Rước xuân năm mới tiếng
đì-đùng,
Cờ phất trẻ mừng chúc cội
thung.
Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm,
Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc
cung”.
CHÚ THÍCH:
XUÂN: Mùa đầu
tiên của một năm (từ tháng giêng đến hết tháng 3).
ĐÌ ĐÙNG: Tiếng
nổ. Không liên tiếp nhưng to và vang từ xa vọng lại. Thí dụ: Tiếng nổ đì đùng.
CỘI THUNG: Cội:
Gốc rễ. Thung: Là loại cây sống lâu. Biểu tượng người cha (thung cỗi huyên già)
cha già, Đức Thầy có câu: “Lo bề cúc dục cội thung” hoặc giả “Lúc áo não cội
thung lo liệu”.
LÒE LOẸT: Màu sắc
sặc sỡ, kém phần thanh nhã.
DẪY ĐẦY: Tràn
lan ở đâu cũng có.
CÚC CUNG: Cúi mình
xuống để làm lễ. Theo cách lạy của Nho giáo ngày xưa. Đức Thầy có câu: “Cúc
cung hưng bái, cúc cung hoài”.
LƯỢC GIẢI:(Từ câu 1 đến
câu 4)
Đức Huỳnh Giáo Chủ tả cảnh
xuân theo tục lệ xưa. Nào pháo nổ đì đùng, cờ bay phất phới; trẻ già đua nhau
chưng diện áo quần lòe loẹt đi cùng xóm. Nhứt là theo phong tục “Mùng một tết
cha, mùng ba tết thầy”. Vẫn còn giữ nhưng nó không đậm đà như xưa nữa. Ngày nay
đã vắng tiếng pháo xuân. Tuy thế, tục lệ rước ông bà vẫn còn giữ. Việc đi chúc
thọ cha mẹ cũng bỏ bớt lần lần. Bánh trái cũng cần lo sắm để cúng kiếng, nhưng
nỗi cúc cung đã lui về quá khứ. Vì dân tộc tiến bộ, những cổ hủ xưa đã yên ắn với
thời gian.
CHÁNH VĂN:
5.-“Chúc mừng năm mới, mới buổi
qua,
Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà.
Tre nêu phơ-phất không còn thấy,
8.-Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba.
Kỷ-Mão năm nay đã hết rồi,
Tâm thần hoài tưởng chuyện
xa-xôi.
Đạo mầu Nam địa càng thâm-diệu,
12.-Dẫn dắt nhơn-sanh cũng chữa
rồi”.
CHÚ THÍCH:
DỊ ĐOAN: Dị: Lạ.
Đoan: Manh mối. Những điều manh mối lạ lùng, không đúng chơn lý. Thí dụ: Cúng
gà, coi sao, coi hạn, xin xăm, bói quẻ…Nghĩa rộng: Các tà thuyết, tà giáo bày
ra các điều mê tín dối gạt dân chúng. Đức Thầy có câu:
“Bỏ dị đoan mới thấy đạo mầu,
Bớt giả dối gặp người Thượng cổ”.
BỎ BỚT DI ĐOAN CHẲNG
CÚNG GÀ: Theo tục lệ ông bà xưa thường ba ngày đầu xuân
lại sát sanh cúng tế. Nhứt là ngày mùng ba ra mắt thường làm gà vịt cúng tế tổ
tiên, tỏ cho thiên hạ biết là con có hiếu. Theo quan niệm “Chữ Hiếu” của Đức Huỳnh
Giáo Chủ không phải đợi đến ngày tết mà thường nhựt ngày hai bữa cơm, có chi
cúng nấy, nguyện vái ông bà cha mẹ quá vãng về ăn cơm với mình. Điều cần nhứt
là lo tu cầu và nuôi cha dưỡng mẹ lúc còn sanh tiền. Đó mới thật đạo hiếu. Đồng
quan điểm này, Thánh nhơn đã bảo: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế, dĩ
hiển kỳ phụ mẫu hiếu chi chung dã”. (Lập thân hành đạo để tiếng đời sau, đó là
cách báo hiếu sau cùng của người con chí hiếu vậy). Hiện nay Đức Huỳnh Giáo Chủ
cũng sách tấn:
“Rán tu đắc đạo cứu Cửu huyền,
Thoát chốn mê đồ đến cảnh
Tiên.
Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,
Cho ta hình vóc học cơ huyền”.
Ở đây Đức Huỳnh Giáo Chủ
khuyên ta bỏ bớt những điều dị đoan mê tín, tức là không nên sát sanh hại vật
mà cúng tế một thần thánh, hay cúng kiếng ông bà trong ba ngày xuân nhựt. Vì đó
là việc cổ hủ, trái với luật lệ công bằng của tạo hóa, vì chơn lý của đạo Phật
là giết người phải đền mạng, chém một dao trả một dao. Đằng này, cúng tổ tiên
quá vãng lại sát sanh hại vật. Đó là do dị đoan mê tín do tà thần cám dỗ.
TRE NÊU PHƠ PHẤT: Ngày
xưa vào dịp tết Nguyên Đán, người ta buộc “bùa nêu” vào cây tre thật cao dựng
trước cửa nhà bắt đầu vào ngày 23 tết (cũng là ngày rước Táo Quân) và đến ngày
mùng 7 mới hạ nêu.
TRE NÊU PHƠ PHẤT KHÔNG
CÒN THẤY, RA MẮT TIÊU MÒN BỮA THỨ BA: Tre nêu cũng là tục lệ
của ông bà xưa chịu ảnh hưởng của người Tàu. Ngày nay xã hội văn minh phong tục
Nho giáo đã lùi về dĩ vãng, những tập quán cổ hủ người dân Việt cũng bỏ bớt lần
lần. Vấn đề dựng nêu không còn thấy ai làm nữa. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khẳng định
“Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba” tức nói ngày mùng ba là hết tết. Ở đây, Đức Huỳnh
Giáo Chủ tiên tri thời thế dân tộc Việt Nam là dân tộc bị trị, hãy cố vươn lên
mọi mặt để kịp các nước siêu cường; những việc ăn chơi xa xí vụn vặt, tập tục
mê tín hãy bỏ đi mới xứng đáng con Hồng cháu Lạc.
KỶ MÃO: Tức
năm 1939, năm Đức Huỳnh Giáo Chủ khai Đạo tại Tổ Đình Hòa Hảo.
TÂM THẦN: Phần
tinh thần (đối với thể xác) sự thông minh sáng suốt trong con người. Đức Thầy
có câu: “Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”.
HOÀI TƯỞNG: Hoài:
tưởng nhớ. Tưởng: Nghĩ đến. Tưởng nhớ người nào hay việc đã qua.
XA XÔI: Quá
xa vời, thiếu thực tế.
NAM ĐỊA: Đất ở
phương Nam, chỉ chung đất Nam kỳ lục tỉnh.
THÂM DIỆU: Thâm:
Sâu, nhiều. Diệu: Khéo léo. Càng tốt đẹp, khéo léo, càng thâm sâu vi diệu. Đức
Thầy có câu: “Chuyển miền Nam địa càng thâm diệu”.
DẪN DẮT: Đưa lối
chỉ đường.
NHƠN SANH: Nhơn:
Người. Sanh: Ra đời, chỉ chung mọi người cùng sống chung trong quả địa cầu,
không phân biệt màu da, tiếng nói. Nghĩa rộng: Đời sống con người. Đức Thầy có
câu: “Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 12)
Đức Huỳnh Giáo Chủ chúc mừng
xuân mới, chuyện gì cũng mới, mới buổi vừa qua. Những tập tục lỗi thời dựng
nêu, rước Táo quân, cúng gà vịt ngày tết ngày càng bỏ bớt, vì nó đượm mùi mê
tín. Thực chất là do báo hiếu cha mẹ lúc sanh tiền, khi chết cầu nguyện linh hồn
siêu thoát. Ông bà cha mẹ chứng tấm lòng thành, chớ không ăn uống chi đặng.
Ngày nay, dựng nêu và hạ nêu
nó đã theo thời gian đi vào dĩ vãng. Và ngày tết chỉ vào ba ngày xuân nhựt.
Kỷ Mão đã qua để nhường năm
Canh Thìn sắp đến, vậy những tư tưởng cũ ta cũng phải nhường cho tinh thần mới
được tốt lành hơn. Chớ đừng hoài tưởng chuyện xa vời chi cho mệt trí. Ta phải sống
thực tại sống với lẽ đạo mầu trong tôn giáo hoàn toàn đổi mới tư duy mới đúng
là bực thức giả. Nền đạo PGHH ở miền Nam Việt Nam, Đức Huỳnh Giáo Chủ ngày càng
bành trướng càng lúc phổ giáo càng thâm sâu cho mọi người được hiểu chân lý vô
thượng của nhà Phật. Nhưng với thời gian ngắn chưa phát huy tột đỉnh, nó phải nằm
chờ cơ hội thật thuận tiện mới làm xong nhiệm vụ.
CHÁNH VĂN:
13.-“Bước qua năm mới, mới mừng
à,
Khuyến-khích dân tầm đạo
Thích-Ca.
Tự giác, giác tha ta phải nói,
16.-Hỡi người dương-thế bớt
xa-hoa.
Xa-hoa năm mới, mới khổ à,
Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua.
Đạo-lý xem tường âu mới hãn,
20.-Rán tìm cặn-kẽ nỗi ma-ha”.
CHÚ THÍCH:
ĐẠO THÍCH CA: Đạo
do Phật Tổ Thích Ca khai lập tại xứ Trung Ấn Độ. Như Đức Thầy cho biết:
“Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao
sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới
có”.
TỰ GIÁC, GIÁC THA: Tự mình
giác ngộ để trở nên người tốt đẹp, Đức Thầy có câu: “Lòng tự giác xả thân tầm đạo”.
GIÁC THA: Giác:
Biết. Tha: Người khác. Làm cho người khác được tỉnh ngộ. Đức Thầy có câu: “Rằng
ta có cái bổn phận giác ngộ trần gian, bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt”.
(Chánh tinh tấn).
DƯƠNG THẾ: Cõi đời.
Cõi chúng ta đang ở.
XA HOA: Tiêu
xài phung phí. Nghĩa bóng: Hạng người chơi bời phung phí.
ĐẠO LÝ: Đạo
là con đường hợp với lẽ phải. Lý: lẽ. Nghĩa lý phù hợp với đạo đức. Đức Thầy có
câu: “Học đạo lý như đờn trúng điệu, Hòa bản rồi thì cứ làm theo”. (Q. IV)
CẶN KẼ: Kỹ lưỡng,
tỉ mỉ.
MA HA: Phạn
ngữ Ma ha. Dịch nghĩa: Rộng lớn. Sự rộng lớn ấy ví như hư không, đồng bản thể với
đạo tâm, nói đến Ma ha tức là nói đến đạo, cái gốc để hoàn nguyên phản bổn, trực
kiến chân như tự tánh. Đức Thầy có câu: “Nước ma ha tưới tắt lòng phàm”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 13 đến
câu 20)
Năm cũ đã qua, năm mới sắp đến,
những cái cũ đã lui về dĩ vãng, nhường bước cho cái hiện tại và cái sắp đến. Đức
Huỳnh Giáo chủ chúc phúc cho dân tộc Việt Nam nói chung, cho dân tộc miền Nam
nói riêng phải hoàn toàn đổi mới từ tâm hồn đến vật chất. Ngài khuyến khích
toàn dân rán tầm đạo Thích Ca. Đạo Thích Ca là đạo vô vi thật tướng và vô tướng,
chớ không phải đạo chỉ tu ngoài hình thức là đủ. Ngài vừa là một bậc tự giác và
có bổn phận giác tha nên phải nói lên cho mọi người được hiểu, để tránh những
điều đã sai chơn lý; nhứt là Ngài khuyên người dương thế bớt xa hoa, xa hoa là
tập tục ngàn đời của người Tàu, người Pháp, bày đặt chưng diện cho đúng mốt,
làm cho cuộc sống thường nhựt càng sa sút. Năm cũ vừa qua dân ta đã gian khổ cơ
cực, bước qua năm mới ngày càng khổ hơn. Vậy chúng dân hãy cương quyết bỏ những
tục lệ xa hoa phung phí, không nên chần chờ mới xứng đáng con nhà đạo đức.
Đạo lý là kỷ cương, giềng mối
thường hằng của nền dân tộc Á đông, người dân Việt phải luôn nắm bắt, nghiệm suy
cặn kẽ cho được am tường diệu lý. Nhất là phải truy nguyên nền Đạo rộng lớn của
nước mình, để ta quyết định hành trình tiến tới mục đích.
CHÁNH VĂN:
21.-“Năm Thìn bước tới thiệt
là rồng,
Nanh gút vẫy-vùng nỗi
long-đong.
Chiến-tranh thảm-khốc toàn
lê-thứ,
24.-Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng.
Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi!
Thế-giới đao binh ruột rã-rời.
Khốn nguy đa sự chào xuân mới,
28.-Dân-chúng hoàn cầu khó thảnh-thơi”.
CHÚ THÍCH:
NĂM THÌN: Tức
năm Canh Thìn 1940. Đức Thầy có câu:
“Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển,
Xứ Hà Tiên linh hiển cơ quan”.
NANH GÚT: Nanh:
Răng lớn nhọn mọc ở cạnh răng của các loài thú ăn thịt. Gút: Nút thắt. Nghĩa
bóng: Những hiện tượng dễ sợ.
VẪY VÙNG: Tung
hoành khắp nơi.
LONG ĐONG: Vất vả,
không nơi nương tựa. Đức Thầy có câu: “Thấy đời trần hạ long đong”.
CHIẾN TRANH: Chiến:
Đánh nhau. Tranh: Giành. Hai phe hoặc hai nước dùng võ lực đánh nhau để giành đất
đai hoặc quyền hành. Đức Thầy có câu: “Cho nên gây sự lu bù chiến tranh”.
THẢM KHỐC: Thảm:
Đau xót. Khốc: Bạo ngược. Cảnh bạo ngược làm cho người hết sức đau khổ.
LÊ THỨ: Lê:
Dân đen. Thứ: Đông nhiều. Chỉ chung nhân dân sống chung trên quả đất hay một
vòm trời.
GIỐNG LẠC HỒNG: Còn gọi
là Hồng Lạc, tức là họ Hồng Bàng sanh ra Lạc Long Quân, tức tổ tiên của người
Việt Nam. Nghĩa rộng: Nguồn gốc con Rồng cháu Tiên. Ca dao có câu:
“Nhớ câu mộc bổn thủy nguyên,
Cháu con Hồng Lạc lưu truyền
ngàn xưa”.
Đức Thầy có câu: “Quyết chí
nâng niu giống Lạc Hồng”.
THẾ GIỚI: Thế:
đời. Giới: là đất đai nằm trong một khu vực chỉ chung hoàn cầu, những người sống
chung trên trái đất. Đồng nghĩa với vũ trụ. Đức Thầy có câu:
“Ước mơ thế giới lân hòa hảo,
Nhà Phật con Tiên hé miệng cười”.
ĐAO BINH: Gươm
đao và binh lính. Nghĩa bóng: Cảnh giặc giã chiến tranh. Đức Thầy có câu: “Hết
đao binh qui cổ diệt kim”. Hoặc: “Trần gian khói lửa với binh đao”.
RÃ RỜI: Cảm
thấy như nát rời ra, vì mệt mỏi. Đức Thầy có câu: “Trẻ nhỏ rã rời xa bố mẹ”.
KHỐN NGUY: Cùng
khổ khốn đốn và nguy hiểm.
ĐA SỰ: Đa:
Nhiều. Sự: Việc. Nhiều việc, nhiều công việc.
DÂN CHÚNG: Dân:
Người ở trong làng, trong nước. Chúng: Đông người. Chỉ toàn thể hay số lớn nhân
dân “Khải hoàn dân chúng mới nhàn an”. (ĐT)
HOÀN CẦU: Khắp
cả trái đất, các nước trên thế giới. Nghĩa rộng: Chỉ hành tinh đang quay xung
quanh hệ mặt trời. Bề mặt tính được 510 triệu km2, vòng tròn 140.000 km, đường
trực kín 12.740 km. Riêng biển chiếm 3/4 mặt địa cầu. Đức Thầy có câu: “Khắp
hoàn cầu ó ré một nơi”.
THẢNH THƠI: Thung
dung nhàn nhã. Rảnh rang không vướng bận. Đức Thầy có câu: “Minh quân xuất thế
khắp tràng thảnh thơi”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 21 đến
câu 28)
Năm Canh Thìn là năm con Rồng,
rồng thì vẫy vùng nanh gút nên thế giới xảy nỗi chiến tranh tàn khốc cả toàn lê
thứ. Đức Tôn Sư PGHH cảm thương giống dân Hồng Lạc phải chịu nhiều cuộc đao
binh rã rời cả khúc ruột. Đức Huỳnh Giáo Chủ vẫn chào xuân mới, nhưng xuân khốn
nguy đa sự dân chúng phải chịu nhiều vất vả đau thương “Khắp hoàn cầu ó ré một
nơi”. Khó mà thảnh thơi. Thật là cảnh đớn đau chua chát chưa từng thấy trong lịch
sử Việt Nam.
CHÁNH VĂN:
29.-“Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long,
Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng.
Chạnh cám cha còn con chẳng biết,
32.-Phải nhờ đạo-đức mới tường
thông.
* * *
Phần ta thương chúng luống âu
sầu,
Dân sự nào tường nẻo cao sâu.
Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối,
36.-
Nhưng vì bổn-phận phải toan
âu.
* * *
Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu
hơi.
Đạo-đức nhiệm mầu chẳng có
chơi.
Lê-la chậm bước đàng bụi gió,
40-.Phải sớm lánh xa khỏi cuộc
đời”.
CHÚ THÍCH:
PHI PHI: Sự bất
ngờ. Sự cố bất ngờ.
HUỲNH LONG: Huỳnh:
Vàng. Long: Rồng. Rồng vàng. Đức Thầy có câu: “Huỳnh Long tự thế gần sanh
chúng,
Bổn tánh hòa thôn hảo dĩ đầu”.
BÁ NHA: (Xem
STTĐ……….)
PHI PHI BỖNG XUẤT MẶT
HUỲNH LONG, DỤNG LỐI BÁ NHA RÉO LẠC HỒNG: Bỗng
nhiên vị chơn chúa xuất hiện tại miền Nam Việt Nam trong một ngày gần đây, đó
là cơ thiên định. Đức Huỳnh Giáo Chủ vì một đại nhân duyên, nhân thời kỳ của vị
Thánh vương có mặt lập lại đời tân, Ngài dùng Kệ Giảng giục thúc con Hồng cháu
Lạc hãy sớm thức tỉnh quày đầu, cải tà qui chánh cho kịp đúng ngày Phật Tiên
phân định. Ngài dùng tài đờn của Bá Nha nhủ khuyên bá tánh:
“Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
Cúi đầu trước qui y Phật
pháp”.
Vậy ai là bạn tri âm cùng Ngài
hãy xuất đầu lộ diện như Tử Kỳ xưa kia, tất cả giống dân Hồng Lạc nói chung,
tín đồ PGHH nói riêng đều là bạn tri âm cùng Ngài. Vậy hãy tiến tu để kịp ngày
Phật trời chuyển lập.
ÂU SẦU: Lo lắng,
buồn phiền.
BÔN BẮC TẨU NAM: Bôn:
Ra. Bắc: Miền Bắc Việt Nam. Tẩu: Chạy. Nam: Miền Nam Việt Nam. Nghĩa là ra miền
Bắc vào miền Nam.
BỔN PHẬN: Phần
việc của mình, trách nhiệm của mình. Đức Thầy có câu: “Hổ mình là bực tu mi,
Chưa tròn bổn phận mà ti tôn
mình”.
Bổn phận: Còn nghĩa thứ hai của
chữ Đạo.
BÔN BẮC TẨU NAM CAM KHỔ
RỐI, NHƯNG VÌ BỔN PHẬN PHẢI TOAN ÂU: Vào Nam ra Bắc, là một
việc vô cùng gian khổ, một thân phải gánh lấy hai miền thật là khó khăn gian khổ
nhưng xét vì đây là bổn phận, là việc đạo đức, con người có trách nhiệm phải
làm, phải lo liệu cho chu toàn.
NGUƠN HẠ:
Nguơn cuối cùng của lý Tam nguơn.
I. Thượng Nguơn Thượng, Thượng
Nguơn Trung, Thượng Nguơn Hạ.
II. Trung Nguơn Thượng, Trung
Nguơn Trung, Trung Nguơn Hạ.
III. Hạ Nguơn Thượng, Hạ Nguơn
Trung, Hạ Nguơn Hạ.
Ý chỉ đời sắp rốt. Đức Thầy có
câu:
“Hạ nguơn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời
gia cang”.
ĐẠO ĐỨC: Đạo:
Con đường phải hợp với tâm hồn, hợp với nhân sanh, với xã hội. Đức: Tâm lành. Đạo
đức: Đường lối của một tôn giáo chân chính vạch đúng với lẽ phải, với tâm hồn,
vừa cao thượng vừa siêu thoát.
NHIỆM MẦU: Còn gọi
mầu nhiệm. Huyền diệu sâu kín. Đức Thầy có câu: “Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của
Ta”.
LÊ LA: Lê:
Kéo dài. La: Lân la. Nghĩa rộng: Sự việc, công việc kéo dài mãi.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 29 đến
câu 40)
Diễm phúc thay “Đức Minh Vương
ngự chốn Nam thành, Đặng phân xử những người bội nghĩa”. Đức Huỳnh Giáo Chủ có
bổn phận phò vị Thánh Vương nên Ngài phải dùng đờn Bá Nha réo kêu chúng dân Hồng
Lạc mau thức tỉnh tu hành kịp kỳ phò trợ. Ngài kêu gọi ai là bạn tri âm phải nhận.
Tự tầm kiếm giáo lý, truy nguyên lại nguồn gốc của mình. Ông cha ta xưa kia là
con Hồng cháu Lạc, vẫn còn nguồn cội căn gốc tu hành. Đó là vị Thánh vương sắp
xuất hiện nay mai, sao chúng ta chẳng biết? Nỡ hờ hững thật đáng tiếc thay!
Con người sống trên đời phải cần
có Đạo đức, Đạo đức là thành đồng, vách sắt chở che cho mình vượt qua bao thử
thách gai chông và đưa mình đến nơi an dưỡng trường tồn vĩnh cửu. Như câu: “Thiếu
đạo đức sắt gan cũng chảy”. Cho nên nhờ Đạo đức mới tường thông và nhận chân mọi
sự việc. Đức Huỳnh Giáo Chủ vì quá thương đời nên lúc nào cũng lo lắng, hết vào
Nam lại ra Bắc khuyên bảo nhơn sanh làm lành lánh ác thật là âu sầu vất vả.
Chúng dân nào tường nẻo cao sâu trong Phật pháp lại còn thờ ơ với bổn phận,
chưa quyết chí tu hành, cuộc đời Hạ Nguơn thật là mỏng mẻo có mấy lâm hơi. Đạo
đức là con đường siêu thoát nhiệm mầu không phải chuyện tầm thường như chúng
sanh hiểu. Chúng ta chớ chần chờ đeo níu con đường danh lợi nữa mà phải sớm
lánh xa để tiến về chân thiện mỹ.
CHÁNH VĂN:
39.-“Mãnh hổ đâu đua chí
tang-bồng,
Rạng mày nở mặt với non sông.
Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-thủy,
42.- Cơn buồn chấp bút chuyển
huyền thông”.
Hòa Hảo, ngày 28 tháng chạp
năm Kỷ Mão
(Chép theo bản chánh do ông
Nguyễn Chi Diệp giữ).
CHÚ THÍCH:
MÃNH HỔ: Cọp dữ.
Đức Thầy có câu: “Miệng là mãnh hổ ý là sài lang”.
TANG BỒNG: Tang:
Cây dâu. Bồng: Cỏ bồng. Cung làm bằng cây dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Nghĩa
bóng: Chí khí làm trai. Đức Thầy có câu: “Nghiêng hai vai gánh nặng non sông”.
QUÂN TỬ: Người
có phẩm hạnh cao khiết, tài năng vượt trội hơn kẻ tầm thường. Mẫu người quân tử
được Nho giáo đề xướng như bậc “Chí nhân quân tử”. Đức Thầy có câu:
“Chí quân tử lòng nhơn vạn đại,
Dốc làm sao rõ mặt tang bồng”.
THÁNH NHƠN:
Thánh: Là người hiểu thấu việc trên đời, học thức và đạo đức rất cao sâu. Nhơn:
Người xưa hay chỉ Đức Khổng Tử. Trong Lục Vân Tiên có câu: “Thương là thương đức
thánh nhơn”. Đức Thầy cũng có câu:
“Bậc Thánh nhơn công lao chẳng
chán,
Huống chi Ta nào dám than
van”.
NHƯỢC THỦY: Nói cho
đủ “Non bồng nước nhược”. Nghĩa bóng: Nơi Tiên ở. Đức Thầy có câu: “Cố tưởng ước
mơ về nhược thủy”.
HUYỀN THÔNG: Huyền:
Sâu kín, mầu nhiệm.
Thông: Thấu suốt. Đức Thầy có
câu: “Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 41 đến
câu 44)
Dầu thực dân Pháp hùng dũng cỡ
nào cũng không đua nổi chí tang bồng của đấng trượng phu quân tử. Chí khí của bực
thánh nhơn quân tử có thể lấp biển vá trời, làm nở mày rạng mặt khắp non sông.
Đó là bực Thánh vương ở cuộc đời Thượng nguơn sắp đến. Nhưng cuộc thế còn chờ
cơ Thiên định. Trong khi nhàn rỗi các Ngài chấp bút nghiên chuyển hóa cơ mầu
cho nhơn sanh rõ thấu huyền thông của Phật pháp.
Bài 3.- CÁM CẢNH DÂN NGHÈO (SẤM GIẢNG THI VĂN GIÁO LÝ TOÀN BỘ 2004, tr.263)
XUẤT XỨ:
Máy tuần hoàn luân lưu theo
năm tháng, hết xuân rồi hạ, kế sang thu đông, năm cùng tháng tận để bắt sang
xuân nữa. Kỷ Mão vừa qua là một năm nghèo đói, đồng ruộng xơ xác bởi vì ngập lụt,
nhưng cái tết đến nơi, thử hỏi đám bần dân xử trí ra sao. Trăm việc đưa đến
cũng cậy vào đồng tiền, nhưng đồng tiền lấy từ đâu đem lại, trong khi nhà thiếu
gạo ăn hằng bữa, bầy con rách rưới lang thang, cảnh sống cơ cực trông thật thảm
não!
Hơn nữa, không biết lệ xưa của
ai bày đặt cảnh rượu trà cờ bạc trong ba ngày tết. Ôi! Thật là phung phí. Xã hội
băng hoại, nghèo đói thiếu phương tiện sinh sống; thế mà người dân không ý thức
được hoàn cảnh khổ sở của mình, mãi chạy theo cái vui sướng nha nhớp nhứt thời,
bỏ quên nền luân thường lễ giáo của ông cha từ nhiều đời trước. Nhân dịp xuân về,
tết đến cũng là lệ tất niên. Vào ngày 28 tháng chạp niên Kỷ Mão, Đức Huỳnh Giáo
Chủ cám chạnh nỗi niềm trắc ẩn của người dân nghèo, làm Ngài động mối từ tâm
sáng tác 5 bài tứ cú thi, tại Tổ Đình Hòa Hảo mang tựa đề là “CÁM CẢNH DÂN
NGHÈO”. Nhằm tác động tâm lý tín đồ và quần chúng.
VĂN THỂ:
Đức Huỳnh Giáo Chủ viết bài
“CÁM CẢNH DÂN NGHÈO” theo thể thất ngôn tứ cú Đường luật dài 20 câu, lối tự thuật
có lồng thuyết giáo. Khởi đầu bằng câu: “Tết đến cùng năm tháng hết mà” và chấm
dứt bởi câu: “Mê mệt tâm can trí bắt cuồng”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ diễn tả cảnh
ba ngày tết, sự nghèo đói của dân chúng ở thôn quê, đồng lúa xơ xác, cảnh đói
buông lung. Ngài nhắn nhủ hóa công: lệ xưa, việc rượu trà, cờ bạc trong ba ngày
tết do ai bày đặt ra? Và dịp tết cứ liền tay làm cho dân sự vui nha nhớp. Rồi Ngài
bày tỏ tâm sự u buồn về thế sự.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ cám cảnh
dân nghèo trong ba ngày tết và Ngài thống trách lệ xưa do ai bày đặt rượu trà cờ
bạc trong ba ngày xuân? Rồi thời gian cứ chồng chất tệ nạn xã hội cứ tái diễn
trong dịp tết.
CHÁNH VĂN:
1.-“Tết tết cùng năm tháng hết
mà,
Thằng bần công nợ chạy bôn-ba.
Hẹn mai hẹn mốt chờ khai hạ,
Con đòi áo tốt rối chàng ta”.
CHÚ THÍCH:
TẾT: Ba
ngày đầu âm lịch: Ăn tết, chợ tết. Năm hết, tết đến. Tết còn gọi là tiết, thời
tiết, lâu ngày đọc chạy thành tết.
CÔNG NỢ: Khoản
nợ của cá nhân, nói chung: Trang trải công nợ.
BÔN BA: Xuôi
ngược bốn phương, rày đây mai đó. Đức Thầy có câu:
“Tuy là lưu lạc bôn ba,
Đến khi mãn hạn bạn xưa cũng
nhìn”.
Hoặc là: “Từ đây Ta mắc bôn
ba”. (Q. III)
KHAI HẠ: Hạ
nêu, ngày cuối cùng của tết Nguyên Đán. Theo lệ xưa thường định vào ngày mùng 7
tháng giêng.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Thời gian cứ tuần tự trôi,
ngày lại ngày qua năm cùng tháng tận “Tết rồi tết nữa tết liền tay” làm cho những
gia đình nghèo đói phải cong lưng chạy hỏi công nợ thật là vất vả. Tại sao? Tại
vì suốt 12 tháng mới đáo lệ đầu năm. Tục lệ rước xuân là để cúng kiếng ông bà
cha mẹ, kẻ đi nội, người về ngoại, dầu ở gốc bể chân trời, nhân dịp tết cũng phải
trở về viếng lại làng quê. Bởi con người có tổ có tông. Nhiều gia đình nghèo khổ,
túng quẩn, lại sinh con đông, nên cứ an ủi bầy con hẹn lần hẹn lựa cho qua ngày
tháng, đợi đến hạ nêu mới sắm sửa áo quần. Hơn nữa, với thời đại kim tiền, xã hội
băng hoại mọi người cứ đua chen chưng diện quần áo mới, nhà cửa mới, xe cộ mới…làm
cho những gia đình nghèo gặp nhiều hoàn cảnh bối rối, mất ngủ quên ăn, lại thêm
lũ trẻ thúc giục cha mẹ mua sắm này nọ.
CHÁNH VĂN:
5.-“Năm nay ăn tết thật là
nghèo,
Sanh-chúng u-buồn nỗi nạn eo.
Đồng khô lúa ngập coi xơ-xác,
Cảnh đói buông lung nỗi giạt
bèo”.
CHÚ THÍCH:
U BUỒN: Nỗi
lo lắng giấu kín trong lòng.
XƠ XÁC: Rách
nát, tả tơi, tan ra thành từng mảnh. Nghĩa rộng: Chỉ cho cảnh hoang phế điêu
tàn.
BUÔNG LUNG: Bỏ
trôi, bông lung. Nghĩa rộng: Phó thác cho số mệnh.
GIẠT BÈO: Trôi
nổi, bềnh bồng. Như cụm từ “bèo giạt mây trôi”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến câu
8)
Ngược dòng lịch sử dân tộc Việt
Nam, cái tết năm Canh Thìn đã đánh dấu nhiều kỷ niệm u buồn. Nước lũ quá lớn đồng
lúa bị ngập lụt, dân làng trở nên nghèo khổ và nhiều tai nạn xảy ra hoàn cảnh
đói đau không thuốc. Nhiều nhà túng quẩn không nghĩ gì xuân, mỗi năm có một mùa
vụ, lúa lại bị ngập, đồng trống ruộng hoang, không còn biết trông cậy vào đâu để
xây xài và cúng quảy ông bà trong ba ngày tết. Có người phải đi làm thuê làm mướn
ở phương xa, rồi ăn tết ở xứ người. Cảnh sống buông lung như bèo nổi mây trôi,
không biết đâu là định hướng. Ôi! Đau đớn quá nhỉ!
CHÁNH VĂN:
9.-“Nhắn-nhủ khắp nơi hỏi một
bài,
Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai?
Rượu-trà, cờ-bạc, ôi phung-phí,
Chẳng biết lệ xưa của ai
bày?”.
CHÚ THÍCH:
NHẮN NHỦ: Nhắn:
Gởi lời. Nhủ: Khuyên bảo. Gởi lời khuyên bảo. Đức Thầy có câu: “Nhắn nhủ cùng
ai có mấy lời”.
XUÂN NHỰT: Ngày
tết.
RƯỢU, TRÀ, CỜ, BẠC: Bốn
thứ say nghiện. Một họ của tứ đổ tường làm con người nghèo khổ và vô liêm sỉ.
Ai sa vào khó mà bước ra.
PHUNG PHÍ: Tiêu
xài một cách bừa bãi.
LỆ XƯA: Do chữ
cổ lệ. Những lề lối phong tục xưa đã quy định. Hoặc luật pháp ban hành từ trước
để mọi người tuân theo.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 9 đến
câu 12)
Đức Tôn Sư PGHH mượn bút làm
bài thơ tứ cú trên đây với nội dung nhắn nhủ khắp mọi nơi rằng: Không biết ba
ngày xuân tự đâu mà có. Có từ đời nào? Và do ai dựng đặt. Theo tiền sử Việt Nam
cho biết: Ba ngày xuân có từ khi lập quốc, trên 4.000 năm văn hiến. Từ khi dân
Giao Chỉ bắt được con Thần qui trên lưng có khắc ngày giờ năm tháng, tứ mùa tám
tiết, thủy triều lên xuống nhằm ngày sóc và ngày vọng. Vua ta không riêng hưởng
của quí mới dâng qua Trung Quốc. Vua Tàu nhân đó mới khắc định ngày, giờ, năm
tháng, tiết canh, năm nhuần, tháng thiếu…rồi trả lại vua ta. Và cũng từ đó Việt
Nam có âm lịch và có ba ngày xuân.
Tục lệ ngày xuân là cúng kiếng
ông bà và đi chúc thọ nội ngoại. Còn rượu trà cờ bạc là phong tục hủ bại phát
sinh từ số người chơi bời trác táng, họ chỉ biết hơn thua và lợi lộc trước mắt.
Họ đâu ngờ thành thói quen và đưa dân sinh đến mầm trụy lạc sa đọa. Nghĩ thật
là phung phí. Đức Tôn Sư PGHH nhìn cảnh trạng đê hèn trên, lòng Ngài đau xót
không biết than thở cùng ai. Nên chấm một dấu hỏi to tướng lệ cờ bạc rượu trà
là do ai bày đặt ra?
CHÁNH VĂN:
13.-“Tết rồi tết nữa, tết liền
tay,
Năm cuối mỗi năm cũng tết
hoài.
Làm cho dân-sự vui nha-nhớp,
Chơi giỡn ba ngày rước xuân
lai”.
CHÚ THÍCH:
DÂN SỰ: Dân:
Người dân. Sự: Việc. Việc thuộc người dân. Có tánh cách dân chúng. Đức Thầy có
câu: “Tình yêu dân sự, sự xa vời”. Hoặc giả: “Dân sự nào tường nẻo cao sâu”.
NHA NHỚP: Nha:
Mầm, manh nha. Nhớp: Nhơ xấu. Mầm mống sanh ra thói hư tật xấu.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 13 đến
câu 16)
Ngày tháng tợ thoi đưa, mới tết
năm nay, tết sang năm, rồi sang năm nữa, ví như trở bàn tay. Thật vậy “Mười hai
tháng mà còn mau tới”. Từ tháng giêng đầu năm tới tháng chạp cuối năm rất mau lẹ.
Nếu đã cuối năm phải trở lại đầu năm là ta ăn tết nữa. Càng tết càng làm cho
dân sự vui say theo tập tục trác táng. Những bài bạc rượu trà làm cho mình say
sưa túng quẩn thật là nhơ nhớp. Họ chỉ mong đến ba ngày tết để rước xuân, vui
xuân, chưng diện áo quần lòe loẹt đi cùng xóm rồi tụm năm tụm bảy trò chơi giải
trí có tánh cách thủ lợi ích kỷ đê hèn.
CHÁNH VĂN:
17.- “Lòng ta cảm thấy nỗi
u-buồn,
Suy xét việc đời lụy muốn
tuôn.
Chào xuân chẳng thấy xuân mừng
nói,
20.- Mê-mệt tâm can trí bắt cuồng”.
CHÚ THÍCH:
U BUỒN: Nổi
lo lắng giấu kín trong lòng. Đức Thầy có câu: “Sanh chúng u buồn nỗi nạn eo”.
SUY XÉT: Nghĩ
suy, xem xét.
MÊ MỆT: Mê
man, mệt mỏi. Đức Thầy có câu: “Xác trần mê mệt nỗi long đong”.
TÂM CAN: Tâm:
Tim. Can: Gan. Nghĩa bóng: Tình ý chân thật trong lòng của con người. Những điều
chất chứa trong lòng mà chẳng ai rõ. Đức Thầy có câu: “Nhìn xem thế sự não nề
tâm can”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 17 đến
câu 20)
Đức Huỳnh Giáo Chủ cảm thấy nỗi
u buồn dằn dặt trong tâm. Ngài buồn vì sanh chúng lợi dụng ngày tết để vui say
theo tập tục hư hèn, đồi trụy cổ hủ đã ăn sâu vào lòng quần chúng. Càng suy xét
việc đời khiến hai dòng lệ cứ tuôn trào đúng với câu “Thương quá sức bắt cuồng
tâm não”. Mặc dù vậy, chẳng lẽ Ngài bỏ phế công trình mà Ngài phải thực hiện:
“Quyết cứu đời dùng Đạo phổ
thông”.
Rồi nhân dịp xuân về, Ngài thỏ
thẻ với chúa xuân để cùng Ngài chia xẻ niềm tủi nhục, nhưng chẳng thấy xuân mừng
nói điều chi khiến lòng Ngài như cuồng trí.
Bài 4.- HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP (SẤM GIẢNG THI VĂNTB 2004, tr.264 - 267)
XUẤT XỨ:
Cũng như bài “CÁM CẢNH DÂN NGHÈO”,
bài “HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP”, Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác vào những ngày cận
tết. Những bài nầy Ngài chỉ viết phớt qua cảnh xuân sang, dành việc khuyến tu
và giục thúc đạo đồng. Đồng thời, Ngài tường trình lai lịch bản xứ “Tạo xác Huỳnh
danh thanh sắc trẻ”, và cho biết căn gốc “Kim Sơn Thượng Đẳng”, xuất phát từ
đâu để trấn tỉnh mọi người lo tu tiến. Ngài sáng tác một mạch suốt 19 bài tứ cú
Đường luật vào dịp cuối năm (29 tháng chạp năm Kỷ Mão).
VĂN THỂ:
Đức Huỳnh Giáo Chủ viết bài
“Hai Mươi Chín Tháng Chạp”, thuộc thể thơ tứ cú Đường luật. Nhưng Ngài phá lệ,
phần nhiều không theo luật bằng trắc của thể luật Đường. Ngài chỉ chú trọng vào
lối thuyết giáo, giục thúc nhơn sanh tìm kiếm đạo mầu. Ba bài đầu Ngài theo thể
tùy hứng. Từ bài thứ tư đến bài thứ mười ba viết theo thể liên hoàn. Riêng bài
thứ mười lăm có xen bài khoán thủ, viết đúng luật bằng trắc. Lời văn hùng hồn
khúc chiết, đượm mùi đạo vị sâu xa từ đầu đến cuối. Khởi đầu bằng câu: “Bước tới
hùng ca bước tới hoài”, và chấm dứt bởi câu:
“Nghĩ chuyện dối ma chẳng dám
làm”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ một mực xiển
dương chánh pháp, mặc kệ đời hủy báng khen chê. Ngài giục thúc nhơn sanh tầm kiếm
đạo mầu một lòng lo tu tỉnh.
Ngài vạch rõ sứ mạng chuyển kiếp
độ đời và phân tách con đường thoát khổ, giải nghiệp duyên. Và Ngài hứa sẽ ra sức
tháo dây xiềng xích của kẻ ngoại bang để dân chúng được an nhàn.
Sau rốt Ngài chỉ rõ nơi cư trú
của Kim Sơn Phật và Thượng Đẳng. Và xuyên qua ba ngày xuân buồn tẻ, khuyên dân
chúng bỏ đứt dị đoan về tục đốt giấy tiền.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ giục thúc
nhơn sanh kiếm đạo mầu. Ngài nói lên chí nguyện tháo dây xích xiềng cho thế tục.
Ngài vạch rõ con đường bon chen theo giặc Pháp là hung ác cõng rắn cắn gà nhà.
CHÁNH VĂN:
1.-“Bước tới hùng ca bước tới
hoài,
Đạo đời hủy báng mặc tình ai.
Cố chí nhiệm-mầu truyền diệu-pháp,
Bởi vì cốt-nhục cũng hoài
thai”.
CHÚ THÍCH:
HÙNG CA: Bài
ca hùng tráng, như bản “Anh Hùng Ca”. Tức bài ca thúc giục mạnh mẽ cho đoàn
quân hăng hái trên đường chiến đấu.
HỦY BÁNG: Hủy:
Phá hoại, nói xấu. Báng: Bêu xấu, nói chuyện riêng tư của người khác. Nói xấu nhục
mạ người khác nhằm mục đích phá hoại danh dự và gia cang. Đức Thầy có dạy: “Phải
tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy báng”.
NHIỆM MẦU: Còn gọi
mầu nhiệm. Nghĩa là mầu nhiệm sâu kín. Đức Thầy có câu: “Chừng ni mới thấy nhiệm
mầu của Ta” hoặc “Đặng sau xem Phật pháp nhiệm mầu”.
DIỆU PHÁP: Diệu:
Tốt đẹp, cao sâu. Pháp: Lời của chư Phật (giáo pháp). Giáo pháp cao sâu mầu nhiệm
của chư Phật. Tức nói đến ba tạng: Kinh, Luật, Luận của Đức Phật và mười ba vị
tổ. Thí dụ: Diệu pháp Liên Hoa, Diệu Pháp Đăng…tức là nói đến “chánh pháp Nhãn
tàng Niết bàn diệu tâm” của Đức Phật Thích Ca xưa truyền cho Ngài Ma Ha Ca Diếp.
Rồi Tổ Tổ tiếp tục hưng truyền. Diệu pháp này truyền thừa đến Ngài Lục Tổ Huệ
Năng thì dứt bặt y bát suốt cả ngàn năm nay. Hôm nay, Đức Huỳnh Giáo Chủ có sứ
mạng hưng truyền lại vào thời mạt pháp nầy để chấn chỉnh cho đúng chánh pháp
xưa. Vì cả ngàn năm gần đây “Bị ngươi Thần Tú bày chè cùng xôi” thay vì “Diệu
pháp vô vi”. Thần Tú bày ra “Diệu pháp hữu vi”. Thế nên tu hoài chẳng thấy ai
thành.
CỐT NHỤC: Cốt:
Xương. Nhục: Thịt. Nghĩa rộng: Tình thân ruột thịt chung một dòng máu, còn gọi
chung thân tộc. Đức Thầy có câu: “Giành của tiền cốt nhục giết nhau”.
HOÀI THAI: Hoài:
Mang trong lòng. Thai: Bào thai. Cùng chung một mẹ sanh ra. Nghĩa rộng: Người
Việt Nam tổ tiên là vua Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Đức Thầy có câu: “Cũng đồng
cốt nhục hoài thai”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Đức Huỳnh Giáo Chủ mang một
chí nguyện truyền Đạo nhiệm mầu trong sanh chúng. Ngài cứ một đàng bước tới, dù
cho đời hủy báng hay bị giặc Pháp cản ngăn cũng mặc tình thế sự. Vì Ngài quán
xét toàn dân Việt Nam đều là cốt nhục, sinh chung trong một bào thai của bà Âu
Cơ và vua Lạc Long Quân.
CHÁNH VĂN:
5.-“Diệu-vợi xa-xăm nỗi khổ
hoài,
Cuộc đời lao-khổ thấy chiều
mai.
Chợt ngó xuân sang xuân biết
khóc,
Đến thời Thiên định lối bi ai!
* * *
9.-Giục-thúc nhơn-sanh kiếm Đạo
mầu,
Sao còn hoài tưởng chuyện đâu
đâu?
Sự sống người đời, ôi! thấy khổ,
Miệt-mài Đạo-đức vẻ huyền
sâu”.
CHÚ THÍCH:
DIỆU VỢI: Xa thẳm
mênh mông. Đức Thầy có câu: “Diệu vợi đàng xa đến Bạc Liêu”.
XA XĂM: Rất
xa, xa lắm. Đức Thầy có câu: “Xa xăm các chỗ các nơi”.
LAO KHỔ: Khổ sở
cực nhọc. Đồng bào lao khổ. Thí dụ: Lao khổ bao năm nơi đồng chua nước mặn.
CHỢT NGÓ XUÂN SANG XUÂN
BIẾT KHÓC, ĐẾN THỜI THIÊN ĐỊNH LỐI BI AI: Chợt
ngoảnh lại mùa xuân sắp đến, tức mùa xuân năm Canh Thìn (1940) là một mùa xuân
đầy máu lệ. Bên ngoài giặc giã làm cho máu đổ thịt rơi, quân Pháp chiếm đóng khắp
nơi chực nuốt sáu tỉnh miền Tây làm nơi thuộc địa chiến đấu lâu dài. Bên trong
lòng người ly tán, ruộng đồng ngập lụt, thiếu gạo ăn, cảnh sống cơ cực…Nhìn lại
cảnh xuân sang đồng bào ta rước xuân bằng nước mắt, bằng tâm khảm bi ai, buồn
lo cho số mệnh. Nhưng xét lại âu cũng là trời đất định bày, nhơn dân phải chịu
nạn đói khổ.
GIỤC THÚC: Giục
giã, thúc hối làm việc gì cho mau xong. Đức Thầy có câu: “Thêm lời giục thúc gọi
về đàng tu”.
NHƠN SANH: Chỉ
chung mọi người đang sanh sống trên quả địa cầu, không phân biệt màu da tiếng
nói. Nghĩa rộng: Đời sống con người. Đức Thầy có câu: “Tạm dắt nhơn sanh khỏi
ái hà”.
ĐẠO MẦU: Đạo:
Con đường hợp với lẽ phải, với tâm hồn trong trắng, với chơn lý tuyệt đối mà bổn
phận con người phải noi theo. Mầu: Sâu xa, kín đáo. Đạo mầu là chủ nghĩa bất di
dịch, là hướng nhắm của các tôn giáo phải noi theo. Đức Thầy có câu: “Đạo mầu
diệt khổ có từ lâu”.
HOÀI TƯỞNG: Tưởng
nhớ người nào, hay sự việc đã qua còn lưu lại trong ký ức. Đức Thầy có câu:
“Tâm thần hoài tưởng chuyện xa xôi”.
MIỆT MÀI: Miệt:
Mải miết, cần cù, chăm chú. Mài: Cọ xát nhau. Nghĩa bóng: Bền chí kiên nhẫn để
làm một việc gì. Đức Thầy có câu: “Chữ tu hãy rán miệt mài”.
ĐẠO ĐỨC: Đạo
(xem từ ngữ Đạo ở trên). Đức: Tâm lành. Con đường hợp với người có bản tánh
lành. Đức Thầy có câu:
“Việc đạo đức bất cần thối thắng,
Chữ tu hành ngay thẳng lần hồi”.
HUYỀN SÂU: Huyền:
Mầu nhiệm, kín đáo. Sâu: Thông suốt tận ngọn ngành.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 12)
Sau thời đại chiến thứ hai
(1939-1945) nỗi khổ của nhơn sanh càng kéo dài thăm thẳm. Hiện giờ, nỗi khổ ấy
đã thấy trước mắt, đã lan diễn khắp mọi nơi. Nhưng ngày tết đến, tưởng rằng nó
bớt cảnh tóc tang, nghèo đói. Nào ngờ tết năm nay là cái tết đau buồn nhứt. Âu
cũng là định mệnh của hóa công, đã an bày số phận cho giống dân Hồng Lạc.
Đức Huỳnh Giáo Chủ giục thúc
nhơn sanh tầm kiếm Đạo mầu để an ủi lòng mình một phần nào. Nhưng vẫn thấy mọi
người hoài tưởng chuyện xa vời, không cần thiết đến mùi Đạo. Ngài nhấn mạnh rằng:
Đạo là con đường diệt khổ, là chân hạnh phúc cho hiện tại và tương lai vô cùng
quí báu, không bút mực nào tả hết nổi cao siêu. Chúng sanh hãy nếm qua và thực
nghiệm sẽ tự mình nhận chân sự an tĩnh và giải thoát.
CHÁNH VĂN:
13.-“Hùng ca chuyển pháp kiếm
tôi hiền,
Thiên-địa tuần huờn chẳng vị
riêng.
Gian nịnh phản thần, ôi!
nhơ-nhuốc,
Gìn lòng trung hiếu sách ghi
biên.
* * *
17.-Ghi biên những kẻ quá
lương hiền,
Một mực trung thành với Phật-Tiên.
Cố tưởng ước-mơ về Tiên cảnh,
Hiếu hạnh gìn lòng chí ư
thiên.
* * *
21.-Ư thiên Trời Phật chẳng dụng
tiền,
Tìm kiếm con lành giải nghiệp-duyên.
Mê-muội ác-hung về địa-ngục,
Hiền lành nhắm mắt thấy non
Tiên”.
CHÚ THÍCH:
CHUYỂN PHÁP: Chuyển:
Bánh xe quay. Pháp: Giáo pháp của Phật. Truyền bá sâu rộng từ kiếp này qua kiếp
khác giáo lý của nhà Phật.
HÙNG CA CHUYỂN PHÁP KIẾM
TÔI HIỀN: Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn nhắc lại “Nhiều tiền
kiếp đã hy sinh vì Đạo, nào quản xác thân…” hoặc “Ta Điên thuở Tam hoàng Thượng
cổ”. Ý nói: “Đã chuyển kiếp từ lâu, chờ đến ngày ra trợ thế”.
Thật vậy, nếu suy diễn gần
đây, từ giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương đến nay đã 5 lần chuyển kiếp. Năm lần thay đổi
giáo pháp “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp”. Thay đổi trên hình thức: Từ BSKH
thay ra PGHH. Từ trần điều đổi lại trần Dà. Từ lối tu yếm thế đổi ra nhập thế,
vào đời để cải sửa cho đời “Thân tuy còn tục, tâm lìa cõi mê”. Hoặc giả:
“Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông
pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền môn trở gót Phật Đà Nam
mô”.
Vì Ngài quan niệm rằng: “Hễ nước
mất thì cơ sở Đạo phải bị lấp vùi; nước còn thì nền Đạo được phát khai rực rỡ”.
Nên Ngài hăng hái lên đường cứu quốc và cổ võ đệ tử mình đền xong nhiệm vụ làm trai.
Ngài chuyển pháp độ đời tìm bậc
hiền tài, cũng như người lương thiện hầu dẫn dắt cùng nhau đi trên con đàng
chánh nghĩa, chánh pháp đúng với chân lý vô vi của từ phụ Thích Ca.
THIÊN ĐỊA TUẦN HOÀN: Định
luật xoay vòng của trời đất. Do câu: “Thiên địa tuần hườn châu nhi phục thỉ”(Trời
đất xoay giáp vòng rồi trở lại từ đầu). Ý nói: Không ai trốn khỏi luật xoay
vòng của tạo hóa, hiền lành hay hung dữ cũng thế. Trời đất không bao giờ tư vị
tình riêng.
GIAN NỊNH PHẢN THẦN ÔI
NHƠ NHUỐC, GÌN LÒNG TRUNG HIẾU SÁCH GHI BIÊN: Ý nói
những bầy tôi gian tà nịnh tặc, trào đại nào cũng để tiếng nhơ trong lịch sử. Đời
Tống có Tần Cối, Trương Ban Xương, đời Hiến Đế có Đổng Trác, Tào Tháo…luôn bán
nước cầu vinh, mưu hại tôi hiền…những bậc bầy tôi lương đống, tiết nghĩa một mực
trung hiếu vẹn toàn, sách sử ghi biên, như: Quan Công, Nhạc Phi, Nguyễn Trung
Trực… Ngụ ý Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên ta dù sống thời đại nào cũng gìn lòng
trung hiếu, xa kẻ gian tà nịnh tặc, mãi quốc cầu vinh.
TRUNG THÀNH:
Trung: Hết sức thành thật, một lòng một dạ. Thành: Ngay thẳng. Hết sức ngay thẳng
thành thật với Phật Tiên.
PHẬT TIÊN: Phật:
Bậc hoàn toàn giác ngộ. Thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung quán nhân
sự, có đủ đức Từ, Bi, Hỉ, Xả và đầy lòng tự giác, giác tha và giác hạnh viên
mãn. Tiên: Bậc thoát tục, “Ngao du tứ hải, dạo khắp Tiên bang, cảnh an nhàn của
người liễu đạo”. Có đủ ngũ thông, thường hay cứu giúp kẻ nguy nàn. Phật Tiên: Là
những bậc quên mình vượt ngoài vòng ngã chấp. Thị hiện vào đời để cứu độ chúng
sanh, và có sứ mạng an bang định quốc cho bậc chánh vì vương qua từng thời đại.
CỐ TƯỞNG ƯỚC MƠ VỀ TIÊN
CẢNH, HIẾU HẠNH GÌN LÒNG CHÍ Ư THIÊN: Đức Huỳnh Giáo Chủ
khuyên người đời luôn tưởng nhớ và ước mơ được về cảnh Tiên, để được tự tại an
nhàn, sống cuộc đời thanh thoát, ngoài vòng ràng buộc của thế trần. Muốn được
thế phải một lòng hiếu hạnh, dầu gặp một trở lực nào cũng không sa ngã, cố chí
bền lòng theo con đường của Phật Tiên chỉ vạch. Nếu ta thực sự trung thành, gìn
lòng chặt dạ. Trời Phật sẽ cảm động và luôn phù hộ cho mình hoàn thành ước vọng.
NGHIỆP DUYÊN: Nghiệp:
Những việc làm do thân, khẩu, ý gây tạo nhiều đời nhiều kiếp kết thành (Hạt giống).
Duyên: Những phương tiện phù trợ cho cây sanh quả, như đất, nước, gió, lửa.
Nghiệp duyên: Những chủng tử khởi mầm để dẫn dắt con người gây tạo hạt giống
sanh tử, chồng chất qua nhiều đời nhiều kiếp để đền trả. Đức Thầy có câu: “Phải
rõ nghiệp duyên trần cấu tạo”, hoặc “Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên”. Ý
nói: Con người đã mang xác thân đều có duyên nghiệp. Ở đây Đức Thầy khuyên
chúng ta tu để giải nghiệp.
MÊ MUỘI: Mờ tối,
không sáng suốt. Đức Thầy có câu: “Thương đời mê muội luống bầm gan”.
ÁC HUNG: Còn gọi
hung ác. Dã man và tàn ác. Thí dụ: Bọn giặc hung ác, hành động hung ác.
ĐỊA NGỤC: Phạn
ngữ Niraya, naraka. Phiên âm: Nêlêgiả, nalạcca. Dịch là địa ngục. Là nơi giam cầm
và trừng phạt những linh hồn phạm tội lúc ở thế gian. Chữ địa ngục có nhiều
nghĩa:
1/. Bất lạc, bất khổ lạc: Nơi
chẳng vui, chẳng có thể vui được.
2/. Bất khả cứu tế: Không thể
cứu cho thoát khỏi liền được, vì cảm ứng các việc ác đã làm.
3/. Âm minh: Nơi tối tăm,
chúng sanh ở cảnh ấy không hề được biết Đạo lý, chánh pháp.
4/. Địa ngục: Cảnh ngục thất,
cảnh hành phạt ở dưới đất.
Địa ngục là một trong sáu đường
luân hồi (lục đạo luân hồi) và cũng là một trong lục thú. Địa ngục là nơi có đủ
thứ khổ đau, vị trí của nó hoặc ở dưới đất hoặc ở kẹt núi hoặc ở theo sông rạch
hoặc ở theo biển cả, hay đồng nội. Những người nào sống ở dương gian phạm các tội
trọng như ngũ nghịch, hay thập ác, khi chết phải đọa Địa ngục. Đức Thầy cho biết:
“Mê muội ác hung về địa ngục,
Hiền lành nhắm mắt thấy non
Tiên”.
HIỀN LÀNH: Hiền
lương tốt đẹp, biết thương người mến vật. Đức Thầy có câu:
“Hiền lành chừng đó sum vầy,
Quân thần cộng lạc mấy ngày
vui chơi”. (Q.III)
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 13 đến
câu 24)
Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết đã
nhiều lần chuyển pháp độ đời qua các triều đại, hôm nay là kiếp chót. Ngài đã
chọn trung tâm điểm Việt Nam, tức Thánh địa Hòa Hảo, từ “Chánh pháp nhãn tàng
Niết bàn diệu tâm” của Đức Phật Tổ ngày xưa, đã bặt truyền thời gian cả ngàn
năm, ngày nay có dịp tái phục hưng trở lại. Như Ngài cho biết:
“Đạo vô vi của Phật ân cần,
Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.
Ngài chuyển pháp tìm kiếm tôi
hiền kíp tu để kịp ngày mừng chúa Thánh thời Thượng nguơn sắp đến. Đến chừng đó
trời đất không tư vị một ai. Gian nịnh phản thần bị Phật Tiên phân xử thật là
nhơ nhuốc. Người trung hiếu sử sách ghi biên, máy tuần huờn luân lưu phải đáo đầu
không sao tránh khỏi.
Đức Huỳnh Giáo Chủ lập lại lần
nữa sách sử ghi biên những vị quá lương hiền, một lòng một dạ trung thành với
Phật, Tiên, Thần, Thánh; và Ngài khuyên rán cố tưởng ước mơ về cõi Phật Tiên,
gìn tâm hiếu hạnh sẽ cảm động đến Phật Trời, tất cho mình toại nguyện.
Ngài cân nhắc cho nhơn sanh biết:
Trời đất Phật Tiên chẳng bao giờ dụng tiền bạc, mục đích thị hiện là để cứu đời;
tìm kiếm con lành giải thoát nghiệp duyên trần cấu tạo. Nếu ta mê muội ác hung,
chắn chắc phải sa đọa vào cõi Địa ngục, chịu nhiều nỗi cực hình. Nhược bằng hiền
lương đức hạnh, khi lìa khỏi xác linh hồn sẽ sanh hóa cõi Phật Tiên chắc chắn
như vậy.
CHÁNH VĂN:
25.-“Non Tiên ra sức tháo dây
xiềng,
Dân-chúng an nhàn dạ mới yên.
Cám cảnh thương đời, ôi! mê-muội,
Mong-ước ngày kia giải mộng
phiền.
* * *
29.-Mộng phiền muốn khỏi phải
làm sao?
Hung dữ, ác nhơn chớ bước vào.
Gìn tâm nhu-nhược chờ vận đến,
Vậy mới rời xa cảnh máu đào.
* * *
33.-Máu đào khắp nước khổ vô
cùng,
Nam-Việt dân tình mãi thung
dung.
Chẳng lo tu tỉnh cầu Phật
Thánh,
Để nước đến chơn mới nhảy
đùng.
* * *
37.-Nhảy đùng ắt phải lọt
ngoài sâu,
Chẳng gặp xuồng ghe chững mới
rầu.
Làm sao lo liệu tu cho kịp,
40.-Bập-bẹ nam-mô cũng nhọc cầu”.
CHÚ THÍCH:
DÂN CHÚNG: Dân:
Người ở trong làng, trong nước. Chúng: Đông người. Chỉ toàn thể hay một số lớn
nhân dân. Đức Thầy có câu: “Khải hoàn dân chúng mới nhàn an”.
AN NHÀN: An:
Yên ổn. Nhàn: Rảnh rang. Sống cuộc đời rảnh rang không vướng bận. Đức Thầy có
câu:
“Dựa kề cửa Thánh đài mây an
nhàn”.
MONG ƯỚC: Mong
và ước muốn đạt được một cách thiết tha. Thí dụ: Mong ước cuộc sống hạnh phúc.
Mong ước đó đã trở thành hiện thực.
MỘNG PHIỀN: Mộng:
Chiêm bao. Phiền: Buồn rầu, lo lắng. Chiêm bao thấy cảnh lo lắng.
HUNG DỮ: Độc
ác, dữ tợn, gây nhiều tai họa cho con người. Thí dụ: Con thú dữ. Trận cuồng
phong hung dữ.
ÁC NHƠN: Ác:
Hung dữ. Nhơn: Người. Người hung dữ. Truyện Kiều có câu: “Dưới hoa đầy lũ ác
nhơn”.
NHU NHƯỢC: Nhu:
Mềm mỏng. Nhược: Yếu, mềm yếu. Lấy nhu để thắng cang.
GÌN TÂM NHU NHƯỢC CHỜ VẬN
ĐẾN, VẬY MỚI RỜI XA CẢNH MÁU ĐÀO: Thời Đông Châu nước
Triệu có hai người tôi trung là Nguyên soái Liêm Pha và tướng quốc Lạn Tương
Như. Liêm Pha là tướng tài đánh đâu thắng đó, nên có ý kiêu hùng. Lạn Tương Như
khi chưa gặp vận chỉ là một xá nhân (người tiếp việc) nhưng nhờ lòng cứng rắn
không sợ uy quyền. Và nhờ mang ngọc bích (quốc bảo) đến tận nước Tần đổi lấy 15
thành cho vua Triệu nhưng vua Tần kiếm kế lừa đảo. Họ Lạn thẳng thắn đem tánh mạng
bảo vệ ngọc bích về tận quê nhà. Và sau đó cùng vua Triệu hội kiến với vua Tần
tại Thăng Trì, nhờ tài biện luận bẻ gãy dã tâm của vua tôi nhà Tần, nên sau được
thăng Tể tướng (Tướng đứng đầu một nước) được vua Triệu trọng dụng một thời.
Lúc đó, Liêm Pha đem lòng ganh tỵ định mưu sát hại họ Lạn. Tương Như nghe được
hung tin tìm cách lẫn trốn không dám đầu mặt với Liêm Pha, nhiều lần như vậy.
Sau đó, nhờ hiền sĩ Ngu Khanh đến yết kiến vua Triệu, biết được tin đó mới tâu
Triệu vương…và được vua Triệu phái đến phân trần hơn thiệt với Liêm tướng quân
về việc rạn nứt của hai tướng Liêm Lạn. Ngu Khanh cạn lẽ nên Liêm Pha thấy được
lòng tốt của họ Lạn, và sau đó xin nhờ Ngu Khanh hướng dẫn đến gặp mặt và chịu
lỗi với nhà họ Lạn. Bây giờ Liêm Lạn đều thông cảm và thân mật bắt tay nhau rồi
đi đến minh thệ kết nghĩa kim bằng, đồng đem tài trí phụng sự cho vua nước Triệu.
Nhờ đó nước nhà được hùng cường tránh được nạn vua nhà Tần dòm ngó một thời
gian khá lâu.
Qua câu chuyện trên giúp chúng
ta thấy rằng: Lạn Tương Như dùng đức độ nhu hòa mà thắng được lòng tự kiêu của
Liêm Pha, đem lại sự hài hòa giữa tình huynh đệ. Ước gì mỗi quốc gia đều có bầy
tôi như Lạn Tương Như thì lo gì đất nước chẳng được phú cường.
Qua hai câu giảng trên, ý Đức
Thầy khuyên ta ẩn nhẫn tùy thời, chớ đương đầu với giặc Pháp và bè lũ Việt gian
để đất nước bớt nạn đao binh.
NAM VIỆT: Quốc
hiệu nước Việt Nam thời nhà Triệu (206-111 trước TL). Thời Nguyễn gọi Nam Việt
là miền Nam nước Việt Nam, thời Pháp thuộc gọi là Nam Kỳ. Đức Thầy có câu: “Nam
Việt cúi lòn dài dặm dặc”.
DÂN TÌNH: Tình
hình hoàn cảnh của dân. Thí dụ: Dân tình khổ cực hay dân tình sung sướng. Ở đây
ý nói dân tình thời Nam Việt thung dung nhàn nhã. Nhưng bị giặc Pháp đô hộ biến
cảnh máu đào.
THUNG DUNG: Còn gọi
là thong dong. Rảnh rang thong thả. Truyện Kiều có câu: “Tẩy trần vui chén
thong dong”.
TU TỈNH: Thức
tỉnh và trau sửa thân tâm cho được trọn lành trọn sáng.
PHẬT THÁNH: Phật
là đấng hoàn toàn giác ngộ và tỉnh thức. Ở đây chỉ cho bậc Thánh thừa, hay tối
thượng thừa và hàng Bồ tát đại thừa, hoặc Duyên giác trung thừa, Phật đối với
chúng sanh. Đức Thầy khuyên:
“Rán bắt chước làm theo Phật
Thánh,
Nếu thiệt người thì biết
thương người”.
LO LIỆU: Tính
trước, sắp đặt việc làm đâu đấy đều song toàn. Đức Thầy bảo:
“Sớm chiều lo liệu rèn tâm
trí,
Đạo đức nhiệm sâu Lão khuyến mời”.
BẬP BẸ NAM MÔ: Bập bẹ:
Nói tiếng đặng tiếng mất. Nam mô: Tiếng phạn Namal. Tàu dịch: Quy mạng, cung
kính, cứu ngã. Nghĩa bóng: Mới vào đạo, mới thức tỉnh tu hành.
LƯỌC GIẢI: (Từ câu 25 đến
câu 40)
Đức Huỳnh Giáo Chủ có sứ mạng
lâm phàm Ngài quyết tâm cổi mở xích xiềng cho thế tục ra khỏi ách thống trị của
ngoại bang; được vậy Ngài mới yên lòng, nhưng xét lại việc đời, thấy chúng sanh
quá mê muội, Ngài thật là cám cảnh. Ngài mới mong ước một ngày gần đây sẽ giải
dứt mộng phiền. Nhưng muốn giải mộng phiền ta phải làm sao?
Phải bỏ tâm hung dữ, trừ tánh
ác nhơn. Tập hành hạnh vô sanh pháp nhẫn, hòa nhu để chờ vận đến như Lạn Tương
Như lòn cúi Liêm Pha thời Đông Châu chiến quốc, chắc chắn sẽ đem phần thắng về
mình, và đất nước nhờ thế mà được yên ổn, rời xa cảnh máu đào.
Dân tình Nam Việt thời nhà Triệu
rất ung dung nhàn nhã, thế mà giặc Pháp đang tâm cướp lấy, gây cảnh chiến tranh
tàn khốc cho lương dân, thật vô cùng khốn khổ. Hiện giờ người dân Việt phải thức
thời, trở về con đường tu tỉnh, cầu Trời Phật cứu độ mới kịp lúc. Chớ đừng đợi
nước đến chơn mới nhảy đùng, không còn kịp nữa. Càng nhảy chúng ta càng lọt
ngoài sâu, và nếu không gặp xuồng ghe làm sao ta yên tâm được. Chi bằng lo tu
trước cho kịp thời cơ, để chứng tỏ con người biết ăn năn phục thiện. Còn kẻ nào
chần chờ giải đãi khó mong Trời Phật cứu độ.
CHÁNH VĂN:
41.-“Nhọc cầu bịnh tật nỗi nào
đâu,
Lao-khổ nhơn-sanh cảnh nước
Tàu.
Trẻ nhỏ rã-rời xa bố mẹ,
Sao còn tranh-đoạt mảng mồi
câu.
* * *
45.- Mồi câu danh-lợi chúng
dân rầu,
Kim chỉ phải gìn chuyện cạn sâu.
Vinh-hoa phú-quí chòm mây bạc,
48.- Nho-nhã thi-văn nẻo nhiệm-mầu.
* * *
Nhiệm-mầu hạnh-đức quá
thanh-cao,
Thần, Thánh, Phật, Tiên xuống
kêu gào.
Dương-gian mau tỉnh trong
tràng mộng,
52.-Tầm kiếm nơi nào đạo siêu
cao”.
CHÚ THÍCH:
LAO KHỔ: Khổ sở,
cực nhọc. Đồng bào lao khổ. Thí dụ: Đã lao khổ bao năm ở nơi đồng chua nước mặn.
LAO KHỔ NHƠN SANH CẢNH
NƯỚC TÀU: Theo thống kê sử Trung Hoa thời đệ nhị thế chiến,
dân chúng nước Tàu thật là khổ sở “Nạn đói chết gần 2 triệu người”. Và lan dần
qua Bắc Việt chúng ta rất nhiều. Đến năm 1945, sau khi chấm dứt đệ nhị thế chiến,
nhà trống ruộng hoang. Nhân đó người Nhật yêu cầu Đức Huỳnh Thủ Lãnh đi “Khuyến
Nông”. Nhờ cơ duyên Đức Huỳnh Giáo Chủ đi khắp 6 tỉnh miền Tây kêu gọi “tấc đất,
tấc vàng”. Như Ngài cho biết:
“Nam Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung cấp cho miền Bắc,
Trung”.
TRẺ NHỎ RÃ RỜI XA BỐ MẸ: Trẻ
em phải chịu cảnh xa cha xa mẹ, trông thật thảm não, dầu ai có gan sắt dạ đồng
cũng phải động mối từ tâm, khóc tức tưởi và nhỏ cạn giọt lệ sầu! Sau đây là câu
chuyện có thật trong “Chuyện Bên Thầy”: “Ở Bắc Việt tại một làng nọ có hai mẹ
con còn sống nhưng sức đã kiệt, sau khi ăn hết củ chuối và lá cây, bà ta ra sau
hè tìm nơi vắng vẻ lấy len đào một cái hố chừng 6 tấc, vì quá mỏi mòn…Bà mới bồng
đứa nhỏ độ 6 tuổi xô xuống cái hố đó để chôn sống đứa trẻ. Đứa trẻ khóc nức nở!!!
Và kêu mẹ đừng chôn con, vì con còn sống bớ mẹ!
Mẹ đứa trẻ dỗ dành: Mẹ chôn
con để khỏi bị người ta ăn thịt con!. Rồi đứt quãng từng tiếng một. Mẹ! Mẹ!
Con! Con! Một lúc sau hai mẹ con đều phải chết. Thật là cảnh khổ vô cùng rùng rợn.
TRANH ĐOẠT: Giành
lấy cho riêng mình, đoạt lấy quyền lợi.
MẢNG MỒI CÂU: Mảng:
Mảnh lớn. Mồi câu: Mồi câu nhử. Mảng mồi câu: Dùng miếng mồi lớn để câu kẻ ham
ăn mắc vào bẫy rập. Nghĩa bóng: Ám chỉ danh, lợi, tình là những thứ câu nhử chực
bắt những kẻ nào còn say đắm.
DANH LỢI: Hai
điều trong lục dục. Tức danh vị và tài lợi. Nó thường câu nhử khách trần gian.
VINH HOA PHÚ QUÍ: Vinh:
Cỏ đơm bông hoa (huệ): Cây đơm bông. Trong Kinh Lễ có câu: “Thảo mộc vinh hoa”
(Cây cỏ đơm bông). Nghĩa bóng: Hiển đạt, phú quý, giàu sang, quyền quý. Đức Thầy
có câu:
“Ham công danh quên chữ sanh
thành,
Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.
CHÒM MÂY BẠC: Một
đám mây màu trắng. Tạm bợ không trường tồn.
NHO NHÃ: Nho:
Đạo của Khổng Tử. Nhã: Thanh cao. Người thanh cao có kiến thức rộng rãi.
THI VĂN: Thi:
Văn vần, có âm vận tiết mục bằng trắc. Văn: Văn xuôi. Ý nói những bài văn dài…
Tiếng chỉ chung các bài văn trong lĩnh vực văn học.
NHIỆM MẦU: Cũng gọi
mầu nhiệm. Có nghĩa sự cao sâu huyền diệu khó nghĩ lường. Ý nói: Lý nghĩa trong
Phật pháp sâu kín mầu nhiệm không thể dùng ngôn ngữ hay bút mực mà diễn tả cho
hết được. Chỉ có người tu hành khi trực nhận bản tâm mới thông đạt mà thôi.
HẠNH ĐỨC: Hạnh:
Tánh nết, cách cư xử. Trong Truyện Kiều có câu: “Thương vì hạnh, trọng vì tài”.
Kinh Thơ dạy: “Bất năng tế hạnh chung lụy đại đức” (chẳng giữ hạnh nhỏ có hại
cho đức lớn). Đức: Tâm lành. Người có lòng lành. Đức Hạnh: Người có lòng lành
và hành những đức tánh tốt hợp với đạo lý, được mọi người trọng dụng.
THANH THAO: Còn gọi
là thanh cao. Thanh: trong sạch. Thao: trong sáng. Giọng thanh thao, sáng suốt.
Đức Thầy có câu: “Giọng Tăng Sĩ thanh thao như kiểng”.
THẦN: Bậc
cao hơn thế tục, lượng xét không cùng tột, linh diệu oai mãnh, thông suốt,
không bị chướng ngại. Là bậc bá tánh tôn trọng kính thờ. Cho nên người ta cũng
gọi đấng Phạm Thiên, Đế Thích và Phật là bậc Thần. Vậy bậc Thần có 4 bực: Phật
thần, Tiên thần, Thánh thần, A Tu La thần (quỉ thần). Nhưng chữ Thần ở đây chỉ
Phật thần hay Tiên thần. Đức Thầy có câu: “Cha là Phật, Thánh, Tiên, Thần phước
dư”. Thánh: Phạn ngữ (Ser) là ẨY, phiên âm là A DA hay A CÊ DU, dịch là Thánh
nhơn, có nghĩa chân thật, chánh trực và thanh tịnh. Thánh nhơn có hai bậc:
Thánh thế gian và Thánh xuất thế gian, tức là hạng tu đắc đạo có đủ trí huệ và
các pháp thần thông, dứt khổ não luân hồi. Từ các bậc chứng quả A La Hán, Duyên
Giác, Bồ Tát cho đến bậc Như Lai đều là Thánh.
Các kinh điển cũng thường gọi
là bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, đến A La Hán là Thánh (Tứ Thánh – Thinh
Văn). Người ta dùng tiếng Thánh để tôn xưng Phật như: Thánh ngôn, Thánh triết.
Thánh còn danh từ đối với Phàm. Đức Thầy bảo: “Cư trần bất nhiễm là người
Thánh”.
PHẬT TIÊN: (Xem
phần chú thích trang…).
TRÀNG MỘNG: Còn gọi
là mộng tràng. Tràng: dài. Mộng: giấc ảo ảnh không thiệt. Nghĩa bóng: chỉ cảnh
đời giả tạm như giấc mộng.
ĐẠO SIÊU CAO: Cũng
gọi là đạo cao siêu. Cái Đạo cao hơn hết, tức chỉ đạo Phật. Trong loạt bài “Những
Câu Chú Thường Niệm”, có câu:
“Thiên thượng, thiên hạ vô như
Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỷ.
Thế gian sở hữu giả tân kiến,
Nhứt thiết vô hữu như Phật giả.
(Trên dưới Trời chẳng ai bằng
Phật,
Khắp mười phương hẳn thật khó
so.
Dòm trong cõi thế rộng to,
Một người khó kiếm sánh đo
cùng Ngài).
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 41 đến
câu 52)
Nếu chúng sanh cứ chần chờ
không lo trước, e khó tránh khỏi ngày trả quả. Đến phút đó dầu ta có nhọc công
cầu nguyện, Trời Phật cũng không thể nào cứu kịp. Cảnh khổ nước Tàu vào thời thập
niên 40 thế kỷ trước mọi người đã thấy rõ. Vợ xa chồng, con lìa mẹ, chết đói
hàng loạt triệu triệu người. Sao chúng ta không lấy đó làm bài học, còn mảng lo
tranh danh đoạt lợi.
Danh lợi là mồi câu nhử chúng
dân, biết bao bài học trong sử sách cũng như ngoài xã hội. Nó là mồi thuốc độc
giết người chẳng gớm tay. Cảnh phú quý vinh hoa như đám phù vân trước gió, nước
bọt mây bèo. “Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của
người nầy rồi đến người khác…rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân loại
không thiếu sót một ai”. Ta phải trực nhận đời bằng tâm tự giác, lo kim chỉ gìn
lòng cho thật sâu những Thi Văn Giáo Lý của Tổ Thầy để trở nên người nho nhã.
Nền Đạo rất cao sâu mầu nhiệm.
Phật, Tiên, Thần, Thánh hằng xuống thế kêu gào nhơn sanh mau tỉnh mộng trần
gian vì nó giả tạm. Chỉ có nền Đạo Phật là chân lý siêu việt cho ta nương theo
để tiến lên cuộc đời tốt đẹp trong hiện tại và tương lai.
CHÁNH VĂN:
53.-“Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi
ta,
Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà.
Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc
trẻ,
56.-Chờ thời Thiên định thiết
hùng ca.
* * *
KIM ngọc nào tri Phật, Quỉ,
Tà.
SƠN đài ra sức dẹp loài ma.
THƯỢNG thọ chúc cầu an bốn biển,
60.-ĐẲNG đẳng dưới trên sớm
thuận-hòa.
* * *
Mong ước ngày kia đặng khải
hoàn,
Địa cầu sanh-chúng được nhàn
an.
Bốn biển một nhà Cha: Phật,
Thánh,
64.-Thì là dân sự hết tàng
ngang.
* * *
Năm tàn tháng cuối cảnh buồn
teo,
Đón rước bạn xuân lễ quá
nghèo.
Thượng cổ gần hồi nên sửa lối,
68.-Theo nhà Phật-Giáo phải
như keo”.
CHÚ THÍCH:
HÒA THÔN: Còn gọi
làng Hòa Hảo. Một xã trong quận Tân Châu (Châu Đốc) ngày xưa. Nơi đản sanh Đức
Huỳnh Giáo Chủ, nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
ÁI HÀ: Ái:
Yêu. Hà: Sông. Lòng thương yêu luyến ái như sông biển. Nghĩa bóng: Chỉ tình yêu
nam nữ như con sông, làm đắm chìm con người trong nỗi khổ của dục vọng. Kinh
Minh Thánh có câu:
“Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi lộ,
Tảo cấp niệm Di Đà”.
Tạm dịch: (Ái hà ngàn lượng bủa
vây, Ở trong cõi khổ dẫy đầy đau thương. Muốn mau thoát khỏi vô thường, Di Đà gấp
niệm là phương thoát trần).
Hay là:
“Bể ái hà là dây oan nghiệt,
Danh lợi tình càng xiết càng
đau.
Muốn ra khỏi chốn đồ lao,
Dùng gươm trí huệ đoạn mau
lòng phàm”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH có
khuyên: “Bể ái hà gươm linh sớm dứt” và “Rày tỉnh ngộ ái hà sớm dứt”.
HUỲNH DANH: Huỳnh:
Họ Huỳnh. Danh: Tên tuổi, tiếng tăm. Mượn xác họ Huỳnh, một thanh niên trẻ xinh
đẹp, có tiếng tăm trong xã hội.
THIÊN ĐỊNH:
Thiên: Trời. Định: Phân định. Trời Phật phân định.
THIẾT HÙNG CA: Thiết:
Đặt để, sắp đặt. Hùng ca: Bài ca hùng tráng. Nghĩa bóng: Sắp đặt làm một việc
to lớn, quốc gia đại sự.
KIM SƠN: Núi
vàng. Một Phật danh của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Trong thơ của “Ông Bán Chiếu” có viết:
“Kim Sơn Phật ấy giáng sanh đành rành, Ngưỡng cầu Thượng Đẳng Đại Thần…” Và sau
khi chấm dứt bài, ông còn xác định Phật hiệu: “Bán Lộ Giang Hồ kính tặng Kim
Sơn Phật”.
THƯỢNG ĐẲNG: Một
danh xưng của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Trong bài “Lý Lịch”, Ngài nói rõ:
“THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao
sâu,
ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
ĐẠI pháp vô vi là chơn lý,
THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu”.
KIM SƠN, THƯỢNG ĐẲNG: Là
hai vị: Thầy và trò, nhưng thời bấy giờ (khai Đạo) vẫn chung xác Đức Huỳnh Giáo
Chủ.
KIM NGỌC: Kim:
Vàng. Ngọc: Ngọc trai. Hai loại quí hiếm. Nghĩa rộng: Sự tốt đẹp cao xa. Ngoài
ra còn có nghĩa: Một phẩm vật trong hàng cửu phẩm, thường kề cận nhà vua. Đức
Thầy có câu: “Kim ngọc nan tri tường Đông hải”.
SƠN ĐÀI: Sơn:
Núi. Đài: Đài cất trên cao, có thể nhìn thấy khắp bốn phương. Nghĩa bóng: Nơi
các Tiên ở hay chỗ nhóm họp của quần Tiên. Đức Thầy có câu: “Sơn đài hồ hải luyện
tứ phang”.
QUỈ TÀ: Quỉ
quái, tà ma. Đây chỉ cho các tà đạo thường bày ra sát hại sanh vật cúng tế quỉ
thần ma quái để cầu cho hết bịnh. Nhưng bịnh đã không hết dứt mà trong gia đình
lại thường bị đau ốm liên miên. Nên Đức Thầy kêu gọi:
“Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
Cúng kiếng nó mà nó phải ăn
quen”. (Q.III)
ĐẲNG ĐẲNG:Số nhiều.
Nghĩa bóng: Nhiều người, nhiều bậc. Đức Thầy có câu: “Đẳng đẳng rán làm chớ để
lâu”.
BỐN BIỂN: Xem từ
ngữ “Bốn Biển”, bài Đến Làng Nhơn Nghĩa (Cần Thơ) trong tập này.
THUẬN HÒA: Thuận:
Noi theo, không trái ý. Hòa: Vui vẻ, không xung đột. Vui vẻ thuận theo lẽ phải.
Đức Thầy có câu: “Từ trên tới dưới thuận hòa, Hay hơn châu báu ngọc ngà giàu
sang”.
KHẢI HOÀN: Khải:
Vui mừng. Hoàn: Trả lại. Khúc hát mừng thắng trận (vui lúc khải hoàn). Đức Thầy
có câu: “Dân được vui nhờ lúc khải hoàn”.
ĐỊA CẦU: Còn gọi
trái đất. Nó nghĩa như chữ hoàn cầu (Xem từ “Hoàn cầu” bài “Đến làng Nhơn
Nghĩa” trong tập này).
SANH CHÚNG: Cũng
gọi chúng sanh. Sanh: Sống. Chúng: nhiều người, hết thảy. Những người sanh trên
quả đất và sống chung với nhau. Theo Kinh Phật giải chúng sanh gồm có 4 loài:
Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh.
NHÀN AN: Nhàn:
Thong thả, rảnh rang. An: Yên ổn. Sống yên ổn không bị vật gì vướng bận. Đức Thầy
có câu: “Khải hoàn dân chúng mới nhàn an”.
BỐN BIỂN: (Xem
chú thích bài “Đến Làng Nhơn Nghĩa” trong tập này).
TÀNG NGANG: Còn gọi
ngang tàng, không kể kẻ trên người dưới.
THƯỢNG CỔ: Còn gọi
Thượng Nguơn (thời xa xưa) trước thời Trung Cổ. Đức Thầy có câu: “Huờn lai Thượng
cổ mới bình yên”.
PHẬT GIÁO: Còn gọi
Đạo Phật. Một tôn giáo phát xuất từ Ấn Độ, Giáo Chủ là Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni.
Ngoài ra còn có nghĩa: Giáo lý nhà Phật. Đức Thầy có câu:
“Nhìn Phật giáo mà tìm cái lý,
Coi tại sao ta phải tu hành”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 53 đến
câu 68)
Hòa Hảo là nơi chôn nhau cắt
rún phần xác của Đức Huỳnh Giáo Chủ, cũng là nơi phát xuất PGHH, nhưng Ngài
không xem đó là trọng mà Ngài chỉ nhận là một phương tiện, như bao phương tiện
khác. Ngài chỉ tạm gởi thân nơi đó để dẫn dắt quần sanh vượt vòng sanh tử.
Lần chót Ngài tạo ra xác họ HUỲNH,
con của Đức Ông Huỳnh Công Bộ và Đức Bà Lê Thị Nhậm, một thanh niên trẻ đẹp tài
ba để chờ thời thiên định mai sau sẽ làm nên bậc xuất chúng.
Vàng bạc là vật quí giá thật,
nhưng tùy chỗ sử dụng hữu ích. Nhưng với đạo Phật nó không biểu thị chức năng để
phân biệt được: Phật, thần, ma, quỉ. Chỉ có sơn đài là nơi cu hội quần Tiên, là
chỗ chư Tiên an trú, có đủ khả năng dẹp hết tà ma quỉ quái, duy trì nền Đại Đạo.
Cũng như oai linh của Ngài Thượng
Đẳng có thể trị an thế giới sớm hòa bình, trên hòa dưới thuận theo đúng đường
Phật dạy. Và Ngài mong ước một ngày kia toàn dân được ca khúc khải hoàn, nhà
nhà được nhàn an, năm châu bốn biển đồng sống chung cảnh thái bình dưới trời
Nghiêu đất Thuấn: “Cha là Phật, Thánh, Tiên, Thần phước dư”.
Ngày tháng trôi quá nhanh,
dòng suy luận đến đây năm tháng tàn cuối, cảnh vật trở nên buồn thảm nên tiệc
rước xuân quá đơn sơ vì thời gian không còn chờ được nữa.
Đức Huỳnh Giáo Chủ báo trước
cuộc biến thiên sắp đến, đời Thượng Nguơn sẽ tái lập gần đây, chúng ta phải
thay đổi cảnh rước xuân cho hợp với Đạo lý, đúng với truyền thống dân tộc Việt
Nam, đúng với chơn lý vô vi của Đạo Phật tự nghìn xưa, phải dính chặt như chất
keo sơn mới không lạc lối.
CHÁNH VĂN:
69.-“Dân chúng chớ nên đốt giấy
tiền,
Bởi vì Diêm-chúa chẳng tình
riêng.
Phán-quan tả hữu không dùng hối,
72.-Nên phải dạy dân bỏ giấy
tiền.
* * *
Vàng bạc bởi tay khách trú
làm,
Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng
dùng ham.
Giấy quần giấy áo không nên đốt,
Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng
làm”.
Hòa-Hảo, ngày 29 tháng chạp
năm Kỷ-Mão.
(Chép theo bản chánh do Ông
Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
CHÚ THÍCH:
GIẤY TIỀN VÀNG BẠC: Những
tờ giấy được in thành tờ vàng bạc, có nhiều loại tiền: Miên, Mỹ, Anh, Nhật,
Pháp, nhưng toàn là giả tạo, nháy theo hình thức, màu mè cho giống để lừa bịp
dân chúng. Đức Thầy có câu:
“Những giấy tiền vàng bạc cũng
thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý”.
DIÊM CHÚA: Còn gọi
Diêm Vương hay Diêm Ma Vương (Vua cõi Thiên Ma, cõi âm, cõi địa ngục). Ngoài ra
còn có tên Pháp Vương hay Bình Đẳng Vương.
TÌNH RIÊNG: Tình
riêng lẻ. Không vì tình riêng tư mà bỏ luật công.
PHÁN QUAN TẢ HỮU: Phán
quan: Một chức quan có nhiệm vụ đi thanh tra các quan nhỏ. Một chức quan dưới
cõi Âm ty. Tả hữu: Bên trái và bên phải. Tất cả hai bên.
KHÁCH TRÚ: Danh
từ phát xuất từ chữ “Minh hương”, làng người Minh. Những người phản Thanh phục
Minh bị thất bại nên chạy lánh nạn sang Việt Nam. Bởi vậy những người nầy dân bản
địa gọi là khách trú.
GIẤY QUẦN, GIẤY ÁO: Những
tờ giấy vàng bạc được cắt thành quần áo để trước khi cúng bái đốt đi, ngày xưa
tin tưởng người chết sẽ sử dụng được.
DỐI MA: Dối
trá, ma mị. Những trò lừa đảo đầy mê tín dị đoan.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 69 đến
câu 76)
Đoạn cuối bài, Đức Huỳnh Giáo
Chủ khuyên dân chúng chớ nên đốt giấy tiền, vàng bạc, hay giấy quần áo bởi vì
vua Diêm Vương rất công bình, không có vị tình riêng, tả hữu pháp quan cũng
không dùng hối như trên thế gian. Bởi tất cả thứ nói trên do người khách trú
làm ra để lừa bịp dân chúng.
Một lần nữa, Đức Huỳnh Giáo Chủ
xác nhận Phật, Tiên, Thần, Thánh là bậc công minh không có dùng của thế. Tất cả
đều là trò ma mị. Vậy chúng dân chẳng nên làm theo.
Bài 5.- ĐẦU NĂM (SGTVTB 2004, tr. 272-273)
XUẤT XỨ:
Tết là tục lệ ngàn đời của ông
bà ta lưu truyền lại cho con cháu. Tiếng pháo giao thừa để cổ võ trong việc
xuân thêm phần sinh động. Nhưng thời điểm năm Canh Thìn lại ăn tết quá nghèo: “Xóm
trên xóm dưới cùng nhau đốt, Khúc giữa phần ta mãi nghe hùn” vì không có tiền
mua pháo. Nhưng “Nghe hùn lỗ nhĩ cũng lùng tung”. Bởi tiếng pháo cứ nổ liên tiếp:
Đùng! Đùng!...
Vì cảnh trạng éo le của dòng đời
xuôi ngược, vì tức cảnh xuân sang dân tình khắc khoải trong cơn nghèo đói, Đức
Huỳnh Giáo Chủ động mối từ tâm dệt lên bài “ĐẦU NĂM” để nói lên tâm trạng của một
vị hoạt Phật “Ta chịu khổ , khổ cho bá tánh”. Ngài sáng tác một mạch suốt 8 bài
thi tứ cú vào ngày mùng một tết.
VĂN THỂ:
Bài “ĐẦU NĂM” Đức Huỳnh Giáo
Chủ viết theo thể thất ngôn tứ cú Đường luật. Nhưng Ngài cũng không cố định
theo niêm luật của thể thơ Đường, như bài “HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP”. Tuy
nhiên, hai bài chót Ngài viết đúng luật trở lại. Ngài viết theo lối khuyến
giáo. Khởi đầu bằng câu: “Đầu năm tục lệ gọi ngày mùng” và chấm dứt bởi câu:
“Niệm tưởng Phật Trời thỏa ước ao”.
NỘI DUNG:
Ngài sơ lược tục lệ đầu năm,
tiếng pháo giao thừa, bởi cảnh chiến tranh tàn khốc của toàn thế giới. Ngài cầu
nguyện Đức Quan Âm Nam Hải phổ độ trong sanh chúng. Và Ngài cũng nguyện độ tận
chúng sanh khỏi dại khờ. Sau cùng Ngài còn hò hẹn cùng Phật Tiên sẽ hiệp mặt
trong một ngày thế giới khỏi bi ai và mong ước chúng sanh bước nhanh vào con đường
đạo để “Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng”.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn nhơn
sanh phá lệ đốt pháo dịp đầu năm vì nó vốn tập quán cổ hủ, tốn tiền vô lý. Đồng
thời Ngài nói lên chí nguyện độ đời và báo tin cảnh chiến tranh hãi hùng sắp đến,
mong mọi người lo tu tỉnh.
CHÁNH VĂN:
ĐẦU NĂM
1.-“Đầu năm tục lệ gọi ngày
mùng,
Tiếng pháo đốt hoài cũng thấy
chung.
Xóm trên xóm dưới cùng nhau đốt,
Khúc giữa phần ta mãi nghe
hùn.
* * *
5.-Nghe hùn lỗ nhĩ cũng
lùng-tung,
Ngày một tiếp xuân mới vô
cùng.
Mèo lui rồng tới bay vơ-vẩn,
Thế-giới chiến-tranh nổ khắp
bùng”.
CHÚ THÍCH:
ĐẦU NĂM: Còn gọi
ngày đầu xuân, tức ngày mồng một tết.
TỤC LỆ: Tục:
Quen dùng. Lệ: Lề lối. Thói quen đã có từ trước lưu lại tới ngày nay.
PHÁO: Vật
cuộn bằng giấy, nạp thuốc nổ có ngòi, đốt nổ to, thường dùng vào dịp tết.
LÙNG TUNG: Loạn
xạ, không có thứ tự khắp mọi nơi.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 8)
Đốt pháo đầu năm là tục lệ tốn
tiền vô lý, nếu ta đốt hoài cũng bằng thừa. Đầu trên đốt, xóm dưới đốt, chính
giữa phần ta chỉ nghe hùn cũng đủ. Chỉ có nghe hùn mà lỗ nhĩ còn lùng tung. Năm
mới tân xuân cũng mới. Năm Mẹo đã qua Canh Thìn sắp tới Rồng bay vơ vẩn, thế giới
phát sinh nạn chiến tranh tràn lan khắp chốn.
CHÁNH VĂN:
9.-“Mồng một năm nay rõ thiệt
Thìn,
Hẹn cùng non nước vẫn
đinh-ninh.
Cố chí tấm lòng gìn đạo-đức,
Mặc tình bá tánh chẳng thèm
tin.
* * *
13.-Nam-hải Quan-Âm lấy tịnh
bình,
Cầm nhành dương-liễu rảy tà
tinh.
Quyết lòng độ tận trong
sanh-chúng,
16.-Ai ghét ai ưa cũng mặc
tình”.
CHÚ THÍCH:
ĐINH NINH: Nói
đi nói lại hai ba lần, dặn dò một cách trịnh trọng. truyện Kiều có câu: “Đinh
ninh hai mặt một lời song song”.
BÁ TÁNH: Trăm
họ, chỉ tất cả mọi người.
NAM HẢI QUAN ÂM LẤY TỊNH
BÌNH, CẦM NHÀNH DƯƠNG LIỄU RẢY TÀ TINH: Ám chỉ
Đức Quan Thế Âm ở biển Nam Hải. Kinh Phật chép:
“Lúc chưa xuất gia tu hành,
Ngài là con đẩu lòng của vua Vô Thánh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Khi vua
cha phát tâm hành đạo theo Đức Bảo Tạng Như Lai thì Ngài cũng thức tỉnh tu
hành, phát lời đại nguyện: Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường
Tam Bảo và các món thiện căn tôi đã từng tu tập pháp mầu xin hồi hướng về Đạo
Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện cầu độ tất cả chúng sanh khổ đau hoạn họa, khi có ai niệm
đến danh hiệu tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ khỏi khổ và đặng an vui”.
Vì vậy trong thế gian nầy, chỗ
nào lúc nào khi có sự khổ đau chúng ta niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng
lòng từ mẫn, dùng pháp mầu cứu độ chúng sanh đó.
Theo Tây Du Ký kể: Bốn thầy
trò Tam Tạng thỉnh kinh đến núi Vạn Thọ, Quán Ngũ Trang, chỗ tu của Trấn Nguơn
Đại Tiên, Tôn Hành Giả cậy thần thông làm trốc gốc cây Nhơn Sâm. Trấn Nguơn Đại
Tiên bắt phải bồi thường. Rốt cuộc phải nhờ Đức Quan Âm ở biển Nam Hải dùng nước
tịnh bình ở trong hồ lô, nhúng nhành dương liễu rảy từ gốc đến ngọn, cây từ từ
đứng dậy, rồi rảy thêm lần thứ hai Nhơn Sâm mới đượm lá tốt tươi. Và giải tỏa
được mối hiềm khích giữa Trấn Nguơn và Tề Thiên Đại Thánh.
Tương truyền: Đức Quan Âm đi
đâu cũng có đệ tử là Hồng Hài Nhi đổi pháp danh là Tiên Đồng đi theo, tay cầm tịnh
bình và nhành dương liễu mang sẵn, khi hữu sự thì dùng bửu bối rảy xuống trần
gian, cứu độ kẻ nguy nàn thành tâm cầu khẩn; và cũng chính Quan Âm Nam Hải đã
truyền thần chú cẩn cô cho Ngài Tam Tạng khi họ Tôn dỡ chứng, để buộc ông phục
tùng theo Thầy thỉnh kinh chuộc tội.
Qua đó ta thấy thần lực của
Quan Âm vô lượng vô biên, thiện nguyện cứu độ bất thối. Xét qua hai câu giảng
trên, chúng ta rút ra được một bài học kinh nghiệm vô giá. Đức Huỳnh Giáo Chủ
gián tiếp bày tỏ tâm nguyện cho mọi người được biết. Việc độ đời của Ngài cũng
noi theo chí nguyện của Đức Quan Thế Âm.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 9 đến
câu 16)
Mồng một năm Canh Thìn, cái tết
năm nay sao nó diễn đúng năm Rồng “Thế giới chiến tranh nổ khắp bùng”. Đức Huỳnh
Giáo Chủ hẹn cùng non nước đinh ninh trong tấc dạ, cố chí lo gìn Đạo đức, mặc
dù bá tánh tin hay không cũng mặc kệ. Ngài thực hiện như chí nguyện của Đức Quan
Âm Nam Hải thuở xưa, dùng nhành dương liễu nhúng nước tịnh bình rảy xuống trần
cứu độ những ai lâm nạn khổ đau, hoặc tà ma dụ dỗ. Quyết một lòng độ tận trong
sanh chúng, dù ai ưa, ghét cũng mặc tình.
CHÁNH VĂN:
17.-“Xuân sang ảm-đạm ánh dương
mờ,
Thệ quyết một lòng chẳng bỏ
ngơ.
Có sông có núi cùng cây cỏ,
20.-Độ tận chúng-sanh khỏi dại
khờ.
* * *
Lòng ta gặp cảnh rối tơ vò,
Gan ruột phổi phèo một bộng
to.
Lo hoài lo mãi không sao xiết,
24.-Tiên cảnh chúa tôi vẫn hẹn-hò”.
CHÚ THÍCH:
ẢM ĐẠM: Ảm: Sắc
đen sậm. Đạm: Nhạt. Một sắc đen lờ mờ (không đậm hẳn. Nói về cảnh vật, hoặc nói
về người). Nghĩa: Tối tăm. Đức Thầy có câu: “Tiết trời ảm đạm mịt mù gió mây”.
TƠ VÒ: Tơ: Sợi
do tằm nhả ra. Vò: Lấy tay chà xát. Những sợi tơ lộn dính với nhau. Nghĩa bóng
là rối rắm trong lòng nhiều nỗi.
TIÊN CẢNH: Tiên
là bậc tu trên núi đã chứng đắc có ngũ thông. Cảnh là cõi, chỗ ở, nơi Tiên ở. Đức
Thầy có câu: “Kìa trên Tiên cảnh vị ngôi sẵn dành”.
HẸN HÒ: Hẹn gặp
nhau, ca dao có câu: “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò”. Đức Thầy cũng bảo: “Tích đức chờ
ta chốn hẹn hò”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 17 đến
câu 24)
Cảnh xuân năm Canh Thìn tiết
trời thật ảm đạm, ánh tà dương mịt mời như khói tỏa. Ý nói đất nước còn trong
vòng kềm kẹp của thực dân. Đức Huỳnh Giáo Chủ thệ quyết một lòng lo phổ độ tận
chúng sanh. Ngài nguyện hứa có sông, có núi cùng cây cỏ chứng minh cho lòng
Ngài.
Nhưng hoàn cảnh thực tại, giặc
Pháp không cho Ngài rảnh rang, họ cố tình rình rập để tìm cách chận đứng trên
đường truyền giáo, khiến lòng Đức Thầy vô cùng rối rắm. Tuy nhiên Ngài cũng nhắc
nhở hiệp mặt Chúa tôi nơi Tiên cảnh vẫn không sai hẹn.
CHÁNH VĂN:
25.-“Hò hẹn Phật-Tiên hiệp một
ngày,
Một ngày thế-giới khỏi bi-ai.
Trung-Ương tam cõi đều hòa mặt,
28.-Ta mới thảnh-thơi trở gót
hài.
* * *
Gót hài muốn trở phải làm sao?
Đạo-đức thâm sâu hãy bước vào.
Sớm chiều lo liệu rèn tâm trí,
32.-Niệm tưởng Phật Trời thỏa
ươc-ao”.
CHÚ THÍCH:
BI AI: Buồn
thảm đau đớn.
TRUNG ƯƠNG TAM CÕI: Trung
Ương nghĩa là ở giữa, chỗ chính giữa. Đức Thầy có câu: “Nước Việt Nam nhằm cõi
Trung Ương”.
TAM CÕI: Ba
cõi Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhơn Hoàng. Nghĩa bóng: Ngày Thượng Nguơn thánh đức
nước Việt Nam sẽ là Trung Ương ba cõi.
THẢNH THƠI: Thung
dung, nhàn nhã. Rảnh rang không vướng bận. Đức Thầy có câu: “Minh Quân xuất thế
khắp tràng thảnh thơi”.
ĐẠO ĐỨC THÂM SÂU: Đạo
là con đường cao siêu, bổn phận chúng ta phải rán tầm bằng tâm thức, bằng trí
giác, bằng cái không mới có. Đức là tâm lành, thể hiện lòng lành. Thâm sâu là
thâm diệu cao sâu. Đạo đức thâm sâu: Con đường đạo rất cao sâu, là con đường
thăng hóa, từ phàm ra Thánh, từ chúng sanh trở thành Tiên Phật. Trên đời không
có con đường thâm sâu nào bằng con đường Đạo đức. Đạo đức là con đường tối thượng
nhất thừa. Vì nó siêu cả tam giới sáu đàng.
LO LIỆU: Toan
tính trù liệu, tính trước. Đức Thầy có câu: “Nghe cơ giảng thiết tha lo liệu”.
TÂM TRÍ: (Xem
Sấm Thi Từ điển, trang 372 cột I).
NIỆM TƯỞNG: Dùng
tâm tưởng nhớ điều thiêng liêng cao cả, để ta ăn sâu vào trong tiềm thức. Thí dụ:
Niệm tưởng Phật Trời, niệm tưởng hồng danh Đức Phật A Di Đà v.v…
ƯỚC AO: Ước
muốn thỏa nguyền.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 25 đến
câu 32)
Đức Tôn Sư PGHH hò hẹn với Phật
Tiên sẽ hiệp mặt trong một ngày gần đây. Ngày đó thế giới thật sự hòa bình, tam
cõi đều hòa mặt. Đức Thầy sẽ trở về ngôi vị. Nhưng muốn được trở về ta phải làm
sao? Phải lo liệu rèn tâm trí, phải tưởng nhớ Phật Tiên và thực hiện hoài bão cứu
nhân độ thế cho tròn vẹn thì chắc chắn được thỏa nguyện.
Bài 6.- TỐI MỒNG MỘT (SGTVTB 2004, tr. 274 - 276)
XUẤT XỨ:
“TỐI MỒNG MỘT” là cái đêm đầu
xuân, nhưng vì nặng hoài bão cứu độ nhơn sanh nên Đức Thầy không nói về xuân,
mà chỉ nói toàn lời Đạo pháp. Và nhân dịp có ông Hương Kiểm Chương và anh em ở
Hưng Nhơn đến dưng bông lễ Phật, Đức Thầy đem nguyện vọng viết lên một mạch 12
bài tứ cú, gởi tâm sự cùng bổn đạo vào đêm mồng một tết.
VĂN THỂ:
Cũng như bài “ĐẦU NĂM” Đức Thầy
viết bài nầy cũng theo thể thất ngôn tứ cú Đường luật. Nhưng có khác là sau hai
bài nhập đề tức cảnh. Kế đó Đức Thầy viết luôn mười bài thập thủ liên hoàn. Khởi
đầu bằng câu: Nhuần gội ơn trên rải đạo mầu” và chấm dứt bởi câu: “Lòng hiền Phật
độ khỏi tinh ma”.
NỘI DUNG:
Vì quá thương đời nên Đức Huỳnh
Giáo Chủ quyết khai rừng kinh kệ, tức vạch sâu giáo lý siêu mầu của Phật Tổ
Thích Ca. Ngài chỉ rõ cái sai của nền đạo Phật bị thất chân truyền. Rồi Ngài nhấn
mạnh ở điểm vâng sứ mạng của Phật Tổ cho mọi người vững niềm tin. Cuối cùng,
Ngài khuyên rán ẩn nhẫn chờ thời, và tìm hiểu nghĩa lý để lo tu tỉnh, chóng
công thành quả mãn.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ kêu gọi
nhơn sanh rán lo tu hành, làm lành lánh dữ để thoát chốn Diêm phù. Hơn nữa,
Ngài vạch rõ con đường tội phước và cải sửa chỗ sai lạc của nền đạo Phật, chấn
chỉnh đúng chánh pháp vô vi cao thượng.
CHÁNH VĂN:
1.-“Nhuần gội ơn trên rải Đạo
mầu,
Thương đời chỉ-vẽ nẻo cao sâu.
Khai rừng kinh kệ câu huyền-bí,
Để cứu nhơn-sanh khỏi thảm-sầu.
* * *
5.-Hương đăng nghi-ngút lễ vọng
cầu,
Cám lòng bá-tánh nguyện từ
câu.
Chí quyết một lời ta độ tận,
8.-Dắt chúng lánh xa cảnh mộng
sầu”.
CHÚ THÍCH:
NHUẦN GỘI: Thuần
thục, chan hòa, lan tỏa mọi nơi.
ƠN TRÊN: Bề trên,
ám chỉ được Đức Phật ban ân huệ, nghĩa bóng là: Được sự chiếu cố ban ân.
CHỈ VẼ: Bày
cho biết, hướng dẫn một cách cụ thể. Thí dụ: Có người chỉ vẽ cho đường đi nước
bước. Hoặc chỉ vẽ từng ly từng tí.
CAO SÂU: Cao cả
sâu xa. Đức Thầy có câu: “Rằng truyền yếu lý nhiệm cao sâu”.
KINH KỆ: Kinh:
Phiên âm phạn ngữ “Tu đa la (sutras)”. Tàu dịch là tuyến, nghĩa như sợi dâu xâu
các hột châu lại thành chuỗi. Tức là Phật nói ra các giáo pháp, rồi những đệ tử
kết lại thành Kinh, lưu truyền đời sau. Kệ: Là thể văn trong kinh Phật, thường
cứ thiên kinh thì có bài kệ, để tán tụng hoặc tóm tắt đại ý hay diễn dịch ra.
Chữ kinh kệ nói chung là chỉ cho tất cả lời của Phật, của Thầy nói ra để giáo
hóa chúng sanh. Đức Thầy có câu:
“Kệ kinh tụng niệm đêm thanh,
Ấy là châu ngọc để dành ngày
sau”.
HUYỀN BÍ: Huyền
là sâu kín, mầu nhiệm. Bí là bí ẩn. Đức Thầy có câu:
“Trong bá tánh muốn nơi cao
quí,
Phải truy tầm huyền bí nơi
cơ”. (Q. IV)
THẢM SẦU: Thảm
là đau xót. Sầu là buồn rầu. Trong tác phẩm Nhị Độ Mai có câu:“Cả nhà xiết nỗi
thảm sầu”.
HƯƠNG ĐĂNG: Hương
là mùi hương, còn gọi là nhang. Đăng là đèn. Nhang và đèn là hai vật dùng trong
nghi lễ cúng bái.
NGHI NGÚT: Bốc
cao lên cuồn cuộn, lan tỏa khắp nơi. Đức Thầy có câu:“Mây ganh hờn đầy lòng
nghi ngút”.
VỌNG CẦU: Vọng
là mong mỏi. Cầu là xin được giúp đỡ. Mong cầu được giúp đỡ một việc gì. Đức Thầy
có câu: “Vọng cầu thế giới dứt can qua”.
BÁ TÁNH: Trăm
họ, chỉ tất cả mọi người.
CẢNH MỘNG SẦU: Cảnh
là cõi, nơi. Mộng sầu: Mộng là giấc chiêm bao, sầu là lo lắng. Cảnh mộng sầu là
cõi đời như giấc mộng, lo lắng, buồn phiền đủ việc. Nghĩa bóng: Cõi chúng ta
đang ở như giấc mộng sầu. Đức Thầy có câu: “Muốn đó gần đây giải mộng sầu”.
LƯỢC GIẢI:
Đức Huỳnh Giáo Chủ tha thiết
mang ơn Trời Phật sắc lịnh cho Ngài khai mối Đạo PGHH. Vì quá thương đời nên
Ngài chỉ rõ nẽo cao sâu trong Phật pháp, khai cả rừng kinh kệ của Đức Phật Tổ,
những chỗ yếu lý. Chủ đích là để cứu nhơn sanh.
Nhân dịp đầu năm có người đến
dâng bông thắp nhang cúng Phật, Đức Thầy rất chạnh lòng tốt của bá tánh. Và
nhân cơ hội đó Ngài phát nguyện độ tận chúng sanh, và cương quyết dắt người vượt
thoát cảnh đời mộng ảo.
CHÁNH VĂN:
9.-“Giữ nguyện đinh-ninh tiếng
tạc thù,
Làm lành đâu phải tốn tiền xu.
Mà sau lại được về Tiên cảnh,
12.-Thêm thoát ngục mê chốn
Diêm-phù.
* * *
16.-Diêm-phù chơn Chúa chọn
người tu,
Hành phạt ác-hung chốn cửa tù.
Tiếp nghinh những kẻ lòng
nhơn-đức,
Hỡi bớ dương-trần hãy rán tu”.
CHÚ THÍCH:
GIỮ NGUYỆN: Giữ
gìn lời nguyện ước.
ĐINH NINH: (Xem
chú thích bài “Đầu Năm”)
TẠC THÙ: Còn gọi
là thù tạc. Tạc: Khách rót rượu mời lại chủ. Thù là chén rượu mời khách. Truyện
Kiều có câu: “Vợ chồng chén tạc chén thù”.
DIÊM PHÙ: Nói đủ
Diêm Phù Đề. Phạn ngữ: Sampudripa. Một trong bốn châu lớn ở cõi Ta bà. Thuộc về
phía Nam núi Tu Di. Cũng gọi là “Nam Thiệm Bộ Châu” tức là trái đất chúng ta
đang ở mà cõi Thiên Trước choán một phần rộng lớn. Sở dĩ có tên Diêm Phù Đề, vì
cõi nầy có cây linh tên Diêm Phù (jambuds). Dưới bóng cây ấy có lần Thái tử Sĩ
Đạt Ta ngồi tham thiền tại đây, nhằm lúc dân Ấn Độ làm lễ hạ điền (bắt đầu cày
ruộng). Cho nên người ta cũng gọi cõi Thiên Trước (Ấn Độ) là Diêm Phù Đề. Ở cõi
nầy có dãy núi Hy Mã Lạp Sơn cao hơn hết (8.840m).
Theo các Kinh nói “Cõi Diêm
Phù Đề, bề vòng là 30.000 do tuần, hình phân nửa mặt trăng. Dân sống đến 100 tuổi
là cùng, và phải làm cực khổ mới có đủ phương tiện: ăn, mặc, ở. Ngoài ra còn phải
chịu muôn ngàn khổ lụy, kể chẳng xiết”.
Thế nên Đức Thầy hằng khuyên
chúng sanh, rán tu làm sao cho vượt khỏi cảnh nầy, tức là giải thoát về Niết
Bàn, Cực lạc. Như Ngài kêu gọi:
“Muốn cho rắn đặng hóa cù,
Xả thân làm phước Diêm phù vượt
qua”.
ÁC HUNG: Còn gọi
là hung ác, hung dữ ác nhơn. Đức Thầy có câu: “Mê muội ác hung về Địa ngục”.
(Xem bài “Hai mươi chín tháng chạp”, chung tập).
TIẾP NGHINH: Tiếp
là đón nhận. Nghinh: Rước. Cung nghinh và tiếp đón.
NHƠN ĐỨC: Nhơn
là lòng thương người, mến vật.
Đức: Tâm
lành, thể hiện nhân lành. Nhơn đức là người có tâm từ rộng lớn, hay làm việc
giúp đời bất vụ lợi.
DƯƠNG TRẦN: Cõi
chúng sanh đang sống. Nó đầy gian lao bụi bặm.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 9 đến
câu 16)
Đức Huỳnh Giáo Chủ đinh ninh
giữ lời nguyện ước với chúng dân: Làm lành niệm Phật không có tốn tiền bạc, nó
vừa thoát ngục mê, vừa được về Tiên cảnh.
Ngài còn nói rõ sau này Chúa
Thánh chỉ chọn người biết tu sống đời Thượng Nguơn thánh đức, và hành phạt kẻ
hung ác xuống Diêm đài.
CHÁNH VĂN:
17.-“Rán tu vẹt phá đạo lu-bù,
Thấy chúng đời nầy lạc chữ tu.
Sớm tỉnh kệ kinh tìm hiểu lý,
20.-Một ngày hội hiệp hết mờ
lu.
* * *
Mờ lu được sáng rắn hóa cù,
Hiệp mặt phân trần nỗi ám-u.
Tớ Thầy tôi chúa cùng nhau gặp,
24.-Khắp hết thế-gian thoát chốn
tù”.
CHÚ THÍCH:
ĐẠO LU BÙ: Mối đạo
không có tôn chỉ giáo lý rõ ràng; thuộc loại tà giáo, chủ trương tu theo mê tín
dị đoan, ông lên bà xuống. Ngày xưa thời Phật Tổ thành Đạo, trước đó đã có Lục
Sư ngoại đạo. Ngày nay khá nhiều như: Thanh Hải Vô Thượng Sư, Đạo Nằm, Đạo Nổi
v.v…
HỘI HIỆP: Hội
hiệp nhóm họp, cùng gặp gỡ. Nghĩa rộng: Cuộc nhóm họp của nhiều người, chỉ ngày
hiệp mặt tôi hiền chúa Thánh.
RẮN HÓA CÙ: Rắn
là loại bò sát. Hóa là biến đổi. Cù là con rồng. Nghĩa bóng: Chúng sanh nhờ tu
tập đúng chuẩn sẽ trở thành Phật Thánh. Đức Thầy có câu:
“Muốn cho rắn đặng hóa cù,
Xả thân làm phước Diêm phù vượt
qua”.
ÁM U: Ám: Tối
tăm. U: Lặng lẽ. Tối tăm lặng lẽ. Đức Thầy có câu: “Hạ nguơn sanh chúng ám u”.
THẾ GIAN: Cõi
dương gian, chỉ cảnh chúng ta đang ở đầy gian lao tạm giả, ngục tù. Đức Thầy có
câu: “Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 17 đến
câu 24)
Đức Tôn Sư PGHH khuyên chúng
sanh rán lo tu cho chính đạo để vẹt phá đạo lu bù. Hiện giờ phần đông còn nhiều
lầm lạc chữ tu. Thay vì tu ngay tâm để kiến tánh thành Phật, chúng sanh lại tưởng:
“Đúc Phật lớn chùa cao bối rối,
Mà làm cho Phật giáo suy đồi”.
Ngài khuyên sớm thức tỉnh, làm
đúng ý nghĩa của chữ tu bằng cách đào sâu chân lý, và tìm hiểu nghĩa kệ kinh tường
tận truy nguyên căn gốc để hành theo cho khỏi lầm lạc. Nếu ta làm đúng một ngày
gần đây sẽ sum hợp cảnh vui đẹp tôi chúa trùng phùng, chắc chắn thoát khỏi ngục
tù thế gian.
CHÁNH VĂN:
25.-“Chốn tù vốn thiệt cõi
Ta-bà,
Tiên cảnh được về mới lánh xa.
Chúng-sanh chìm đắm trong vòng
khổ.
Khuyến dạy bởi vưng sắc Ngọc-tòa.
* * *
29.-Ngọc-tòa Phật-Tổ nấy sai
ta,
Xuống cứu thế-gian nẻo vạy tà.
Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu-pháp,
Cho đời thấu tỏ Đạo ma-ha”.
CHÚ THÍCH:
TA BÀ: Còn gọi
là Sabà, Phạn ngữ SaHa. Dịch ngĩa: Kham nhẫn, đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy
kham chịu mọi điều thống khổ, tức là cõi chúng ta đang ở. Kinh Phật có câu: “Ta
bà khổ, Ta bà chi khổ, thùy năng sổ”. Đức Thầy cũng cho biết:
“Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ,
Có bao người xét cho tột chỗ”.
(Q.V)
TIÊN CẢNH: (Xem
chú thích bài “Tối Mồng Một”, chung tập).
CHÚNG SANH: (Xem
chú thích bài “Hai Mươi Chín Tháng Chạp”, chung tập).
NGỌC TÒA PHẬT TỔ: Nơi Đức
Phật Thích Ca ngự, Phật Tổ còn hiểu nghĩa: Vị giáo Tổ khai sáng nền Đạo Phật tại
Ấn Độ, cách đây trên 25 thế kỷ qua. Ngài là chứng nhân lịch sử có một không
hai.
VẠY TÀ: Còn gọi
là tà vạy. Có nghĩa: Gian dối cong vẹo, không ngay thẳng chơn chánh. Đức Thầy
có câu:
“Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
Nên quay lộn ta bà cõi khổ”.
(Q.V)
DIỆU PHÁP: (Xem
chú thích bài “Hai Mươi Tháng Chạp”, chung tập).
MA HA: (Xem
chú thích bài “Đến Làng Nhơn Nghĩa”, chung tập).
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 25 đến câu
32)
Đức Giáo Chủ xác nhận: Cõi Ta
bà là chốn ao tù. Đúng vậy: “Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù, trong biển khổ
mấy ai mà thoát đặng”. Chỉ có nơi Tiên cảnh mới nhàn an tự tại. Vì chúng sanh
chìm đắm trong vòng khổ nên Ngài mới vưng lịnh Ngọc Tòa để xuống cứu thế gian.
Ngài vừa khuyến hóa và vừa kêu gọi. Đệ tử tất cả đều có bổn phận truyền bá Phật
Pháp để cho đời thấu tỏ chơn lý diệu huyền của nền Đạo Phật giáo nói chung,
PGHH nói riêng.
CHÁNH VĂN:
33.-“Ma-ha thoàn nhỏ dọn rồi
đa,
Bước xuống đi qua bến giác mà.
Sao hỡi còn chờ Ta réo mãi?
36.-Dân tình xem giảng cứ
ngâm-nga.
* * *
Ngâm-nga việc khổ tới bên a,
Bổn phận tu hiền phải lánh xa.
Biết Đạo tùy thời mau tránh khổ,
40.-Chớ đừng thi-thố những tài
ba”.
CHÚ THÍCH:
MA HA THOÀN NHỎ: Ma ha
chỉ nền Đạo rộng lớn. Nó vẫn rỗng không sáng tỏ, đồng với bản thể với đạo tâm
(nói đến Ma ha là nói đến Đại Đạo). Thoàn nhỏ: Chiếc ghe nhỏ của Đức Ông, Đức
Huỳnh Giáo Chủ có xác nhận:
“Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu sanh du lịch lục châu giang.
Kim sơn thương mãi toàn lê thứ,
Thức tỉnh bá gia giấc mộng
tràng”.
MA HA THOÀN NHỎ DỌN RỒI
ĐA: Nền đại Đạo rộng lớn của Phật Giáo nói chung,
PGHH nói riêng, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã ra đời trước ngày sáng tác sáu tháng, tại
Thánh địa Hòa Hảo, nơi phát tích nền Đại Đạo hiện đại. Đức Thầy đã phương tiện
mượn chiếc ghe lịch sử của Đức Ông đi chu du khắp Nam Kỳ lục tỉnh, tỉnh thức bá
gia, Ngài đã dọn rồi, tức đã ra đời giáo Đạo. Nền Đại Đạo đó tuy hiện giờ bó gọn
trong chiếc thoàn nhỏ nhưng mai sau nó sẽ bành trướng sâu rộng như nền Đạo Phật
Thích Ca. Như Ngài xác nhận:
“Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
Sau danh thể sạ hương khắp chốn”.
Nói rõ, Đức Tôn Sư mượn sự để
bày lý. Dùng chiếc thoàn nhỏ đi du lịch để nêu sự kiện thực tế để hóa độ đời.
Chớ chơn linh Ngài biến mấy chiếc ghe to cũng được. Như Ngài xác nhận: “Đến đây
Thầy tớ hóa mười”. Chỉ có Thầy trò mà biến thành mười người để diễn xuất sơn
đông. BẾN GIÁC: Do chữ giác ngạn, tức bờ giải thoát.
Đối tượng với bến mê. Đức Thầy
có câu:
“Thả thuyền từ bến giác nâng
niu,
Kẻ hiểu đạo mau mau bước xuống”.
NGÂM NGA: Đọc
hoặc ngâm lên. Như đọc giảng hoặc ngâm thơ theo vần điệu nhất định. Nghĩa bóng:
đọc thơ suông không có dụng ý gì cả.
THI THỐ: Thi:
Là thi hành một việc gì. Thố: Đặt một vật làm ra cho mọi người trông thấy. Đem
sở đắc của mình để cho mọi người biết.
TÀI BA: Còn gọi
là tài hoa, tài năng biểu lộ, phát rõ ra ngoài. Cổ nhân có dạy: “Tài cần phải học,
học cần phải tĩnh; không học, không rộng được tài. Không tĩnh, không thành việc
học”. Cụ Nguyễn Du cũng có câu: “Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ
tai một vần”. Đức Tôn Sư cũng thốt lên ý nghĩ đó:
“Tài tai hai chữ cân phân,
Trời ban họa phước một lần cho
Ta”.
Qua đó rút ra bài học kinh
nghiệm: Đức Giáo Chủ khuyên ta chớ nên thi thố tài ba, mà chỉ nên âm thầm, rèn
luyện đức tài, chờ khi hữu sự phương tiện giúp đời thì chắc chắn thành công.
Như gương của Hàn Tín nhẫn bọn thiếu niên giữa chợ, khi chưa gặp vận.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 33 đến
câu 40)
PGHH là nền tảng hiện đại, Đức
Huỳnh Giáo Chủ đã khai mở vào ngày 18/05/Kỷ Mão, tại thánh địa Hòa Hảo, Ngài đã
dọn thuyền xong rồi nên giục thúc nhơn sanh hãy nhanh chơn bước xuống để Ngài
đưa qua bến giác. Chiếc thoàn nầy tuy nhỏ nhưng sau nầy công dụng vô cùng tận.
Ta đừng thờ ơ chờ Ngài kêu réo mãi. Vậy chúng dân rán xem kệ giảng để vừa học vừa
hành theo những lời dạy chỉ xác thực hợp thời cơ. Chúng ta vừa ngâm giảng vừa
biết việc khổ tới nơi, vừa phải tu hành chơn chất và xa lánh chỗ tranh danh đoạt
lợi, tùy thời ứng dụng thích đương, đừng khoe sức khoe tài mà uổng mất một kiếp
con người.
CHÁNH VĂN:
41.-“Tài ba khoe sức uổng thây
mà!
Nhựt dạ yêu đời dụng khuyến
ca.
Tỉnh thức nhơn dân đang mờ ám,
44.-Nên làm thi phú đặng
ngâm-nga.
* * *
Ngâm-nga hiểu nghĩa đáng kim
ngà,
Huyền-bí nhiều lời chỉ thiệt
xa.
Bổn-đạo rán tìm cho cặn-kẽ,
48.-Lòng hiền Phật độ khỏi
tinh-ma”.
(Hòa-Hảo, đêm mồng 1 tháng
giêng, Canh-Thìn)
CHÚ THÍCH:
NHẬT DẠ: Ngày
đêm.
KHUYẾN CA: Khuyến:
khuyên. Ca: hát. Dùng thi ca dệt thành văn, thành khúc để khuyến nhủ chúng
sanh.
TỈNH THỨC: Còn gọi
là thức tỉnh. Tỉnh là hiểu biết. Thức: Giác ngộ. Bỗng nhiên tỉnh ngộ hiểu biết.
Nghĩa bóng: Khi người được giác ngộ. Đức Thầy có câu: “Mau thức tỉnh tu thân kẻo
trễ”.
NHƠN DÂN: Nhơn:
người. Dân: người dân. Những người cùng sống chung một đất nước. Đức Thầy có
câu: “Lục châu xao xuyến nhơn dân khổ”.
MỜ ÁM: Tối
tăm, ngu muội.
THI PHÚ: Thi:
thơ. Phú: mô tả. Một đoạn văn vần tả cảnh vật, phong tục, hay trào lộng một thời
đại…Thi phú dùng để tiêu biểu cho các loại vận văn. Đức Thầy có câu: “Người chi
thi phú công hầu cổ nhân”.
KIM NGÀ: Kim:
vàng. Ngà: nanh voi. Hai vật quý báu.
HUYỀN BÍ: Huyền:
sâu kín, mầu nhiệm. Bí: Bí ẩn tiềm tàng.
NGÂM NGA HIỂU NGHĨA
ĐÁNG KIM NGÀ, HUYỀN BÍ NHIỀU LỜI CHỈ THIỆT XA: Đức
Tôn Sư PGHH dụng ý khuyên chúng sanh: vừa ngâm nga kệ giảng, vừa tìm hiểu nghĩa
lý để thực hành theo mới là quí báu.
Xưa nhà hiền triết Dương Vương
Minh dùng pháp “Tri hành hợp nhứt” mà thành công trên mọi lãnh vực. trong đoạn
giảng khác Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên: “Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo”.
Thật vậy, nếu ngâm nga mà
không hiểu nghĩa, chỉ đọc cho êm giọng, ngâm suông thì kệ giảng thiếu chất lượng.
Trái lại, mỗi câu mỗi chữ, mỗi dấu trong Sấm Kệ đều có nghĩa lý thâm huyền. Do
đó hành giả phải truy tìm nghĩa lý “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu” để thông đạt.
Vì:
“Ít câu mà lý nghiệm sâu,
Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn
ngoan”.
Hơn nữa, những điều bí ẩn
trong cuộc đời hay bước đăng trình trên bờ giác Đức Tôn Sư đã chỉ rạch ròi, sâu
xa cho bổn đạo.
BỔN ĐẠO: Bổn:
Bổn phận mình. Đạo: Đạo giáo, tôn giáo mà mình đang tín ngưỡng. Đức Thầy có
câu: “Bổn đạo ôi! Hãy rán sửa mình”.
CẶN KẼ: Kỹ lưỡng,
tỉ mỉ. Đức Thầy có câu: “Rán tìm cặn kẽ nỗi ma ha”.
TINH MA: Yêu
ma, quỷ quái. Nghĩa bóng: Người ranh mảnh.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 41 đến
câu 48)
Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên những
trang anh tuấn, chớ dùng tài ba khoe sức uổng kiếp con người. Vì: “Cao nhân tất
hữu cao nhân trị”. Và: “Vỏ quít dày có móng tay nhọn”. Vì quá yêu đời Đức Tôn
Sư dùng thi phú chỉ dạy, thức tỉnh chúng sanh còn ngủ vùi trong cơn mờ ám.
Ngài nhấn mạnh yếu điểm: Bổn đạo
phải vừa ngâm nga kệ giảng, vừa tìm hiểu nghĩa lý, những câu huyền bí. Vì Ngài
đã giải bày cặn kẽ, chúng sanh phải tìm hiểu để hành theo mới mong đắc Đạo.
Quan trọng là chỗ tâm trong sạch hiền từ thì Phật độ thoát đường tà quái.
Bài 7.- VIẾNG NON ÔNG KÉT (SẤM GIẢNG THI VĂN GIÁO LÝ TB 2004, tr. 283 - 284)
XUẤT XỨ:
Ngày xưa Đức Sĩ Đạt Ta tìm Đạo
phải lặn lội suốt 12 năm dài trên Hy Mã Lạp Sơn mới tìm ra chánh Đạo nhiệm mầu
phổ độ chúng sanh. Đó là thời chánh pháp: “Đạo Phật diệu diệu thâm thâm”. Thời
Đức Phật Thầy Tây An, bản thân cũng lưu lạc thời gian khá lâu mới hưng truyền mối
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, mở đầu giáo dân hướng thiện.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế,
trước khi khai hóa Đạo mầu, lập nền Đạo vĩ đại ở bản địa Miền Nam Việt Nam, Ngài
cũng đăng sơn bốn lần trên dãy Thất Sơn hùng vĩ. Núi Két, còn gọi “Anh Vũ Sơn” (Một
trong bảy núi báu). Xa nhìn mõm đá nhọn tượng hình như mõ két. Nơi đây Đức Thầy
và số đệ tử đang ngoạn cảnh thiên nhiên, gió lùa qua hàng cây kẽ lá xạt xào như
cung đàn hòa tấu làm mát cõi lòng của khách du sơn mộ Đạo. Nhân đó Ngài tức cảnh
viết lên 4 bài thể tứ cú để bày tỏ hoài bão của một đấng hoạt Phật vì tiền đồ Đạo
Pháp bị lấp vùi, vì dân tộc ngửa nghiêng đang gánh nặng oằn vai của một trang
anh tuấn.
Ngài sáng tác xong có đọc cho
ông Hương Giáp Tập chép trên non. Và khi về nhà Ngài còn đọc lại cho anh em tín
đồ chép nữa. Do đó ta thấy tầm quan trọng và giá trị của bài thơ.
VĂN THỂ:
Bài nầy Đức Thầy cũng viết
theo thể thất ngôn tứ cú Đường luật, dài 16 câu. Vỏn vẹn có bốn bài. Nhưng rất
hàm súc, đáng làm mô phạm trên bước truyền giáo. Riêng bài này Đức Huỳnh Giáo
Chủ cũng không theo thể bằng trắc, chỉ có một chữ thứ sáu của bài thơ thứ nhì,
tức chữ “Non”. Theo chữ “Non” phải là trắc mới đúng. Nhưng Đức Huỳnh Giáo Chủ
chỉ dụng tâm: xát đề, xát cảnh, xát thật tế (?), đầy đủ chất lượng.(?) Khởi đầu
bằng câu: “Non Tiên gió mát toại lòng thay” và chấm dứt bởi câu: “Tu hành được
thấy cảnh Bồng lai”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ xúc cảnh
sanh tình: Trời thanh, trăng sáng, gió mát non Tiên khiến tâm hồn Giáo Chủ lâng
lâng thanh thoát, Ngài diễn tả 16 câu thơ Đường. Mỗi câu, mỗi chữ chứa đựng một
bầu nhiệt huyết thanh cao.
Ngài dắt xác phàm về Thất Sơn
viếng cảnh để cho môn đồ chứng kiến cái diệu huyền của non linh cẩm tú. Đoàn
người chỉ biết tạm ghé đêm thôi, nhưng một đêm tao phùng hiếm có, đầy đủ chư vị
Sơn Thần Bảy Núi đồng qui tựu.
Sáng lại, đoàn du sơn đồng lui
gót, nhưng Đức Huỳnh Giáo Chủ không quên giục thúc chư Thần trở gót theo Thầy
xuống núi đồng dẫn dắt quần sanh được minh tâm đạo đức, hầu sớm trở về Bồng lai
Tiên cảnh.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn mọi
người nhận rõ căn Tiên cốt Phật của Ngài. Ngài xuống thế gian là có sứ mạng, đồng
thời Ngài muốn một số tín đồ chứng kiến cảnh huyền vi của non linh để vững niềm
tin trên đàng tu thân lập mạng.
CHÁNH VĂN:
1.-“Non Tiên gió mát toại lòng
thay,
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mơ về nhược thủy,
4.-Ngặt vì không cánh lấy gì
bay”.
CHÚ THÍCH:
NON TIÊN: Núi
có Tiên ở. Nghĩa bóng: chỉ cho cảnh thoát tục.
THI VĂN: Thi:
là văn vần. Văn: là văn xuôi. Dùng để chỉ chung tất cả thơ văn, bất luận là loại
nào, hoặc trào đại nào.
CỐ TƯỞNG: Cố:
xưa, nguyên nhân. Tưởng: nhớ tưởng. Ở đây dụng ý muốn nói: nhớ lại quê xưa làm
Tiên Trưởng ở núi Tà Lơn: “Sớm chiều hầu chơn Phật nghe kinh, ngao du tứ hải, dạo
khắp Tiên bang, cảnh an nhàn của người liễu đạo, muôn ngày vô sự, lóng sạch
phàm tâm…”
NHƯỢC THỦY: Nói
cho đủ là: “Non bồng nước nhược”. Nghĩa bóng nơi Tiên ở. Ông Nguyễn Kỳ Trân có
viết: “Cẩm tú lắng tai người nhược thủy”.
NGẶT VÌ KHÔNG CÁNH LẤY
GÌ BAY: Vì còn mang xác phàm phải chấp nhận cái chi phối
của định luật thiên nhiên, phải chịu cảnh: sanh, trụ, dị, diệt, theo dòng thời
gian đẽo mòn xác thể. Nhưng được biết dụng tâm là Ngài dùng lời khiêm nhượng để
hòa mình vào vạn loại chúng sanh, từ từ hướng dẫn tín đồ đi từ thực tế đến siêu
thực. Trong Kim Cổ Ký Quan của Ông Ba Thới có diễn tả đời Thượng Nguơn Thánh Đức
như sau:
“Không có cánh đi được trên
mây,
Phép tài văn võ hơn nay nước
nào”.
Và trong Quyển Nhứt, Ngài cũng
thố lộ: “Đằng vân đến tỉnh Gò Công”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Non Tiên là cảnh diệu huyền
khó tả, lại còn gió mát trăng trong, hóa công đã un đúc cảnh thiên nhiên vô
cùng đẹp đẽ, dành trong bức tranh thủy mặc sống thực, bồi đắp cho non bồng nước
nhược ở non Ông Két. Đức Huỳnh Giáo Chủ vì tức cảnh nên nhả một bài thơ làm kỷ
niệm, ghi dấu ấn sâu đậm chốn non linh. Ngài cố tưởng trong ký ức những cái
thanh bai tao nhã đượm mùi thiền vị ở cõi Tiên.
Nhưng tạo hóa đã sắp bày bổn
phận Ngài phải nhập thế hành tròn chí nguyện độ đời vốn đã un đúc từ lâu. Nên
nay phải mang xác phàm không cao bay xa chạy được.
CHÁNH VĂN:
5.-“Dắt xác phàm phu viếng non
Đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy núi đều qui tựu,
8.-Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt
mày.
* * *
Nhìn xem cây lá gió lung-lay,
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
12.-Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng
cay”.
CHÚ THÍCH:
XÁC PHÀM: Xác
do tứ đại hợp thành, phàm phu tục tử. Trong bài “Trao Lời Cùng Ông Táo”, Đức Thầy
có thố lộ: “Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm, Mượn tay gã tài hoa thần hạ bút”.
Xác phàm: Ám chỉ xác tứ đại (nhục thân) của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
VIẾNG NON ĐOÀI: Viếng
cảnh Tiên ở.
CHƯ SƠN BẢY NÚI: Các vị
thần ở miền Thất Sơn có bổn phận gìn giữ bảo vệ nơi linh hiển. Thuộc tỉnh An
Giang.
CHƯ SƠN BẢY NÚI ĐỒNG
QUI TỰU, THẦY TỚ CẢNH TIÊN RÕ MẶT MÀY: Đêm Đức
Huỳnh Giáo Chủ dừng chân ở non Ông Két, chư Thần Bảy Núi đồng qui tựu chào mừng.
Vì Ngài là Đức Kim Sơn Phật, giữa Thầy tớ họp mặt tại cảnh Tiên rất tâm đắc vui
vẻ.
LUNG LAY: Rung
chuyển. Đức Thầy có câu: “Chuyển miền Nam địa lung lay”.
TRỞ GÓT: Quay lại,
trở về bản xứ.
CHƯ THẦN: Chư:
nhiều. Thần: thần giữ núi. Những vị Thần gìn giữ nước non, có bổn phận bảo vệ
chốn huyền linh.
VẬY HỠI CHƯ THẦN MAU NỐI
GÓT, THEO THẦY DẮT CHÚNG KHỎI NỒNG CAY: Đức
Huỳnh Giáo Chủ kêu gọi chư vị Sơn Thần ở miền Thất Sơn hãy xuống thế cùng Thầy
hóa độ chúng sanh. Vì gần đúng ngày giờ Trời Phật sắp đặt cuộc biến thiên.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 12)
Vì muốn nhơn sanh và đồng đạo
nhận được chân lý nhiệm mầu, linh hiển ở vùng Bảy Núi, nên vào ngày 14 thnág
giêng năm Canh Thìn (1940). Đức Thầy có dắt xác phàm, tức nhục thể của Ngài lên
miền Bảy Núi viếng non Ông Két. Cùng đi với số đệ tử. Đêm dừng chân tạm nghỉ có
đủ các vị Thần Tiên họp mặt trao đổi Phật Pháp. Sáng ra Ngài kêu gọi thiết tha
các vị sơn thần phải xuống thế giúp đời, cùng Thầy vun quén nền Đại Đạo hiện đại
của Ngài sắp khai mở tại miền Nam nước Việt.
CHÁNH VĂN:
13.-“Lầu đài núi Cấm lộ nay
mai,
Thức tỉnh chúng sanh mới tỏ
bày.
Khuyên dạy dân tình minh đạo đức,
16.-Tu hành được thấy cảnh Bồng
Lai”.
CHÚ THÍCH:
LẦU ĐÀI NÚI CẤM: Đền
vàng điện ngọc trên Thiên Cẩm Sơn (Châu Đốc). Đức Thầy có câu:
“Thất sơn lộ vẻ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của
Ta”.
THỨC TỈNH: Thức:
biết. Tỉnh: hiểu biết. Bỗng nhiên tỉnh ngộ hiểu biết. Trạng thái của người khi
giác ngộ. Nhưng chữ thức tỉnh ở đây là chỉ lòng từ của Phật khêu gợi đạo tâm
cho tín đồ trực tỉnh cơn mê.
TU HÀNH: Tu:
là sửa. Hành: là làm. Đức Thầy có câu:
“Qui y thì khá hành y,
Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp
đời”.
BỒNG LAI: Cảnh
Tiên. Một trong ba hòn đảo biển
Bột Hải: Bồng
Lai, Phương Trượng, Doanh Châu.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 12 đến
câu 16)
Theo cơ thiên định, núi Cấm sắp
lộ đền vàng, tất cả lầu đài đều do thiên nhiên sắp đặt, là nơi: Vua, Chúa, Thánh,
Thần, Tiên, Phật hội hiệp để xử phân kẻ nghịch phản và ban thưởng tôi hiền. Vì
lòng mến mộ chúng sanh nên Đức Thầy bày tỏ tâm sự cho mọi người biết. Ngài nhấn
mạnh: “Dạy khôn trần thế chớ nào dạy ngu”. Hành giả rán tu sẽ thấy cảnh Bồng
Lai tại thế.
Bài 8.- XUÂN HẠ TÁC CUỒNG THƠ (SGTVTB 2004, tr. 328 - 330)
XUẤT XỨ:
Bài “XUÂN HẠ TÁC CUỒNG THƠ”, Đức
Thầy sáng tác khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4, tức cuối mùa Xuân mà đầu mùa Hạ.
Năm Canh Thìn (1940) tại Hòa Hảo. Thêm nữa, Ngài thường ký tên với bút hiệu là
“Cuồng Sĩ”. Có thể vì lẽ đó mà Ngài để tựa đề cho bài giảng này là “XUÂN HẠ TÁC
CUỒNG THƠ”.
VĂN THỂ:
Ngài viết bài giảng nầy bằng vận
văn (văn vần), thể song thất lục bát, loại thuyết giáo, dài 76 câu. Khởi đầu bằng
câu: “Sĩ điềm tịnh tiểu nhơn lấn lướt”. Và chấm dứt bởi câu: “Dầu ai chế nhạo
phận mình mình toan”.
NỘI DUNG VÀ ĐẠI Ý:
Điểm chính Ngài kêu gọi môn đồ
hãy yên tâm điềm tĩnh trước mọi cường quyền đàn áp hành hung để lo tu hành chờ
khi có cuộc Phong Thần đáo lai, ngày mà “Trụ kia bạo ác phải nhường, Võ Vương hữu
đức đường đường trị dân”.
Chính lúc ấy là lúc Thần,
Tiên, Phật, Thánh đồng hiệp mặt như cù hóa long và khắp nơi thái bình an lạc.
BỐ CỤC:
(Chia ra nhiều đoạn)
Đoạn mở đề gồm có 4 câu: từ
câu “Sĩ điềm tịnh tiểu nhơn lấn lướt”, đến câu: “Chúc câu lai thới xóm làng
vĩnh miên”.
Đoạn thứ hai: từ câu: “Xưng
danh hiệu nửa tiên nửa tục”, đến câu “Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm”.
Đoạn thứ ba: từ câu: “Dốc chờ
ngày sen đơm nhụy trổ”, đến câu “Ngặt ông thất thủ hạ bì khó toan”.
Đoạn thứ tư: từ câu: “Ta Điên
thuở Tam Hoàng Thượng Cổ”, đến câu: “Võ Vương hữu đức đường đường trị dân”.
Đoạn thứ năm: từ câu: “Thì rõ
việc Phong Thần trở lại”, đến câu “May nhờ Đại Thánh phi đằng cứu nguy”.
Đoạn kết từ câu: “Lôi Âm tự đường
đi chưa đến” đến câu “Dầu ai chế nhạo phận mình mình toan”.
CHÁNH VĂN:
1.-“Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt,
Thời-vận hèn dụng nhược thắng
cang.
Cầu cho bốn biển bằng an,
4.- Chúc câu lai thới xóm làng
vĩnh-miên”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Đoạn mở đề của bài “Xuân Hạ
Tác Cuồng Thơ”, Đức Thầy kêu gọi các tín đồ đã là sĩ nhân quân tử khi đối mặt với
phường tiểu nhơn, lúc nào cũng bình tâm yên lặng để nhịn nhục cho qua truông và
thành tâm cầu nguyện khắp vạn dân sớm được an lành vĩnh cửu.
CHÚ THÍCH:
ĐIỀM TỊNH: Cũng
gọi là điềm tĩnh. Có nghĩa không lao chao bồng bột, lúc nào cũng giữ tâm bình
thản, trầm tĩnh để suy nghĩ phán xét mọi việc nên ít khi bị lầm lạc.
TIỂU NHƠN: Hạng
người tánh tình ích kỷ nhỏ hẹp, thù vặt. Kẻ tầm thường.
LẤN LƯỚT: Ỷ mạnh
hiếp đáp kẻ yếu hèn.
DỤNG NHƯỢC THẮNG CANG: Dùng
yếu mà thắng mạnh. Do câu: “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Thời Đông Châu
Liệt Quốc có Liêm Pha lấn lướt Lạn Tương Như, nhưng Tương Như dùng thế yếu nhường
nhịn làm cho Liêm Pha sau phải chịu phục thiện. Quốc gia Việt Nam ta, thời Trần
Hưng Đạo cũng dùng thế yếu mà thắng đặng quân Mông Cổ.
CHÁNH VĂN:
5.- “Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa
tục,
Đứng trung-thần gạn đục tầm
trong.
Gìn câu thủ cựu gia phong,
Gom nhành lá rụng vun trồng giống
xưa.
Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa,
10.-Mong ơn Phật-Thánh phước
thừa cho dân”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 10)
Đức Giáo Chủ lâm phàm khai hóa
nhơn sanh, Ngài tự xưng danh hiệu khi thì như bực Thần Tiên, có khi như kẻ phàm
tục, mặc tình ai hiểu thế nào thì hiểu: “Ra đời xưng hiệu Khùng Điên,
Nào ai có rõ Thần Tiên là gì!”
Hay là:
“Điên đàm luận ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn bạc thể nào?
Lời văn thô ý kiến chẳng cao,
Nội quan cảnh tâm vô kỳ vật”.
Ý để mỗi người tự nhận xét như
thế nào thì nhận, chớ lòng Ngài lúc nào cũng thương xót sanh linh, hằng cầu
mong chư Phật Thánh thừa ban phúc báu cho dân lành chung hưởng.
CHÚ THÍCH:
DANH HIỆU NỬA TIÊN NỬA
TỤC: Đức Thầy ra đời tự xưng nhiều danh hiệu, khi
thì quỉ ma điên dại (Quỉ của Phật Bà…), khi có ẩn ý Phật Tiên Thần Thánh.
GẠN ĐỤC TẦM TRONG: Chọn
lọc để lừa cặn đục ra, còn lại chất nước trong. Ý chỉ người muốn chọn chúa hiền
để theo hay chọn Đạo chánh để thờ.
THỦ CỰU GIA PHONG: Gìn
giữ các phong tục tốt đẹp xưa cũ của nước nhà.
GIỐNG XƯA: Giống
cũ. Gốc đạo cũ của nước nhà, hoặc các chân tâm sẵn có của mình từ trước.
PHƯỚC THỪA: Phước
dư. Ý chỉ chư vị Phật Tiên lúc nào cũng phước đức đầy đủ có thể thừa sức để ban
ân huệ cho chúng sanh.
CHÁNH VĂN:
11.-“Chúng lấy thuyết vô thần
bài bác,
Quyết một ngày thông đạt địa
thiên.
Chúng-sanh nghe thửa lời truyền,
14.- Cùng nhau thảo thuận danh
hiền mới thơm.
Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ,
Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển
vang.
Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn,
18.-Tử-Kỳ trổi giọng khải hoàn
bốn phương”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 11 đến
câu 18)
Giữa thời mạt pháp có thuyết
vô thần ra đời bài bác đối lập với các tôn giáo (hữu thần). Họ không tin có Trời
Phật Thần Thánh hay quả báo luân hồi, chê bai biếm nhẻ các đạo giáo; chủ trương
thông đạt khoa học và những gì thực tại trước mắt mà thôi.
Đức Thầy khuyên mọi người nên
đối xử với nhau cho được ôn hòa thảo hiếu hầu để tiếng đời sau ca ngợi. Quyết
tu sẽ có ngày kết quả, như hoa sen vượt khỏi bùn lầy, tất mình và ông bà cha mẹ
hiển vinh. Trong tín đồ hiểu được và thi hành đúng theo lời Thầy dạy, cũng như
Tử Kỳ nghe được tiếng đờn của Bá Nha tức nhiên sẽ có ngày hòa hợp, hát khúc khải
hoàn.
CHÚ THÍCH:
VÔ THẦN: Một
chủ thuyết không tin có thần quyền, không có luân hồi quả báo. Do Mã Khắc Tư
(thỉ Tổ của Cộng Sản đưa ra) ở Âu Châu chủ xướng để đối lập với các tôn giáo nhứt
là Thiên Chúa Giáo. Trong Chánh Tinh Tấn, Đức Thầy có nói: “Phái vô thần luận
thường cho rằng: Thân xác tức là con người, thân còn tức là người còn, thân mất
người mất; không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không có quả báo luân hồi; cũng chẳng
có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu
mạnh được yếu thua. Thế nên biết bao nhiêu mánh khóe gian hùng, bao nhiêu ngón
điêu ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược ngang đều được đem ra dùng cả thảy”.
BÀI BÁC: Chê
bai, bác bẻ, bài xích.
ĐỊA TIÊN: Các
tà thuyết dị đoan, đối ngược với Thiên Tiên chánh giáo hay lòe đời gạt chúng.
“Địa Tiên tài phép đa đoan,
Phi đao bửu kiếm mê mang mắt
trần”. (SG/Q.III)
NGHE THỬA: Hãy vâng
lịnh như vậy, rán nghe lịnh truyền dạy như vậy để thực hành theo.
BÁ NHA: Bá
Nha tộc danh là Du Thụy, làm quan Thượng Đại Phu nước Tống thời chiến quốc (TH).
Một hôm ông đi sứ nước Sở về, gặp đêm trăng thanh gió mát cảnh vật nên thơ ông
cho dừng thuyền ở mé sông Hàm Dương rồi lấy đờn ra khảy. Tiếng đờn du dương thảnh
thót, bỗng nhiên đờn bị đứt đây, ông kinh ngạc bèn sai tiểu đồng lên bờ tìm xem
có ai nghe trộm không thì có tiếng người đáp lại:
- Xin đại nhân chớ ngại, tôi
là một tiều phu đi đốn củi về ngang, nghe tiếng đờn của đại nhân hay quá nên dừng
lại nghe, chớ không phải là kẻ bất lương.
Bá Nha nửa tin nửa ngờ, liền mời
Tử Kỳ xuống thuyền. Ông sửa dây đờn, khảy lên một bản rồi hỏi Tử Kỳ: Ông bạn
nói biết nghe âm nhạc, vậy tôi đàn bản vừa rồi là bản gì?. Tử Kỳ đáp:
- Đó là khúc nhạc Đức Khổng Tử
khóc thầy Nhan Hồi tài cao mà đoản mệnh.
Bá Nha khen thầm, liền sửa dây
tưởng mình trên non cao khảy lên…Tử Kỳ tán thán:
- “Nga nga hồ chí tại cao sơn”
(Thật chí đại nhơn tuyệt vời trên núi cao).
Bá Nha thả hồn theo dòng nước
đàn một bản nữa…Tử Kỳ cũng ca ngợi:
- “Dương dương hồ chí tại lưu
thủy” (Chí của đại nhơn cuồn cuộn nơi dòng nước chảy).
Bá Nha hết sức vui mừng nhận Tử
Kỳ là bạn tri âm, biết thưởng thức điệu dao cầm qua ý chí của mình, rồi mới
cùng nhau yến ẩm và kết bạn thâm giao. Sáng lại, trước khi từ giã hai người hẹn
nhau sang năm cũng vào ngày tháng năm nầy sẽ tái ngộ nơi đây.
Một năm trôi qua, đến ngày hẹn,
Bá Nha trở lại bến cũ, trông mãi chẳng thấy Tử Kỳ, bèn lấy đờn ra khảy, tiếng đờn
phát ra tiếng ai oán não nùng. Lòng nghi ngại, Bá Nha đợi sáng ra lên bờ tìm tới
nhà mới hay Tử Kỳ đã chết, ông liền đến bên mộ Tử Kỳ bày nghi án cúng tế rồi lấy
đàn ra khảy bản “Thiên thu trường hận”, bản dịch của người sau như vầy:
“Năm qua nhớ một chiều thu,
Bên sông trong chiếc cô chu gặp
người.
Năm nay trở lại thôi rồi,
Tri âm đâu vắng trăng trôi lạnh
lùng!
Núi hoang một nắm mồ phong,
Trăm năm đeo vết thương lòng từ
đây.
Lòng đau đày đoạn tháng ngày,
Giọt sương hồ cạn lại đầy tâm
tư.
Sầu dâng lớp lớp trầm phù,
Đến vui đi những mịt mù khổ
đau.
Tử Kỳ em hỡi nơi nao,
Mấy vàng so được cao sâu nghĩa
nầy.
Cung đàn ta khảy hôm nay,
Tơ đàn đã dứt từ đây phím
lòng.
Đàn ơi năm sợi tơ đồng,
Thiên thu xin gởi theo cùng cố
nhân!”
Đờn xong Bá Nha đập chiếc dao
cầm bể nát, buồn bã trở về ngâm lên bốn câu thơ (chép theo bản nôm):
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đờn vắng Tử Kỳ, đờn với ai?
Gió xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm ôi khó thay!”
Đức Tôn Sư PGHH dùng điển ngữ
Bá Nha Tử Kỳ để nói lên ngày chúa tôi hòa hiệp, ca khúc khải hoàn.
CHÁNH VĂN:
19.-“Lòng chạnh cảm quê-hương
nghèo-ngặt,
Các nước ngoài bán mắc hàng
lên.
Ơn cha nghĩa mẹ phải đền,
22.- Một ngày hiệp mặt lập nền
từ-bi.
Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ,
Thì hết câu ái-ố gièm-pha.
Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
26.- Lưu-ly hổ-phách mấy tòa
đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung
chánh-trực,
28.-Quân cùng Thần náo-nức
vui-tươi.
Liên-hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương-đống chào người
chơn tu.
Thế-gian thoát chốn ngục-tù,
32.-Thần Tiên hiệp mặt thì cù
hóa long”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 19 đến
câu 32)
Lòng Đức Huỳnh Giáo Chủ cám chạnh
nỗi nghèo khổ của quê hương xứ sở. Hàng hóa ngoại bang bán ngày càng đắt giá.
Nhưng cái ơn sanh thành và tình nghĩa thầy trò, Ngài hứa một ngày kia sẽ họp mặt.
Và chừng đó nền đại đạo PGHH sẽ chấn hưng rạng rỡ, chan hòa trong đại chúng. Đức
Giáo Chủ tỏ lòng mơ ước, đây cũng là lời tiên tri, sẽ có một ngày trở lại cõi đời
Thánh Đức như trước kia. Đó là định luật xoay vòng chọn lọc của hóa công.
Ngày ấy chẳng còn kẻ chê bai
ganh ghét người Đạo nữa, bởi cá nhân công phu của số người tu hành đã tạo nên một
miền Nam nước Việt rạng rỡ khắp năm châu. Từ đất cát đến lầu đài, đường xá toàn
bằng bảy báu. Nhưng có điều đặc biệt là các sự vật ấy đều dành cho người biết
tu hành ngay chánh, hiếu thuận, từ hòa. Còn điểm báu quí nữa là nơi ao sen báu
của Phật đều nở để chào rước người chơn tu về cảnh ấy. Đó là kết quả của công
phu hành đạo: “Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc”.
CHÚ THÍCH:
TỪ BI: (Xem
STTĐ, trang 406,…..)
HỒI QUY: Trở về.
THƯỢNG CỔ: Đời
xưa, thời nguyên thỉ trước hết, thời con người hiền lành tốt đẹp, chẳng có ái ố
gièm pha, thương ghét chê bai.
PHƯƠNG NAM: Miền
Nam nước Việt Nam.
LƯU LY HỔ PHÁCH: Hai vật
quí báu trong bảy báu ở cõi Cực Lạc: vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xích
châu, mã não.
LIÊN HOA: Hoa
sen. Ao thất bảo ở cõi Cực lạc, khi nào có một người ở thế gian phát tâm niệm
Phật làm lành một cách chí thành chí thật thì bên ao thất bảo ở cõi Cực lạc nở
ra một hoa sen, chờ khi người ấy vãng sanh thì nở ra một cái như nụ cười để rước
người ấy về đó.
Người chơn tu bấy giờ sẽ thoát
khỏi ngục tù nơi cõi Ta bà, thì Phật Tiên Thần Thánh đồng hiệp mặt như cù hóa
long, có gì vui đẹp cho bằng.
CHÁNH VĂN:
33.-“Mắt nhìn thấy thần thông
biến hóa,
Đức Di-Đà hiện chóa hào quang.
Việt-Nam là giống Hồng-Bàng,
36.- Không còn hung-bạo
lăng-loàn như nay.
Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn,
Dân hai lòng hết bỡn
Khùng-Điên.
Thiên cơ biến ảo diệu huyền,
40.- Hiệp chung tam cõi dưới
miền trần ai”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 33 đến
câu 40)
Đại lược tám câu giảng trên, Đức
Thầy cho biết, ngày chung cuộc, Đức A Di Đà sẽ rọi hào quang rước người hiền
lành về dự hội. Bấy giờ người Việt Nam chẳng còn hung bạo lăng loàn như ngày
nay nữa.
Trái lại, lúc đó những kẻ hung
hăng dối trá không còn bỡn cợt chế nhạo kẻ Khùng Điên, mà chỉ còn lại con người
hiền lương đức hạnh, hiệp chung trong tam cõi đều hòa mặt trong cảnh vui tươi
an lạc.
CHÚ THÍCH:
THẦN THÔNG: Nói
cho đủ là 6 phép thần thông. Khi nhà tu diệt được lục căn không còn ô nhiễm lục
trần sẽ đắc sáu phép thần thông: “Nhân căn trần thanh tịnh nhi đắc lục thông thị
hiện dã giả”. Sáu phép thần thông gồm có:
1- Thiên nhãn thông.
2- Thiên nhĩ thông.
3- Thần túc thông.
4- Tha tâm thông.
5- Túc mạng thông.
6- Lậu tận thông.
Đức Thầy có câu:
“Chừng nào đắc được lục thông,
Vớt hồn cha mẹ tổ tông bảy đời”.
(Cho ông Cò Tàu Hảo)
HỒNG BÀNG: Họ của
vua Lạc Long Quân. Vị vua đầu tiên sản sanh ra giống dân Việt Nam. Đức Thầy viết:
“Hồng Lạc giống xưa cũng tuyệt vời”.
RỒNG MÂY: Nghĩa
của chữ Long Vân. Rồng mây chơi giỡn là ý chỉ cho hội Mây Rồng.
TAM CÕI: Ba
cõi. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Đức Thầy bảo:
“Trung ương tam cõi đều hòa mặt,
Ta mới thảnh thơi trở gót
hài”.
CHÁNH VĂN:
41.-“Bút nghiên hạ viết bài an
lạc,
Dẫu cho người dốt nát cũng
nghe.
Kìa kìa con cuốc gọi hè,
Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp,
khoai.
45.-Thi tả cảnh Bồng-Lai tại
thế,
Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi.
Muôn năm Trời định khắc kỳ,
48.- Ngặt ông thất thủ Hạ-bì
khó toan”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 41 đến
câu 48)
Đức Giáo Chủ mượn bút mực sáng
tác bài giảng nầy, nếu nhân giả nào nương đó mà tu hành tất được an lành vui vẻ.
Dầu cho người ít học kém trí cũng có thể xem coi được, vì đây là Ngài viết lời
chân thật dễ nghe dễ hiểu.
Đức Thầy còn cho biết nay đã
đúng thời kỳ Phật Tiên tạo cảnh Bồng Lai tại thế. Vậy mọi người hãy rán tỉnh ngộ
tu hành cho kịp kỳ đúng lúc. Cũng như nhà nông đã đến mùa tiết phải lo chuẩn bị
các loại giống gieo trồng kẻo bị trễ bê, ắt mùa màng thất bác.Người tu học nếu
giải đãi trễ kỳ thi thì nguy hỏng, vì cả vạn năm mới có một thời kỳ may mắn như
thế. Sự bê trễ thất bại cũng giống như Quan Công Hầu bị thất thủ thành Hạ Bỉ
thuở nọ.
CHÚ THÍCH:
BỒNG LAI TẠI THẾ: Cảnh
Tiên tại thế gian. Trời Phật lập đời Thượng Nguơn thánh đức tới đây, giống y
như cảnh Bồng Lai (Tiên) vậy.
CON CUỐC GỌI HÈ: Chim
cuốc cũng gọi chim quốc. Chim cuốc hay kêu vào mùa hè, ý báo hiệu cho nhà nông
hay để chuẩn bị xuống giống cho kịp mùa tiết.
ĐẬU MÈ BẮP KHOAI: Nhà
nông từ trước tới giờ, ngoài lúa nếp ra còn làm thêm các thứ hoa màu như: đậu,
mè, bắp, khoai, mía, mì, sắn…Cũng như nhà tu cần làm hết các việc từ thiện.
MUÔN NĂM: Nghĩa
của chữ “Vạn niên”. Ý nói thời gian lâu lắm. Đức Thầy thường viết:
“Muôn năm mới có một thời,
Đến kỳ hiệp hội Phật Trời định
phân”. (Bài Cảm Tác)
CHÁNH VĂN:
49.-“Ta điên thuở Tam-Hoàng
Thượng-cổ,
Khùng thế thời khùng lộ ngoài
da.
Ghét dòng con nịnh độc xà,
52.-Khinh-khi trung nghĩa hải
hà lòng nhơn”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 49 đến
câu 52)
Bốn câu giảng trên ý nói: Đức
Thầy ra đời Thượng cổ tới giờ, vì thời thế mà Ngài giả dạng Điên Khùng ở bên
ngoài, chớ bên trong là chẳng phải thật Khùng.
Còn số người gian tà nịnh tặc
(khẩu Phật tâm xà) thì không ai thích vì hễ thấy ai có lòng trung nghĩa nhơn đức
hơn họ thì họ tìm cách khinh khi nhạo báng.
CHÚ THÍCH:
TAM HOÀNG THƯỢNG CỔ: Theo
sử Trung Hoa chép: Vào thời Thượng cổ (xa xưa) có ba ông vua: Thiên Hoàng, Địa
Hoàng, Nhơn Hoàng, khoảng nầy độ khoảng ba ngàn năm. Nói đến ba vị vua đó tức
nói đến thời tạo thiên lập địa, bắt đầu có loài người.
HẢI HÀ LÒNG NHƠN: Lòng
nhơn ái hay thương người mến vật rộng lớn như sông biển.
CHÁNH VĂN:
53.-“Đường gai gốc thiên sơn vạn
hải,
Dẹp cho rồi tướng bái đàn
đăng.
Tử-Nha như thể cát-đằng,
56.- Tùng quân dựa bóng vui bằng
hưng Châu.
Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu,
Lư-bồng hội hiệp đồng chầu
Thánh-vương.
Trụ kia bạo-ác phải nhường,
60.-Võ-vương hữu đức đường đường
trị dân”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 53 đến
câu 60)
Phàm ở trong đời ai muốn đi
đàng xa hay muốn làm việc lớn không phải dễ dàng là được thành công, mà phải trải
qua nhiều khó khăn hay muôn sông ngàn núi mới kết quả. Cũng như Khương Thượng Tử
Nha trước khi được Võ Vương rước về đăng đàn bái tướng, ông phải nhiều gian nan
vất vả. Phải:
“Mười năm nghèo túng áo còn
bâu,
Phải gượng mua vui chớ chác sầu”.
Và phải:
“Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,
Chờ xe vương giả rước về hầu”.
Lại nữa, Tử Nha ví như dây cát
đằng. Võ Vương ví như bóng tùng, khi nào hai người gặp nhau thì Trụ Vương mới hết
thời và “Võ Vương hữu đức đường đường trị dân”.
CHÚ THÍCH:
THIÊN SƠN VẠN HẢI: Ngàn
núi muôn sông. Ý chỉ đường đi hay việc làm nhiều khó khăn trở ngại.
TƯỚNG BÁI ĐÀN ĐĂNG: Cũng
gọi đăng đàn bái tướng. Có nghĩa một ông vua chọn một người có tài đức đáng làm
tướng soái cầm quân dẹp giặc. Đích thân nhà vua rước vị đó về lập đài bái tướng
và giao trách nhiệm như: Hán Bái Công phong Hàn Tín. Võ Vương bái Khương Thượng.
Ở đây Đức Thầy chỉ ngay Võ Vương và Tử Nha. Như Ngài đã viết:
“Tạo Lư Bồng ngõ hội quần
Tiên.
Khương Tử Nha sông Vị còn phiền,
Câu không ngạnh chờ non phụng
gáy”.
LƯ BỒNG: Quan
niệm hồi xưa các tướng soái cất cái đài lầu cao ráo sạch sẽ để rước các Thần
Tiên trợ giúp dẹp giặc phò trì Thánh chúa.
CHÁNH VĂN:
61.-“Thì rõ việc Phong-Thần trở
lại,
Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh
trương.
Con lành mau lại Phật đường,
64.- Cùng Thầy cọng hưởng một
vườn từ-bi”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 61 đến
câu 64)
Cuộc diện của thế giới hiện
nay sẽ xoay chuyển trở lại như thời Phong Thần thuở trước. Những người hiền
lương mới được sống sót. Còn kẻ thiếu đức dù tài trí đến đâu cũng khó tồn tại.
Như Tô Đông Pha xưa kia, tuy đủ tài văn học, trí lực hơn người, gia đình tới ba
người học thức đều đến địa vị “Học sĩ”, nhưng cũng phải lao đao lận đận. Song
nhờ thời gian sau ông biết quày đầu hướng thiện, nên được sư Phật Ấn hộ trì tiến
lên đường Phật sự.
CHÚ THÍCH:
PHONG THẦN: Lễ tấn
phong những người chết được làm Thần Thánh. Theo phong tục người Tàu và nước
Nam ta, hễ người biết trung quân ái quốc, sau khi chết được Phong Thần, như thời
hai Bà Trưng có bà Lê Chân và Bát Nàn. Nam thì có thời Thục An Dương Vương có
Ngài Lỗ Trung và Lỗ Quốc. Thời cận đại có Ngài Nguyễn Hữu Cảnh được phong là
Thượng Đẳng Công Thần. Ngài Nguyễn Trung Trực được vua Tự Đức truy phong là Thượng
Đẳng Đại Thần. Đức Thầy hiện nay đã xác định:
“Sanh vi tướng, tử vi thần,
Câu châm ngôn ấy truyền lần đến
nay”.
Và:
“Dầu không siêu cũng đặng về
Thần.
Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Chữ Phong Thần Đức Thầy dùng
trong bài giảng nầy là nói cuộc Phong Thần của Khương Thượng Tử Nha và Châu Võ
Vương (Trung Hoa). Đời mạt Thương các Thần Tiên hay xuống núi phá khuấy dân chúng
nên Tam Giáo mở hội chọn lọc những Tiên gia kém đức được làm Thần Thánh. Còn những
ai đầy đủ đức hạnh cho thành Tiên Phật.
Khương Tử Nha được lịnh treo bảng
Phong Thần, ai kém phước chết linh hồn vào đó. Đến ngày kết cuộc ai phước đức đầy
đủ thì được tiếp dẫn vâng lịnh Đức Phật Tổ tiếp độ về cõi Phật; ai kém đức vào
Bảng Phong Thần. Tử Nha cắt đặt trấn giữ mỗi nơi. Ai còn sống có công trận và
trung quân ái quốc thì được Châu Võ Vương chia đất, phong Vương, chia ra tới
800 chư hầu.
Cuộc Phong Thần nầy Đức Thầy
thường nhắc đến:
“Nên thuở xưa Trời sắp cuộc
Phong Thần,
Diệt kẻ quấy lọc lừa dân lương
thiện”.
(Bài Không Buồn Ngủ)
THUYỀN ĐÔNG PHA: Ông
chính là Tô Thức, tự là Tử Chiêm. Người gốc ở Mai Sơn nay thuộc Tứ Xuyên (Trung
Hoa). Ông cùng với cha, anh được ca tụng là ba văn gia đời Tống, người ta thường
gọi là Tam Tô. Ông đỗ Tấn Sĩ năm 20 tuổi (1056). Nhân cuộc phản đối tân pháp của
Vương An Thạch nên bị biếm ra Hàng Châu (nay là Hàng Giang) thuộc tỉnh Hồ Bắc.
Ông cất nhà bên sườn núi, từ đó ông tìm đạo tu hành nên có hiệu là Đông Pha cư
sĩ. Năm 1086, vua Tiết Tông triệu ông về kinh phong là Hàn Lâm Học Sĩ, rồi lên
Binh Bộ Thượng Thư (1089). Vì không đồng ý với kẻ quyền thần nên bị giáng làm
Tri châu huyện Hàng Châu (nay thuộc tỉnh Chiết Giang).
Ông là một nhà văn có lối viết
mạnh mẽ, súc tích, trôi chảy và bình dị nhất, lại nổi tiếng là viết chữ đẹp. Tư
tưởng không gò bó. Ông nghiên cứu thông cả Tam giáo. Sau kết bạn với sư Phật Ấn
và lo tu hành kết quả (cuộc đời ông xảy ra nhiều chuyện lý thú, đây xin miễn
chép lại).
Nhắc đến chuyện Tô Đông Pha, Đức
Thầy muốn nói đến tài văn chương lỗi lạc, bất phục kẻ cường quyền và sau trở
thành một cư sĩ dung thông cả Tam giáo, chẳng màng đến vinh hoa phú quí.
PHẬT ĐƯỜNG: Đạo
Phật hay nhà Phật.
CHÁNH VĂN:
65.-“Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,
Phải đợi thời vua Việt (1) hồi
qui.
Xử phân những đứa vô nghì,
68.-Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc
son.
Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo,
Đừng cho loài cầy cáo
lung-lăng.
Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng,
72.- May nhờ Đại-Thánh phi đằng
cứu nguy”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 65 tới
câu 72)
Hiện giờ trong đạo đang gặp
hoàn cảnh trái ngang, tây tà thống trị, kẻ vô đạo lấn áp. Đức Giáo Chủ khuyên
môn đồ không nên sân si nóng giận, chống kình vô ích mà nên ẩn nhẫn đợi thời, tất
sẽ có ngày đất nước nắm lại chủ quyền, người hiền tự do hành đạo. Bấy giờ kẻ ỷ
quyền thiếu đạo sẽ bị trừng trị đích đáng, tất nhiên người hiền đức không còn bị
chê bai biếm nhẻ nữa.
_______________________________
(1) Có bảng chép là vua Kiệt hồi
qui.
Trên đường tu chúng ta nên gìn
giữ Đạo đời trọn vẹn cả hai mặt thì không còn ai quậy phá được. Cũng như xưa
kia Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh được an toàn vì có Tôn Ngộ Không bảo trì.
CHÚ THÍCH:
SÂN SI: Nghĩa
của chữ sân nộ, tức là tánh nóng giận oán thù.
VUA VIỆT HOẶC VUA KIỆT: Có 2
bản chép khác nhau. Chúng tôi chưa dám quyết là vua Việt hay vua Kiệt nên giải
2 ý:
1/. Nếu là vua Việt thì nên hiểu
nước ta bị Pháp lấy mất. Khi nào vua Việt Nam phục hồi được đất nước thì những
kẻ không có đạo nghĩa sẽ bị trừng trị.
2/. Nếu hiểu theo chữ vua Kiệt
và Trụ Vương đàn áp cai trị nước ta (?) khi nào họ trở về nước họ thì kẻ thiếu
đạo nghĩa sẽ bị trị tội.
VÔ NGHÌ: Không
có đạo nghĩa.
VÍT TỲ: Hột
ngọc bị vít tỳ thì xấu, giảm giá trị. Ý chỉ nền Đạo bị người ta bêu xấu, chê
bai. Cho đến khi nào nền Đạo không còn ai biếm nhẻ nữa, như hột ngọc hết tỳ vít
lem ố.
YÊU TINH: Yêu
ma tà quỉ hay phá khuấy người tu.
ĐƯỜNG TĂNG: Tức
Tam Tạng Pháp Sư vâng lịnh vua Đường đi Tây phương thỉnh kinh, dọc đường hay bị
yêu tinh đón bắt.
PHI ĐẰNG: Đằng
vân đi trên mây.
CỨU NGUY: Bảo vệ
trong lúc bị nguy hại.
CHÁNH VĂN:
73.-“Lôi-Âm tự đường đi chưa đến,
Nên giữa chừng kẻ mến người
khinh.
Thôi thôi ta để mặc tình,
76.-Dầu ai chê nhạo phận mình
mình toan”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 73 đến
câu 76)
Đoạn kết bài “Xuân Hạ Tác Cuồng
Thơ”, Đức Thầy cho biết Ngài có trách nhiệm đưa chúng sanh đến cảnh Phật (Lôi
Âm Tự). Giờ đây là lúc còn đang đi nửa chừng nên phải còn kẻ yêu kính, người lại
khinh chê gièm siểm. Song lúc nào Ngài cũng an lòng, dù ai có ngạo khinh cũng mặc,
miễn nhiệm vụ của Ngài được tròn vẹn.
Bài 9.- TỪ GIÃ BỔN ĐẠO KHẮP NƠI (SẤM GIẢNG THI VĂN TB 2004, tr. 332 – 336)
XUẤT XỨ:
Khoảng tháng ba năm Canh Thìn
(1940), Đức Ông, Đức Bà (song thân của Đức Thầy) được tin nhà cầm quyền Pháp sắp
lưu đày Đức Huỳnh Giáo Chủ đi nơi khác nên rất lo lắng. Đức Thầy thấy vậy liền
trấn tỉnh ông bà và tín đồ:
- Họ chỉ không cho tôi truyền
Đạo trong tỉnh nhà thôi, chớ có sao đâu. Nếu họ quyết định như vậy thì tôi có dịp
phổ truyền giáo lý rộng ra.
Quả đúng như lời tiên đoán của
Đức Huỳnh Giáo Chủ, vào ngày mùng một, tháng tư, năm Canh Thìn (1940) trước khi
bị lưu đày 12 hôm, Ngài sáng tác bài “TỪ GIÃ BỔN ĐẠO KHẮP NƠI”.
VĂN THỂ:
Đây là một bài vận văn, thể lục
bát, loại khuyến tu, dài 158 câu. Khởi đầu bằng 2 câu:
“Canh Thìn năm thiệt là rồng,
Từ ngày mượn xác trần hồng đáo
lai”.
Và chấm dứt với 2 câu:
“Rưng rưng nước mắt hai hàng,
Lánh nơi cõi tục Phật đàng lui
chơn”.
NỘI DUNG:
Đại lược Ngài nói lên những lời
từ giã và nhiều ý tứ khuyên dặn môn đồ:
“Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai người tâm đạo đừng toan phụ
Thầy.
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,
Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại
xa”.
Ngài còn nói rõ: Tuy Ngài bị
người Pháp lưu đày, xác thân không có ở nhà, nhưng pháp thân của Ngài luôn bao
trùm cả vạn vật: “Ta phần hồn dạo khắp thế gian”. Nếu tín đồ nào biết thành tâm
tưởng nhớ đến Ngài thì giữa tâm hồn chúng ta và Ngài sẽ giao cảm nhau trong
nháy mắt:
“Tỉnh say trong giấc mộng hoa,
Mơ màng như tưởng có Ta bên
mình.
Tuy là hữu ảnh vô hình,
Chớ dân lòng tưởng sân trình
đáo lai”.
Đức Thầy còn báo tin những viễn
cảnh chông gai sắp đến và ân cần dặn dò môn đệ rán nhớ trì hành đúng y những lời
dặn bảo của Ngài thì sau này mới được gặp lại Đức Thầy:
“Giảng kinh đọc tụng chiều
mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp
Ta”.
TIÊU ĐỀ:
Bài giảng nói trên Đức Thầy
không có đề tựa. Nhưng sau này Ban Sưu Tập căn cứ theo ý nghĩa của bài mà tạm đặt
cho cái tiêu đề là: “TỪ GIÃ BỔN ĐẠO KHẮP NƠI”.
CHÁNH VĂN:
1.-“Canh-Thìn năm thiệt là rồng,
Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo
lai.
Tháng năm Kỷ-Mão đến nay,
4.-Khắp trong bá-tánh gặp bài
sấm-kinh.
Lời văn tao-nhã hữu tình,
Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình
sai ta.
Xuống trần Lão dụng khuyến-ca,
8.-Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít
bài”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 8)
Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắc lại từ
khi Ngài lâm phàm 18/5 năm Kỷ Mão, đến ngày mùng một thánh tư năm Canh Thìn là
đủ 11 tháng. Khắp trong bá tánh phần đông tiếp nhận được Sấm Kinh của Ngài để xem
coi học hỏi. Bởi Ngài có sắc lịnh của Thiên Đình mới đem toàn là lời thanh bai
đạo đức khuyên lơn và kể mọi sự trạng sắp xảy ra như thế nào để kêu gọi những
ai hữu tình với Ngài thì hãy sớm hồi tâm thức tỉnh.
CHÚ THÍCH:
CANH THÌN: Năm
1940 (theo dương lịch)
TRẦN HỒNG: Cũng
gọi là hồng trần. Có hai bản chép khác nhau. Nếu chữ hồng nằm trước thì không
ăn vận với chữ rồng. Trái lại chữ trần đứng trước thì đảo ngữ nhưng nó hợp âm
luật lục bát. Có lẽ ở đây Đức Thầy viết lối đảo ngữ.
NĂM KỶ MÃO: Là
năm 1939 theo dương lịch.
SẤM KINH: Quyển
giảng có tiên đoán thời cơ nên gọi là Sấm. Kinh là quyển giảng có giải bày về
giáo lý.
TAO NHÃ: Lời
văn rất thanh bai nhã nhặn êm dịu.
HỮU TÌNH: Theo
Hán học thì chỉ cho chúng sinh có tri giác, có mạng sống. Đây chỉ loài người và
cả bốn loài: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh.
Theo Phật học thì hữu tình xuất
phát từ phạn ngữ “Satra”, phiên âm là tát đỏa. Tàu dịch là chúng sanh hay hữu
tình; tức chỉ những loài có tri giác, có tình thức (?) và mạng sống. Nhưng chữ
hữu tình ở đây chỉ cho những người có duyên lành với Phật pháp. Ý nói tâm của mỗi
chúng sanh đều có hột giống Phật (giác ngộ). Nay lại hữu duyên gặp được lời
giáo pháp của Tổ Thầy, nếu ai xem được đây mà tu hành ắt sẽ đắc Đạo. Đức Thầy
thấy chúng sanh hiện nay ít người giác ngộ nên không ngớt lời khuyên nhắc:
“Nên ít người khảo xét kệ
kinh,
Được dắt chúng hữu tình thoát
khổ”.
Khi xưa, lúc Tổ Già Da Đa Xá
truyền phó chánh pháp cho ngài Cưu Ma Đa La. Tổ có kệ rằng:
“Hữu chúng hữu tâm địa,
Nhân duyên đương phát sanh.
Ư duyên tắc tương ngại,
Đương sinh, sinh bất sinh”.
Có nghĩa: Đã có hột giống, có
đất đai (tâm địa), nhưng phải nhờ gặp mọi duyên lành đầy đủ thì hột giống kia mới
phát sanh nảy nở được. Đối với mọi duyên đã không ngăn ngại được thì quyết định
sẽ phát sanh quả vô sanh. Ý nói người tu hành khi được đầy đủ mọi duyên và
không bị cái gì làm chướng ngại thì quyết định đời đời chứng quả Vô Sanh.
THIÊN ĐÌNH: Triều
đình trên cõi Trời.
KHUYẾN CA: Những
bài thi ca có tánh cách khuyên lơn mọi người tỉnh thức tu hành.
CHÁNH VĂN:
9.-“Tạm đây Ta mắc lui hài,
Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui.
Không đành tách gót ra đi,
12.-Nên dùng lời lẽ từ thì bá
gia.
Thiên đường lộ ấy nào xa,
Muốn cho khỏi khổ xem qua lời
truyền.
Dấu xưa noi tích Thánh-hiền,
16.-Thương trần mượn xác bút
liền ra cơ”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 9 đến
câu 16)
Hiện giờ Đức Ngọc Đế triệu Đức
Giáo Chủ về Thiên Đình bàn việc. Ngài vì quá thương xót chúng dân, không nỡ
đành ra đi nên phải dùng lời lẽ từ giã.
Ngài còn nói rõ cảnh Thiên đường
là cảnh an vui hết buồn khổ, từ đây tới đó cũng không xa lắm, chỉ cần nhứt tâm
giác tỉnh quày đầu hướng thiện, là “Phàm thánh cách nhau một ngoái đầu”. Nếu ai
muốn khỏi cảnh đau khổ ở trần gian thì y theo lời dạy của Ngài và noi theo
gương hạnh các bực hiền thánh mà thoát ra là kết quả.
CHÚ THÍCH:
LUI HÀI: Trở
gót, chỉ người có ra đi từ trước giờ trở lại.
BỆ NGỌC: Cái
thềm bằng ngọc ở trước mặt của chư Phật Thánh và đức Ngọc Đế thường ngự.
THIÊN ĐƯỜNG: Đường
lên cõi Trời, cũng gọi là cõi Tiên.
DẤU XƯA: Dấu
tích của người xưa đã đi hoặc những gương hạnh của các bậc hiền thánh đã thi
hành thuở trước.
MƯỢN XÁC BÚT LIỀN RA
CƠ: Đức Thầy dùng từ mượn xác phàm phu ra cơ giảng
là ý muốn đánh lạc hướng của người Pháp hiểu Ngài như một người thượng xác cỡi đồng
(thầy phù thủy). Chớ thật ra Ngài chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế.
CHÁNH VĂN:
17.-“Thấy trong bá tánh ngẩn-ngơ,
Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình.
Gẫm trong hai chữ nhục-vinh,
20.- Xưa nay thiên hạ kệ kinh
ít dùng.
Cúi đầu tâu lại cửu trùng,
Ngọc-Hoàng ban chiếu lão Khùng
giáo-dân.
Gái trai lớn nhỏ ân cần,
24.-Chùi lau vẹn mặt thì gần
Thánh Tiên”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 17 đến
câu 24)
Đức Thầy trông thấy tình cảnh
tớ thầy xa cách ai cũng ngẩn ngơ. Người sống trong cảnh đời sự vinh nhục là lẽ
thường, nó cũng là một định luật không ai tránh khỏi.
Từ xưa đến nay đa số người chạy
theo lợi danh quyền tước, nên ít ai chịu nghe theo lời kinh tiếng kệ. Đức Thầy
tấu trình điều này với Đức Ngọc Đế; Ngài nghe liền ban chiếu cho Đức Thầy có
trách nhiệm giáo khuyên dân chúng.
Ngài kêu gọi gái trai lớn nhỏ
từ đây hãy cần chuyên tu sửa chùi lau cho thân tâm mình được trong sạch, tất
sau này được gần gũi Tiên Phật.
CHÚ THÍCH:
CỬU TRÙNG: Chín
từng. Đây chỉ chỗ ngự của bậc vua chúa hay đức Ngọc Đế. Nhưng chữ cửu trùng ở
đây là chỉ cho đức Ngọc Đế.
LÃO KHÙNG: Chỉ
cho Đức Thầy vì Ngài hay xưng hiệu là Khùng. Thí dụ: “Kệ Dân Của Người Khùng”
hoặc “Khùng vâng lịnh Tây phương Phật Tổ” và “Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi”.
CHÙI LAU VẸN MẶT: Tu sửa
trau dồi cho trong sạch để xứng đáng người tốt đẹp: “Vẹn mày cho đẹp, đẹp Tiên
gia”.
CHÁNH VĂN:
25.-“Tây-phương đua nở hoa
liên,
Chờ người hữu phước thiện
duyên từ-hòa.
Nhắn cùng bổn-đạo gần xa,
28.- Ta về âm cảnh thiết-tha
tâm tràng.
Đời nay hiếm kẻ nghinh-ngang,
Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi.
Lang tâm trắc-nết vô-nghì,
32.- Nhỏ không biết nể kính vì
bề trên”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 25 đến
câu 32)
Đoạn trên ý nói hoa sen ở cõi
Tây phương Cực Lạc lúc nào cũng đua nở để chờ đón những người hiền lương đức hạnh
và có duyên lành cùng Phật pháp rước về an ngự trên đó.
Ngài nhắn nhủ bổn đạo khắp
nơi, sau khi truyền Đạo thời gian Ngài trở về thế giới vô hình, lòng Ngài lúc
nào cũng tha thiết nhớ thương khắp bá tánh đang gặp hồi đau khổ. Ngài cũng nhận
thấy con người đời nay lắm kẻ nghinh ngang hung ác, không có tình nghĩa đạo đức
và nể vì kẻ lớn người nhỏ.
CHÚ THÍCH:
THIỆN DUYÊN: (Xem
STTĐ, trang 435…)
TỪ HÒA: Từ bi
và hòa hảo. Đây là hai đức tánh tốt đẹp mà tín đồ PGHH cần phải có để đối xử từ
thân tâm đến mọi người bên ngoài.
ÂM CẢNH: Cảnh
giới vô hình. Chỉ cho cảnh Phật Tiên an trụ.
THIẾT THA: Cũng
gọi là tha thiết. Ý chỉ sự đậm đà mật thiết lắm.
“Thiết tha thiện tín câu cầu
nguyện,
Vui đẹp dạ Thầy luống ước ao”.
(Bài Mấy Đoạn Tơ Lòng)
TÂM TRÀNG: Tâm là
lòng dạ, tràng là gan ruột. Cũng có nghĩa là Đạo tràng tức chân tâm của mỗi người.
Đây là nói tấm lòng của Đức Thầy thương xót tất cả chúng sanh quá tha thiết não
nùng:
“Thấy thiện tín chan hòa giọt
lụy,
Tâm não nùng chạnh nghĩ xa vời.
Chim trời dựng ổ chiều mơi,
Bầy con chiu chít cả đời nhàn
thân”. (Bài Thu Đã Cuối)
HIẾM KẺ: Nhiều
người, không ít. Cũng giống như chữ thiếu chi kẻ. Đức Thầy có viết:
“Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người đặng cá quên
nơm”.
(Bài Diệu Pháp Quang Minh)
CHẲNG KIÊNG LỜI LẼ PHẬT
ĐÀNG TỪ BI: Chẳng kiêng cử hay kính nể lời chỉ dạy của Phật
Tiên Thần Thánh. Đức Thầy có câu:
“Chẳng kiêng chẳng nể Phật Thần,
Suy mưu làm quấy nghiệp trần
phải mang”.
LANG TÂM: Lang
là một loại thú hình giống như chó sói, nhưng hung hãn hơn. Đức Thầy thường bày
tỏ:
“Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ,
Đất Bắc lòng lang nỗi thậm lời”.
Hoặc là:
“Lang tâm như thú thiếu lông,
Trớ trêu cửa miệng trong lòng
gươm đao”.
TRẮC NẾT: Không
có hạnh nết, làm những điều xấu xa, hư hỏng, bất chánh.
VÔ NGHÌ: Không
có đạo nghĩa.
NHỎ KHÔNG BIẾT NỂ KÍNH
VÌ BỀ TRÊN: Kẻ nhỏ vô lễ, ăn ở đối xử chẳng biết nể nang
tôn ti người lớn.
CHÁNH VĂN:
33.-“Nhỏ to lời lẽ chớ quên,
Rán mà nguyện vái đặng đền ơn
sâu.
Bá gia bá tánh đâu đâu,
36.-Xem lời ta chỉ về cầu tại
gia.
Có đau thì thuốc đó mà,
Dòm trong bản chữ về nhà kiếm
cây.
Nay Thầy chịu lịnh về Tây,
40.-Tạm ngưng đạo-đức ít ngày
Thầy qua”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 33 đến
câu 40)
Đức Thầy dặn dò các môn đồ đừng
quên lời phân trần dạy khuyên của Ngài, sớm hôm hai thời cúng bái phải thường
xuyên đừng để quên lãng, hầu đền đáp công ơn tổ tiên cha mẹ, đất nước đồng bào.
Ngài cũng khuyên nhà nhà rán nghe lời chỉ dạy, nên cầu nguyện với Phật tại gia.
Nếu khi nào có đau ốm nên chép ba toa thuốc nam mà Ngài biên sẵn trên bảng, về
nhà tìm các vị thuốc đó sắc uống thì bịnh chi cũng hết.
Hôm nay Đức Thầy vưng sắc lịnh
của Đức Phật ở Tây Phương đòi về nên Ngài phải nhủ khuyên bổn đạo hãy nhớ lời dặn
bảo ấy, chỉ trong ít ngày thì Ngài sẽ trở lại.
CHÚ THÍCH:
NGUYỆN VÁI: Cầu
nguyện và cúng bái (lễ bái).
ƠN SÂU: Bốn
điều ơn sâu nặng như trời biển, gồm có: Ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam
bảo và ân đồng bào nhân loại.
CẦU TẠI GIA: Cầu
nguyện và lễ bái tại nhà. Ý chỉ người cư sĩ (tại gia). Bởi quan niệm rằng: người
không có hiếu thảo thì chẳng làm được việc gì, nếu có hiếu chẳng những đáp được
Ân tổ tiên cha mẹ mà còn đáp được trọn vẹn cả 4 ân và tạo được vô lượng phước đức
và còn tiến lên đường giải thoát. Vì Kinh Phật đã dạy: 4 ân là đại phước điền.
Đức Giáo Chủ luôn nhắc nhở: “Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”, và Ngài còn
khuyên: “Lục tự Di Đà giữ tứ ân”. Kinh xưa hằng dạy:
“Thương thay đời không rõ,
Hai vị Phật tại nhà.
Ấy là cha mẹ đó,
Như Di Lặc, Thích Ca.
Biết thành tâm hiếu kỉnh,
Khỏi cầu công đức xa”.
CÓ ĐAU THÌ THUỐC ĐÓ MÀ: Lúc
Đức Thầy mới khai sáng nền Đạo (1939) các loại thuốc trị bịnh rất hiếm, nên
Ngài có viết ra ba toa thuốc nam dán trên bảng cây, để mỗi người có bịnh thì tự
động biên chép đem về tìm đủ các vị thuốc ấy rồi sắc uống, bịnh chi cũng hết.
CHÁNH VĂN:
41.-“Dạo trong khắp cõi ta-bà,
Nơi nơi chốn chốn quỉ ma rối
loàn.
Chữ rằng: “Nhơn thiện vi nan”.
44.-Dầu cho tài trí cũng mang
nợ nần.
Có đeo bịnh tật vào thân,
Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ
vô.
Thành lòng nước lã nên hồ,
48.-Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật
ban”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 41 đến
câu 48)
Đức Thầy lâm phàm dạo qua khắp
cõi Ta bà, thấy rằng nơi nào cũng có kẻ quỉ ma gian ác gây rối loàn cho cả nhơn
sanh, chẳng có chỗ nào bình yên. Người xưa từng bảo: Sanh làm con người đã khó
mà làm được người lành lại càng khó hơn.
Bởi con người ta đã có tạo
nghiệp mới đầu thai vào cõi trần. Nghiệp lực ấy dẫn dắt mình càng đi càng lún
vào vô minh tội lỗi. Dù ai có tài trí đến đâu, hay cỡ nào cũng khó mà thoát ly
vòng nghiệp báo. Đã mang thân nghiệp báo thì thân xác phải chịu giầy vò những
cơn bịnh tật.
Đức Thầy vì muốn giác tỉnh quần
sanh nên phải dùng phương tiện cứu họ hết bịnh, đó là giai đoạn trước nhất, rồi
lần lượt đưa họ vào sự hiểu biết giáo lý tu hành.
Ngài bảo: Ai rủi có mang bịnh
vào thì dùng giấy vàng xé nhỏ đem lên bàn Phật, rồi thành tâm khẩn vái chư Phật
và Thánh Thần gia hộ, uống vào sẽ hết bịnh. Quan trọng ở tấm lòng thành khẩn đó
có diệu năng làm cho giấy vàng trở nên thuốc, và nước lã trở thành hồ. Ngài còn
dặn bảo lúc cầu nguyện lòng phải chí thành chí đức, các món đó trở thành nước
cam lồ của Phật.
CHÁNH VĂN:
49.-“Cám thương bá-tánh tai
nàn,
Gặp cơn dông tố nào an lòng nầy.
Đờn ta vốn thiệt không dây,
52.-Vô duyên khó biết lời Thầy
nói xa.
Từ trên tới dưới thuận hòa,
Hay hơn châu báu ngọc-ngà giàu
sang.
Thầy về tâu lại Phật-đàng,
56.-Cúi xin nhỏ phước xóm làng
bình yên”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 49 đến
câu 56)
Đức Giáo Chủ thương xót bá
tánh hiện lâm vào cảnh tai nàn thống khổ như bị cảnh dông tố bão bùng. Lời
khuyên nhủ của Ngài ví như tiếng đờn, nhưng tiếng đờn này lại không dây không
phiếm. Đó là chánh pháp vô vi, nay Ngài phương tiện đem ra thuyết giáo cho
chúng sanh hiểu. Nếu người thiếu duyên lành với Ngài thì ắt khó nghe hiểu được
lời pháp giáo sâu mầu.
Ngài còn dạy các môn đồ sự ăn ở
trong gia đình nên đối xử trên thuận dưới hòa thì dù cho ngọc ngà châu báu cũng
không sánh kịp. Hôm nay, Ngài cầu xin với Đức Phật, Đức Thầy ban phước lành cho
khắp bàng nhân bá tánh đều được vui vẻ an lành.
CHÚ THÍCH:
ĐỜN TA VỐN THIỆT KHÔNG
DÂY: Câu nầy nói lời giáo pháp của Đức Thầy ví như
cây đờn không dây không phiếm, nhưng khảy lên vẫn kêu. Nên tiếng đờn ở đây chỉ
cho chánh pháp vô vi “không mà có”, nghe nó rất sâu mầu khó tả, chỉ những người
có duyên lành với Ngài mới hiểu đặng.
VÔ DUYÊN: Không
có duyên lành với Đức Thầy.
PHẬT ĐÀNG: Đường
Phật. Cũng có nghĩa: Nhà Phật, Đạo Phật. Đây chỉ cho Đức Phật.
THUẬN HÒA: Hòa
hài thuận thảo với nhau.
CHÁNH VĂN:
57.-“Giống nòi thiệt cốt Rồng
Tiên,
Mà nay lạc mất gương hiền nơi
đâu.
Muốn xem bốn chữ Long-Châu,
60.- Bền gan sắt đá sồng-nâu
tu trì.
Tu hành mà mãi nan nghi,
Sợ ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân.
Giã từ khắp hết dương-trần,
64.-Vân du chốn cũ lưới Thần bủa
ra”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 57 đến
câu 64)
Nguồn gốc của dân tộc Việt Nam
khi xưa là giống Tiên Rồng sanh ra, con người rất hiền từ ngay thật mà nay để lạc
mất tâm hồn tốt đẹp đó. Từ ngày Đức Phật Thầy Tây An ra đời khai sáng giáo hệ Bửu
Sơn Kỳ Hương, đến nay nối tiếp là Đức Giáo chủ PGHH, các Ngài vun trồng hột giống
tốt đẹp đó trở lại. Nếu người nào muốn chứng kiến sự thành công rực rỡ của bốn
chữ quí báu đó, hãy rán bền gan sắt đá vun trồng thì ắt sau nầy sẽ thấy tạn mặt.
Lời báo tin của Đức Giáo Chủ
là sự thật, thế mà có nhiều người nghi hoặc cho rằng bị Ngài gạt gẫm, thật là
điều rất kỳ lạ!
Viết đến đây Ngài có lời từ
giã để trở lại nơi hành đạo của Ngài từ trước và dùng lưới thần trị người hung
ác mới yên được.
CHÚ THÍCH:
CỐT RỒNG TIÊN: Dân tộc
Việt Nam gốc từ giống Rồng của vua Lạc Long, và giống Tiên của bà Âu Cơ mà sanh
ra cho nên gọi là cốt Rồng Tiên.
BỐN CHỮ LONG CHÂU: Bốn
chữ quí báu tức Bửu Sơn Kỳ Hương. Bửu là quí báu, chỉ cho miền Thất Sơn sau nầy.
Kỳ Hương là mùi thơm lạ sẽ bay khắp mười phương, chuyển thời kỳ Long Hoa đại hội.
Giảng xưa ông Ba Thới có viết:
“Tiếng Kỳ Hương thơm nực biên
thùy,
Bửu Sơn mai quế qui kỳ thất
niên.
Long Hoa hội đến đó mới yên,
Đầu Sơn nhứt sĩ trừ phiên anh
hùng”.
Đức Giáo Chủ PGHH cũng từng
cho biết:
“BỬU châu công luyện chốn non
Tần,
SƠN thủy môn giang bảo giác
dân.
KỲ quái chờ nơi thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn
ân”.
NAN NGHI: Cũng
viết là nghi nan. Nghĩa ngờ vực không quyết định rõ rệt, không trọn lòng tin tưởng
trong việc làm, nên gặp nhiều khó khăn trở ngại.
LƯỚI THẦN: Cũng
gọi là lưới Trời do chữ “Thiên la địa võng”. Đây cũng gọi là luật nhân quả. Lưới
trời đã bủa ra rồi tuy thưa nhưng chẳng lọt một mảy lông. Lời xưa đã bảo:
“Thiên võng khôi khôi phân khúc trực,
Thần linh hích hích định khuy
vinh”.
CHÁNH VĂN:
65.-“Non cao nhiều thứ cáo-xà,
Trừ loài độc-địa mới là yên
thân.
Biết sao cho toại lòng dân,
68.-Kẻ ưa đạo-đức người cần
vinh-hoa.
Xót lòng cậy nước ma-ha,
Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm.
Thân Khùng đêm vắng khóc thầm,
72.-Cựa mình cũng nhớ giấc nằm
nào an”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 65 đến
câu 72)
Đức Thầy cho biết: sau nầy
trên núi cao có rất nhiều loài thú dữ như: cọp, beo, rắn, rít có trách nhiệm diệt
trừ loài độc địa hung ác, chừng đó dân chúng mới yên thân. Ngài còn nói rõ ở đời
không ai làm sao cho dân được thỏa mãn, bởi kẻ muốn vầy người muốn khác: kẻ muốn
giàu sang vinh hiển, người ham chức tước bạc vàng, nên lo giành giựt hơn thua,
đua đòi cấu xé, gây đau khổ cho nhau liên tục.
Đức Giáo Chủ còn cho biết ai
muốn bớt đau khổ hãy bước vào con đường Đạo đức, tìm ra chánh pháp nhiệm mầu,
tu rèn cho mình có đủ giới, định, huệ để tâm được bình lặng sáng mầu mới là hết
khổ. Hằng đêm, không lúc nào Ngài quên nghĩ đến sự đau khổ của chúng sanh để
tùy phương cứu giúp.
CHÚ THÍCH:
CÁO XÀ: Hai
loài thú chồn và rắn, hai loại thú hung, lại thường biết tu hành và diệt trừ
các loại thú khác.
TOẠI LÒNG: Vừa
lòng thỏa mãn, không còn bứt rứt khó chịu.
NƯỚC MA HA: (Xem
STTĐ, trang 221…..)
HỚP VÔ BA HỚP: Uống
vào ba lần. Mỗi khi khát nước uống vào một lần chưa đã khát. Nếu uống thêm đủ
ba lần sẽ hết khát. Nghĩa bóng: Là chỉ cho ba pháp: Giới, Định, Huệ. Ai muốn
trí huệ sáng mầu tất phải tu giới, định, huệ sẽ kết quả.
LẶNG TÂM: Lòng
bình lặng trong sáng. Đức Thầy có dạy:
“Nếu ai mà biết chữ tu trì,
Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.
(Q. IV)
CHÁNH VĂN:
73.-“Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai người tâm đạo đừng toan phụ
Thầy.
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,
76.-Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy
lại xa.
Tỉnh say trong giấc mộng hoa,
Mơ-màng cũng tưởng như ta bên
mình.
Tuy là hữu ảnh vô hình,
80.-Chớ dân lòng tưởng sân
trình đáo lai”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 73 đến
câu 80)
Đến đây Đức Thầy ngỏ ý với các
tín đồ, tuy Tớ Thầy phải xa cách, nhưng Ngài khuyên trong bổn đạo hãy giữ tấm
lòng giữa Thầy trò trước sau như một:
“Sống sanh ra phận râu mày,
Một đời một đạo đến ngày chung
thân”.
Nếu tình nghĩa giữa Thầy trò
chẳng được như vậy thì không khác gì bản đờn nửa chừng bị đứt dây. Để tránh trường
hợp bi đát ấy, Đức Thầy khuyên chúng ta dù khi thức hay lúc ngủ, trong giấc mộng
gì cũng vậy, nếu ai thành tâm tưởng nhớ đến Ngài thỉ giữa tâm hồn Ngài với
chúng ta sẽ giao cảm nhau trong nháy mắt.
CHÚ THÍCH:
TÂM ĐẠO: Người
một lòng vì đạo, trước sau chẳng hề thay đổi. Lúc Đức Thầy ở Sài Gòn, một hôm
nhân dịp có người mua hoa về cúng. Đức Thầy liền hỏi: Đố các ông trong các loại
hoa, hoa nào quí hơn hết?
Có người lẹ miệng đứng lên
thưa: Hoa sen là quí hơn hết, bạch Thầy. Người khác liền cãi lại: Hoa huệ mới
quí, Thầy. Đoạn rồi, mỗi người đều bênh vực theo ý kiến của mình đã thích, nào
hoa hải đường, thược dược, mẫu đơn, lài, cúc, sen…
Để mọi người luận cãi một hồi,
Đức Thầy mới nói: Các loại hoa của quý ông vừa đưa ra, hoa nào cũng đẹp cũng
thơm tho, nhưng chẳng có hoa nào là đặc sắc hơn hết cả. Chỉ có hoa vạn thọ là
quí hơn hết.
Mọi người trong bọn đứng lên
nói:
- Phải hoa vạn thọ có cái tên
sống lâu là quí không Thầy? Ngài đáp:
- Chẳng phải do cái tên sống
lâu đâu, mà nó có cái tính đặc biệt là các loài hoa khác khi gần tàn thì hoa
nào cũng buông mình ra khỏi cuống đài, còn riêng về hoa vạn thọ cho đến khi tàn
rụi, nó vẫn ôm sát cuống đài. Nó quí ở chỗ đó. Người ta theo Đạo cũng thế!
Nên Đức Thầy hằng khuyên chúng
ta:
“Sống sanh ra phận râu mày,
Một đời một đạo đến ngày chung
thân”.
PHỤ THẦY: Phụ rảy
Thầy Tổ. Ở đời người ta hay gặp những trường hợp khi tớ Thầy vui vẻ thời vận
hanh thông thì Thầy tớ thủy chung duy nhứt. Ngược lại, khi gặp cảnh nạn tai
nguy khốn thì họ bỏ Thầy ra đi, có khi phản lại Thầy là khác: “Trò phản Thầy tội
ấy đáng không?”
GIẤC MỘNG HOA: Giấc
mộng tốt đẹp. Do điển tích Giang Yên, một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Hoa. Lúc đầu
ông thích làm thơ nhưng thơ của ông viết chưa hay lắm, song ông chẳng nản lòng,
lúc nào cũng tha thiết cầu tiến. Nhân một đêm nọ ông nằm mộng thấy nơi đầu cây
viết của mình trổ một hoa sen tuyệt đẹp. Bắt đầu từ đó về sau ông làm thơ rất
hay, được vang danh là thi sĩ tài hoa, văn chương lỗi lạc.
Qua hai câu giảng trên và điển
ngữ “Giác mộng hoa”, Đức Thầy có ý dạy người tu lúc nào cũng tưởng nhớ đến Đức
Phật, Đức Thầy và nhớ những điều thuần lương chân chánh hầu sớm được trọn lành
trọn sáng để tâm tánh được đồng hòa với chư Phật:
“Tu cầu Phật hóa tánh tình,
Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình
tiêu dao”. (Khuyến thiện, Q.5)
HỮU ẢNH VÔ HÌNH: Có
bóng nhưng không có hình thể. Ý nói người Pháp bắt Đức Thầy đem xác thể ra đi,
nhưng chơn ảnh (bóng) của Thầy vẫn còn và gần tâm hồn của mỗi môn đồ “Ta phần hồn
dạo khắp thế gian”. Bởi đạo tràng tức là chơn tâm, xác thể tuy mất nhưng chơn
tâm không bao giờ mất, nơi nào cũng có, nó bao trùm cả vũ trụ vạn hữu. Cho nên
hễ tâm ta tha thiết nhớ Đức Thầy thì Đức Thầy và chúng ta sẽ gặp nhau như hai
luồng điện luôn hòa hợp.
SÂN TRÌNH: Từ ngữ
Sân Trình thường ghép chung với từ ngữ Cửa Khổng, làm cho thành ngữ “Cửa Khổng
Sân Trình”. Ý chỉ nơi đạo tràng (trường dạy Đạo). Theo Phật học, Đạo tràng còn
chỉ cho cái chơn tâm của mọi người. Vậy chữ “Sân Trình” là do điển tích ông
Trình Tử (sân dạy học của ông Trình Tử).
Ông sanh vào đời Tống (Trung
Hoa), (1033-1107), tên thật là Trình Di, hiệu là Y Xuyên nên cũng gọi là Trình
Y Xuyên. Ông vốn là một nhà đại nho, dạy học trò rất đông. Những giờ ông giảng
sách, học trò ngồi nghe chật ních từ trong trường đến ngoài cửa ngoài sân, nên
gọi là sân Trình.
Ngoài ra ông còn hiệp với Chu
Hội An chú thích rất nhiều kinh truyện để lại cho đời. Về sau các nhà văn
chương thường dùng chữ Sân Trình để chỉ nơi dạy học, dạy Đạo. Nhà thơ Đặng Trần
Phát có viết:
“Thế sự sương mờ đôi mắt lạc,
Sân Trình vắng vẻ khách ra
vào”.
Qua điển tích và hai câu giảng
trên, Đức Thầy có ngụ ý cho biết: Tuy hiện giờ người Pháp bắt thân xác của Ngài
lưu đày không còn ở Tổ Đình Hòa Hảo nữa, nhưng chơn linh (pháp thân) của Ngài
trùm khắp thế gian, nơi nào cũng có “Ta phần hồn dạo khắp thế gian”. Nếu tín đồ
nào thành tâm tưởng nhớ đến Đức Phật, Đức Thầy và giữ lòng luôn thanh tịnh, tốt
lành thì giữa tâm hồn mình và tâm hồn của các Ngài sẽ giao cảm nhau trong tức
khắc (sân trình đáo lai).
ĐÁO LAI: Trở lại.
Ý chỉ thầy trò cách xa bây giờ được trở lại gặp nhau.
CHÁNH VĂN:
81.-“Nghe sơ lời lão cạn bày,
Tìm trong não óc gặp ngày
bình-an.
Kim-lân, xích-phụng lâm nàn,
84.-Cho nên phận lão đâu an
thân già.
Tảo-tần lo liệu năm ba,
Biết sao hiệp mặt lòng già mới
nguôi.
Mặt ngoài gượng-gạo bải-buôi,
88.-Chớ trong tim phổi rối nùi
như tơ.
Tuồng đời như cá trong lờ,
Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt
hom.
Bao nhiêu tâm não góp tom,
92.-Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom
khắp cùng.
Chừng nào tôi được hết Khùng,
Thì là dân-sự còn dùng làm
chi.
Bận lòng cạn tỏ vân-vi,
96.-Bớ dân hai chữ công-trì sớm
khuya”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 81 đến
câu 96)
Đức Huỳnh Giáo Chủ bảo chúng
ta chỉ nghe sơ qua lời Ngài bày tỏ. Mục đích chính lo tìm nơi tim óc, tu sửa bản
thân ắt có ngày được bình an. Hiện giờ vua chúa thánh hiền đều lâm nạn. Dù vậy
nhưng chí độ đời và ngày hiệp mặt Ngài vẫn lo liệu cho tròn vẹn mới thỏa dạ. Hiện
giờ, mặt ngoài tuy gượng gạo, nhưng tâm trí vẫn canh cánh lo toan.
Đức Giáo Chủ PGHH cho biết kiếp
sống của con người ví như một vở tuồng và cũng như cái lờ ai bước vào thì dễ mà
rút ra thì rất khó, vì bị bao nhiêu hom đó bao vây. Ngài dồn hết tâm cơ trí não
để giữ gìn dạy dỗ nhân sinh.
Ngài còn dặn bảo chừng nào bá
tánh nhận Ngài chẳng phải là kẻ Khùng Điên thì bấy giờ người ta mới tìm Ngài để
dùng thì việc quá trễ. Đức Thầy cũng đem hết tâm trí dạy dỗ nhân sinh hãy sớm
lo công phu bái sám, sớm khuya giữ gìn chuyên trì giới luật để sớm kết quả tu
hành.
CHÚ THÍCH:
CÁ TRONG LỜ: Cái lờ
giống như cái lọp nhưng ngắn hơn, cũng dùng để bắt cá. Miệng lớn hom nhỏ. Khi
cá chun vô thì dễ, rút trở ra thì khó. Thọc tay vào bắt lại càng khó hơn vì miệng
hom nhỏ và nhọn và bóp vô nên ai thọc vào bị kẹt, rút ra không được.
KIM LÂN XÍCH PHỤNG: Thời
Đông Châu Liệt Quốc (TH), có gia đình ông Thúc Lương Ngột, vợ là bà Nhan Trưng
Tại, ông bà hạ sanh được 9 người con toàn là gái, chưa có người trai nào để nối
dõi tông đường nên thường lui tới núi Khâu Sơn để cầu tự. Sau đó bà thụ thai, một
hôm có con Kỳ Lân đi ngay vào nhà nhả tờ ngọc thơ: “Thủy tinh chi tử, kế suy
chu vi đế vương”. (Con thủy tinh nối nhà Chu mà làm vua không ngôi).
Bà đản sanh Khổng Tử ngày Canh
Tý, tháng 10, năm Canh Tuất (trước TL 551 năm) đời Châu Linh Vương thứ 21. Ngài
lớn lên thông minh xuất chúng, làm quan đến tướng quốc. Khổng Tử đi chu du khắp
thiên hạ, sau về ẩn cư mở trường dạy học trò, san định sách vở Thánh hiền, xiển
dương Nho giáo. Người đời sau tôn Ngài là Thánh Khổng Tử, mối đạo do Ngài chủ
xướng gọi là Khổng Giáo.
Vào thời Ngũ Đế bên Trung Hoa:
Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, Vua Nghiêu và Vua Thuấn, dân chúng được sống
trong cảnh thái bình an cư lạc nghiệp. Chim Phượng Hoàng bay lượn khắp nơi. Qua
thời Kiệt Trụ, hôn quân vô đạo bỗng nhiên chim Phụng biến mất.
Mãi đến Châu Võ Vương sắp ra đời,
người ta nghe tiếng chim Phụng Hoàng gáy trên núi Kỳ Sơn, báo hiệu thời thanh
bình sắp trở lại. Quả nhiên Võ Vương lên ngôi, lập lên cơ nghiệp nhà Châu kéo
dài đến 800 năm “Xưa mạt Thương, Phụng gáy non Kỳ. Bởi Võ Vương đáng bực tu mi,
Nay trở lại khác nào đời trước”.
Qua hai câu giảng trên: Kim
Lân và Xích Phụng đang lâm nạn, ý Đức Thầy muốn nói vua chúa nước Việt Nam sống
thời Pháp thuộc như lâm tai nạn, tấm thân Đức Giáo Chủ cũng bị người Pháp lưu
đày, không lúc nào yên ổn đặng.
CHÁNH VĂN:
97.-“Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,
Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-Tông.
Kể ra lại bắt mủi lòng,
100.- Ngán đời mua bưởi bán
bòng chát-chua.
Cứ theo cái lối a-dua,
Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi.
Vàng kho thêm gánh ích gì,
Thôi ta than lắm vậy thì thẹn
thêm”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 97 đến
câu 104)
Người xưa có câu: “Ăn giấy bỏ
bìa”. Đây là Đức Thầy thống trách nhiều người không nhớ ơn Tổ tiên cha mẹ để lo
đền đáp cho tròn câu hiếu thảo. Khi hưởng được sự cao sang sung sướng vội quên
đi công sanh thành dưỡng dục của ông cha.
Càng nghĩ đến Ngài càng ngậm
ngùi chán ngán cho hạng người tham gian tráo chát, mua bưởi bán bòng. Họ nỡ a
dua theo kẻ vô đạo gian tà nịnh tặc, phá miễu đốt chùa, nhiễu hại những người
có đạo đức. Đối với những kẻ giàu sang dù ta có nịnh hót đem thêm cho họ một vài
gánh vàng nữa cũng chẳng lợi ích gì mà còn mang câu bội thần phản đạo để tiếng
xấu muôn đời.
CHÚ THÍCH:
ĂN GIẤY BỎ BÌA: Xài
miếng giấy mà không nhớ đến bìa giấy. Ý nói hưởng ngọn mà quên gốc, ăn trái chẳng
nhớ kẻ trồng cây. Hồi xưa người ta dùng giấy vấn thuốc hút. Vậy bìa giấy là gốc
mà người ta lại quên đi. Ở đây chỉ cho số người bội phản công ơn Tổ tiên nòi giống.
Lúc Đức Thầy còn hóa đạo tại
nhà ông Võ Mậu Thạnh, thấy có người vấn thuốc hút, xé bỏ bìa giấy rách không
xài. Ngài liền tức cảnh viết bài thi mang tựa đề là “Giấy Vàng”:
“Giấy vàng nay đã quá cao
thăng,
Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn.
Thương thảm chúng quăng nằm kẹt
hóc,
Chủ nhà quét tước lượm lăng
xăng”.
(Xà No tháng 4 năm Canh Thìn)
TỔ TÔNG: Ông
bà dòng họ.
MỦI LÒNG: Động
lòng, động tới tình thương xót. Thí dụ: Mủi lòng rơi nước mắt.
MUA BƯỞI BÁN BÒNG: Hai
loại trái bưởi và bòng, hình thức vóc dáng giống nhau, nhưng vị của nó thì
khác. Bưởi thì vị ngọt, còn bòng là vị chát, ý chỉ người hay tráo chác, mưu xảo
không thật lòng. Bưởi và bòng để lộn nhau mà nói là bưởi khiến người ta mua lầm.
A DUA: A
tùng nịnh hót theo một kẻ nào đó, tâng bốc nịnh bợ để thủ lợi.
ĐỐT MIỄU PHÁ CHÙA: Cũng
gọi “Phá chùa đốt miễu”, ý chỉ những người không thật tu, không thật đạo, hay a
dua theo kẻ vô đạo, gây pháp nạn cho kẻ có đạo, cản trở phá rối với những người
lo hành đạo như nạn Tam Võ thuở xưa.
VÀNG KHO THÊM GÁNH ÍCH
GÌ: Ý chỉ người đã giàu có mà ai đó cho thêm một
gánh vàng nữa cũng không ích gì.
CHÁNH VĂN:
105.- “Bóng trăng cậy đỡ ban
đêm,
Trầu ăn nhả bã lại têm mời
hoài.
Khùng ngồi nói chuyện quá dai,
108.-Bị lòng bác ái nói hoài
chẳng thôi.
Thấy đời mặt lọ không bôi,
Lại khoe kép giỏi một hồi múa
men.
Từ nay cửa Khổng gài then,
112.-Chờ Ta trở lại thì đèn hết
lu”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 105
đến câu 112)
Đoạn giảng trên ý nói mặt
trăng nhờ ban đêm mới sáng, chớ không phải sáng luôn ban ngày được, cũng như đế
quốc Pháp, nó văn minh và đàn áp các nước nhược tiểu chỉ nhất thời mà thôi. Ví
người ăn trầu chỉ vui miệng một lát rồi cũng phải nhả bỏ hết bã.
Sở dĩ Đức Thầy phải khuyên tu
mãi là vì Ngài có lòng thương yêu rộng lớn khắp bàng nhân bá tánh. Song càng nhắc
đến Ngài càng thêm thẹn cho thói đời. Ở trong thế trần người ta hay khoe khoang
tài giỏi hơn thiên hạ, chẳng khác nào một kép hát trên sân khấu, họ chỉ trang
điểm cho đẹp trong một tuồng hát chớ không được lâu
bền. Đức Thầy còn cho biết
hoàn cảnh xa vắng của Ngài hiện giờ giống như đạo tràng của đức Khổng Tử khi
xưa, chỉ lu mờ trong thời đóng cửa, nhưng mỗi tín đồ phải rán đợi chờ khi Ngài
trở lại tất được sáng tỏ như xưa.
CHÚ THÍCH:
BÓNG TRĂNG CẬY ĐỠ BAN
ĐÊM: Bóng trăng chỉ sáng ban đêm, ngày thì không
sáng được. Nghĩa bóng: là chỉ cho sự giàu sang vinh hiển chỉ được một lúc rồi
thôi, không lâu bền được.
“Vinh hoa dường thể cúc mai,
Cuối mùa tàn rụi lâu dài đặng
đâu”.
TRẦU ĂN NHẢ BÃ: Trầu,
cau, vôi, thuốc là những vật giúp cho người ta ăn vào chỉ được vui miệng trong
một lúc thôi. Nghĩa bóng là chỉ cho những gì giả tạm, chẳng lâu bền.
MẶT LỌ KHÔNG BÔI: Một
kép hát hóa trang cho đẹp là đóng tuồng trên sân khấu, họ bôi trét những son phấn
đủ màu sắc. Tất cả đều là giả tạo, thế mà họ tưởng mình như một người kép giỏi,
khoe khoang hãnh diện. Nghĩa bóng là chỉ cho cái gì giả tạo không chân thật lâu
bền.
CỬA KHỔNG: (Xem
STTĐ, trang 186….)
GÀI THEN: Gài
then cửa, đóng cửa lại. Cửa Khổng gài then là ý nói lúc Đức Khổng Tử đi chu du
truyền đạo thì Đạo tràng của Ngài đóng cửa không dạy nữa. Khi nào Ngài trở về mới
mở trường dạy học trò lại.
CHÁNH VĂN:
113.-“Thân Khùng là phận
sĩ-phu,
Chẳng ham danh-diệu miễn tu
vuông tròn.
Khôn thì lánh chốn đau đòn,
116.- Dại thì lòn cúi đồ ngon
ăn thừa.
Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa,
Ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa
Trương-Lương.
Nhớ qua hồi lúc đời Đường,
120.- Hiền thần Nhơn-Quí người
đương ẩn mình.
Cửu-Thiên còn giấu tại dinh,
Chờ ngày mãn hạn phép linh ban
rày”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 113
đến câu 122)
Đức Giáo Chủ cho biết Ngài là
bậc sĩ phu có học thức rõ thông đạo lý, chẳng màng đến vinh huê phú quí, miễn
sao sự tu thân hành đạo cho vẹn tròn là tốt rồi. Ngài cũng khuyên dạy môn đồ,
đã là người trí cũng nên xa lánh đầu lụy những chổ xấu xa đê tiện mà nên chọn
chỗ trong sạch tốt lành để sống.
Hạng Võ xưa kia tìm cách dối gạt,
lừa đảo bạn bè vua chúa, nên cuối cùng bị Trương Lương đưa vào chỗ nguy hại chịu
khổ nhục suốt đời. Còn hiền thần Nhơn Quí lúc chưa gặp thời phải bị cha con
Trương Sĩ Quí hãm hại, song nhờ có Cửu Thiên Huyền Nữ cứu an tai nàn.
CHÚ THÍCH:
THÂN KHÙNG: Đức
Thầy ra đời xưng hiệu là Khùng, nhưng Khùng theo Ngài mà biết thương dân mến nước
và Khùng biết âm dương kết liễu, biết đem Đạo mầu cứu vớt sanh linh.
SĨ PHU: Người
nam nhi sĩ khí, có học thức thanh cao và trung cang nghĩa khí.
HẠNG VÕ: Người
ở Hạ Tượng, thuộc đất Cối Kê (Trung Hoa) tên là Tịch, có sức mạnh cử cái đỉnh
ngàn cân. Vào thời Tần Sở không ai địch lại, trong lúc dẹp nhà Tần vì tánh hiếu
sát mà không được lòng quân dân nên vào Bá Tượng (Hàm Dương) sau Lưu Bang. Hạng
Võ ỷ mạnh phụ lời ước hẹn, giành làm vua Tây Sở Bá Vương và đẩy Lưu Bang (Hán
Trung Vương) vào Bao Trung.
Lưu Bang theo kế hoạch của
Trương Lương lùi vào Bao Trung, sai Tiêu Hà chiêu binh mãi mã, tích trữ quân
lương; còn Trương Lương tìm được Hàn Tín làm Phá Sở Đại Nguyên Soái, thi hành kế
ly gián, chia rẽ giữa Phạm
Tăng và Hạng Võ khiến Võ rút về
Bành Thành bỏ trống Tam Tần. Nhân đó Lưu Bang và Hàn Tín kéo binh trở ra đánh bại,
khiến Hạng Võ trở tay không kịp.
Từ đó Hạng Võ phải đánh với
Lưu Bang ròng rã sáu năm trường, bao phen thất điên bát đảo trước tài chỉ huy
mưu lược của Hàn Tín. Rốt cuộc Hạng Võ phải bỏ mình tại bến Ô Giang.
HIỀN THẦN NHƠN QUÍ: Cũng
gọi là Tiết Nhơn Quí, tên thật là Tiết Lễ, người ở Thái Bình Trang, huyện Long
Môn, tỉnh Sơn Tây (Trung Hoa). Thân phụ là Tiết Anh, thân mẫu là Phạm Thị, gia
thế giàu có, cha làm viên ngoại trong vùng.
Nhơn Quí câm từ thuở lọt lòng
mẹ, đến 15 tuổi bỗng một hôm thấy bạch hổ nhảy vào trướng nhà vồ mình nên hoảng
hốt la lớn lên và từ ấy mới nói chuyện được, không bao lâu cha mẹ lâm bịnh từ
trần. Nhơn Quí một mình thừa hưởng gia tài to lớn. Ông tụ tập anh em lại rước
thầy về luyện văn tập võ, nhưng vì ăn chơi phung phí nên của tiền đều hết sạch,
bù vào đó ông lảu thông thập bát ban võ nghệ.
Thuở ấy vua Đường Thái Tôn khi
tảo Bắc xong trở về, một hôm nằm mộng thấy đi săn, bỗng có tướng mặt xanh cầm
đao vụt ngựa rượt theo muốn giết vua, Thái Tôn kinh hãi giục ngựa chạy, chẳng
may ngựa sa lầy nơi mé biển. Trong lúc nguy cấp bỗng có tướng bạch khôi bạch
giáp cầm kích cỡi ngựa xông tới đánh người mặt xanh té xuống biển chết. Vua
Thái Tôn mừng rỡ kêu lại hỏi tên họ để tạ ơn, tướng ấy đáp:
“Gia trụ diêu diêu nhứt điểm hồng,
Phiêu phiêu tứ hạ ảnh vô tông.
Tam tuế hài đồng thiên lượng
giá,
Bảo vương khóa hải khứ chinh
đông”.
Nói xong tướng ấy bị con rồng
hút bay mất, Thái Tôn kinh hãi giật mình tỉnh giấc, liền cho vời quân sư Từ
Mậu Công đến nhờ giải dùm điềm
mộng. Mậu Công giải như sau:
- Theo điềm mộng sẽ có người mặt
xanh dấy loạn ở phương Đông, không ai đánh lại, nhờ có hiền thần áo trắng kia mới
cứu được. Còn tên họ hiền thần đã nói rõ trong bài thi là: Câu thứ nhứt: “Gia
trụ diêu diêu nhứt điểm hồng”; nghĩa là mặt trời lặn về phương Tây còn một chút
điểm hồng đỏ, thì người ở chốn Sơn Tây. Còn bệ hạ thấy rồng hút người ấy mà
bay, thiệt là người ở huyện Long Môn. Câu thứ nhì: “Phiêu phiêu tứ hạ ảnh vô
tông”; có nghĩa trong khi trời lạnh thì có tuyết xuống mù mịt, không rõ gốc
tích ở đâu, chắc người này họ Tiết. Câu thứ ba: “Tam tuế hài đồng thiên lượng
giá”; là con nít lên ba tuổi đáng giá ngàn lượng, thiệt là cao quí, chắc tên là
Nhơn Quí. Còn câu thứ tư: “Bảo vương khoá hải khứ chinh đông”; có nghĩa hiền thần
sẽ bảo giá vượt biển chinh Đông. Nếu bệ hạ muốn gặp hiền thần thì bệ hạ cho người
đi mộ binh ở huyện Long Môn, Sơn Tây sẽ có. Thái Tôn nhận lời cho tiên phuông
Trương Sĩ Quí đi chiêu binh là kết quả.
Nhơn Quí hay tin liền ra đầu
quân (nhưng vì Sĩ Quí vốn gian xảo nghe vua thuật điềm mộng tả hình dáng giống
con rể hắn là Hà Tôn Hiến nên muốn cho con rể mình lập công). Thấy Nhơn Quí mặc
giáp trắng cầm phương thiên họa kích giống điềm mộng của vua. Sĩ Quí sợ Nhơn
Quí đoạt công nên không thâu. Đã hai lần đầu quân không được, ông buồn trở về gặp
Trình Giảo Kim bị cọp rượt, ông ra tay đánh hổ cứu thoát. Thấy người tài năng,
Trình Giảo Kim ban cho cây lịnh tiển giới thiệu cho đi đầu quân. Sĩ Quí thấy vậy
không dám cãi, nên cho Nhơn Quí làm Hỏa đầu quân (quân nấu cơm) và buộc đổi tên
họ khác mới thâu. Sĩ Quí còn dọa rằng: Vì vua nằm mộng thấy tướng bạch hào bạch
giáp cầm kích rượt giết vua, và có đọc bài:
“Gia trụ diêu diêu nhứt điểm hồng,
Phiêu phiêu tứ hạ ảnh vô tông.
Tam tuế hài đồng thiên lượng
giá,
Sanh tâm tất đoạt tố kim
long”.
Quân sư có bàn rằng: Ba câu đầu
là người ở Sơn Tây, tên là Tiết nhơn Quí, còn câu thứ tư sau người ấy ắt sanh
tâm tiếm đoạt thiên hạ, nên vua truyền giết đi để trừ hậu hoạn. Nay ta thấy
ngươi vô tội không nỡ gia hình nên nhiều lần tha ngươi, ấy là ta muốn tha ngươi
đó, chẳng phải ta muốn ích kỷ đâu.
Khi giặc Phiên làm phản không
dâng cống lệ, vua Thái Tôn nổi giận nên ngự giá chinh Đông, truyền Sĩ Quí đi tiền
đạo. Khi đi ngang Thiên Cái Sơn, đất bỗng sụp xuống thành một hang rất sâu. Sĩ
Quí muốn giết Tiết Lễ nên sai xuống thám địa huyệt. Nhưng khi xuống tới đáy địa
huyệt thấy con rồng xanh bị trói liền mở thả ra, ông đi lần vào trong thấy mấy
xiểng bánh (?), có một cái hình con rồng, 2 cái hình con cọp, 9 cái hình trâu,
sẵn bụng đói ông liền ăn. Một lúc sau lại gặp bà Cửu Thiên Huyền Nữ, được bà
cho biết rằng:
Con rồng kia vốn có thù oán với
ngươi, nay ngươi thả nó ra, nó sẽ xuống nhập vào xác Cáp Tô Văn mà đánh ngươi.
Ta biết trước nên bày ra địa huyệt để ban cho ngươi 5 món bửu pháp là: 2 Bạch Hổ
Tiên, Thủy Hỏa Bào, Chấn Thiên Cung, 5 mũi Xuyên Vân Tiễn và quyển Vô Tự Thiên
Thơ để hộ thân mới cự nổi Cáp Tô Văn. Còn những cái bánh ngươi ăn, có hình con
gì ngươi sẽ mạnh bằng con nấy. Thôi ngươi hãy rán giữ mình mà phò Đại Đường
Hoàng Đế.
Tiết Lễ mừng rỡ lãnh báu vật lạy
tạ trở về. Từ đó ông mạnh vô cùng. Sĩ Quí sai ông đi tiền đạo, phá thành đạp
lũy, không ai đánh lại cả. Có lần nguyên soái Uất Trì Cung bị giặc bắt, nhờ ông
cướp tù xa cứu khỏi. Sau Đường Chúa bị Cáp Tô Văn là nguyên soái Phiên binh vây
phủ, nhờ ông về giải vây đánh Cáp Tô Văn hộc máu mà chạy. Tất cả mọi công lao hạn
mã của ông, Sĩ Quí đều mạo là của Hà Tôn Hiến, nhưng Uất Trì Cung không tin, lập
kế điều tra mà chẳng được. Sau Uất Trì Cung hăm dọa đòi giết Sĩ Quí. Sĩ Quí sợ
hãi mới khai thiệt câu chuyện gian trá từ trước tới nay. Uất Trì Cung giận nói:
- Vậy nhà ngươi quả thật gian
ác, phải mau đem hiền thần Nhơn Quí ra bằng không thì đánh chết. Sĩ Quí vâng dạ
lui ra nhưng lại lập mưu định giết Nhơn Quí để phi tang, nên cho đòi Tiết Lễ đến
bảo rằng:
- Nay Nguyên Soái đã tra ra bọn
ngươi, nên bảo đem các ngươi ra hành hình, nhưng ta thấy bọn ngươi có công nên
không nỡ giết chết, lại cho các ngươi hay trước để tìm phương lánh nạn. Ta thấy
phía sau trại này có một cái hang tên Thiên Tiên Cốc rất kín đáo có thể tạm trú
yên thân được. Vậy các ngươi hãy lên đó ở, chừng Nguyên Soái bớt giận ta sẽ xin
cho.
Tiết Lễ tưởng thiệt nên cùng 8
người anh em ra đi, nhưng khi vào cửa hang, Sĩ Quí cho lấp cửa hầm đốt. Trong
lúc nguy cấp, bỗng có bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện đến cứu thoát đưa lên Tàng
Quân Động ẩn mặt để lánh nạn, đợi đến thời cơ sẽ ra mặt giúp vua.
Thời gian sau, một hôm vua Đường
cỡi ngựa đi săn bị Cáp Tô Văn rượt chạy, chẳng may ngựa sa lầy nơi mé biển. Cáp
Tô Văn đứng trên bờ hối thúc vua mau viết huyết biểu hàng đầu. Trong khi ấy Tiết
Lễ đang ngồi trong động Tàng Quân, thấy ngựa Lô hý vang. Ông lấy làm lạ bèn nai
nịt lên yên đi ra, bỗng ngựa chạy như bay dừng lại không được. Khi đến chân núi
thấy vua lâm nạn. Ông rượt đánh Cáp Tô Văn chạy dài, cứu vua thoát nạn. Thấy ứng
điềm mộng vua Đường mừng rỡ đem ông về trọng dụng và hứa rằng: “Dầu sau này hiền
thần lầm lỗi nặng đến đâu, trẫm cũng tha hết”.
Trương Sĩ Quí thấy vua trọng dụng
Nhơn Quí sợ lậu sự ra mà chết, nên lén đem quân cướp hết chuyến thuyền vượt biển
về triều đình định giết thái tử cướp ngôi. Nhờ có quân sư Từ Mậu Công toán biết
nên chỉ biểu Nhơn Quí cướp được con Thoại Long Cu (ngựa đi ngày 1.000 dặm đường
và có tài chạy trên nước như trên đất liền), đi suốt mấy ngày đêm về Trường An
bắt được cả bọn cứu an thái tử.
Thấy công rất trọng, nên Đường
Thái Tôn phong làm Thiên Hạ Đô Chiếu Thảo Sứ Bình Linh Đại Nguyên Soái. Suốt 12
năm dài chinh chiến, Nhơn Quí giết được Cáp Tô Văn và bình xong giặc Phiên nên
khi về triều ông được phong chức Bình Liêu Vương, trấn thuê tỉnh Sơn Tây, cùng
vợ con chung hưởng hạnh phúc. Mưu gian của Sĩ Quí lộ ra nên cả bọn đều bị giết.
Riêng con gái của Sĩ Quí là
Trương Mỹ Cơ vốn là vợ lẻ của hoàng thúc Lý Đạo Tông là chú của vua hiện làm chức
Thành Thang Vương nên khỏi bị giết. Nhân việc giết cha nên nàng đem lòng hận
oán, ngày đêm khóc lóc khuyên chồng lập mưu trả thù. Đạo Tông nghe lời bèn mạo
chiếu vua dối rằng: Vua bệnh nên triệu Nhơn Quí về Kinh, Nhơn Quí tưởng thật
ngày đêm riết về. Khi đi ngang phủ Quang Thiên thấy Đạo Tông chực sẵn rước vào
dinh đãi tiệc. Nhơn Quí thấy trời tối không thể vào chầu được và vị tình Hoàng
thúc khoản đãi nên ở lại. Trương Mỹ Cơ liền bỏ thuốc mê vào bình rượu của ông
khiến ông bất tỉnh nhân sự, bị Đạo Tông trói lại đem bỏ vào phòng Quận Chúa Lý
Loan Phụng, Quận Chúa hổ ngươi đập đầu mà thác. Lý Đạo Tông tức giận, truyền khảo
Nhơn Quí hơn 100 roi trầy da tróc thịt hết mà ông vẫn mê không hề hay biết. Khảo
tra đã rồi Lý Đạo Tông vào triều tâu rằng:
- Hồi hôm này Nhơn Quí lẻn về
Trường An, tôi thấy người có công nên rước về dinh mà thiết đãi. Chẳng ngờ Bình
Liêu Vương đòi cưới con gái tôi, tôi không khứng. Nhơn Quí ỷ mạnh xốc vào làm hổn
ép việc mây mưa với Quận Chúa. Quận Chúa không thuận tình bị Nhơn Quí đập chết
rất thảm thương.
Tâu xong Lý Đạo Tông khóc rống
lên. Vua Đường Thái Tôn thấy vậy giận lắm, truyền xử trảm Nhơn Quí tức thì, nhờ
các quan hết sức can gián nên Thái Tôn đừng lại ra lịnh giam Nhơn Quí vào đại
lao. Lúc nầy, Nhơn Quí còn mê man như chết không hay biết gì cả. Khi tỉnh dậy mới
hay mình bị giam, nghe trong châu thân đau nhức vô cùng. Nhơn Quí hối hận vì
quá tin người mà bị nạn. Đến hạn gia hình vua truyền xử trảm, các quan tâu xin
mãi không được, nhờ có quân sư Từ Mậu Công về can gián, nhắc lại lời hứa của
Thái Tôn khi xưa mới cứu được ông.
Sau vua Tây Phiên là Hấp Mê
làm phản, phong Tô Bảo Đồng làm Tảo Đường Diệt Khấu Đại Nguyên Soái cầm binh
đánh nhà Đường. Vua Thái Tôn sợ hãi bèn tha tội Nhơn Quí và phong làm Chinh Tây
Đại Nguyên Soái đem quân chinh phạt. Vừa ra khỏi tù ông tâu rõ việc hàm oan
trong ba năm tù tội. Vua Thái Tôn nghe xong hối hận vì lầm mưu gian thần mà
không hay, nên vua truyền giết Trương Mỹ Cơ và tên giả thiên sứ (?). Còn Lý Đạo
Tông là chú nên vua không nỡ gia hình. Sau Trình Giảo Kim dụ Đạo Tông vào chùa
Nguơn Minh rồi lấy chuông úp lại cho đến chết.
Trả thù xong, Nhơn Quí liền khởi
binh chinh Tây. Đến Bạch Hổ Quan bị con là Tiết Đinh San bắn lầm mà thác.
Đọc truyện hiền thần Nhơn Quí
thấy rằng: Vì thời cơ chưa đến nên ông phải lao đao oan khúc. Song nhờ lòng
trung chánh bao giờ cũng được Phật Tiên cứu độ và tiếng khen lưu để muôn đời. Hậu
thế há chẳng theo đó làm gương hạnh đấy ư!
CHÁNH VĂN:
123.- “Giảng kinh đọc tụng chiều
mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp
ta.
Xác trần để lại làng Hòa,
126.- Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa
ta lui.
Âm dương cách trở xa-xuôi,
Nhắn cùng bá tánh chớ nguôi tấc
lòng.
Phận Khùng thân hỡi long đong.
130.- Còn lo cho thế hai lòng
toan mưu.
Ta không gây oán kết cừu,
132.- Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi
gì?”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 123
đến câu 132)
Đoạn này ý dạy tuy Đức Thầy xa
vắng tín đồ, song nếu mỗi người sớm chiều siêng năng xem coi đọc học kệ kinh sấm
giảng của Ngài và thi hành y theo lời chỉ dạy trong đó tất sau nầy sẽ gặp lại.
Nay Ngài được lịnh trở về kiến
diện Đức Phật Tổ, đi bằng chơn linh hay pháp thân, còn phần thể xác vẫn lưu ngụ
tại làng Hòa Hảo. Tuy thầy trò âm dương cách trở, nhưng Ngài khuyên bá tánh chớ
buồn lòng.
Hiện giờ thân phận Đức Thầy
còn phải rày đây mai đó, nhưng Ngài vẫn an lòng, chỉ lo cho trần thế còn toan
mưu ám hại người hiền. Đối với mọi người dân lúc nào Ngài cũng thương xót,
không hề gây thù kết oán một ai, nhưng cũng có người không vừa lòng.
CHÚ THÍCH:
LÀNG HÒA: Tức
làng Hòa Hảo, nơi Đức Thầy sinh trưởng và khai Đạo, Đức Thầy có câu:
“Hòa thôn hảo cảnh xứ chi Ta,
Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà”.
BỐN PHÍA: Khắp
bốn phương, không sót nơi nào. Sấm Giảng Quyển III Đức Thầy bảo:
“Phiên binh bốn phía tứ vi,
Kể sao cho xiết chuyện ni sau
nầy”.
ÂM DƯƠNG: Tối
và sáng. Ý chỉ cho kẻ vô hình và nơi có hình tướng xác thể.
CHỚ NGUÔI: Ngùi
ngùi, chớ nguôi là chớ ngùi ngùi thương nhớ. Ý nói âm dương tớ thầy xa cách, Đức
Thầy dặn dò bổn đạo nên bớt lòng thương nhớ.
CHÁNH VĂN:
133.-“Khoa tràng lịnh mở hội
thi,
Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian.
Chớ mình hồn dựa lâm-san,
136.-Thảnh-thơi còn xuống thế-gian
làm gì?
Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui,
Thế-trần no ấm phú thi an
nhàn.
Quân-thần, phụ-tử vinh-vang,
140.-Hết lo cay đắng, Khùng an
phận Khùng.
Tới đây từ biệt khắp cùng,
142.-Thầy lìa khỏi xác
Thiên-cung phản hồi”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 133
đến câu 142)
Phật trời đã ra lịnh mở trường
thi để chọn lọc hiền còn dữ mất. Do đó, Đức Thầy phải hạ bút viết ra kinh giảng
để khuyên bá tánh sớm tỉnh tâm tu niệm. Chớ Ngài đã có ngôi vị nơi cõi Tiên Phật
an nhàn tự tại, sao còn xuống phàm gian mà làm gì?
Lòng Ngài lúc nào cũng mong đợi
đến ngày Thượng Nguơn trở lại để toàn dân được hưởng an cư lạc nghiệp. Chính
ngày ấy chúa tôi thầy tớ đồng hưởng sự vinh quang sum hiệp. Thân Thầy cũng được
an lành nơi ngôi vị. Viết đến đây Ngài có đôi lời từ biệt môn đồ để trở về cung
điện của Đức Ngọc Đế.
CHÚ THÍCH:
KHOA TRÀNG: Trường
thi khoa cử. Trong một quốc gia hằng năm hay nhiều năm đều có mở khoa thi, chia
ra nhiều cấp bậc. Cấp nhà nước (trung ương) hay các tỉnh, quận, xã hoặc tại trường
để tuyển chọn những người có đủ văn võ nghiệp nghề ra giúp việc cho quốc gia.
Khoa trường ở đây là Đức Thầy có trách nhiệm thi cử chọn lọc các bậc hiền tài để
lập lại cuộc đời Thượng Nguơn thánh đức. Còn kẻ bạo tàn hung ác sẽ bị luật đào
thải diệt vong.
LÂM SAN: Rừng
và núi, nơi an nhàn thảnh thơi và vắng lặng.
THƯỢNG CỔ HỒI QUI: Trở lại
đời xưa như hồi trước.
THIÊN CUNG: Cung
điện của Trời, tức là nơi Đức Ngọc Đế ngự.
PHẢN HỒI: Trở lại.
Ý nói trước kia từ đó ra đời, bây giờ trở lại chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
143.-“Đục trong cạn tỏ khúc
nôi,
Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận
lòng.
Lang tâm như thú thiếu lông,
146.-Trớ-trêu cửa miệng trong
lòng gươm đao.
Ra đời chẳng nệ công lao,
Chẳng hờn không giận, hùng-hào
còn ganh.
Hiệp chung một cội
nhánh-nhành,
150.-Sum-sê lá thắm chim xanh
nối đường”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 143
đến câu 150)
Đức Thầy viết kệ giảng bày tỏ
hết hoàn cảnh hư nên tốt xấu, trong đục cho mọi người được rõ. Thấy trong thế
gian có nhiều người tu dối trá khiến Ngài phải bận lòng dạy răn. Bên ngoài họ tự
xưng là đạo đức, hiền từ; song trong lòng thì tính toan việc hung ác chẳng khác
gì lòng lang sói, không giống con người ở chỗ có lông hay không vậy thôi.
Đức Giáo Chủ quyết lòng khai Đạo
độ đời chẳng nệ sự gian lao cực khổ; không hề hờn ghét một ai, thế mà có nhiều
kẻ ác hung đem lòng ghét ghen đố kỵ. Ngài cũng thấy lẽ thăng trầm vinh nhục, tạo
hóa đã sắp đặt chúa tôi Thầy tớ tới đây sẽ có ngày hòa hiệp, mà cớ khai Đạo của
Ngài là cuộc báo tin tới ngày sum hiệp ấy.
CHÚ THÍCH:
CẠN TỎ: Tỏ
bày hết mọi lẽ đầu đuôi gốc ngọn.
KHÚC NÔI: Kể hết
hoàn cảnh sự tình. Ý nói Đức Thầy ra cơ giảng nói hết mọi sự việc hung hiền
trong đục cho người được nghe.
TU DỐI: Tu
không thật tâm. Ý chỉ như “mặt người lòng thú” hay “khẩu Phật tâm xà”.
HIỆP CHUNG MỘT CỘI: Biết
thương yêu đoàn kết với nhau làm một, tất sẽ có ngày sum hiệp.
LÁ THẮM: Danh
từ lá thắm do thành ngữ “Sum sê lá thắm”. Đức Thầy dùng trong bài “Từ Giã Bổn Đạo
Khắp Nơi” ở đây: Lá thắm là dịch nghĩa của chữ “Hồng Diệp”; do điển tích Vu Hựu
và Hàn Thúy Tần đời Đường (TH).
Vu Hựu là nhà văn học, môn
khách của Hàn Vinh. Một hôm nhân cuộc du ngoạn ngoài thành, Vu Hựu đến bên dòng
Bích Câu ngồi xem cảnh.
Còn Hàn Thúy Tần là một cung nữ
của vua Đường, vì ở trong thâm cung lâu ngày buồn bực nhớ quê hương, nên nàng
lượm một lá cây đỏ (lá thắm) mới rụng đề vào đó một bài thơ rồi thả xuống dòng
nước trôi ra ngoài thành. Bài thơ ấy như sau:
“Nước chảy sao mà vội,
Cung sâu cả buổi nhàn.
Ân cần khuyên lá thắm,
Đưa quách tới nhân gian”.
Vu Hựu đang ngồi dựa mé rạch
nhìn mây nước, bỗng gặp lá thắm tấp vào vội vớt lên thấy có bài thơ. Xem xong
chàng liền viết hai câu thơ trên lá cây khác hỏi lại:
“Đã nghe lá thắm đề thơ oán,
Trên lá đề thơ định hỏi ai?”
Khi nước chảy vào, Vu Hựu liền
thả xuống dòng ngự câu (?), lá ấy trôi vô thành. Ở trong thành Hàn Thúy Tần vớt
được. Hai người liền rửa sạch các lá cây đó, cất vào rương để kỷ niệm, mặc dù cả
hai đều chưa biết mặt nhau.
Thời gian sau nhà vua cho thảy
hồi 30 cung nữ về quê lập gia đình. Vu Hựu may mắn cưới được Hàn Thúy Tần.
Trong đêm tân hôn, đôi giai nhân nhắc chuyện năm xưa, rồi đem so hai bài thơ thấy
đích thị là của mình, đồng nói lá thắm ấy đã mai mối cho đôi bên nên nghĩa đá
vàng, nên có thơ rằng:
“Nhất liên thi cú tùy lưu thủy,
Thập tải ưu tư mãi cố hoài.
Tam nhựt khước thành loan phụng
hỷ,
Phượng chi hồng diệp thị lương
môi”.
Có nghĩa:
“Một đôi thi cú theo dòng nước,
Mười mấy xuân qua nhớ dẫy đầy.
Mừng bấy ngày nay loan sánh phụng,
Cũng nhờ lá thắm khéo làm
mai”.
Do điển tích đó, xưa nay văn
chương thường dùng chữ “Lá thắm” để chỉ những người có nhân duyên với nhau thì
dù có xa xôi cách trở, rồi lại cũng được gặp nhau.
Điển ngữ “Lá thắm” Đức Thầy
dùng trong bài “Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi” ở đây dụng ý chỉ cho tín đồ và Ngài đã
có duyên Thầy trò từ trước nên hiện giờ đặng gặp nhau. Thế thì từ đây dù có xa
cách gian lao nhưng rồi cũng sẽ đặng cùng nhau sum hiệp:
“Hiền lành chừng đó sum vầy,
Quân thần cộng lạc mấy ngày
vui chơi”.
Nếu ai muốn tận hưởng cảnh ấy
thì hiện giờ phải vâng theo lời dặn dò của Ngài:
“Giảng kinh đọc tụng chiều
mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp
ta”.
CHIM XANH: Là
nghĩa của chữ “Thanh Loan Điểu”, xuất phát từ điển tích vua Hán Quang Võ (TH) gặp
được Tiên.
Một hôm vua Đông Hán Quang Võ
(TH) cùng quần thần đang dạo xem phong cảnh nơi vườn ngự uyển, bỗng có đôi chim
to lớn bay đến đậu gần đó.
Vua liền hỏi bá quan:
- Ai có biết đó là chim chi
chăng? Đông Phương Sóc quỳ tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, chim nầy gọi
là chim xanh, tên chữ của nó là “Thanh Loan Điểu”. Nó vốn là sứ giả của bà Tây
Vương Mẫu, mẹ của chư Tiên cõi Trời. Nó cũng có tên là chim đem tin (nối đường).
Hôm nay, nó bay tới báo tin trước, chút nữa đây sẽ có bà Tây Vương Mẫu ngự đến.
Vua tôi liền hồi trào.
Quả nhiên, được quân vào phi
báo với vua: Có bà Tây Vương Mẫu đến xin ra mắt.
Vua vui mừng cùng quần thần ra
cửa tiếp rước. Khi vào đến cung điện. Vương Mẫu nói:
- Ngài là vua nhân từ, hữu phước
nên nay tôi đem ít quả đào tiên, đây là lộc Trời ban cho. Vua tạ ơn thâu nhận
và hỏi cách trồng đào.
Điển tích Chim xanh có ngụ ý:
Nếu người nào biết ăn ở hiền từ phước đức thì là điềm báo tin sắp được gặp Phật
tiên. Cho nên người sau cũng xác định:
“Đã là thấy bóng chim xanh,
Ắt rằng Vương Mẫu hậu hành đáo
lai”.
Đại lược câu chuyện nêu trên,
Đức Thầy ngụ ý kêu gọi chúng dân hãy thương yêu đoàn kết lẫn nhau trong việc hiền
lương đạo đức thì sau nầy sẽ gặp Phật Tiên cứu độ thoát khỏi sanh tử luân hồi:
“Kẻ hiền đức sau nầy được hưởng,
Phép thần linh của Đức Di Đà.
Lại được thêm thoát khỏi Ta
bà,
Khỏi luân chuyển trong vòng lục
đạo”.
CHÁNH VĂN:
151.- “Từ-bi tình ấy đoạn trường,
Kể qua tích cũ mà lường lòng
đây.
Như ai có đọc đoạn nầy,
154.-Xin đừng chê nhạo rằng Thầy
nói nhăng.
Muốn sao có phép phi đằng,
Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng
thoát nàn.
Rưng-rưng nước mắt hai hàng,
158.- Lánh nơi cõi tục Phật-đàng
lui chơn”.
Hòa-Hảo, ngày 1 tháng 4 năm
Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy vì Ngài
tiên-tri rằng Ngài sẽ xa cách bổn-đạo. Quả thật ngày 12/04 năm Canh-Thìn nhà chức-trách
ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc).
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 151
đến câu 158)
Tính từ bi của Đức Thầy đối với
vạn loại chúng sanh thật là sâu đậm thiết tha khó mà lường tính được. Thấy
chúng sanh đang gánh chịu vô vàn đau khổ, Ngài cũng đau đớn từ đoạn ruột. Cái tình
từ bi ấy ví như cha mẹ đối với con, hay loài vượn đối với con nó: Vượn con bị
tên mà ruột con không sao, còn ruột mẹ không bị tên mà đứt từng đoạn ruột. Đức
Thầy kể lại điển cố này là để cho bá tánh lường được lòng từ bi của Ngài như thế
nào.
Sau này nếu có ai xem đến đoạn
giảng trên hãy suy lường cho kỹ, chớ đừng vội cho Ngài nói nhăng.
Ngài cũng mong ước cho mỗi người
đều có phép thần thông để cứu nguy bá tánh. Cũng như Tề Thiên Đại Thánh khi xưa
dùng phép Cân đẩu vân để cứu Đường Tăng Tam Tạng. Viết đến đây Đức Thầy có lời
từ giã hết bổn đạo để rời khỏi trần gian lui chơn về cõi Phật.
CHÚ THÍCH:
TỪ BI: Hai
trong bốn đại đức của chư Phật (Từ, bi, hỷ, xả). Có nghĩa hiền lành thương xót
do câu:
“Từ năng dữ nhứt thiết chúng
sanh chi lạc;
Bi năng bạt nhứt thiết chúng
sanh chi khổ”.
ĐOẠN TRƯỜNG: Có
nghĩa là đứt ruột. Từ ngữ nầy chỉ cho lòng từ bi của Phật và Thầy thương xót
chúng sanh rất bao la vô bờ bến như tình mẹ thương con: “Mẹ thương con như biển
hồ lai láng”. (Ca dao).
Từ trước tới nay xuất phát nhiều
điển tích, ở đây xin điển tích một chuyện:
Xưa có ông Hứa Tinh Vương dẫn
đoàn tùy tùng đi sâu vào rừng, bỗng gặp con vượn còn tơ, vua lấp tên bắn trúng
vượn, vượn mang tên chạy miết. Vua giục ngựa đuổi theo tới một nơi nọ, vua thấy
vượn con nằm phục dưới chân vượn mẹ. Ngài dừng lại xem thử, thấy vượn mẹ cắn
mũi tên nhổ ra rồi le lưỡi liếm chỗ vết thương của vượn con. Vua ra lịnh cho
đoàn tùy tùng tiến bắt, vượn mẹ quấn quít bên vượn con không chạy, thế là hai mẹ
con nhà vượn đều bị bắt hết.
Về tới trào, vua sai làm thịt
hai con vượn, lúc mổ ra những người làm thịt thấy ruột con vượn mẹ đứt từng đoạn,
còn vượn con tuy bị thương nhưng ruột của nó vẫn còn nguyên vẹn, họ liền đem
trình bày cho vua xem. Vua nhận xét: Vượn mẹ tuy không bị tên nhưng vì quá
thương con nên ruột đứt từng đoạn (đoạn trường), loài thú còn vậy huống chi
loài người.
Luôn mấy ngày suy nghĩ, vua vô
cùng hối hận hành động của mình, liền bỏ hết cung tên, nhường ngôi cho thái tử
rồi vào núi tu hành, sau được thành chánh quả và mở cơ phổ hóa nhân sanh.
Đọc truyện trên nhận thấy rằng:
Đức Thầy dùng điển ngữ đoạn trường là muốn cho môn đồ có nhận xét: Tình mẹ
thương con của loài vượn còn đến thế thì tình từ bi của Phật và Thầy thương xót
vạn loại chúng sanh còn hơn rất nhiều. Cho nên trên bước đường cứu độ chúng
sanh dù phải gặp muôn ngàn đắng cay, nghịch cảnh các Ngài cũng chẳng hề nao
lòng nản chí.
“Thân ta dù lắm đoạn trường,
Cũng làm cho vẹn chữ thương
nhơn loài”.
TÍCH CŨ: Tích
xưa, nhũng cốt truyện đã xảy ra từ trước.
PHÉP PHI ĐẰNG: Phép
bay trên mây mà đi, cũng gọi là đằng vân. Do các bậc Phật Tiên giai đoạn trước
tu hành chứng đắc mà được.
ĐẠI THÁNH: Tức
là Tề Thiên Đại Thánh. Ông nguyên gốc từ cục đá sanh ra, chứng tỏ “vạn vật duy
tâm tạo”, hay “Vạn vật đồng nhứt thể”. Khi trở thành người, ông đến thọ giáo với
Tổ Sư Bồ Đề, tức là tâm chánh đẳng chánh giác sẵn có của mỗi người.
Tu học một thời gian ông được
chứng đắc hai pháp: Một là Thất thập nhị huyền công, hai là pháp Cân đẩu vân (tức
nhảy một cái là tới tận chân trời).
Lúc chưa gặp Phật Quan Âm độ rổi
thì tánh còn ngang bướng, đòi làm Tề Thiên Đại Thánh, chọc trời khuấy nước loạn
Thiên cung. Sau bị Phật Tổ thâu phục, giao cho Quan Âm giáo độ. Quan Âm cho Đại
Thánh làm đệ tử Đường Tăng Tam Tạng để sau nầy đi Tây phương (Ấn Độ) thỉnh
kinh.
Nhờ có lòng bảo hộ Đường Tăng
đi thỉnh kinh mà sau thành được Đấu Chiến Thắng Phật.
ĐƯỜNG TĂNG TAM TẠNG: Vị
cao tăng nước Đại Đường đến Thiên Trúc (Ấn Độ) thỉnh được Tam Tàng kinh điển
đem về Trung Quốc nên gọi là Đường Tam Tạng.
Thuở nhỏ phụ thân ông thi đậu
được vua bổ nhậm. Đi dọc đường bị giặc cướp chận bắt, phụ thân ông chết, rồi ép
mẹ ông ưng thuận. Mẹ vì có thai ông nên rán nhẫn chịu. Khi sanh ra, mẹ để ông
vào cái thúng giạ lớn, viết thơ gởi gắm rồi thả trôi ra sông lớn. Vài hôm sau
nhà sư vớt được đem về nuôi. Từ đó ông ở tu học luôn trong chùa.
Sau vua tuyển chọn các tăng sư
giỏi cho đi Tây phương thỉnh kinh. Ông được trúng tuyển và vua Đường nhận làm
em nuôi nên có tên là Đường Ngự Đệ.
Trên đường đi Tây phương
(Thiên Trúc), Ngài trải qua nhiều cảnh gian lao cực khổ, nào bị yêu tinh bắt ăn
thịt, nào bị ép duyên thiêu đốt. Chúng tuyên truyền rằng: “Ăn được miếng thịt của
Đường Tăng sống hằng vạn vạn năm”.
Cuối cùng Đường Tăng nhờ có
Tiên Phật gia hộ và ba người đệ tử bảo vệ tận tình nên đi được đến Tây phương
thỉnh được tam tàng kinh đem về Đông Độ (Trường An) và sau tu hành được thành
chánh quả.
Đăng nhận xét