BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

CHÚ GIẢI THI VĂN GIÁO LÝ - TẬP 1 - PHẦN 3 - HẾT

CHÚ GIẢI THI VĂN GIÁO LÝ - TẬP 1 - PHẦN 3 - HẾT


Nội Dung

Bài 13. DIỆU PHÁP QUANG MINH ( Khùng Điên Tự Cảm Tác) (SGTV TB 2004, tr. 337- 345 )

XUẤT XỨ :
Vào ngày mùng 10 tháng 4 năm Canh Thìn (1940), cùng một lúc với bài “Tạm Ngưng Lý Lẽ”, Đức Giáo Chủ PGHH sáng tác bài Diệu Pháp Quang Minh.
Bài giảng nầy chính tay Ngài cảm hứng mà viết và đề tựa. Đức Giáo Chủ dùng bút hiệu rất khiêm nhượng, thay vì phải xưng danh như thế nầy thế nọ, đằng nầy Ngài lại dùng bút hiệu là của ông Khùng và ông Điên cảm hứng viết ra. Thực ra Ngài đã dùng trí huệ và giáo pháp cao siêu mầu diệu để giác tỉnh người đời; do đó, bài giảng được mang ý nghĩa: Ánh sáng của Trí tuệ (tức Diệu Pháp Quang Minh).
VĂN THỂ :
Đây là một bài vận văn (văn vần), thể thất ngôn trường thiên, loại khuyến tu và thuyết giáo, dài 244 câu. Khởi đầu bằng câu: “Gươm trí huệ từ bi chớp nhoáng” và chấm dứt bởi câu: “Thôi giã thế ước mong đời thạnh”.
CHỦ ĐÍCH :
Đức Thầy cho biết Ngài có sứ mạng vâng lịnh Đức Thế Tôn (Phật Thích Ca) khai Đạo cứu đời bằng đường hướng “Học Phật Tu Nhân” cho thích hợp với căn cơ và tập quán của chúng sanh thời hiện đại. Pháp môn nầy rất dễ tu, dễ chứng đắc.
NỘI DUNG :
Ngài hướng dẫn theo phương cách tu không quá chú trọng ở hình tướng mà chỉ mang sắc thái người cư sĩ tại gia: vừa tu Nhân, vừa học Phật và tu Phật:
-Về Tu Nhân là vẹn gìn trung hiếu tiết nghĩa, đền đáp “tứ đại trọng ân” để hoàn thành phận sự trong Đạo làm người.
-Về Học Phật - Tu Phật là trì hành đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca khi xưa đã truyền dạy:
“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo đức bước đi từ nấc,
Ngoại quang hình bất chấp kỳ hình”.
Để ra khỏi sanh tử đến cõi vô sanh bất diệt:
“Tầm vô vi kiếm cảnh Niết Bàn”.


BỐ CỤC :
Đây là một bài giảng gồm đủ văn chương và đạo lý mà Đức Giáo Chủ viết có lớp lang thứ tự hẳn hòi. Để cho môn đồ có đủ vật liệu xây dựng một tòa lầu đài đạo pháp đồ sộ bền chắc, như một kiến trúc sư, Ngài chuẩn bị đủ mọi vật liệu cần thiết. Chúng ta có thể tạm phân ra làm 3 phần chánh và 24 tiểu đoạn:
1. Phần Khai đề:
Đoạn 1: Từ câu 1 đến câu 4.
2. Phần Chánh đề (từ đoạn 2 đến đoạn 23) :
Đoạn 2: từ câu 5 tới câu 12.
Đoạn 3: từ câu 13 tới câu 20.
Đoạn 4: từ câu 21 tới câu 28.
Đoạn 5: từ câu 29 tới câu 36.
Đoạn 6: từ câu 37 tới câu 44.
Đoạn 7: từ câu 45 tới câu 56.
Đoạn 8: từ câu 57 tới câu 64.
Đoạn 9: từ câu 65 tới câu 68.
Đoạn 10: từ câu 69 tới câu 76.
Đoạn 11: từ câu 77 tới câu 84.
Đoạn 12: từ câu 85 tới câu 96.
Đoạn 13: từ câu 97 tới câu 108.
Đoạn 14: từ câu 109 tới câu 116.
Đoạn 15: từ câu 117 tới câu 128.
Đoạn 16: từ câu 129 tới câu 144.
Đoạn 17: từ câu 145 tới câu 156.
Đoạn 18: từ câu 157 tới câu 168.
Đoạn 19: từ câu 169 tới câu 180.
Đoạn 20: từ câu 181 tới câu 192.
Đoạn 21: từ câu 193 tới câu 208.
Đoạn 22: từ câu 209 tới câu 220.
Đoạn 23: từ câu 221 tới câu 232.
3. Phần Kết luận:
Đoạn 24: từ câu 233 tới câu 244.
CHÁNH VĂN
1. Gươm trí-huệ từ-bi chớp nhoáng,
Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn.
Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn,
4. Khắp hạ-giái truyền khai Đạo pháp.

LƯỢC GIẢI :
Đoạn nầy có ý nói trí tuệ của Phật của Thầy sáng suốt vô cùng tận. Còn ngày giờ trong trời đất cũng xoay chuyển mau lẹ không dừng. Hiện nay Đức Thầy vì vâng sắc lịnh của Đức Thế Tôn lâm phàm chuyển khai nền Đạo pháp, cứu độ chúng sanh.
CHÚ THÍCH :
TRÍ HUỆ: Cũng gọi là trí tuệ. Phạn ngữ là Prajnà, có nghĩa sáng suốt, thông đạt cả sự lẫn lý. Sở dĩ ví trí huệ như lưỡi gươm là vì nó có tánh cách sắc bén, chặt đứt cội phiền não (tham, sân, si):
“Trí huệ dứt xong rồi quả báo,
Lo gì cửa Phật chẳng chen vào”.

TỪ BI: Hai trong bốn đại đức của chư Phật, có nghĩa hiền lành thương xót. Trí huệ từ bi là trí sáng suốt thương xót chúng sanh của Đức Phật:
“Tiếng kệ từ bi quá diệu trầm,
Diệt lòng tham vọng diệt thinh âm”.


CHỚP NHOÁNG: Tia chớp sáng rực lên như luồng điện một cách mau lẹ, vượt nhanh hơn ánh sáng của lửa thường :
“Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp.
Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa”.
BÓNG QUANG ÂM: Bóng sáng và tối. Ý chỉ cho ngày và đêm.
DẬP DỒN: Ý chỉ ngày giờ, năm tháng qua rất mau lẹ. Cứ dồn dập tới tấp, hết ngày này sang qua ngày khác.
THẾ TÔN: Một trong 10 danh hiệu của Phật. Có nghĩa cả thế gian đều tôn vinh và cung kính Ngài:
“Ngài là vua Pháp tột cao,
Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
Tiên, người đồng kính đạo Thầy,
Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh”.
HẠ GIÁI: Cũng gọi là hạ giới, tức là cảnh giới chúng sanh đang sống.
CHÁNH VĂN
5. Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp,
Chấp bút thần tả ít bổn kinh.
Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh,
Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp.
Giống Hồng-Lạc kim-chi ngọc-diệp,
Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn.
Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then,
12. Nên ít kẻ tu-hành đắc Đạo.

LƯỢC GIẢI :
Đức Thầy tùy theo phong tục và sự giáo hóa của nhân sanh hiện tại mà Ngài viết ra Kinh Giảng cho phù hợp với trình độ mỗi địa phương dễ thiệt hành và dễ chứng đắc.
Dân tộc Việt Nam xưa kia rất hiền lương tốt đẹp như cành vàng lá ngọc. Nhưng vì thời nay đã đổi lại thấp hèn nhơ xấu.
Kể từ sau ngày Đức Lục Tổ Huệ Năng bặt truyền y bát tới nay, ấy gọi là Pháp môn bế mạc, cửa Đạo càng gần như bị đóng cửa. Người tu phần đông chạy theo âm thanh sắc tướng, nên rất ít kẻ tu hành đúng chơn lý và chứng đắc.
CHÚ THÍCH :
PHONG HÓA: Phong; tập tục; Hóa: văn hóa giáo dục. Nghĩa rộng là cách thức ăn ở phù hợp với nền văn hóa và thuần phong mỹ tục của một nước.
DÂN SANH: Đời sống của dân chúng.
BÚT THẦN: Chỉ lời của Đức Giáo Chủ nói ra như có thần hóa vì nó xoay chuyển được cuộc diện hay tâm hồn con người, từ xấu ra tốt, từ thấp hèn trở nên đúng đắn, như Ngài đã viết:
“Huơi bút thần dẹp lũ cáo xà,
Loài độc địa toan trừ dứt nọc”.
Hoặc là:
“Miệng nhích môi đầy văn tao nhã,
Hạ bút thần thơ đã đề khai”.
TẢ ÍT BỔN KINH: Sáng tác ra một số Kinh Giảng để giáo hóa chúng sanh.
LUẬT TRỜI MỞ RỘNG: Luật trời đất ( như luật nhân quả ) mênh mông rộng khắp mà chi phối chẳng lọt một ai cả:
“Luật nhân quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.
PHONG VÕ: Mưa và gió. Ý chỉ thời tiết vận chuyển trong trời đất xoay đảo không ngừng.
GIỐNG HỒNG LẠC: Chỉ dòng giống của dân tộc Việt Nam, bắt đầu từ họ Hồng Bàng với với thủy tổ là vua Lạc Long Quân (thế kỷ 29 TCN).
KIM CHI NGỌC DIỆP: Cành vàng lá ngọc. Ý chỉ dân tộc ta khi xưa sự ăn ở và nếp sống rất đạo đức tốt đẹp, quí báu như cành vàng lá ngọc.
TỪ NGÀN XƯA: Từ xa xưa, chỉ từ thời Đức Lục Tổ Huệ Năng bặt truyền y bát (y bát của Phật không còn trao truyền tiếp nối trên thế gian nữa) giống như cái nhà bị đóng cửa. Do đó, người tu hành ít ai đắc đạo.
CHÁNH VĂN
13. Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo,
Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng.
Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn,
16. Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu.
Khùng toán biết âm-dương kết-liễu,
Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca.
Huơi bút thần dẹp lũ cáo-xà,
20. Lòai độc-địa toan trừ dứt nọc.

LƯỢC GIẢI :
Đức Thầy luôn nói những lời khiêm nhượng, lúc nào cũng tỏ ra mình là người khờ khạo ngu dốt để tìm phương tiện giác tỉnh quần sanh. Bởi vì Ngài quá thương xót chúng sanh nên luôn luôn lo lắng tìm phương cứu độ.
Tuy hình tướng bên ngoài giả dạng Điên Khùng, song lời ý Pháp của Ngài thốt ra toàn những lời cao sâu mầu diệu. Bởi Ngài đã thông đạt sự vận chuyển và sự liên kết của cơ tạo hóa tới đây sẽ ra sao và giáo pháp mầu diệu của Đức Phật mà nhà tu thành đạt như thế nào.
Ngài cũng có bổn phận dẹp trừ tận gốc những loài ác hung phiền não bằng ngọn bút thần của Ngài để đưa chúng sanh sang bờ giác.
CHÚ THÍCH :
TÂM NÃO BẮT CUỒNG: Trí óc muốn điên lên hay tâm trí bấn loạn. Nhưng chữ cuồng ở đây là do chữ cuồng sĩ tức là một người rất sáng suốt mà giả dạng “điên khùng” chớ chẳng phải là khùng điên thật.
DƯ MUÔN: Hơn một vạn, đây chỉ con số thật nhiều, đếm chẳng xiết.
CÂU TUYỆT DIỆU: Tuyệt là hay hơn hết, chỉ cao tuyệt hơn hết trong mọi lãnh vực.
“Huyền Pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,
Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”
KẾT LIỄU: Kết là nhiều thành phần liên hợp lại, như chữ đoàn kết. Chữ kết liễu ở đây có ý chỉ Đức Giáo Chủ biết rõ sự sắp đặt bộ máy âm dương của Trời đất cho đến ngày kết cuộc.
TOÁN BIẾT: Cũng gọi là đoán biết. Có nghĩa đoán biết công việc sắp xảy ra. Đây là một ngữ pháp trong Kinh Dịch. Như thời Tam Quốc có Khổng Minh, lúc còn ngồi trong thảo am, ông đoán biết vận mạng của nước Tàu trước và sau 100 năm. Còn tại Việt Nam ta có cụ Trạng Trình lúc ở tại Bạch Vân am, cụ cũng đoán biết vận mạng nước nhà 500 năm sau. Đức Thầy viết:
“Ngày nay xe lết xe lôi,
Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê.
Chúng sanh thế giới ê hề thây phơi.
Trạng Trình truyền sấm mấy lời,
Ngày nay dân chúng vậy thời rán tri”.

HUYỀN CƠ: Huyền: sâu kín, mầu nhiệm; Cơ: guồng máy. Máy vận hành của tạo hóa rất mầu nhiệm, cơ
mật. Đức Thầy từng nói:
“Câu Đạo lý cơ huyền khó kiếm” hoặc là : “Thiên cơ Đạo lý để lòng mới thôi”.
CHÁNH VĂN
21. Noi tục cổ xác Khùng để tóc,
Phải đua chen tập tánh ông cha,
Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha,
24. Trừ vật-dục trì chơn bất hoại.
Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải,
Thương hồng-trần mượn xác tái-sanh.
Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh,
28. Nên cấu-xé cùng nhau thảm-não.

LƯỢC GIẢI :
Đức Thầy cho biết, vì Ngài muốn noi theo phong tục của ông cha từ xưa, nên xác thể Ngài để tóc. Ý chỉ Ngài muốn khuyên dân chúng nên gìn giữ bản sắc dân tộc, chớ nên bắt chước theo nền văn minh vật chất của Âu Tây mà bị tha hóa, mục đích là để gìn giữ biểu dương tinh thần yêu nước của mình. Ngài còn khuyên môn đồ chẳng nên đam mê theo vật chất phù hoa, vì những thứ đó đều là ảo ảnh gạt lường, như giấc mộng Nam Kha vậy thôi. Hãy nên gìn giữ cái tâm chơn thật của chính mình cho được trường tồn vĩnh cửu.
Đức Giáo Chủ còn cho biết từ nhiều tiền kiếp Ngài đã tu hành chứng Đạo, nay dùng cặp mắt Thánh nhìn khắp bốn biển, thấy chúng sanh sắp vương tai khổ, nên nay tái sanh để tùy phương cứu độ.
CHÚ THÍCH :
TỤC CỔ: Nếp sống và sự ăn ở đúng theo phong tục cổ truyền của nước ta.
GIẤC NAM KHA: Xem lại CT tại tr. 182 trong bài Tỉnh Bạn Trần Gian, Tập nầy.
TRỪ VẬT DỤC: Trừ lòng ham muốn vật chất: danh, lợi, tình.
TRÌ CHƠN: Gìn giữ cái tâm chơn thật.
CẶP MẮT THÁNH: Cặp mắt của chư Phật Thánh đã tu hành chứng đắc ( La-hán, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật). Mắt thánh là chỉ cho thiên nhãn thông.
TỨ HẢI: Bốn biển, chỉ cho khắp thế giới năm châu.
TÁI SANH: Sanh trở lại hoặc chuyển kiếp lại.
Nghĩa bóng là nói Đức Thầy vì có bản nguyện và sứ mạng nên chuyển kiếp trở lại độ chúng, như Ngài từng viết:
“Lòng yêu sanh chúng luân chuyển kiếp, Dạ ái dương trần đổi xác thân”.
VĂN VẬT: Văn minh và vật chất.
THẢM NÃO: Đau đớn sầu khổ.
CHÁNH VĂN
29. Sá chi kẻ ngu-si khinh-ngạo,
Vì trên đời nhiều hạng khác nhau.
Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao,
32. Người bội-phản ghét-vơ đạo-lý.
Khùng cảm mến truyền câu hồi vị,
Thà làm hiền mà biết non-sông,
Điên như Ta Điên giống Tiên Rồng,
36. Điên gỡ ách xích-xiềng thế tục.

LƯỢC GIẢI :
Ở đời, có lắm kẻ quá mê si, hễ thấy ai có đạo đức thì khinh chê nhạo báng. Đức Giáo Chủ không màng kể, ấy vì họ không thấu hiểu đạo đức là gì !
Hơn nữa, người đời tâm trí tánh tình chẳng đồng nhau. Có người thì luôn trung thành với ông cha Thầy Tổ, có kẻ lại phản bội Đạo nhà Tổ quốc, chẳng ưa gì Thầy Tổ.
Đức Thầy rất cảm mến những bậc trung thành ngay chánh, biết trở về con đường đạo đức hiền lành. Thà làm lành mà biết tưởng nhớ đến non sông Tổ quốc, Đức Giáo Chủ tuy giả dạng Điên Khùng, nhưng lúc nào Ngài cũng yêu thương nòi giống để tùy phương cứu gỡ đất nước thoát khỏi vòng xiềng xích của dòng đời và thiện tín thoát ly cảnh khổ.
CHÚ THÍCH :
SÁ CHI: Chẳng kể chi, chẳng ngại gì chuyện đó.
NGU SI: Ngu muội chẳng biết gì.
KHINH NGẠO: Khinh chê nhạo báng.
TRUNG THẦN: Người tôi dân có lòng trung cang nghĩa khí.
DẠ NGỌC: Lòng dạ tốt đẹp đối với mọi người. Từ trong gia đình đến xã hội luôn có lòng đạo đức, đúng với lẽ phải, được người đời quí trọng như vàng ngọc.
BỘI PHẢN: Người không trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Thầy Tổ, bạn bè, ấy cũng gọi là người hay phản phúc. Ví dụ: Trò phản thầy, tớ phản chủ, tôi dân hay mãi quốc cầu vinh. Đức Thầy từng diễn tả cảnh trạng ấy:
“Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân,
Nào kể chi là Đạo Quân Thần.
Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết Thầy tội ấy đáng không ?
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,
Tình nhân loại phân chia yểm bách”.

HỒI VỊ: Trở lại con đường tốt đẹp hay ngôi vị cũ tốt đẹp của chính mình.
ĐIÊN NHƯ TA ĐIÊN GIỐNG TIÊN RỒNG: Đức Thầy nhắc đến vua Lạc Long (rồng) và bà Âu Cơ (tiên).
Hai người sản sanh giống dân Việt Nam ta, nên gọi là giống Tiên Rồng. Đây là lời Vua Lạc Long nói với bà Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, còn Bà là giống Tiên không thể ăn đời ở kiếp với nhau mãi được !” Nên bà dắt 50 người lên non tu hành, sau thành Tiên. Còn ông thì dắt 50 người xuống biển làm vua cai trị nước Nam ta (bấy giờ có tên là Văn Lang), trị vì được 18 đời vua Hùng Vương, kéo dài 2622 năm, kết thúc là vua Hùng Vương thứ 18 (268 TCN). Xưa nay, văn chương thường nhắc đến hai chữ Tiên Rồng hay Rồng Tiên là ý muốn nói đến Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam.
XÍCH XIỀNG THẾ TỤC: Người bị sợi dây trói trăn trong cõi phàm tục sanh tử luân hồi khó mà thoát ly ra được. Đây có ý nói tuy Đức Thầy giả hiệu là Khùng Điên, nhưng lòng Ngài lúc nào cũng quyết đem dân tộc Việt ra khỏi vòng nô lệ của ngoại bang (về mặt đời) và chúng sanh thoát cảnh lưân hồi sanh tử (về mặt đạo).
CHÁNH VĂN
37. Chuông Linh-Khứu ba hồi giục-thúc,
Đờn Lôi-Âm khởi điệu êm tai.
Con lành duyên khá trở gót hài,
40. Điên quyết chí dắt người lánh tục.
Đạo mở cửa bày câu minh-mục,
Nưóc ma-ha tưới tắt lòng phàm.
Cõi Trung-Uơng luân chuyển phương Nam,
44. Mở hội Thánh chọn người trung-hiếu.

LƯỢC GIẢI :
Đức Thầy cho biết Ngài đem nền giáo lý của Đức Phật Thích Ca từ chùa Lôi Âm và núi Linh Khứu ra giáo hóa chúng sanh. Ngài kêu gọi những ai có duyên lành với Phật Pháp hãy sớm quay về nẻo Đạo để thoát ly cảnh khổ.
Ngài vạch rõ đường lối tu hành trước mắt mọi người và dùng Phật Pháp (nước ma-ha) tưới tắt lòng tham, sân, si, thù hận trong mỗi chúng sanh để thoát khỏi vòng khổ đau sanh tử.
Đức Thầy cũng nói rõ từ trước tới giờ, vị trí trung ương của Phật giáo là Thiên Trước (Ấn Độ). Thời gian sau, sang qua Trung Hoa. Rồi sẽ luân chuyển qua phương Nam ( tức nước Việt ) để qui hội các bậc Hiền Thánh, lập ra đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Vậy chúng ta còn chờ chi nữa mà chẳng phát tâm tu thân hành đạo.
CHÚ THÍCH :
LINH KHỨU: Còn gọi là Linh Thứu (Gradhakuta),. Đây là quả núi có hình giống con chim thứu ( chim ô, chim kên kên), nơi Phật đã từng ngự và thuyết pháp. Phiên âm từ tiếng Phạn là Kỳ-Xà-Quật sơn, cũng được gọi là Kê- Túc sơn (quả núi có hình giống con gà trống) hoặc Linh sơn. Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” được Phật thuyết tại đây. Linh Thứu Sơn còn để chỉ xứ Phật hay chỗ Phật ngự. Đức Thầy nay cũng từng bảo:
“Ta vì vưng sắc lịnh ngọc tòa,
Đền Linh Khứu sơn trung chịu mạng”. (GMTK, Q.4)
LÔI ÂM: Tên của một ngôi chùa tức Lôi Âm tự. Lôi âm cũng chỉ tiếng đờn tức đờn Lôi âm.Ý chỉ tiếng giáo pháp của Phật thuyết rất thanh bai tao nhã, mầu diệu thâm trầm khiến người nghe cảm nhận như tiếng đờn. Đức Thầy có câu:
“Lôi Âm giục khởi tiếng đờn
Thất sơn dấy loạn là cơn hiểm nghèo”
(Thiên Lý Ca)
Hoặc:
“Lôi Âm Tự đường đi chưa đến,
Nên giữa chừng kẻ mến người khinh”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

LÀNH DUYÊN: Thướng nói duyên lành. Ai có kết duyên lành với Phật pháp thì sớm muộn gì cũng phát tâm tu hành hướng về Phật quả.
Xưa, có một hành giả chỉ một thời gian ngắn mà được chứng quả. Các đệ tử bạch hỏi Phật về lý do. Phật trả lời: Hành giả nầy trước kia là một cư sĩ, có lòng kính tin nơi Phật, nghe tiếng người niệm Phật niệm Kinh rồi niệm theo. Một hôm, ông vào rừng đốn củi bị cọp rượt, ông vừa niệm Phật vừa leo lên cây, cọp bỏ đi. Ông tiều không bị cọp hại, sống và lo tu hành nên nhanh chóng đạt thành Phật quả.
LÁNH TỤC: Lìa khỏi nơi phàm tục.
MINH MỤC: Minh là sáng , Mục là mắt. Đây nói Đức Thầy mở Đạo để vạch con đường sáng trước mắt cho mọi người thấy rõ mà tu hành, khỏi bị lầm lạc.
MA HA: Phạn ngữ: Mahâ, nghĩa là lớn (đại), nhiều (đa). Nói nước Ma-ha là chỉ nước pháp tam muội (chánh định), có diệu năng rửa sạch lòng trần dơ bẩn: “Nước Ma Ha tưới tắt lòng phàm”. Ma ha thoàn là chỉ trí tuệ bát nhã ví như con thuyền đưa người vượt khỏi bờ mê:
“Ma Ha thoàn nhã đã dọn rồi,
Lèo lái trương buồm chớ thả trôi”.
Hoặc là:
“Biển trần sóng cuộn lao xao,
Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen”(Tự Thán).
CÕI TRUNG ƯƠNG: Chỗ giữa, chỗ trung tâm. Xưa nay, hễ nơi nào có chư Phật Thánh ra đời thì nơi ấy trở thành Trung Ương Thánh Địa. Như khi xưa, Đức Phật Thích Ca xuất hiện thì tại xứ trung Ấn Độ trở thành Thánh Địa. Rồi đến thời Đức Đạt Ma Tổ Sư, Ngài thấy duyên Phật Pháp ở đây không còn thạnh hành nữa liền chuyển đến Trung Hoa thì Trung Hoa trở thành Trung Ương Thánh Địa. Trải qua sáu đời Tổ tương truyền ở Trung Hoa,
đến đời nhà Trần, đạo Phật nước ta bắt đầu phát triển và dẫn tới thời Đức Phật Thầy Tây An với Bửu Sơn Kỳ Hương, cho đến nay là thời Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời mở Đạo Phật Giáo Hòa Hảo. Diễn biến tới đây sẽ đưa nước Việt Nam ta thành cõi Trung Ương của Đạo Phật như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã xác định:
“Nước Nam Việt nhằm cõi Trung Ương,
Sau sẽ có Phật Tiên tại thế”.
Hoặc là:
“Luôn từ ngày Tăng Sĩ xa nhà,
Đều uất kết tâu qua cùng Thượng Đế.
Ngày vâng chỉ đáo lai trần thế,
Cõi Trung Ương nhằm đất nước Việt Nam.
Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm,
Mượn tay gã, tờ hoa Thần hạ bút”.
(Trao Lời cùng Ông Táo)

CHÁNH VĂN
45. Tử vì nước còn ghi linh miếu,
Thác vì đời thanh-sử danh bia.
Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia,
48. Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực.
Nước văn-minh chê đồ ấy nực,
Mảng trau-tria xác thịt thanh-bai.
Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai,
52. Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh.
Chén quỳnh-tương gác điều gai ngạnh,
Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ.
Khi thừa-nhàn trổi giọng ngâm thơ,
56. Bày thi phú than qua thời-thế.

LƯỢC GIẢI :
-Đoạn giảng trên, Đức Thầy cho biết: Xưa nay những người chết vì nước non dân tộc, cứu nguy đồng bào Tổ quốc đều được sử sách ghi biên, miễu son thờ phượng. Và người xưa tuy cách ăn mặc có hơi thô kịch, song lòng dạ rất ngay thẳng chánh chơn.
-Ngược lại, các nước văn minh sống theo vật chất phù hoa, chê bai lối sống thời xưa ô dề chật nực, chỉ lo ăn diện cho trơn láng hở hang, bỏ hết lễ nghi phong tục của ông cha từ trước.
-Đức Giáo Chủ còn cho biết nếp sống theo cảnh dương trần hiện tại, không sao bằng cảnh sống nơi Bồng Lai Tiên Cảnh, tức Ngài muốn chỉ đời Thượng nguơn Thánh đức sắp tới đây. Nơi ấy sẽ đầy đủ vật liệu của các Tiên gia:
“Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,
Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”.

-Người sống trong cảnh nầy chẳng còn hơn thua, tranh chấp hay giành giựt gây gổ lẫn nhau, ngày đêm sống vui vẻ với văn chương thi phú.
CHÚ THÍCH :
TỬ VÌ NƯỚC, THÁC VÌ ĐỜI: Chết để bảo vệ Tổ quốc quê hương, đồng bào chủng loại, không lo riêng tư cho cá nhân mình.
LINH MIẾU: Cái miễu hoặc đình (đền thờ) người ta xây cất để thờ phượng những bậc có công cứu nước giúp đời, tại các địa phương thường có. Hằng năm cúng tế để cầu nguyện cho quốc thới dân an, bá tánh an cư lạc nghiệp. Trong các cuộc lễ cúng tế trên người ta luôn đọc lại tiểu sử và sự nghiệp của các Ngài để nhắc nhở dân chúng tưởng nhớ noi theo gương hạnh tốt đẹp đó. Đức Thầy có câu:
“Trăm năm ghi tạc miễu son,
Trung quân ái quốc hỡi còn danh bia”.
(Viếng Làng Phú An)

THANH SỬ: Cũng gọi là sử xanh. Thời xưa, người ta chưa làm được các thứ giấy. Chỉ dùng cật tre xanh mà chép sử nên gọi là sử xanh hay thanh sử:
“Tiếng roi lại Bình Ngô sát Đát,
Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm”. (Gọi Đoàn)
“Dở sử xanh Nam Việt mà coi,
Gương Trưng Triệu còn roi muôn thuở”.
(Gọi Đoàn Phụ Nữ)

MŨ CÁNH CHUỒN: Cái mão các quan hồi xưa đội để đi làm việc, có hai cánh hai bên như hai cánh con chuồn chuồn.
ĐAI GIÁP: Các quan lính thời xưa khi đi đánh giặc có mang đai giáp quanh mình để che thân. Họ mang cả giáp đồng giáp sắt và giáp thiết nữa (thiết giáp), tên bắn trúng cũng không lủng.
HIA: Như đôi giày, có hai mỏ nhọn lên, các quan lớn vào chầu vua đều có chân mang hia.
THÔ KỊCH: Ô dề kịch cợm, nhìn thiếu trang nhã.
CHÁNH TRỰC: Ngay thẳng, lòng ngay thẳng trước sau như một. Đức Thầy có bảo:
“Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo,
Kim thời bá tánh gọi ngu si”.
BỒNG LAI: Xem lại chú thích tại tr. 138 Q. Thượng Tập 1/3.
RƯỢU THÁNH: Rượu của chư tiên dùng, nấu bằng trái bồ đào, uống vào chẳng bị say như rượu thường ở cõi trần gian. Đức Huỳnh Giác Chủ từng bảo:
“Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,
Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”.

CHÉN QUỲNH TƯƠNG: Quỳnh: tên một loại ngọc đẹp; tương: một loại nước uống. Đây chỉ một loại rượu thánh đưng trong chén ngọc. Đức Thầy: “Đặng chung cùng một tiệc quỳnh tương.”
THỪA NHÀN: Rảnh rang thong thả, chẳng có việc gì phải lo âu sầu khổ.
TRỔI GIỌNG NGÂM THƠ: Cảnh của chư tiên ở, lúc nào cũng thảnh thơi nhàn hạ, ít có việc chi trói buộc bận rộn nên thường ngâm nga những lời thi phú. Thi phú của các Ngài thường dùng lời lẽ thức thời, giác chúng, hoặc tiên tri những việc sắp xảy ra, như Trần Đoàn tiên ông ngâm thơ cho biết Triệu Khuông Dẫn sắp lên ngôi báu:
“Vận khí xoay vần lối hiệp tan,
Huỳnh bào đấp cật vững âu vàng.
Trần gian từ đấy đà vô sự,
Ta trở về ngôi mới ngủ an”.

Và thơ của cụ Trạng Trình ở Việt Nam ta, lúc nhàn rỗi ở Am Bạch Vân ông có ngâm nga trên 500 bài thơ phú để giác đời và tiên tri thời cuộc, trong đó có tiên tri trận thế chiến thứ hai bùng nổ mà nay Đức Hùynh Giáo Chủ có nhắc lại:
“Ngày nay xe lết xe lôi,
Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
Là năm Rồng,Rrắn, Ngựa, Dê,
Chúng sanh thế giới ê hề thây phơi.
Trạng Trình truyền sấm mấy lời,
Ngày nay dân chúng vậy thì rán tri”(SGQ.3)

Sau nầy, đến giữa năm Kỷ Mão 1939 (trước trận đệ nhị thế chiến), Đức Huỳnh Giáo Chủ nói tiếp thêm:
“Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng”(SG Q.1)

CHÁNH VĂN
57. Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,
Chốn hồng-trần đuốc huệ liền khai.
Cho nam-nhi sửa mặt râu mày,
60. Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt,
Gái anh-hùng xưa có Trưng-Vương.
Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương,
64. Rửa xong hận thù chồng dốc trả.

LƯỢC GIẢI :
Đoạn giảng vừa qua, Đức Giáo Chủ nói rõ: Ngài lâm phàm khai Đạo, dùng đuốc huệ cứu dân, dù thân Ngài có chịu gian lao cực khổ cũng chẳng nài hà, miễn làm sao cho hàng nam nhi nữ kiệt biết giác tỉnh tu hành.
Nam thì rạng rỡ phận mày râu. Nữ thì vẹn tròn câu tứ đức để rạng rỡ mặt mày cho non sông Tổ quốc, ấy là Ngài được an lòng.
Ngài kêu gọi hàng thanh niên, nam nữ hãy bắt chước gương xưa, như hai bà Trưng, là trang nữ nhi anh hùng đã thể hiện tinh thần báo đáp nợ nước thù nhà. Bà Trưng vừa đền nợ nước vừa báo thù chồng mà đánh đuổi quân xâm lăng Tô Định ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà. Hiện giờ sách sử còn ghi biên, miễu son tạc để.
CHÚ THÍCH :
RÂU MÀY: Cũng gọi là mày râu, nghĩa của chữ nam nhi. Chỉ cho chí khí của phận mày râu nam tử.
TRINH LIỆT: Trung trinh và tiết liệt, chỉ cho giới nữ không làm điều hư thân mất nết.
TUẤN KIỆT: Người tài giỏi và có tiết liệt hơn kẻ khác.
ANH HÙNG: Cũng viết là hùng anh. Anh là vua các loài hoa; Hùng là vua các loài thú. Nghĩa bóng là những người tài giỏi có chí khí lớn hơn người. Đức Thầy có câu:
“Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị,
Anh hùng đâu xá cảnh gian lao”. Hoặc là:
“Nam Việt anh hùng đúc khí hào”.
Và: “Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu,
Un đúc giống anh hùng vang bốn bể”.
TRƯNG VƯƠNG: Trưng Nữ Vương, tức hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai bà là hai chị em ruột, con của một quan Lạc Tướng, người ở làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh, tỉnh Phúc Yên. Quân Tàu đô hộ nước ta, dùng chánh sách khắc nghiệt đối với dân Việt. Họ sai Tô Định giết ông Thi Sách là chồng của bà Trưng Trắc.
Vì muốn bảo vệ dân tộc, đền nợ nước và trả thù chồng, bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đứng lên chiêu tập anh hùng khởi nghĩa đánh giết được Tô Định vào năm 40 TCN. Dân chúng tôn hai Bà lên ngôi, xưng là Trưng Nữ Vương. Hai bà làm vua được 3 năm. Sau vì binh ít thế cô nên bị thua Mã Viện ở Cẩm Khê, hai bà nhảy xuống sông Hát Giang mà tự sát vào ngày mùng 6 tháng 2 năm Quí Mão. Hàng năm dân chúng đều có cúng tế hai Bà rất trọng thể, gương trung liệt của hai Bà còn xán lạn khắp năm châu.
CHÁNH VĂN
65. Xưa Châu-Xáng thanh-long phải tá,
Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.
Nói cho đời rõ biết Khùng-Điên,
68. Điên vận bĩ điên câu ái-quốc.

LƯỢC GIẢI :
Bốn câu giảng trên, Đức Thầy nhắc lại thời Thập bát phản vương (bên Tàu), có Châu Xáng mượn thanh long đao của Quan Công ngăn Thượng Sư Đồ để cứu Ngũ Viên Thiệu. Mặc dù Châu Xáng tài kém hơn Thượng Sư Đồ nhưng vì có lòng tốt muốn cứu người, thêm được sự gia hộ của các bậc Thần Thánh nên ngăn được giặc và cứu Ngũ Viên Thiệu thoát nạn.
CHÚ THÍCH :
CHÂU XÁNG:
Người Trung Quốc vào thời Thập bát phản vương. Lúc thất thời đang đốn củi dựa mé rừng, ông bỗng nghe tiếng quan binh la hét bèn leo cây cao nhìn xuống thấy Thượng Sư Đồ đang cỡi ngựa rượt theo Ngũ Viên Thiệu. Ông Viên Thiệu vừa đeo con vừa chống giặc sắp chết tới nơi, ông bèn tuột xuống chạy vào miếu Quan Công gần đó lấy cây thanh long đao mà Châu Xương đang ôm phò Quan Công. Ông chạy ra đón đường Thượng Sư Đồ miệng hét vang như sấm nổ. Thượng Sư Đồ thấy bộ mặt của Châu Xáng có vằn vện giống hình sắc của Châu Xương, nên giựt mình, tưởng mạng Châu Xáng chưa chết nên có Châu Xương hiện hình về hỗ trợ. Sư Đồ liền ra lịnh lui binh, khiến Viên Thiệu được thoát chết.
SƯ ĐỒ - NGŨ VIÊN: Sư Đồ tức Thượng Sư Đồ là một lãnh tướng của bạo chúa Tùy Dương Đế trong thời Thập bát phản vương bên Tàu. Ngũ Viên tức Ngũ Viên Thiệu, con của một lãnh tướng khác của Tùy Dương Đế; vị tướng nầy đã bị Tùy Dương Đế giết chết vì có sự bất hòa. Do đó, Tùy Dương Đế sợ Ngũ Viên Thiệu báo thù cha nên phong tướng Thành Đô làm Vô địch tướng quân cầm quân vây đánh Ngũ Viên Thiệu. Ngũ Viên Thiệu thế cô nên đóng cửa thành cố thủ, vợ ông nhảy xuống giếng tự tử để chồng khỏi bận bịu khi thoát thân. Rồi, thế cùng lực tận nên Viên Thiệu phải đai con nhỏ trước ngực phá vòng vây mà chạy về hướng Thượng Sư Đồ đang trấn giữ. Thượng Sư Đồ giục ngựa đuổi theo Viên Thiệu. Trong thế lâm nguy, Châu Xáng đã xuất hiện cứu thoát Viên Thiệu.
PHẢI TÁ: Phải mượn.
VẬN BĨ: Vận xấu. Thời vận còn xấu chưa hanh thông tốt đẹp.
CHÁNH VĂN
69. Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc,
Đem Đạo lành ban rải nơi nơi.
Mảng chờ trông bá-tánh thảnh-thơi,
72. Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
Rừng bác-ái điên đời biến-ảo,
Điên như ta vì Đạo vì dân.
Điên tu cầu Quân thánh rải ân,
76. Cho bốn biển dân lành được hưởng.

LƯỢC GIẢI :
Đức Giáo Chủ dùng ngọn viết và một số lời lẽ đem nền Đạo bủa khắp bàng dân bá tánh. Ngài cũng mong đợi sẽ có một thời mà khắp bá tánh trong bốn biển năm châu đều được hưởng cảnh thái bình an lạc và mỗi người đối xử với nhau đều được hiếu hòa thuận thảo.
Ngài còn cho biết lòng bác ái của Ngài thường lo cho khắp chúng sanh bao la vô bờ bến. Cuộc đời sắp tới đây sẽ biến đổi lạ lùng. Ngài giả “điên” ở đây là vì quyết phổ biến đạo mầu để cứu khổ toàn dân và Ngài cũng thiết tha cầu nguyện với bậc Thánh chúa sớm bủa nhuần ân đức cho nhân loại khắp mười phương cùng thừa hưởng.
CHÚ THÍCH :
VIẾT MỘT NGỌN LƯỠI NẦY MỘT TẤC: Cây viết và một số lời ý. Nghĩa bóng là ám chỉ sự nghiệp văn chương và giáo lý.
THẢNH THƠI: An nhàn thong thả.
LIÊN DÂY HÒA HẢO: Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo được truyền bá khắp bàng dân bá tánh. Ý chỉ một cảnh sống có mối liên hệ thuận thảo hiền hòa.
VÌ ĐẠO VÌ DÂN: Vì Tổ quốc và Đạo pháp.
QUÂN THÁNH: Bậc Thánh chúa hay Thánh vương. Đó là vị đã tu hành chứng quả Bồ Tát song vì bản nguyện mà chuyển kiếp trở lại độ đời. Đây chỉ Đức Minh Vương.
CHÁNH VĂN
77. Điên dẹp gác âm-thinh sắc-tướng,
Tầm vô-vi kiếm cảnh Niết-Bàn.
Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
80. Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
Bể ái-hà gươm linh sớm dứt,
Lòng bồ-đề sắt đá dám kình.
Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
84. Noi chí ấy sửa sang thời-thế.

LƯỢC GIẢI :
Tuy Đức Giáo Chủ giả vờ là người “điên” nhưng mục tiêu của Ngài là tìm cách dẹp bớt âm thinh sắc tướng để phục hưng chánh pháp vô vi của nhà Phật, đưa chúng sanh mau đạt đến cứu cánh Niết bàn an lạc.
Vì bản nguyện vị tha mà Ngài cỡi thuyền từ bi trở lại Đông Độ, tức cõi chúng ta đang sống, để cứu vớt những ai hữu tâm chí đức. Cho nên Ngài khuyên khắp môn đồ hãy dùng “gươm linh” tức trí huệ siêu mầu chặt đứt lòng luyến ái cõi trần mà nuôi dưỡng hạt giống giác ngộ (Bồ Đề) để đạt đến chỗ bất sanh bất diệt.
CHÚ THÍCH :
ÂM THINH SẮC TƯỚNG: Âm thinh là những thứ trống mõ chuông đẩu, các thứ đờn kèn tụng tán ca hát v.v…Sắc là màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng và sắc người, hay làm cho người ta mê nhiễm, tức những hình tướng đẹp xấu, mập ốm, thô mịn,…Đó là thinh trần hay sắc trần. Nhà tu nếu còn ô nhiễm một thứ nào cũng khó thành đạo. Bởi:
“Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo,
Chơn truyền cụ thất đạo nan thành”. Hoặc:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thinh cầu ngã.
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai”.
(Bằng dùng sắc mà ra mắt ta,
Lấy âm thinh mà cầu ta.
Thiệt là người hành tà đạo,
Không thể thấy được Phật).
NIẾT BÀN:
Xem lại chú thích tại tr. 77-79 Q. Thượng Tập 3/3.
THUYỀN TỪ BI: Nói tắt là thuyền từ, cũng gọi thuyền đạo. Ý chỉ lòng từ bi ví như chiếc thuyền có diệu năng chở chúng sanh rời bờ mê sang bến giác. Đức Thầy còn nói:
“Khắp trong bá tánh đều lai tỉnh,
Bước xuống thuyền từ đến cửa không”.
Và: “Thả thuyền từ bến giác nâng niu,
Kẻ hiểu đạo mau mau bước xuống.

ĐÔNG ĐỘ: Các nước ở hướng Đông (Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bổn, Triều Tiên,…).
BỂ ÁI HÀ: Do câu: “Tình thiên dục hải”(Tình cảm mêng mông như trời, lòng dục rộng lớn như biển). Kinh Phật: “Nước mắt của chúng sanh từ xưa đến nay góp lại nhiều hơn nước biển đại dương”. ‘Bể ái hà’ là chỉ lòng thương yêu dính mắc nhau quá rộng lớn.
CHÁNH VĂN
85. Trời quá buổi chinh-chình vừa xế,
Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy,
88. Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.
Điên đàm-luận ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn-bạc thể-nào ?
Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
92. Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo-đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình.
Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
96. Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.

LƯỢC GIẢI :
Đoạn giảng nầy Đức Thầy muốn nói cuộc thế chuyển xoay hết sáng rồi đến tối và ngược lại. Ở đây ý muốn nói thời Hạ nguơn mạt pháp thì tà chánh lẫn lộn. Nhà tu hãy dùng ánh sáng trí tuệ mà tìm đường ngay nẻo thẳng để đi về cõi an vui tịch tĩnh (Cực Lạc).
Đức Thầy rất khiêm nhường cho rằng lời của Ngài là thô dốt, chỉ muốn gợi ý để mọi người cùng bàn bạc suy gẫm mà chọn con đường chơn chánh để đi.
Ngài nói trong chơn tâm của mỗi người lúc nào cũng rỗng rang thông sáng, không hề dính mắc hay chứa đựng một vật gì, ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt.
Vậy hành giả nào muốn thấu suốt đến chỗ kỳ diệu đó, phải tuần tự bền lòng chặt dạ, ráng tu tiến từ nấc một để quyết thành công đắc quả.
CHÚ THÍCH :
TRỜI QUÁ BUỔI CHINH CHINH VỪA XẾ: Hồi xưa chưa có đồng hồ, người ta chỉ căn cứ vào bóng mặt trời mà biết giờ giấc làm việc. Mặt trời xế bóng thì thì biết sắp hết ngày, vào chiều tối (oàng hôn).
HUỲNH HÔN: Hay hoàng hôn tức lúc chạng vạng.
ĐÈN TRÍ: Đèn trí huệ.
NẺO THẲNG: Đường ngay chánh. Chỉ chánh đạo.
CỰC LẠC: Xem lại chú thích tại tr. 15, Q. Thượng Tập 2/3.
DỐT NÁT: Ít học, ít hiểu biết văn chương chữ nghĩa.
Ý KIẾN CHẲNG CAO: Kiến thức còn cạn hẹp thấp thỏi.
NỘI QUANG CẢNH: Nội là bên trong; Quang là sáng tỏ; Cảnh là cảnh vật. Nghĩa bóng ý nói trong tâm của người chứng đạo lúc nào cũng sáng suốt, làu làu không hề dính mắc hay chứa chấp một vật nào, dù là vô vi hay hữu vi. Ở đây chỉ cho bản lai tâm “bản lai vô nhứt vật”.
Đức Lục tổ Huệ Năng khi nghe kinh Kim Cang tới câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên trụ tâm vào chỗ vô sanh), Ngài liền hoát nhiên đại ngộ và thốt kệ rằng:
“Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,
Nào dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt.
Nào dè tánh mình vốn chẳng động lay,
Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ.
Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp”.

BƯỚC ĐI TỪ NẤC: Từng nấc một tiến lên. Ý chỉ cách tu tiệm giáo. Đốn giáo chỉ dạy: “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật” nhưng trên đường hành trì thì phần đông hành giả phải tu tiệm mới kết quả chắc chắn, không bị vấp ngã:
Mình chậm rãi mà tròn đạo ngỡi,
Còn hơn người tu xới tu bừa.
Giữ chánh tâm bước nấc hạ thừa,
Từ chỗ ấy mới đưa trung thượng”.(TS)

NGOẠI QUAN HÌNH BẤT CHẤP KỲ HÌNH: Bên ngoài thì quán xét mọi hình tướng cảnh vật nhưng tâm thì chẳng hề dính mắc một cảnh vật nào. Nghĩa là nhà tu hành làm các việc từ thiện, giúp đời, tuy quán biết mọi cảnh vật
lành dữ, có không, động tịnh,... ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức đều thấy biết rõ ràng, nhưng tâm vẫn như như bất động…Vẫn tu, vẫn học, vẫn chứng đắc mà không chấp mình có tu, có học, có chứng đắc. “Thật tế lý địa, bất nhiễm nhứt trần, Vạn hạnh môn trung, bất xả nhứt pháp”.(Nhà tu đúng theo lý pháp của Đạo thì tâm không ô nhiễm một mảy trần nào cả, nhưng đối với muôn hạnh lành trong thế gian thì chẳng bỏ một hạnh nào hết).
SẮT ĐINH: Hai vật cứng rắn bền chắt không gì làm hư rã. Nhà tu cứ bền lòng như vậy chắc chắn sẽ thành công trên bước đạo. Đức Thầy khuyên:
“Bền lòng giữ dạ sắt đinh,
Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh thơi”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
BẤT SANH BẤT DIỆT: Nghĩa của chữ Niết bàn. (Niết là bất sanh; Bàn là bất diệt).
CHÁNH VĂN
97. Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết,
Giải thoát rồi pháp bất khả dùng.
Nương gia-đình kính trọng cội thung,
100. Lo nưng-đỡ trong ngày tuổi hạc.
Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác,
Chén rượu nồng chẳng uống mà say.
Say lê-mê lết-mết tối ngày,
Say đạo-pháp say mùi hương khói.
105. Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi,
Bể ái-hà rứt bỏ vẹn lau.
Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
108. Trần-Di ngủ say câu thành-tựu.

LƯỢC GIẢI :
Vì sanh chúng đang ngụp lặn trong sông mê bể khổ, nên Đức Giáo Chủ quá thương xót phàm trần tạm dùng giáo pháp giác tỉnh quần sanh. Giáo pháp ấy ví như chiếc bè, hay đèn đuốc, thuốc hay để đưa người từ bờ mê sang bến giác, giúp cho người bịnh được lành, kẻ mê si sanh trí huệ.
Ngài chỉ áp dụng giáo lý ấy trong thời gian giáo huấn và hành trì xong rồi cũng buông xả chớ không bám víu vào một phương tiện nào, kể cả Thầy trò đều được an vui giải thoát.
Điểm trước tiên là Ngài dạy môn đồ phải làm tròn cái đạo làm người, tức là báo ân tổ tiên cha mẹ. Song song với sự niệm Phật làm lành, diệt trừ phiền não để giải thoát sanh tử.
Lúc lâm phàm, Ngài rất say mê đạo pháp, cũng như người chưa hề nếm rượu mà vẫn say. Bởi Ngài say vì lẽ cơ huyền đạo lý, vì quyết lòng cứu độ quần sanh ra khỏi bờ sanh tử mà thôi. Ngài giáo hóa nhơn sanh với quyết tâm và ước vọng cho đến khi nào giũ sạch lòng luyến ái trần duyên sanh tử, như: Huỳnh Bào Triệu Khuông Dẫn và Trần Hi Di ngủ thuở trước (xem chú thích bên dưới).
CHÚ THÍCH :
PHÁP BẤT KHẢ DÙNG: Pháp là một trong ba ngôi quí báu: Phật, Pháp, Tăng. Xưa, sau khi đắc đạo, Đức Phật thuyết ra vô số lời lẽ để giáo hóa chúng sanh. Đó gọi là giáo pháp hay kinh kệ. Sau các đại đệ tử của Ngài kết tập lài thành ba tạng: Kinh, Luật, Luận để tiếp tục truyền bá khắp chúng sanh. Giáo pháp là phương tiện, ví như thuyền bè, đèn đuốc hoặc thuốc hay.
Thuyền bè để đưa mình qua sông. Thuốc để trị hết bịnh, đèn đuốc giúp cho biết lối đi. Nhưng khi mọi việc hoàn thành thì khỏi cần dùng nữa. Pháp như thuyền bè đến bến khỏi cần giữ. Vì thế Đức Giáo Chủ dùng câu giảng kế đó: “Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.Nghĩa là khi hành giả muốn vượt bờ mê sang bến giác nên phải nhờ giáo
pháp làm phương tiện đó để đi; đến khi đạo quả viên thành thì buông xả không cần chấp mắc hay bám víu nữa.
CỘI THUNG: Thung cũng gọi là cây tòng có đặc tánh sống lâu. Trong văn học cổ gọi Thung đường để chỉ người cha, là ý chỉ công sanh thành dưỡng dục. Đức Thầy từng nói:
“Lo bề cúc dục cội thung,
Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời”.

(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
TUỔI HẠC: Tuổi cao, tuổi đã già.
SAY NHƯ XƯA NHẰM LÚC HUỲNH BÀO: Huỳnh bào là áo vua mặc, thường có đủ màu sắc và thêu rồng vàng. Do câu chuyện Trần Kiều binh biến và Triệu Khuông Dẫn lên ngôi ở Trung Hoa.
Bấy giờ có ba người kết bạn với nhau là Sài Vinh, Triệu Khuông Dẫn và Trịnh Ân, về sau làm nên nghiệp lớn. Sài Vinh được làm vua, hai người kia cùng phò tá. Về sau xảy ra cuộc Trần Kiều binh biến khiến Sài Vinh chết. Quan quân bàn thảo: Con của Sài Vinh còn nhỏ tuổi, không đủ sức cầm quyền nên tôn Khuông Dẫn lên nối ngôi. Vì tình nghĩa bạn thâm giao, Khuông Dẫn chẳng nỡ nhận, nhưng quan quân đồng lập kế, phục rượu cho Khuông Dẫn rồi lấy áo “huỳnh bà” mặc cho Khuông Dẫn rồi khiêng để nằm trên lâm sàng.Chừng tỉnh dậy thì việc đã lỡ nên Khuông Dẫn đành chịu làm vua.
Đoạn nầy ý nói khi vận thời đã đến dù việc chẳng tốn công bao nhiêu cũng vẫn thành quả.
TRẦN DI: Trần Di tức Trần Hi Di tiên sanh hay Trần Đoàn lão tổ. Ông là một vị tiên ẩn cư trên núi Tây Nhạc Huê Sơn thuộc huyện Huê Lâm, tỉnh Thiểm Tây (Trung Hoa). Ông tu đắc được pháp Long Thiền (đi thiếp), ông cũng là một tay cao cờ nổi tiếng. Một hôm, ông gặp Triệu Khuông Dẫn, lúc còn lưu lạc đó đây, hai người cùng rủ nhau đánh cờ ăn thua bằng quả núi Tây Nhạc. Trần
Đoàn vốn biết Khuông Dẫn sau nầy làm nên sự nghiệp (làm vua) mới ra điều kiện: Nếu ông thua thì ông chung tiền, bằng Khuông Dẫn thua thì phải giao núi Tây Nhạc cho ông.
Triệu Khuông Dẫn thầm nghĩ núi ấy của quốc gia, nào phải của riêng ta, ông liền bằng lòng ký giấy để được vào cuộc. Tuy Khuông Dẫn chơi cờ rất hay nhưng làm sao địch lại Trần Đoàn. Vì thế ông bị thua luôn mấy bàn. Sau khi được thiên hạ, Triệu Khuông Dẫn mới vỡ lẽ, đành phải giao núi cho Trần Đoàn. Trước đó gặp thời loạn lạc nhiễu nhương trong đời Ngũ quí, Trần Đoàn ngủ luôn mấy năm mới tỉnh dậy. Nhằm lúc Triệu Khuông Dẫn mới lên ngôi, hiệu là Tống Thái Tổ, ông liền cỡi lừa đi ngoài chợ, vừa uống rượu vừa vỗ tay cười lớn và ngâm lên bài thi:
“Vận khí xoay vần nỗi hiệp tan,
Huỳnh bào đắp cật vững âu vàng.
Trần gian từ đấy đà vô sự,
Ta trở về ngôi ngủ mới an”.

CHÁNH VĂN
109. Quyết đưa chúng về nơi non Thứu,
Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên.
Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền,
112. Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.
Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê.
Nên phải đành mang lốt làm hề,
116. Mặc bá-tánh khen chê cũng phải.

LƯỢC GIẢI :
Đức Thầy giáo độ nhơn sanh với quyết tâm làm sao dìu dắt mọi người được đến cảnh Phật, tức về đến Linh Thứu Sơn. Bằng không được vậy cũng về đến chốn Lư bồng để cùng chư thần tiên chầu mừng chúa Thánh.
Khương Tử Nha xưa kia lúc chưa gặp thời nên phải ngồi nơi sông Vị mà câu cá. Song ông câu với một lưỡi câu không ngạnh. Khi Võ Kiết phát giác ra, vua Võ Vương mới hay được và đến rước ông về phong làm soái tướng. Rồi sau, ông mới đứng ra điều khiển cuộc Phong Thần và cầm đầu 800 chư hầu khắp nước Trung Hoa.
Về phần giác tỉnh quần sanh thoát vòng mê khổ thì Ngài quyết lái con thuyền Bát nhã, tức là trí tuệ siêu mầu để đưa rước chúng sanh. Ngài phải mang lốt làm hề, đó là giả dạng nửa hư nửa thật để đánh lạc hướng người Pháp cho tiện bề giác chúng độ đời, dù cho người đời có khen hay chê cũng mặc.
CHÚ THÍCH :
NON THỨU: Cũng gọi là Linh Thứu Sơn hoặc Linh Sơn. một hòn núi giống hình con chim thứu (chim ô, kên kên) ở trung xứ Ấn Độ, nơi đó Đức Thích Ca thường ngự để thuyết pháp độ sanh. Đức Thầy có câu:
“Ta vì vưng sắc lịnh ngọc tòa,
Đền Linh Thứu Sơn trung chịu mạng”.

LƯ BỒNG: Một cái đài, người ta cất nơi cao ráo, sạch sẽ để chư Tiên hội trên đó. Đức Giáo Chủ từng viết:
“Các nơi Tiên trưởng đâu đâu,
Lư bồng hội hiệp đồng chầu Thánh vương”.

(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
KHƯƠNG TỬ NHA SÔNG VỊ CÒN PHIỀN: Khương Tử Nha cũng gọi là Khương Thượng hay Thái Công Lữ Vọng. Ông sanh đời mạt Thương, đầu nhà Châu, một trong 12 người học trò của Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở núi Côn Lôn. Sau vâng lịnh Thầy xuống giúp nhà Châu hưng binh phạt Trụ lập nên cơ nghiệp nhà Châu 800 năm trị vì thiên hạ.
Lúc mới xuống núi, vì chưa gặp thời, Thầy Nguơn Thỉ có dặn dò lời tiên tri, phải chịu thời gian nghèo túng suốt 10 năm:
“Mười năm nghèo túng áo còn bâu,
Phải gượng mua vui chớ chát sầu.
Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,
Chờ xe vương giả rước về hầu.
Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,
Chín chục dư ba buộc ấn hầu.
Mậu ngũ hội đàm trăm trấn phục,
Phong thần chín tám bốn xuân thu”.

Thời gian 10 năm đó, Khương Thượng phải ngồi câu cá tại sông Vị. Vì câu thời vận nên ông chỉ câu bằng lưỡi câu ngay ra không có ngạnh.
CHỜ NON PHỤNG GÁY: Từ xưa, hễ thời loạn lạc thì chim phụng hoàng không xuất hiện. Còn thời thái bình có Thánh Chúa ra đời thì có chim phụng gáy lên chào mừng Chúa Thánh. Như thời vua Nghiêu và vua Thuấn, người ta nghe tiếng chim phụng gáy vang ngoài đồng nội. Nhưng tới đời vua Võ thì chim phụng ẩn mất. Đến đời mạt Thương sắp hết chuyển sang đời Châu Võ Vương thì chim phụng hoàng lại gáy trên núi Kỳ Châu để báo tin Thánh Chúa sắp xuất hiện:
“Xưa mạt Thương, phụng gáy non Kỳ,
Bởi Võ Vương đáng bực tu mi.
Nay trở lại khác nào đời trước”.

CHÁNH VĂN
117. Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại,
Dốc làm sao rõ mặt tang-bồng.
Nghiêng hai vai gánh nặng non-sông,
120. Vớt trăm họ lầm-than bể khổ.
Ví như loại sanh-cầm hồ thố,
Còn thương nhau lại huống chi người.
Đứa hai lòng sao chẳng hổ-ngươi,
124. Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.
Dấu bút tích tuôn bay theo gió,
Học sách chi phỉ báng ông cha.
Thấy dân tình xem Giảng ngâm-nga,
128. Lão xót dạ đôi lời trần-tố.

LƯỢC GIẢI :
Đoạn giảng trên, Đức Giáo Chủ cho biết người quân tử luôn có đức độ rộng lớn, hay thương người mến vật, giúp đỡ bốn phương. Và, lúc nào cũng bảo vệ non sông tổ quốc, cứu khổ muôn loài khỏi cảnh lầm than đói rách.
Đến như hai loài thú là chồn và thỏ là vật nhỏ mà khi thỏ chết, chồn còn rầu rĩ khóc than, huống chi loài người có tánh linh hơn muôn vật, nỡ nào làm ngơ trước cảnh khổ đau của mọi người hay sao? Nếu ta chẳng có lòng thương yêu nòi giống chắc phải thùa thẹn với cây cùng cỏ.
Và nếu đã làm người mà đối xử nhau không thật tâm thành ý lại còn thẹn hơn nữa. Kinh sách xưa còn ghi để biết bao tấm gương tốt đẹp mà nay dân chúng lại nỡ bỏ lãng không nương theo thật là điều đáng thương hại, đáng thống trách.
Đức Thầy còn than, thấy có nhiều người khi xem kệ giảng cứ ngâm nga chớ chẳng tìm hiểu nghĩa lý để hành theo. Ngài rất xót dạ đau lòng nên trình bày hết sự thật ra cho mọi người được rõ.
CHÚ THÍCH :
CHÍ QUÂN TỬ: Chí khí rộng lớn. Đức Thầy có câu:
“Chữ đại hung đại lực từ bi,
Vậy mới trang quân tử nam nhi”. Hay:
“Quân tử tùy thời hơi xúc bước,
Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông”.

LÒNG NHƠN VẠN ĐẠI: Lòng nhơn từ rộng lớn, hay thương xót cả vạn loại chúng sanh.
TANG BỒNG: Nói cho đủ là tang bồng hồ thi . Tang là cây dâu, bồng là cây cỏ bồng. Theo văn chương xưa, hễ trong nhà sanh con trai thì người ta dùng cung bằng cây dâu, mũi tên bằng cỏ bồng, đem ra sân bắn lên trời, xuống đất và bốn phương. Ý nói con mình có chí khí lớn , sau lớn lên sẽ vùng vẩy khắp bốn biển năm châu. Đức Thầy từng tỏ ý chí đó:
“Tuy thân Thầy lướt cuộc gió sương,
Mà thỏa chí tang bồng hồ thỉ”.
RÕ MẶT TANG BỒNG: Ý dạy người con trai (phận nam nhi) lớn lên phải làm sao cho rạng mặt nở mày tổ tiên nòi giống và thân tộc họ hàng..
LẦM THAN: Cơ cực vất vả.
SANH CẦM HỒ THỐ: Hai loại sanh vật gồm chồn và thỏ.
TRẦN TỐ: Cũng gọi là tố trần. Có nghĩa trình bày
một sự việc gì ra cho rõ sự thật. Trong Giác Mê Tâm Kệ, Đức Thầy có viết:
“Nên phải tạm mượn cây ngòi viết,
Đem Đạo mầu như hạn cho mưa.
Đặng tố trần tâm ý Người Xưa,
Chữ thậm thâm trong kinh Phật giáo”.

CHÁNH VĂN
129. Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ,
Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
Sá chi lời đạo-chích tục thô,
132. Kẻ ngu xuẩn khi người nhân-đức.
Danh hiền-sĩ non sông náo-nức,
Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu.
Thầy Mạnh ra dùng đạo châu-du,
136. Lúc thập bát chư-hầu rối loạn.
Bực Thánh-nhơn công-lao chẳng chán,
Huống chi ta nào dám than-van.
Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,
140. Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết.
Coi ai có chứa bầu nhiệt huyết,
Dùng Đạo mầu cứu vớt sanh-linh.
Nếu để chờ sấm nổ vang thinh,
144. E bá-tánh ăn-năn đã muộn.

LƯỢC GIẢI :
Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ nhắc câu chuyện Đức Khổng Tử thời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa. Sau khi châu du nhiều nơi, Ngài sáng lập nền đạo Nho dạy dân chúng ăn ở hiền lành, luân thường đạo lý, nhân nghĩa hiếu trung. Thế mà bọn đạo chích còn khinh chê nhạo báng. Nhưng Ngài không màng kể, miễn sao cho tròn cái đạo làm người.
Học thuyết của Ngài truyền rộng khắp nơi trong bá tánh. Các hiền sĩ bốn phương đều nô nức tìm cầu học hỏi. Tới đời của Tử Tư thì Ngài Mạnh Tử ra đời nối tiếp và được người đời tôn là Á Thánh.
Hai Ngài và các nho sĩ truyền bá nền Đạo gặp nhiều gian khổ khó khăn song vẫn bền lòng kiên nhẫn, chẳng hề nản lòng chán mỏi, “bởi đạo cứu khổ đời mới lập ra”.
Người xưa còn như vậy, huống chi thời nay chúng sanh đang ngụp lặn trong khoảng đời Hạ nguơn mạt pháp, Đức Giáo Chủ và những người có nhiệm vụ cứu đời lẽ nào dám than van hay sao ?
Vì lẽ chúng sanh quá mê nhiễm cõi hồng trần, Đức Thầy mới quyết khai sáng nền Đạo. Rọi ánh từ quang kêu gọi những ai là người có nhiệt tâm để cùng Ngài truyền bá giáo lý siêu mầu cứu vớt sanh linh. Nếu người đời chẳng chịu thức tỉnh tu hành, để đến ngày sấm nổ thay đổi địa cầu, lập lại cõi đời Thượng nguơn Thánh đức thì dù có hối cải ăn năn cũng chẳng kịp.
CHÚ THÍCH :
CUỒNG QUYẾN GIẢ HỒ: Cuồng: ngây dại; quyến: thân thuộc; giả: vay mượn, dối trá; hồ: thế ư ? Làm ra vẻ ngây dại để để che mắt người khác.
ĐẠO CHÍCH: Kẻ trộm cắp.. Sách Mạnh Tử có câu: “Chích chi đồ giả”(Kẻ trộm cắp là bọn người đạo chích). Đến nay người ta cũng còn gọi kẻ trộm cướp là đạo chích.
NGU XUẨN: Ngu dốt đần độn.
HIỀN SĨ: Bậc hiền tài đức hạnh, có học vấn hơn người:
“Hiền sĩ bao giờ cũng ngóng trông,
Chừng nào hưng phục cõi trời đông.
Lẽ đâu tạo hóa riêng cay nghiệt,
Đày sắc mãi chi giống Lạc Hồng”.
CHIẾN QUỐC XUÂN THU: Cuối đời Xuân Thu, trước đời nhà Tần, nước Tàu chia ra làm 7 nước mạnh, gọi là thất hùng (Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Tần, Ngụy ). Họ đánh nhau từ năm 403 tới năm 221 TCN. Thời nầy được gọi là thời Xuân Thu Chiến quốc (cũng gọi là thời Đông Châu Liệt Quốc).
THẦY MẠNH: Tức Thầy Mạnh Tử, là vị á Thánh. Ông tên thật là Mạnh Kha, tự là Mạnh Tử, sanh vào ngày mùng 2 tháng 4 năm thứ tư đời Liệt Vương nhà Châu (372 TCN . Thân phụ là Thích Công Nghi, hiền mẫu là Cừu Thị, thuộc dòng công tộc Mạnh Tôn.Tương truyền mẹ ông chiêm bao gặp mây ngũ sắc phủ quanh trên bụng mà thọ thai sanh ra ông. Ông mồ côi cha từ thuở lên 3, nhờ hiền mẫu hết lòng dạy dỗ.
Đời tư của ông lúc còn nhỏ có nhiều thay đổi lạ thường. Một hôm, nhà láng giềng có người chết, ông dự đưa đám tang trở về rồi bắt chước đóng hòm đem chôn cất,khóc than kể lể như có người chết thật vậy. Thấy thế, mẹ ông lấy làm lo nên dời nhà đi nơi khác. Lúc ở gần lò heo, hằng ngày ông thấy người ta làm thịt heo, mới hỏi mẹ: “Người ta làm thịt heo chi vậy mẹ?” Bà mẹ vui cười nói đùa với con: “Người ta làm heo cho con ăn đấy”. Mạnh Tử tưởng thật mừng rỡ rong chơi khoe cùng bạn bè là mình sắp được ăn thịt heo. Mẹ ông suy nghĩ lấy làm hối hận vì đã nói dối con nên bà bèn mua thịt heo cho con ăn thật. Mạnh Tử thấy người đồ tể sáng sớm bắt heo làm thịt, heo kêu eng éc ông cũng bắt chước, lấy cây đẽo hình con heo, và cũng dùng dao đâm họng heo; miệng kêu eng éc như đâm heo thật vậy. Mạnh mẫu thấy vậy sợ con hư mà dời nhà đến gần trường học. Ngày ngày thấy trẻ nhỏ cắp sách đến trường, ông liền xin mẹ cho đi học. Bà thấy vậy mà mừng thầm: “Ở đây con ta có thể làm nên sự nghiệp.”
Nhưng một hôm Mạnh Tử lại bỏ học trốn về nhà chơi. Vì muốn cảnh tỉnh con, bà vội lấy dao cắt khung cửi đang dệt và bỏ đi. Ông kinh hãi quì xuống hỏi mẹ:
-Thưa mẹ ! Vì cớ gì mẹ lại cắt khung cửi. Bà đáp:
-Nghề dệt là chấp nối từng sợi tơ mới làm nên tấm lụa. Sự học của con cũng thế, hôm nay con trốn học thì khác nào khung cửi mẹ đang dệt bị cắt lìa ra thành vô dụng.
Ông hối hận quyết một bề lo học, không còn trốn lánh và bê trễ nữa.
Nhờ sự dạy con khéo léo ấy mà ông trở nên bậc hiền tài, về sau tạo được sự nghiệp vẻ vang, người đời sùng ngưỡng.
Trong Tam Tự Kinh có câu: “Tích Mạnh mẫu, trạch lân xử, tử bất học, đoạn cơ trử”. Nghĩa: Xưa, bà Mạnh Mẫu, chọn nhà láng giềng để ở, con chẳng học, bà cắt khung cửi . Sách Tam Tự kinh phần yếu giải có chép:
“Tích xưa mẹ Thánh huấn nhi,
Dọn nhằm chỗ ở dắt đi ba lần.
Có khi trẻ chẳng ân cần,
Mình ngồi không dệt cắt chăn mà thề.
Từ sau cứ học một bề,
Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”.

CHÁNH VĂN
145. Giảng với kệ ra đà bốn cuốn,
Ít có người khám rõ cơ-huyền.
Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,
148. Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.
Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn,
Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng.
Để làm cho mích bụng chị Hằng,
152. Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ.
Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người được cá quên nôm.
Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
156. Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi.

LƯỢC GIẢI :
Từ sau ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (ngày Đức Giáo Chủ khai sáng nền Đạo) đến trước ngày người Pháp bắt Ngài, Ngài đã sáng tác được 4 quyển Sấm thi kệ giảng. Trong đó hàm chứa biết bao cơ thâm huyền diệu mà ít ai khám phá ra được Vì thế, Ngài phải dừng tay để chờ Đức Ngọc Đế xử phân coi lẽ nào. Ngài còn cho biết cõi đời Hạ nguơn Mạt pháp sắp đến ngày tàn như đêm dài sắp mãn và ngọn đèn sắp hết dầu, tim đã lụn. Thế mà ai kia chưa chịu tìm kiếm ánh sáng của mặt trăng (chỉ ánh đạo) để nương theo. Điều đó khiến cho những bậc có trách nhiệm khai Đạo cứu đời chẳng hài lòng, vì đã mỏi lòng trông đợi mà chưa có nhiều người quày đầu hướng thiện.
Ngài cũng thống trách những kẻ chẳng nhớ câu tục ngữ: “Đặng chim bẻ ná, được cá quên nôm”. Mãi say mê theo sự ăn sang, mặc sướng vinh hiển quyền uy mà nỡ quên đi ân nghĩa của ông cha, Thầy Tổ đang trông đợi mình.
CHÚ THÍCH :
GIẢNG VỚI KỆ RA ĐÀ BỐN CUỐN: Số Sấm Giảng của Đức Giáo Chủ sáng tác từ sau ngày 18 tháng 5 năm Kỷ mão đến nay có rất nhiều bài, nhưng quan trọng nhứt là chỉ trong vòng 35 ngày (từ trung tuần tháng 8 tới 20 tháng 9 năm Kỷ mão, 1939) mà Ngài viết bốn quyển Sấm kệ lớn, vừa dài, vừa rộng sâu, hàm chứa rất nhiều ý nghĩa mầu diệu sâu kín như:
1.-Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm, Quyển Nhứt, dài 912 câu, văn lục bát.
2.-Kệ Dân Của Người Khùng, Quyển Nhì, dài 476 câu, văn thất ngôn trường thiên.
3.-Sám Giảng, Quyển Ba, dài 612 câu, văn lục bát.
4.-Giác Mê Tâm Kệ, Quyển Tư, dài 846 câu, văn thất ngôn trường thiên.
KHÁM RÕ: Khám xét hiểu biết tường tận.
CƠ HUYỀN: Cũng gọi là huyền cơ, có nghĩa thiên cơ mầu diệu sâu kín. Trong bài Sứ Mạng, Đức Thầy có viết: “Đến trung tuần tháng tám Ta cùng Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy thiên cơ..” và: “Đạo hạnh huyền cơ khuyên đó kiếm, Chẳng vậy sau nầy khó thảnh thơi”.
LỊNH THIÊN: Sắc lịnh của Trời cõi trên, tức luật xoay chuyển của tạo hóa. Đức Thầy từng nói: “Thiên cơ thế giới đà biến chuyển”, hay là: “Máy diệu huyền chuyển lập hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”.
ĐỨC NGỌC ĐẾ: Đức vua cõi Trời..
CẠN DẦU TIM LỤN: Cây đèn hết dầu tim bị cháy lụn sắp tắt. Ý nói đời Hạ Nguơn sắp dứt để lập lại đời Thượng nguơn, nhân loại đang chìm trong bóng tối.
BÓNG TRĂNG: Ánh sáng của mặt trăng chỉ cho ánh sáng của nền đạo.
MÍCH BỤNG CHỊ HẰNG: Chị Hằng là chỉ ánh sáng của mặt trăng. Ý nói chư Phật cũng như Đức Thầy đem trí huệ (Đạo) phổ hóa mọi người, nhưng ít người nghe theo, nên các Ngài phải mỏi lòng mong đợi.
ĐẶNG CHIM BẺ NÁ, ĐẶNG CÁ QUÊN NÔM: Có nhờ ná mới bắn được chim, nhờ nôm mới bắt được cá,. Đây ý chỉ người làm được việc rồi lại quên ơn hoặc loại bỏ người đã giúp việc cho mình. Nghĩa bóng: Chỉ cho những người bội ơn bạc nghĩa.
ƯA ĐỒ NGON ĐÚC NHÉT ĐẦY MỒM:Chỉ sự tham lam tiền của, vật thực. Đây ám chỉ kẻ tham lam phụ bạc công ơn tổ tiên cha mẹ hay nòi giống quê hương. Đức Giáo Chủ từng thống trách những người ấy:
“Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường,
Giành ăn uống ganh em cùng ghét cháu.
Trời sanh muỗi là loài thường hút máu,
Cũng lắm người muợn kế ấy dung thân”.
CHÁNH VĂN
157. Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi,
Nỡ phụ phàng vua Tống-Khâm-Tôn.
Xem truyện xưa mà bắt hết hồn,
160. Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.
Gã Tần-Cối ít ai còn lạ,
Dụng mưu thần giết thác Nhạc-Phi.
Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
164. Dám thiết kế hại tôi lương-đống.
Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng,
Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san.
Nhờ Tư-Đồ thiết lập Liên-hoàn,
168. Nghiệp nhà Hớn mới an một lúc.
LƯỢC GIẢI :

Trong mười hai câu giảng trên Đức Giáo Chủ nhắc đến sử nước Tàu, có ba người tà gian nịnh tặc:
1.-Thừa tướng Trương Ban Xương sanh đời vua Tống Khâm Tôn.
2.-Vợ chồng Tần Cối cũng sanh đời Tống.
Họ dùng đủ mưu thần chước quỉ giết hại hai cha con Nhạc Phi và các anh hùng cứu nước. Hai người kể trên là kẻ quên ân bội nghĩa phản nước phản dân, cầu vinh mãi quốc.
3.-Người thứ ba là Đổng Trác sanh đời Hớn mạt, đời vua Hiến Đế, là một kẻ gian hùng, háo sắc, hảm hại tôi trung. Sách sử dân tình luôn chê bai nhờm gớm. Những kẻ nói trên đã ăn lộc vua hưởng quyền lợi chúa mà đành quên ơn bội nghĩa. Xưa nay sách sử kêu ca than oán. Nhắc đến những tấm gương xấu ấy, người thời nay đáng lẽ phải xa lánh, thế mà có lắm kẻ đòi bắt chước:
“Trời sanh muỗi là loài thường hút máu,
Cũng lắm người mượn kế ấy dung thân”.
(Bài Không Buồn Ngủ)
CHÚ THÍCH :
TRƯƠNG BAN XƯƠNG: Là một kẻ gian nịnh của hai đời vua Tống Vi Tông và Tống Khâm Tôn bên Tàu. Lúc nước Trung Hoa suy yếu loạn lạc, vua Vi Tông mở khoa thi chọn kẻ hiền tài ra giúp nước. Trương Ban Xương gốc ở Hồ Quảng (Huỳnh Châu) làm quan đến chức Thừa tướng. Ông ăn hối lộ của Tiểu vương Lương Sài Quế nên khi Nhạc Phi ứng thí, Xương lập mưu hại Nhạc Phi bỏ giáo trường về quê.
Gặp lúc nước nhà loạn lạc, quân Kim Phiên thừa dịp sang đánh phá. Khi quân Ngột Truật - Thái Tử nước Phiên đem quân qua khỏi Huỳnh Hà, kéo gần đến Kinh thành, Xương xúi vua Khâm Tôn rằmg:
-Bây giờ giặc đã kéo đến bên thành, không còn cách nào khác hơn là Chúa Thượng phải sắm lễ vật cho nhiều để cầu hòa. Có thế giang san nhà Tống nầy mới được tồn tại.
Vua Khâm Tôn quát tháo:
-Thuở nay có ông vua nào cầu hòa như vậy không? Ban Xương đáp:
-Ngày xưa, Hán chúa gã Chiêu Quân, Đường Vương dâng công chúa. Nay chẳng qua Bệ hạ ngộ biến tùng quyền cứu cấp cho qua thời gian nầy thôi. Vậy Bệ hạ hãy nghe theo hạ thần dâng cho chúng một xe vàng ròng, gấm lụa, mỹ nữ và heo, dê, trâu, rượu đầy đủ ắt Kim Phiên sẽ nhận mà lui quân.
Vua Khâm Tôn vì tánh khí nhu nhược và muốn cứu an nên đổi giận làm vui đành chấp thuận. Thế là cuộc cống hiến bắt đầu.
Khi dâng lễ vật đến nơi, chúng tướng Kim phiên động lòng tham, chận lấy hết của cải không thông báo cho Ngột Truật hay, nên vua Khâm Tôn phải vơ vét của kho hai lần nữa để hiến dâng.
Ban Xương mang lễ vật sang cống hiến lần thứ ba, may mắn gặp mặt Lang Chúa Kim bang. Trương Ban Xương bày tỏ nguyện vọng:
- Tôi cảm đức uy danh của Lang Chúa nên đã lập kế làm cho Tống trào hao tài tốn của. Son hai lần trước mang đến lại bị các vị kia thâu hết, nay đem lễ vật nầy nữa, tính đã bap hen.
Ngột Truật ngợi khen rối rích:
-Ta khá khen nhà ngươi có lòng tốt với ta.
-Bẩm Lang Chúa ! Nếu Lang Chúa chẳng chê lão phu nầy ngu muội, lão xin hiến dâng kế mọn, tất Tống trào sẽ về tay Lang Chúa. Nếu được vậy, tôi sẽ gạt vua Tống đem Thái Tử dâng cho Lang Chúa. Chừng ấy Lang Chúa muốn gì mà chẳng được.
Một cuộc đau thương lại diễn ra, em của Khâm Tôn là Điện hạ Hoàn được đưa đến dinh Phiên, nhưng mới tới cửa lại phải chết vì tên quân cận vệ của Ngột Truật.
Trương Ban Xương lại hiến kế khác, bắt Khương Vương Triệu Cấu hiến dâng, và sau cùng xúi vua Khâm Tôn đem hết các bài vị của Tiên Vương hiện đang thờ nơi Thái Miếu dâng hiến, rồi thừa cơ áp bắt nhà vua nạp cho Phiên Kim.
Vua Khâm Tôn bị cầm tù nơi giếng lạn tại Ngũ Cốc Thành, nơi vùng sa mạc hoang vu và chết lần mòn ở đó.
Trương Ban Xương được Ngột Truật phong cho chức Sở Vương nhưng sau cùng bị Ngột Truật bắt làm dê chém chết để tế cờ. Một đời của tên gian thần mãi quốc cầu vinh được kết liễu !
NHẠC PHI: Truyện Nhạc Phi Diễn Nghĩa có chép: Vào đời Tống Vi Tông, có người tên là Nhạc Phi, tự là Bàn Cử ở huyện Thang Âm, phủ Tương Châu, tỉnh Hà Nam, vốn là Hộ pháp Thần kỳ Đại Bàn Kim Si Minh Vương giáng sanh.
Thuở nhỏ, Nhạc Phi được mẹ là bà An Nhơn và ông Châu Đồng (là thầy dạy học). Hai người hết lòng dạy ông nghề văn nghiệp võ. Ông lớn lên kết bạn cùng Thang Hoài, Trương Hiển, Vương Quới, Ngưu Cao. Khi nghe Tống trào mở khoa thi chọn nhơn tài dẹp giặc, anh em Nhạc Phi liền vào ứng thí, nhưng bị các quan giám khảo là Trương Ban Xương và Trương Tuấn, Vương Đạt ăn hối lộ của Sài Quế. Họ thấy Nhạc Phi giữa giáo trường tỉ thí và giết Sài Quế. Ban Xương nổi giận đuổi bọn Nhạc Phi về quê mang theo nhiều ân oán.
Mãi đến vua Khâm Tôn bị vua Kim Phiên bắt, Khương Vương Triệu Cấu tìm cách trốn thoát khỏi dinh Phiên trở về tức vị, hiệu là Tống Cao Tôn, Nhạc Phi mới được vua triệu về kinh dẹp giặc.
Lúc ra đi, mẹ ông sợ con vì sự nông nổi không trung thành cùng vua nên thích vào lưng ông bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc” để ông ghi nhớ. Từ chức Thống Chế, Nhạc Phi làm đến phó Nguyên Soái rồi Ngũ Tinh Đại Nguyên Soái, Võ Xương Khai Quốc Công Binh Bộ Thượng Thư Đại Nguyên Soái, lập nhiều chiến công hiển hách, gây dựng cơ nghiệp Tống trào đang hồi mạt vận.
Quá tận trung với vua, ông bị gian thần Tần Cối mạo chiếu vua triệu ông về Kinh giam vào ngục cùng với con ruột là Nhạc Vân và con nuôi là Trương Hiến, sau cả ba đều bị giết tại Phong Ba Đình. Ông hưởng thọ 39 tuổi.
Tần Cối vốn là Tân khoa Trạng Nguyên, theo bảo giá Triệu Vương (Điện hạ Hoàn) sang làm con tin bên Ngột Truật (thái tử Kim). Lúc Triệu Vương chết, Ngột Truật bắt Tần Cối đem luôn về Phiên Quốc. Nhờ khéo lòn cúi đầu lụy, Tần Cối được sống sót, song bị đày làm tôi tớ cho một tên tiểu Phiên. Thời gian sau, Ngột Truật trước khi hưng binh lần thứ ba đánh Tống trào, cho người tìm Tần Cối rồi ưu đãi và thả Tần Cối về nước làm nội ứng. Tần Cối về nước được vua Cao Tông ban chức Lễ bộ Thượng Thư, vợ y cũng được ban chức Nhị phẩm phu nhơn, từ đây, Cối bắt đầu tự tung tự tác trong triều đình.
Lúc Nhạc Phi đánh binh Kim Phiên thua chạy, tính đánh rốc qua Huỳnh Long Phủ (Kinh thành Kim Quốc) để rước vua Khâm Tôn về nước thì Tần Cối ton hót với vua bảo Nhạc Phi phải giải giáp binh mã rồi sau đó dùng 12 tấm kim bài triệu Nhạc Phi về trào giam vào ngục, lén cho người dẫn ra Phong Ba Đình giết chết.
Giết Nhạc Phi xong, Tần Cối còn xúi vua bắt hết gia quyến Nhạc Phi đày ra Vân Nam để mượn tay kẻ khác giết chết cả bọn. Song nhờ hào kiệt bốn phương hết lòng ủng hộ nên gia quyến Nhạc Phi được an toàn.
Tần Cối đã hại Nhạc Phi, nhưng số tôi trung vẫn còn nhiều. Tần Cối bèn soạn chiếu giả để triệu hết bọn tôi trung cùng giết một lần mà trừ hậu hoạn. Song vừa mới soạn thảo bản văn chưa xong, kế Cối thấy hồn cha con Nhạc Phi hiện đến, Tần Cối hồn phi phách tán, chết giấc. Bắt đầu từ đó, vợ chồng Tần Cối mang lấy bịnh ung thư phát bối, chẳng bao lâu thì chết.
Về sau, người ta cho tạc tượng hai vợ chồng Tần Cối mang gông và xiềng cả hai chân trước mộ Nhạc Phi kề bên có một cái dùi, cho ai có đến viếng mộ thì dùng cái dùi ấy đánh vào đầu vợ chồng Tần Cối, ý để bêu xấu kẻ ác gian, đến chết cũng còn bị sự cực hình đau khổ.
NHÀ HỌ ĐỔNG: Tức là Đổng Trác. Sanh thời Hậu Hán và là một tay gian hùng, chuyên quyền cả ba đời vua : Linh Đế, Thiếu Đế, Hiến Đế quyết chiếm cho được ngôi vua.
Đổng Trác hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũng Tây, vùng Lâm Thao, trước là quan Thái Thú quận Hà Đông. Vốn là kẻ bất tài, song nhờ khéo dua nịnh đem bạc vàng đút lót cho bọn Thập Thường Thị nên hắn được thăng quan tiến chức rất mau. Từ Thứ sử Tây Lương thăng lên Hiến Quân, kế được thống lãnh hơn 20 vạn quân, trấn giữ xứ Tây Châu. Càng lên cao, hắn càng kiêu ngạo, tham lam, độc ác,và giết người không gớm tay.
Trác bày mưu hiến ngựa Xích thố, mua chuộc Lữ Bố giết Đinh Nguyên và đem Bố về làm con nuôi, để mưu đồ cướp ngôi vua Hiến Đế. Song nhờ có quan Tư Đồ Vương Doãn bày mưu với con gái là Điêu Thuyền thi hành liên hoàn kế. Lúc đầu gả Điêu Thuyền cho Bố, sau đưa sang Đổng Trác để cho cha con ghen tị giết hại lẫn nhau.
Sau cùng Lữ Bố giết được Đổng Trác, giúp cơ nghiệp nhà Hán an được một thời.
CHÁNH VĂN
169. Cảnh gian-nan như Lưu-Hoàng-Thúc,
Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân.
Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa-ân,
172. Vượt năm ải về thăm huynh-trưởng.
Kẻ nghĩa-khí thiên kim vạn lượng,
 Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen.
Xem tích xưa thẹn với bóng đèn,
176. Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.
Coi sự sống như Tiên nưa-nửa,
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo thức-tỉnh quày đầu,
180. Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.
LƯỢC GIẢI :

Vào thời Hớn mạt, có ba anh em kết nghĩa là Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi. Lưu Bị, Trương Phi sau khi thất thủ thành Hạ Bì phải chịu cảnh gian nan vất vả. Lưu Bị qua ở nhờ với Viên Thiệu, còn Quan Công phò hai người chị dâu chạy thẳng lên núi Thổ Sơn tạm trú, Trương Phi túng thế phải chạy thẳng Mang Định để lánh nạn. Tào Tháo cho quân vây Quan Công chặt chẽ, Quan Công quyết phá vòng vây mấy phen cũng ra không được. Tào Tháo thấy Quan Công có tài liền cho Trương Liêu ra dụ hàng, nhưng Quan Công giữ đúng lòng ân nghĩa đối với Lưu Bị và Trương Phi.
Khi nghe được tin Lưu Bị ở bên Viên Thiệu, Quan Công liều treo ấn, vượt qua năm cửa ải và chém sáu tướng của Tào Tháo để sum hiệp với Hớn trào.
Xưa nay sách sử thường ca ngợi lòng nghĩa khí của Quan Công dù cho có ngàn vàng cũng không sánh được. Còn kẻ tham lam, gian tà nịnh tặc sách sử đều khinh khi cười nhạo.
Người trí mỗi lần đọc tới kinh sách truyện thơ đều bắt hổ thẹn cho số người còn tham gian bội phản. Họ chỉ biết sống sung sướng là vinh hiển cuộc đời. Lúc nào họ cũng coi tiền bạc như miếng mồi thơm béo chẳng khác các loài cá tham ăn mà chẳng biết thúi hôi bẩn thỉu.
Đức Giáo Chủ luôn luôn kêu gọi những người ấy hãy sớm thức tỉnh quày đầu kẻo hổ thẹn với người xưa.
CHÚ THÍCH :
LƯU HOÀNG THÚC: Lưu Hoàng Thúc, tức Lưu Bị, là chú của vua Hiến Đế đời Hớn mạt. Thuở ấy, Trung Quốc chia thành ba nước ( tam thân đỉnh túc): Bắc Ngụy (thuộc Tào Tháo), Đông Ngô (thuộc Tôn Quyền), Tây Thục (thuộc Lưu Bị), tranh chấp giành giựt lẫn nhau. Ở Tây Thục, Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi kết nghĩa tại vườn đào rồi mộ binh dẹp giặc.
Cầm đầu Thục Hán là Lưu Bị. Ông tên thật là Huyền Đức vốn dòng dõi Trung Sơn Tỉnh Vương Lưu Thắng, tức dòng vua Hiến Cảnh nhà Hán. Ông là con của Lưu Hoàng, cháu của Lưu Hùng. Thân phụ ông thi đỗ Hiếu Liêm và có ra làm quan nhưng chẳng may mất sớm.
Lưu Bị mồ côi cha từ nhỏ, thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo nhưng không vì thế làm nản lòng ham học của ông, mặc dù hằng ngày phải may dép, dệt chiếu làm kế sinh nhai. Nhà ông ở thôn Lâu Tang, có một cây dâu rất lớn, cành nó đâm ra rất xa, trông như chiếc lộng . Nhiều người trông thấy cây kỳ dị nói rằng: Nhà nầy ắt sanh quí tử. Lúc nhỏ, ông thường đến gốc cây dâu đùa giỡn và nói chơi rằng:
-Tao sẽ làm Thiên tử ngồi trên cổ xe có tàng lộng như cây nầy.
Chú ông là Lưu Nguyên Khởi nghe vậy thường rầy la, song thấy Lưu Bị có chí khí nên Lưu Nguyên Khởi cho đi du học.
Lớn lên, Lưu Bị có hình tướng khác thường, mình cao tám thước, hai tai lớn chấm vai, hai cánh tay dài dưới gối, mắt sáng như bạch ngọc, môi đỏ tợ thoa son. Tánh tình khoan hòa ít nói, mừng giận không lộ ra nét mặt. Gặp lúc Huỳnh Cân đang gây rối, ông cùng Quan Công và Trương Phi kết nghĩa dưới vườn đào, thề nguyền sanh tử chi giao. Ba anh em kết nghĩa nầy có công dẹp giặc Huỳnh Cân nhưng không được trọng dụng nên sang Từ Châu trú ngụ, sau nhân việc Đổng Trác lộng quyền nên 18 trấn chư hầu đồng tôn Viên Thiệu lên làm minh chủ để dẹp Đổng Trác nhưng bất thành vì các chư hầu không đồng tâm hiệp lực. Sau đó, ông hợp với Tào Tháo giết được bè lũ Lữ Bố nên triều đình thăng thưởng. Nhân đó, vua Hiến Đế mở quyển “Tôn tộc thế phổ” ra, xem vai vế thì thấy Lưu Bị là chú vua nên gọi là Hoàng thúc (danh từ Lưu Hoàng Thúc được gọi từ đấy) và phong ông là Tả Tướng Quân Nghi Thành Đình Hầu. Về sau Tào Tháo lộng quyền, ông bất phục mà kết hợp các dũng tường và được Khổng Minh Gia Cát Lượng làm quân sư trợ giúp mưu kế thao lược dựng nên nước Tây Thục, một trong 3 nước trong thời Tam Quốc bên Tàu.
VIÊN THIỆU: Lúc bấy giờ Tào Tháo cậy công lộng quyền, tự xưng làm Thừa Tướng, lấn áp quyền vua, nên Lưu Bị và các tướng hợp nhau trừ Tháo. Nhưng việc bất thành., về sau Lưu Bị nhờ Viên Thiệu hưng binh đánh Tào Tháo để trả thù. Tháo đánh không lại phải nhờ Quan Công (lúc phò nhị tẩu phải về ở với Tào Tháo) ra trận giết hai tướng Nhan Lương, Văn Xủ phá tan quân Viên Thiệu. Nhờ ra trận mà Quan Công biết Lưu Bị ở với Viên Thiệu nên từ quan về tìm huynh trưởng. Ba “anh em kết nghĩa” gặp lại nhau mưu đồ đại sự từ đó.
QUAN CÔNG HẦU: Tên thật là Quan Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người ở đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Ông nổi tiếng là bậc trung cang, nghĩa khí đệ nhất đời Tam Quốc.
Vân Trường cùng Lưu Bị, tức Lưu Huyền Đức (dòng dõi nhà Hán) với Trương Phi (tức Lưu Đức) kết bạn và thề nguyền sanh tử với nhau. Nhân dẹp giặc Huỳnh Cân (khăn vàng) có công mà không được thăng thưởng lại bị bọn Thập Thường Thị đòi tiền hối lộ, ba người tức giận trốn về. Về sau Lưu Bị chiếm giữ Từ Châu tạm trú. Tào Tháo lúc ấy cậy công lộng quyền xưng là Thừa Tướng lấn áp quyền vua Hiến Đế, kéo hai chục vạn quân tiến đánh Lưu Bị ở Từ Châu; Lưu Bị thế yếu cho người sang cầu viện với Viên Thiệu. Thiệu không chịu phát binh tiếp cứu. Đang đêm, Lưu Bị cùng Trương Phi đem binh cướp trại Tào Tháo. Vì lầm mưu phục kích của Tháo, anh em Lưu Bị thất bại phải phá vòng vây mà chạy. Lưu Bị chạy về Thanh Châu nương náu cùng Viên Thiệu, còn Trương Phi chạy thẳng lên Mang Địch San lánh nạn. Quan Công lúc đó đóng binh ở Hạ Bì thành. Tào Tháo đem binh đến đánh rồi giả thua chạy ra xa, Quan Công vô tình xua quân đuổi theo, Tháo thừa cơ chiếm Hạ Bì thành rồi đem binh vây bọc tứ phía. Quan Công thấy nguy vội phá vòng vây chạy lên núi Thổ Sơn tạm nghĩ. Tháo lại đem binh bao vây bọc dưới chân núi. Quan Công phá mấy lần nhưng không thoát được, quá kiệt lực ông định tuẩn tiết để gìn lòng trung nghĩa với Lưu Bị.
Tào Tháo thấy ông vũ dũng và nghĩa khí hơn người nên sanh lòng cảm mến, sợ ông tự tử sẽ mất đi một anh hùng, bèn sai Trương Liêu lên dụ hàng. Quan Công nhứt định thà chết vì chánh nghĩa chớ không hàng Tào. Trương Liêu giải bày:
-Anh đã thề nguyền sanh tử với Lưu, Trương, nay anh chết đi sẽ mắc ba trọng tội, còn nếu ra hàng sẽ có ba điều lợi lớn.
Quan Vân Trường quắc mắt hỏi:
-Ba điều tội ra sao?
-Một là Lưu Hoàng Thúc (tức Lưu Bị) mộng lớn chưa thành, nay lại lưu lạc chẳng biết ở đâu. Nếu còn, ắt sau nầy ông cũng cần dùng kẻ nghĩa dũng. Song lúc đó không có anh thì Hoàng Thúc sẽ thiếu kẻ kiện tướng, mộng lớn sẽ không thành. Hai là Hoàng Thúc phó thác gia quyến cho anh, nay nếu anh chết thì không ai bảo vệ, ắt phụ lòng tin của huynh trưởng. Ba là anh võ dũng siêu quần, lại không phò nhà Hán để lưu danh thanh sử mà đi liều chết với Tào Công phỏng có ích gì ?
Nghe vậy, Vân Trường dịu giọng hỏi:
-Còn ba điều lợi thế nào ? Xin kể luôn ta nghe thử.
-Nay tứ phía đều bị vây, nếu anh chống cự e sơ thất, chi bằng tạm đầu Tào Công để nghe tin tức Hoàng Thúc, nếu biết người ở đâu sẽ đến mà tìm. Như thế, một là bảo vệ được nhị tẩu, hai là chẳng phụ lời thề ước, ba là dành được cái thân hữu dụng để giúp nhà Hán. Ba điều ấy mong anh xét lại.
Quan Công nói:
-Nay ta có ba điều giao ước, chẳng biết Thừa Tướng có bằng lòng hay không. Nếu khứng chịu thì ta sẽ qui phục, bằng thiếu một trong ba điều, ta quyết chọn lấy cái chết mà thôi. Một, đầu nhà Hán chớ không đầu Tào Công, vì ta cùng Hoàng Thúc đồng nguyện giúp nhà Hán. Hai là lấy bổng lộc của Hoàng Thúc mà cấp cho nhị tẩu ta và không một ai được bén mảng đến chỗ trú ngụ của nhị tẩu. Ba là khi nghe anh ta ở đâu phải lập tức cho ta đến đó, dầu đường xa ngàn dặm.
Trương Liêu về bẩm lại, Tào Tháo bằng lòng. Quan Công bèn phò nhị tẩu theo Tào Tháo cùng về đến Hứa
Xương. Tào Tháo dọn tư dinh cho ông ở, ông chia làm hai ngăn, bên trong để nhị tẩu ở, cho mười tên quân canh giữ, còn ông ở ngăn ngoài. Tào Tháo muốn cho Quan Công cùng nhị tẩu ở chung nhà cốt để Quan Công loạn nghĩa quân thần, anh em nghi kỵ chia rẽ lẫn nhau, chừng đó Tào Công ngồi không hưởng lợi và Quan Công bị kẹt sẽ ở lại phò Táo Tháo mãi mãi. Nhưng Quan Công đốt đuốc ngồi xem sách Xuân Thu suốt đêm, canh chừng cho nhị tẩu ngủ. Tào Tháo muốn mua chuộc ông, bèn dắt vào triều yết kiến vua Hán, được Hiến Đế phong làm Thiên Tướng Quân. Cách vài ngày lại thiết tiệc mà đãi ông, tiệc tan lại tặng đồ trang sức, nhưng ông đều giao lại cho nhị tẩu cất giữ. Cứ ba ngày ông vào ngăn cửa hỏi thăm sức khỏe nhị tẩu. Tháo biết được càng nể phục lắm. Nhân thấy ông có bộ râu dài rất đẹp, Tháo liền lấy gấm bông may vải cho ông bọc râu. Vua thấy thế gọi ông là Mỹ Nhiệm Công (ông râu đẹp). Tháo lại lấy ngựa Xích thố của Lữ Bố ngày trước mà ban cho ông và tặng hai chục mỹ nữ, nhưng ông chỉ nhận ngựa còn gái đẹp dâng cho nhị tẩu.
Thấy Tháo hết lòng kính trọng mình nên ông tìm cách trả ơn ông. Nhân Viên Thiệu, Nhan Lương và Văn Xủ đem binh đánh Tào Tháo. Binh Tào thua mãi, ông bèn xin ra trận đánh phá binh Viên Thiệu, giết Nhan Lương, Văn Xủ và được vua Hán Đế phong làm Hán Thọ Đình Hầu.
Nhờ ra trận, ông dò được tin Lưu Bị hiện tạm trú ở Hà Bắc với Viên Thiệu. Ông liền vào từ tạ Tháo. Tháo không tiếp, ông viết thơ nhờ người trao hộ và đem hết vàng bạc mà Tháo đã cho từ trước mà niêm phong lại và treo ấn trên xà nhà rồi phò nhị tẩu ra đi. Tháo thấy ông quá cương quyết nên kính phục vội vã đến tiễn ông.
Thấy Tháo một lòng kính nể ông, nên các tướng dưới quyền của Tháo đâm ra bất mãn, ngăn chận các cửa ải không cho đi nên ông buộc lòng phải đánh phá. Ngang ải Đông Linh giết Khổng Tú, đến Lạc Dương giết Hàn Phúc, Mạnh Thân, tới Nghi Thủy quan trấn ải là Biện Hỷ cho quân phục xung quanh chùa định ám hại ông, nhưng bị ông sát hại hết cả. Đến Huỳnh Dương, đang đêm Quan Thái Thú Vương Thực đến đốt trại, nhờ có mật báo, ông thoát nạn và giết chúa tướng một cách dễ dàng. Khi đến Hoạt Châu bị Tần Kỳ ngăn trở cũng bị ông giết chết. Tính ra ông đã vượt qua năm ải và chém hết sáu tướng, nên người đương thời có câu khen tặng ông: “ quá ngũ quan, ông trảm lục tướng”..
Sau những lúc bôn ba lưu lạc, Quan Công gặp lại Trương Phi và Lưu Bị. Anh em cùng nhau đồng mưu đại sự. Ông giúp Lưu Bị nhiều chiến công oanh liệt. Nhưng dẫu tài trí có phi thường, nhưng cũng không vượt qua nghiệp số, nên sau ông bị Lữ Mông, tướng của Tôn Quyền, dùng câu liêm móc giật chân ngựa té xuống mà bắt. Con ông là Quan Bình thấy cha bị bắt, nóng lòng chạy tới cứu cũng bị bắt luôn.
Lữ Mông giải hai cha con ông về cho Tôn Quyền. Quyền thương bậc trung cang nghĩa khí nên cho người dụ hàng mà không nở giết. Quan Công khẳng khái đáp:
-Ta cùng Lưu Hoàng Thúc kết nghĩa tại vườn đào thề cùng sống chết, quyết lòng phục hưng cơ nghiệp nhà Hán. Nay ta bị bắt xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ cùng huynh trưởng ta mà thôi, chớ đem danh lợi khuyến dụ ta vô ích.
Tôn Quyền nghe vậy, biết không thể phủ dụ được, lại sợ gương trước khi ông ở với Tào Tháo, nên truyền xử trảm cả hai cha con. Lúc đó Quan Công mới 58 tuổi.
Bởi lòng trung cang nghĩa khí như vậy, nên sau khi chết, Quan Công được hiển thánh và đến suối Ngọc Tuyền thọ giáo với Trí Giả Thiền Sư và sau chứng quả Già Lam Quan Đế.
NGHĨA KHÍ: Khí tiết của bậc anh hùng. Thấy kẻ hoạn nạn thì ra tay giúp đỡ, gặp việc bất bình thì đem thân đỡ nâng can thiệp. Như trường hợp Quan Công có đặc điểm là ân đền, nghĩa trả và không giết người dưới ngựa.
KẺ NGHĨA KHÍ THIÊN KIM VẠN LƯỢNG: Là ý nói người có lòng nghĩa khí quí báu như ngàn vạn lượng vàng còn mãi trong sử sách. Trong Nang Thơ Cẩm Tú, Đức Thầy có viết: “Tiết trung lương hiếu nghĩa rạng ngần”.
LŨ NỊNH THẦN: Bầy tôi gian tà nịnh tặc, vì tham lợi cá nhân mà nỡ hại dân hại nước (mãi quốc cầu vinh).
NGƯỜI THIÊN CỔ: Người xưa, người đã từ trần một trăm năm về trước và đã có lòng ưu dân ái quốc, được ghi vào sử sách để dạy dân từ trước tới giờ.
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA: Theo Kinh sách xưa thì kẻ đầu trâu mặt ngựa là quỉ sứ ở cõi âm phủ. Mình và tay chân là người mà cái đầu lại giống con trâu hoặc ngựa. Nghĩa bóng là chỉ cho phường vô lại, chẳng biết thương người, chỉ lo sao được lợi ích riêng mình là được.
CÁ LỤC CHÂU: Chỉ cho các loại cá tham ăn mê mồi bất kể là thơm thúi, sạch dơ, như cá sát hoặc cá út sống trong sông chẳng hạn, hễ nơi nào có động nước là chúng đến. Nghĩa bóng là nói kẻ tham mê quyền lợi, sâu dân mọt nước. Trong bài Bạc Liêu, Đức Thầy có nói:
“Lưng- chưng bèo dạt thân hành đạo,
Bị lũ a-dua cá út thiều”.
CHÁNH VĂN
181. Cấp-Cô-Độc là nhà bá hộ,
Còn đành lòng bố-thí xả thân.
Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần,
184. Miễn hiểu đạo hơn là châu-báu.
Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão,
E sau nầy tâm-não đoạn-trường.
Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương,
188. Trời đất xử những người bội phản.
Phải chỗi dậy nương dây hùng-tráng,
Chữ đại-hùng đại-lực từ-bi.
Vậy mới trang quân-tử nam-nhi,
192. Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.

LƯỢC GIẢI :
Trong đoạn giảng trên, Đức Thầy nhắc lại truyện ông Cấp Cô Độc là một trưởng giả giàu có, sanh đồng thời với Đức Phật Thích Ca. Ông có lòng kính tin Tam Bảo và bố thí cao độ. Ông thường đem vàng bạc nuôi kẻ neo đơn cô quạnh và xây cất Kỳ Viên Tịnh Xá để Phật có nơi thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Sau cả nhà đều tu hành chứng quả. Cho đến bây giờ Kinh sách vẫn còn chép ghi sử nghiệp của ông mãi mãi.
Đức Thầy kêu gọi bá tánh sớm thức tỉnh tu hành, nếu mãi e dè nghi hoặc sợ Ngài, tất sau nầy phải gánh chịu nhiều nỗi đau thương gian khổ. Bởi tới đây Trời Phật sẽ phân xử, giáng tai nạn cho kẻ gian hùng, hại dân hại nước.
Ngài kêu gọi khắp chư môn Phật tử hãy sớm trổi dậy nương theo ánh sáng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi của Phật để xứng đáng là người trượng phu quân tử và cũng để gìn tròn bổn phận hiếu trung ngay thảo.
CHÚ THÍCH :
CẤP CÔ ĐỘC : Tên của nhà trưởng giả giàu có sanh đồng thời với Đức Phật Thích Ca. Tên tộc của ông là Tu Đạt Đa (Sadatta).
Chữ “Cấp Cô Độc” có nghĩa là “Chẩn tế bần phạp, cấp chư cô độc” (nuôi giúp những người nghèo túng, trợ cấp những kẻ neo đơn cô quạnh). Hôm nọ có dịp đi buôn qua Vương Xá Thành, ông ghé lại Tịnh Xá Trúc Lâm để nghe Phật thuyết pháp. Sau khi nghe pháp, ông chứng quả Tu Đà Hoàn.
Lòng tin tưởng Phật pháp phát lên cao độ, ông liền trình với Đức Phật cho ông xây cất một Tịnh xá để Phật thuyết pháp và có nơi an cư nhập hạ cho chư Tăng. Được Phật chấp nhận, ông trở về hỏi mua miếng vườn của Thái tử Kỳ Đà. Hai bên với sự đồng ý là người mua đem vàng lót tới đâu thì người bán giao đất tới đó.
Cấp Cô Độc đem vàng lót hết đất trong vườn cây của Thái Tử, nhưng còn các gốc cây không lót được. Ông đang đứng suy nghĩ phải làm sao lót cho giáp hết. Thái Tử thấy vậy tưởng lầm ông còn tiếc của, nên nói:
-Ông bằng lòng thì mua, bằng sợ hao vàng thì thôi, của tôi còn của tôi.
Cấp Cô Độc mỉm cười đáp:
-Chẳng phải tôi tiếc của mà đang suy nghĩ phải chở kho vàng nào đem lót cho vừa. Nói rồi, ông cho người tiếp tục chở vàng đến lót. Thái Tử thấy vậy cũng phát tâm hoan hỉ, nói:
-Thôi ! Tinh thần ngưỡng mộ Phật pháp của ông đã đáng kính rồi. Còn lại chỗ trống các gốc cây thì để phần tôi đóng góp.
Do đó, về sau ai ai cũng ca ngợi là “Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên” (Vườn sân Tịnh Xá là của Cấp Cô Độc, còn các cây cao rợp mát là của Thái tử Kỳ Đà).
Từ đó, các bài thuyết pháp của Đức Phật phần lớn là xuất phát tại đây và liên quan đến các phương cách tu tại gia Cư sĩ.
Về sau, hai ông bà Cấp Cô Độc và ba người con đều tu chứng quả.
BÁ HỘ: Nhà giàu có lớn.
BỐ THÍ: Bố là rải ra, thí là cấp cho. Đem vật sở hữu của mình trợ cấp cho kẻ khác gọi là bố thí. Bố thí có 3 cách: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. Xem lại chi tiết tại tr. 177-179, Q. Thượng Tập 2/3.
CHẦN CHỜ SỢ LÃO: Trù trừ giải đãi vì nghi sợ Đức Thầy gạt gẫm.
HÙNG TRÁNG: Sức mạnh mẽ có đủ hùng lực.
ĐẠI HÙNG - ĐẠI LỰC- TỪ BI: Ba từ ngữ nầy để tán tụng công đức của Phật: Dám lìa bỏ thành quách, thê tử đi tu (chí Đại Hùng), hàng phục được Ma Vương dưới cội Bồ Đề (chí Đại Lực), sau khi đắc Đạo, không nỡ nhập Niết Bàn mà vẫn trụ thế giáo độ chúng sanh (chí Đại Từ Bi).
QUÂN TỬ: Người có phẩm hạnh cao khiết, tài năng vượt trội hơn kẻ khác. Đó là mẫu người lý tưởng của nho giáo.
NGAY THẢO: Do câu “Ngay cha thảo chúa” (Trung quân vương, hiếu phụ mẫu). Trung chánh ngay thật với vua, hiếu thảo cùng cha mẹ.
CHÁNH VĂN
193. Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm.
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
196. Quyết kiếm thế đặng toan lừa-dối
Ngọn bút sắt chỉ đường người tối,
Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng.
Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang,
200. Đến Cực-lạc tìm nơi an-dưỡng.
Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng,
Lánh ta-bà cõi thế đua chen.
Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn,
204. Bạn phản bạn như người Bùi-Kiệm.
Trên mặt đất hạng người ấy hiếm,
Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
Nhìn Trịnh-Hâm Lão bắt mủi lòng,
208. Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.
LƯỢC GIẢI :

Đức Giáo Chủ nhận xét trong đời có lắm kẻ giá áo túi cơm tức ăn hại của dân chúng, chẳng có công sức gì ích lợi đối với mọi người. Hễ thấy ai ngu khờ hơn mình thì chờm hờm tìm cách dối trá để thủ lợi.
Vì lòng thương xót sanh linh, Đức Giáo Chủ mượn ngòi bút sắt thay thế cho bút lông như trước để viết ra Kệ giảng, vạch con đường sáng suốt cho mọi người bước theo nẻo Đạo. Đó là phần sự tướng, còn phần lý tánh thì Ngài dùng lòng cứng rắn như kim cương để dìu nhơn sanh qua bể khổ. Ngài cũng khuyên khắp môn đồ Phật tử nương vào lòng cang cường ấy tiến thẳng về Tây Phương Cực lạc.
Về ngoại cảnh thì Ngài cũng dùng sức mạnh của tinh thần định huệ mà dẹp tan chướng ngại, vượt qua bước gian truân khổ hải. Còn về nội tâm, Ngài dùng sức thiền định để phá trừ dục vọng vô minh mà đạt quả Bồ Đề Chánh Giác, hầu lìa cảnh Ta bà thống khổ.
Ngài cũng nhắc lại tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Trong đó, có đề cập tới Bùi Kiệm và Trịnh Hâm là hai người bạn không tốt, tìm mưu độc hại bạn Lục Vân Tiên, ngày kết cuộc phải bị trả quả một cách đớn đau nhơ xấu.
CHÚ THÍCH :
GIÁ ÁO TÚI CƠM: Cái giá máng áo và cái túi đựng cơm, không giúp đỡ gì được ai. Nghĩa bóng chỉ cho hạng người vô tích sự. Ví dụ: Phường giá áo túi cơm chỉ biết ăn hại bá tánh.
NGỌN BÚT SẮT: Ngòi viết bằng sắt. Thời xưa, dân ta và người Trung Hoa dùng bút lông và nghiên mực để viết chữ lên giấy. Thời Pháp thuộc thì dùng ngòi bút sắt và bình mực. Tất cả đều chỉ cho sự nghiệp văn chương, Đức Thầy có câu:
“Bút lông dẹp với dĩa nghiên,
Thế vào bút sắt cùng viên mực tròn”.(Hoài Cổ)
GẬY KIM CANG: Cây gậy làm bằng kim cương, một loại đá quý cực rắn chắc. Ý chỉ lòng cứng rắn không gì làm lay chuyển được.
CẦY CÁO: Hai loại thú rừng cùng một loại với chồn. Chỉ chung các loài thú rừng, hay phá ruộng rẫy mùa màng. Nghĩa bóng chỉ vọng tâm phiền não làm cho người tu không thể yên tâm hành đạo.
THIỀN TRƯỢNG: Cũng gọi là Tích trượng, tức là cây gậy của các Thiền sư, nghĩa bóng chỉ giáo pháp của chư Phật. Đức Thầy khuyên môn đồ:
“Quay về cội phúc đường chân Đạo,
Phật pháp thiền na dốc thực hành”.
TA BÀ: Xem lại tr. 62, Q. Thượng Tập 2/3.
VINH HOA: Xem lại tr. 233, Q. Thượng Tập 1/3.
BÙI KIỆM, TRỊNH HÂM: Hai nhân vật trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu, hư cấu ra để diễn tả người đời, tình bạn không tốt. Hai người thừa cơ hại Lục Vân Tiên rốt cuộc đều bị nghiệp quả báo đền.
CHÁNH VĂN
209. Viết ít câu cho đời ngâm vịnh,
Phận tài sơ xin hãy thứ tha.
Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca,
212. Tạm nghiên bút vẽ tranh thế tạo.
Trong bá-tánh nhìn xem châu-đáo,
Chớ vội-vàng chê Lão ngu-si.
Rạch lang-tâm những đứa vô-nghì,
216. Nhắc sơ tích người xưa trong sử.
Khuyên bá-tánh vạn dân gìn-giữ,
Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình.
Đứng trung cang hành thiện truy kinh,
220. Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận.

LƯỢC GIẢI :
Đức Giáo Chủ dùng lời khiêm nhượng rằng Ngài tài sơ trí siển song cũng nói ít lời cho mọi người xem coi học hỏi và có chỗ nào không vừa ý xin hãy thứ tha.
Bởi lòng yêu sanh chúng nên Ngài mượn giấy mực và ít lời kệ cơ, vẽ thành một bức tranh đời mà tạo hóa sắp diễn ra để khắp vạn dân tìm xem học hiểu.
Ngài nhủ khuyên bá tánh nên đọc hết qua kệ giảng và tìm hiểu cho thấu đạt nghĩa lý trong đây rồi sẽ quyết định. Chớ nên phê phán một cách vội vàng hời hợt. Bởi vì Ngài nhiệt tình đem tiếng nói tự đáy lòng để vạch rõ tâm địa xấu ác của bá tánh hiện nay cho mọi người hiểu rõ. Đồng thời Ngài cũng nhắc lại những truyện tích trong Kinh sách thời xưa cho mọi người được nhớ mà chừa bỏ những thói hư tật xấu, gìn giữ mà học các tấm gương thiện lương trung hiếu. Ngài cũng ước mơ cho khắp thế giới đều hưởng sự thái bình an lạc và mong ước mọi dân tộc đều biết thương yêu thuận thảo đoàn kết lẫn nhau trên đường tầm cầu chơn lý.
CHÚ THÍCH :
TẠM NGHIÊN BÚT VẼ TRANH THẾ TẠO: Mượn tạm bút mực và giấy viết họa lên bức tranh của cảnh trần sắp xảy ra mà do người đời tạo nhân từ xưa, giờ đây sắp đến ngày hưởng quả:
“Nhìn vạn vật cuộc đời ngao ngán,
Bởi hoàn cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây
Vẽ tranh Thiên tạo Bồng Lai cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm
Dắt hồn người hắc ám khỏi mang”.
(Đến Làng Nhơn Nghĩa, Cần Thơ)
XEM CHÂU ĐÁO: Xem xét một cách xác đáng tận tường
RẠCH LANG TÂM: Rạch là vạch ra. Lang tâm là lòng lang dạ sói. Ý chỉ Đức Thầy hiểu rõ lòng xấu xa sai quấy của mọi người mà chỉ dẫn cách cải sửa.
VÔ NGHÌ: Vô nghĩa, không có tình nghĩa.
TRUNG CANG: Ngay thẳng, cương trực.
TRUY KINH: Theo dõi tuy tầm để hiểu rõ kinh kệ.
CHÁNH VĂN
221. Đã thấy lộ cơ trời báo ứng,
Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.
Nợ hồng-trần túc-trái tiền-khiên,
Ta quyết dẹp cứu nàn dương-thế.
225. Noi chí đức Hoàng Thang luật chế,
Đời không hay những việc xa vời.
Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi,
Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.
229. Cảnh thế-tạo càng ngày thỏn-mỏn,
Giống vi-trùng thường đục phổi tim.
Đến cơn đau phương thuốc phải tìm,
232. Gặp Biển-Thước, Hoa-Đà lai thế.
LƯỢC GIẢI :

Trong đoạn giảng trên, Đức Giáo Chủ cho biết cơ tận diệt sắp diễn ra để chọn lọc hiền còn dữ mất, dân chúng khắp nơi phải chung chịu: Nào thế chiến thứ hai, nào thiên tai địa ách sắp xảy ra liên tiếp.
Đây là do lòng bạo ác của số người gieo nhân, giờ đây phải chịu luật quả báo trừng phạt:
“Luật trời báo ứng nhãn tiền,
Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ đây”.(SG, Q.1)

Vì thế, những người có trách nhiệm cứu dân độ thế như Đức Thầy giờ đây trở lại khuyến hóa nhân sanh, đồng gieo nhân từ thiện để kịp vượt qua thời kỳ chọn lọc.
Trong công cuộc lập đời tân, Đức Giáo Chủ khuyên mọi người có bổn phận noi theo chí đức của vua Thành Thang đời Hạ Kiệt thuở trước (Trung Hoa), để thi hành cho đúng đức độ của đạo làm người: nhân, hiếu, tiết, nghĩa song toàn. Chính đó là cái nhân tạo nên cảnh đời Thượng nguơn Thánh đức sắp tới.
Cảnh đời chúng ta đã tạo và đang sống sẽ bị tiêu hoại trong một ngày gần đây. Sự biến chuyển để lập đời mới giống như cơ thể có bịnh đang bị các vi trùng từ bên ngoài xâm nhập, cộng với bên trong đang hư hoại, khiến ngũ tạng của ta phải đau đớn. Đức Thầy khuyên ai muốn thoát ly cảnh huống ấy phải tự xét mình: Nếu bịnh về bên ngoài, tất phải tìm bác sĩ, danh y giỏi để điều trị. Còn đối với tâm bịnh (dục vọng phiền não) thì phải tìm cho được Tiên y, Phật dược, như hai vị thần y đời Xuân Thu và Tam Quốc (Biển Thước, Hoa Đà) rồi hành y theo lời dạy của các Ngài mới mong kết quả.
CHÚ THÍCH :
CƠ TRỜI BÁO ỨNG: Cơ trời là máy trời, báo ứng là đáp lại, trả lại. Đây là chỉ cho luật báo ứng giữa nhân và quả. Nghiệp nào sanh quả nấy: nghiệp lành hưởng quả lành, nghiệp ác tất mang quả dữ. Đức Giáo Chủ từng cho biết:
“Luật trời báo ứng nhãn tiền,
Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ đây”.(SG, Q.1) Và:
“Luật nhân quả thật là cao viễn
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.(KT,Q.5) Hoặc là:
“Đời xưa quả báo thì chầy,
Đời nay quả báo một giây nhãn tiền”.(SG, Q.3)

DIỆT LOÀI GIAN: Cơ chọn lọc của Trời Đất: tiêu diệt số người hung ác, chọn kẻ hiền lành, những con Tiên cháu Phật để lập lại đời tân. Đức Thầy diễn tả cơ chọn lọc hiền còn dữ mất ấy như sau:
“Diệt kẻ quấy lọc lừa dân lương thiện.
Mong Tạo hóa sắp xong tuồng cổ điển,
Đặng nhơn sanh kiến cảnh thái bình hòa”.
(Không Buồn Ngủ)
NỢ HỒNG TRẦN: Nợ thế, nợ trong cõi trần gian.
Người sống trong cõi hồng trần ai ai cũng đều có vương nợ và phải đền trả. Ví như: Nợ đời gia đình chồng vợ, con cái… Nợ Tứ ân, nợ Tam nghiệp. Đức Thầy khuyên:
“Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”.

TÚC TRÁI TIỀN KHIÊN: Nghiệp nợ do mình gây tạo kết cấu oan trái rất nặng nề đã gây tạo từ nhiều kiếp trước, giờ đây đã đến lúc (chín mùi) phải chịu báo ứng. Đức Thầy có câu:
“Những nỗi tiền khiên gây lắm nợ,
Đời nầy trả dứt mới mong cầu”.
(Cho cô Hai Gương, Cần Thơ)
Còn món nợ đặc biệt nữa là nợ vì chúng sanh và Đạo pháp. Như Đức Phật Thầy Tây An đã nói:
“Nợ tiền khiên Bồ Đề giống trước,
Vẹn một mình mới vẹn ba phân”.
Đức Thầy nay cũng nói rõ:
“Nợ cùng bách tính hãy còn vương”.
Câu nầy, Đức Thầy có dụng ý cho biết ai muốn độ mình và cả chúng sanh thì trước phải trả dứt nghiệp nợ oan khiên nói trên mới mong kết quả.
CHÍ ĐỨC HOÀNG THANG: Tâm hành và chí đức hay chí khí của vua Thành Thang. Vua Thành Thang trước kia là một chư hầu của vua Thương, họ là Từ Thị, hiệu là Thiên Ất hay Thành Thang, mình cao 9 thước (thước Tàu hồi đó). Ông là người có đủ nhân từ đức hạnh.
Một hôm vua Thành Thang đi du ngoạn ngoài thành thấy dân đánh cá lưới chim. Bủa lưới đủ bốn mặt xong, họ khấn vái:
“Con nào từ trên trời đi xuống,
dưới đất chun lên,
từ bốn phương tới hãy đều vào lưới ta”. Vua Thang nghe vậy liền than: Như vậy thì dân chúng bắt hết cá chim hay sao ? Ngài liền ra lịnh những người ấy dỡ hết ba mặt lưới và bảo các thợ săn nguyện vái lại:
“Con nào muốn qua thì qua,
muốn lại thì lại,ở trên trời sa xuồng,
ở dưới đất chun lên, muốn ra cứ chạy ra.
Con nào dứt mạng thì vào lưới ta.”.
Các nước chư hầu nghe vậy đồng khen Vua Thang là người có nhơn đức, biết thương yêu cả chim muông điểu thú. Và về sau, người đời thường truyền miệng: “Mở lưới Thành Thang” ý muốn nhắc lòng nhơn đức của vua Thành Thang.
Về sau, vua Thành Thang rước được một bậc kỳ tài ẩn sĩ, tức là ông Y Doãn ở đất Hữu Sằn về giúp. Thấy bậc hiền tài, vua Thành Thang đem dâng cho vua Kiệt. Vua Kiệt không dùng nên ông Y Doãn trở về hợp chư hầu phò vua Thang đem quân vào bắt vua Kiệt đày ra đất Nam Sào, nay thuộc tỉnh An Qui.
Nhà Hạ bị diệt từ đó. Vua Thành Thang đuổi Hạ Kiệt xong, lên ngôi Thiên Tử, đóng đô ở đất Bạc, lấy hiệu là nhà Thương. Vua Thang họ Tử Thị cũng gọi là dòng vua Huỳnh Đế. Nhà Thương trị vì được 661 năm truyền đến vua Bàn Canh thì dời đô qua đất Bạc và đổi hiệu là nhà Ân…
HOÀNG THANG LUẬT CHẾ: Hoàng Thang là ông vua nhơn từ đức hạnh, đã bỏ luật của thời Hạ Võ và chế luật pháp mới hợp với lòng dân, tạo nên cảnh đời an lạc suốt con cháu, truyền suốt 661 năm. Chế độ luật pháp của vua Thành Thang tóm lược như sau:
1.-Chánh Thất Tiết: Trên thì vua phải phân đoán luật nước công bình cho bá tánh. Dưới các quan phải thẩm xét cho được ngay thẳng để dân chúng được nhờ.
2.-Nữ Tiết Hạnh: Không được bắt gái đẹp sung vào cung vua, và các cô gái hạnh nết luôn giữ nghiêm chỉnh không nên học thói lăng loàn.
3.-Dân Thất Chức: Kêu gọi và giúp đỡ dân thất nghiệp, lo cho đời sống khỏi bị đói khó nghèo khổ.
4.-Bảo Thơ Hành: Không được ỷ mình quan lớn hiếp đáp quan nhỏ, mà phải đối xử bình dân và biết thương yêu lẫn nhau như con đỏ.
5.-Sung Cung Thất: Từ vua đến dân, nhà cửa đều như nhau không phân biệt. Nếu có tiền, dân quan vẫn được quyền xây cất nhà cao cửa rộng như nhau.
6.-Phàm Phụ Xướng: Những kẻ nịnh bợ quan thần đều bị sa thảy (cách chức hết). Chỉ chừa lại các quan thanh liêm chánh trực mà thôi.
Nhờ các điều luật chế đó mà vua Thành Thang huấn luyện các chư hầu và cả nước đều đối xử thái bình an lạc hơn 6 thế kỷ (661 năm) bắt đầu từ năm1783 TCN.
Do đó, giờ đây Đức Thầy cũng khuyên các nhà cầm quyền hiện tại: Muốn cho nước mình được an cư lạc nghiệp, nên noi theo chí đức của vua Thành Thang mà thành lập nền pháp trị công minh trong nước.
CHO TƠI: Tơi là áo mưa, tức áo che mưa. Xưa, người ta kêu áo che mưa là áo tơi. Đây nói người hảo tâm hay giúp người qua cơn khi gặp trời mưa rét lạnh.
TỪ BI GIÚP NÓN: Khi gặp cơn nắng hạn thì giúp nón để bớt cơn nóng bứt.
Vậy thành ngữ “cho tơi giúp nón” là ý nói người có lòng nhơn (từ bi) thường cứu khổ cứu nạn cho người lúc nguy khốn.
CẢNH THẾ TẠO: Cảnh đời hay thế giới con người đang sống với mọi sự sang hèn vui khổ là đều do nghiệp của loài người đã gây tạo từ trước mà xuất hiện ra.
CÀNG NGÀY THỎN MỎN: Ý nói quả địa cầu chúng ta đang sống mỗi ngày một mòn dần đến khi hoại hẳn.
GIỐNG VI TRÙNG: Từ ngữ nầy chỉ chung các vi sinh vật rất nhỏ bé phải dùng kính hiển vi mới thấy được, thường hay gây bệnh cho con người. Nghĩa bóng là chỉ cho những người gian tà hung ác hay quậy phá sanh vật và vũ trụ hoặc do thiên tai địa ách, chiến tranh đói đau, khổ nạn đều do tâm và nghiệp của con người gây tạo giờ đây phải chịu báo ứng.
PHƯƠNG THUỐC PHẢI TÌM: Ý nói bịnh do vi trùng phá hoại ngũ tạng, phải tìm cho được danh y thánh dược (như Biến Thước, Hoa Đà). Còn căn bịnh do luân hồi quả báo thì phải tìm đến Đức Phật và chư Bồ Tát rồi thực hành theo lời chỉ dạy của các Ngài mới mong kết quả.
BIẾN THƯỚC: Là tên một vị thánh y (Trung Hoa), được mọi người tôn là Thánh Tổ trong nghề làm thuốc, vì ông có thuật cải tử huờn sanh. Ông sanh đồng thời với Hiên Viên Huỳnh Đế.
Thời Đông Châu Liệt Quốc có người tên Trần Hoản tự là Việt Nhân rất thông y học. Ông ngụ tại đất Lư Thông nước Tề nên được người ta gọi là Lư Y. Sau đó Trần Hoản có một quán xá, đối đãi rất tử tế với một bậc dị nhân là Trường Tranh Quân. Tranh Quân cảm ơn hậu liền tặng cho Trần Hoản một viên thuốc uống vào thấy được mọi việc xảy ra, dầu tà ma quỉ quái cũng thấy được. Nhờ đó, khi xem mạch, Trần Hoản thấy rõ ràng ngũ tạng lục phủ của người bịnh. Ông chữa bịnh càng được nổi tiếng thêm và về sau ông được người đời tặng cho danh hiệu là Biến Thước Tiên sinh, để gọi Trần Hoản cũng như Biến Thước tái sanh.
Trong lúc ông sang chơi bên nước Quắc, gặp Thái tử bên nước ấy ngộ cảm mà chết, được ông cứu sống lại. Nhờ đó Biến Thước (Trần Hoản) nổi danh là một y sĩ có tài cải tử huờn sanh. Chính Biến Thước vào yết kiến vua Tề Hoàn Công, đã đoán bịnh ba lần mà vua Tề không nghe theo, quả nhiên sau khi Biến Thước rời khỏi nước Tề, vua Hoàn Công bị bịnh mà băng hà.
HOA ĐÀ: Ông là người đời Đông Hán ở đất Tiểu quận, nước Bái, tức là nguyên quán nổi tiếng về nghề làm thuốc, giỏi về thuật châm cứu, lại biết rành về khoa mổ xẻ. Trong đời, ông đã cứu được nhiều người bịnh nguy ngập.
Kẻ nào đau trong ngũ tạng, lục phủ khó chữa thì Hoa Đà cho uống một thang “ma phế” khiến cho người bịnh mê man như chết, rồi dùng dao bén mổ bụng ra, lấy thuốc rữa tạng phủ mà người bịnh không hề đau đớn. Sau đó, ông lấy thuốc xịt vào và lấy kim vá lại, độ vài mươi hôm hay một tháng, người bịnh sẽ khỏi. Chữa bịnh nào, Hoa Đà cũng tỏ ra am hiểu tường tận về căn bịnh ấy rồi cho uống thuốc hoặc châm cứu,…hễ ông mó tay vào bệnh nào thì bệnh đó sẽ khỏi ngay tức khắc. Nhưng đặc biệt nhứt là khi ông trị vết thương cho Quan Công trong lúc Quan Công vây Phàm Thành, vì không đề phòng bị quân Tào Nhân bắn tên độc trúng cánh tay mặt không cử động được. Hoa Đà xem vết thương xong cho biết:
- Mũi tên nầy có tẩm thuốc ô dầu rất nguy hiểm, nếu không chữa sớm thì cánh tay sẽ hỏng. Tuy nhiên, lối chữa nầy đau đớn lắm, chỉ sợ Tướng công ghê rợn mà thôi.
-Chữa cách nào mà ghê rợn vậy ?
-Bây giờ phải tìm chỗ kín đáo, chôn một cây cột thật chắc, phía trên xuyên một vòng sắt lớn để lồng cánh tay Ngài vào đó, dùng giây thừng buộc chân vào cột, lấy cái khăn chùm kín đầu lại. Sau đó, tôi mới dám dùng dao nhọn rạch da, khoét đi chỗ thịt làm độc, gọt thẳng vào chỗ bị bắn, nạo hết chỗ xương ngấm độc, lấy thuốc xịt vào và dùng chỉ khâu lại sẽ khỏi ngay.
Quan Công nói:
-Tưởng gì khó chớ việc như vậy cần gì phải đóng cọc với vòng cho thêm phiền.
Nói rồi ông sai quân bày tiệc thiết đãi, uống được mấy chén rượu rồi chìa tay cho Hoa Đà mổ. Hoa Đà lại bảo ông hãy lấy khăn che mặt cho khỏi ghê. Quan Công bật cười bảo:
-Ông cứ tự nhiên!
Thấy Hoa Đà còn phân vân, Quan Công sai quân hầu bày bàn cờ, mắt chăm chú vào bàn cờ, tay trái đánh cờ, tay mặt đưa cho Hoa Đà mổ một cách tự nhiên.
Hoa Đà cầm dao thật sắc, sai quân nâng cái chậu lớn ở phía dưới cánh tay để hứng máu, Hoa Đà nhắc lại lần nữa, Quan Công bảo:
-Cứ việc mổ xẻ tự tiện, mình không phải là hạng tầm thường đâu.
Hoa Đà đưa mũi dao rạch toạt lằn da bên ngoài, khoét bỏ miếng thịt hỏng, gọt thẳng vào tận xương thì thấy chỗ xương ấy đã xanh xám lại. Hoa Đà đưa đầu lưỡi dao gọt và nạo mạnh, tiếng kêu nghe rởn tóc gáy, mọi người đều xanh mặt không dám nhìn. Nhưng Quan Công vẫn thản nhiên ngồi uống rượu nhắm thịt, dùng tay chỉ bàn cờ và cười nói tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra, mặt không lộ vẻ đau đớn. Một lúc sau máu chảy đầy cả chậu. Hoa Đà đã nạo sạch chỗ xương ngấm độc, liền dùng thuốc xịt vào chỗ mổ, lấy chỉ khâu lại.
Khi Hoa Đà làm xong thì Quan Cộng cười và nói to lên với các tướng:
-Cánh tay ta đã co duỗi được rồi, không còn thấy đau đớn nữa. Ta chưa hề thấy ông thầy thuốc nào giỏi như thế nầy. “Tiên sinh quả là Thần y”.
Hoa Đà vội đáp:
-Cả đời làm thuốc, tôi chưa thấy ai gan đến thế. Tướng quân quả là Thiên thần. Nói xong, ông để lại cho phương thuốc trị liệu và dặn phải tịnh dưỡng trong 100 ngày thì bịnh sẽ lành hẳn. Nói rồi ông từ giã ra đi, không nhận món gì, dầu Quan Công hết lòng cầm lại.
CHÁNH VĂN
233. Kim với cổ nhìn xem thế-hệ,
Sợ có ngày hoạch tội ư thiên.
Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền,
236. Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn.
Ai coi qua xin đừng bỏ lảng,
Gắng công-trình vạch lá tìm sâu.
Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu,
240. Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ.
Điên nhơn-nghĩa điên vì Đạo cả,
Thôi chào đời khép cửa buồn duyên.
Có thiện-căn sớm lại cửa thiền,
244. Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.
Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.
Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn.
LƯỢC GIẢI :

Đoạn giảng trên, Đức Thầy khuyên môn đồ hãy bình tâm xét nghiệm: Hành động con người từ thế hệ xưa đến nay, những tấm gương tu thân hành đạo, hư nên tốt xấu mà học đòi hay xa lánh. Nếu không được vậy, e có ngày phạm tội với Trời Đất. Tới đó dầu ta có xin tha thứ cũng khó đặng.
Những điều đục trong tốt xấu như thế nào, cho đến cơ mầu diệu của Trời Đất, Ngài cũng phân tách một cách sáng tỏ trong bài giảng nầy. Viết đến đây Ngài sắp dừng bút, nhưng lòng thương khắp bá tánh vạn dân vẫn chưa hết.
Vậy ai có xem qua xin đừng thờ ơ quên lãng mà hãy nghiên cứu xét suy từ chữ để tìm ra lý nghĩa tu hành. Hiện tình, chúng sanh rất may mắn gặp lúc Đức Thầy ra đời mở cơ phổ hóa đạo mầu, ví như đem nước cam lồ tưới mát cho hoa kiểng được tươi nhuận. Vậy chúng ta còn chần chờ chi nữa mà chẳng lo hứng lấy nguồn Giáo lý ấy để làm hành trang trên đường sang đất Phật.
Đoạn kết của bài “Diệu Pháp Quang Minh” : Ngài nhắc lại danh từ Điên một lần nữa để môn đồ lưu ý. Tuy Điên nhưng Điên vì nền nghĩa nhân đạo đức chớ chẳng phải là Điên thật. Đó là Ngài muốn đối phương bớt ngờ vực làm trở ngại sự hoằng pháp và cũng thức tỉnh số người hay chê bướng chê càng ít chịu suy xét cho thấu đáo.
Sáng tác đến đây Ngài tạm dừng bút, u buồn cho số phận của mình: Việc hoằng pháp lợi sanh còn nhiều trở ngại. Tiếng kêu gọi sau cùng là người có thiện căn thiện chí hãy sớm tỉnh ngộ trở về với gốc lành cội cũ và rán làm lành niệm Phật, tu tâm dưỡng tánh cho đến ngày chung cuộc, để được hưởng cảnh huy hoàng của ngày Thượng nguơn Thánh đức sắp tới đây.
CHÚ THÍCH :
KIM CỔ: Xưa và nay. Đây có ý chỉ dạy hành giả phải suy xét cho kỹ chuyện thời xưa và hiện nay để lập thân hành đạo. Như Ngài thường kêu gọi:
“Đời phải biết suy kim luận cổ,
Thông cơ đồ dựng nghiệp Thánh Hiền”.

THẾ HỆ: Thế là đời; Hệ là một hệ thống có quan hệ với nhau. Nghĩa chung là thời đại cùng một số tuổi xấp xỉ ngang nhau, như thế hệ cha hay thế hệ con cháu, hoặc là chỉ số người và sinh vật sống trong cùng một thời hay cùng trong giai đoạn, từ xưa đến nay.
HOẠCH TỘI Ư THIÊN: Xuất phát từ câu Tục ngữ của chư Phật Thánh: “Hoạch tội ư thiên nhi thiện đảo giả”
( Đã phạm tội với Trời Đất, dầu có cầu xin cũng khó được).
NẺO ĐỤC TRONG: Hai con đường, một đi vào chỗ nhơ xấu tội lỗi, hai là đi đến chỗ trong sạch chơn chánh thanh khiết. (Đường tà nẻo chánh).
“Chọn bến nước rủi may trong đục,
Nếu chần chờ lục đục trễ chơn”.
CẠN TỎ CƠ HUYỀN: Cạn tỏ là bày nói rõ, rất rõ ràng. Cơ huyền: Việc cao sâu mầu diệu trong bộ máy tạo hóa. Hiểu chung hết câu có nghĩa: Từ việc đục trong hư nên tốt xấu cho đến thiên cơ đạo lý, Đức Giáo Chủ cũng nói hết cho chúng sanh rõ:
“Việc Thiên cơ Khùng tỏ hết trơn,
Cho trần hạ tường nơi lao lý”.
MỰC ĐÃ CẠN: Bình mực đã sắp hết . Ý nói Đức Thầy viết bài giảng đến lúc sắp dừng bút.
LÒNG YÊU CHẲNG MÃN: Tâm thương xót chúng sanh để ban vui cứu khổ cho muôn loài lúc nào cũng chứa chan không hết, không nản lòng thối chí:
“Lòng yêu sanh chúng luân chuyển kiếp,
Dạ ái dương trần đổi xác thân”.
BỎ LÃNG: Quên lãng, bỏ qua không siêng năng với công việc đang làm. Ở đây ý nói đến việc tu hành giải đãi lơ là.
VẠCH LÁ TÌM SÂU: Vạch lá cành trong thân cây đã trồng để bắt sâu bọ ra. Có 2 nghĩa: (1) Như làm rẫy, trồng hoa, kiểng phải bắt hay diệt hết sâu bọ rầy mò mới kết quả. (2) Những phiền não vọng tâm hay quậy phá tâm trí ta, khiến tu không thành đạo. Cho nên, Đức Thầy bảo mỗi hành giả nên nhìn kỹ vào tâm mình để lọc hết vô minh phiền não ra. Và phải cố gắng siêng năng thật hành, không nên nản lòng thối chí.
Đức Giáo Chủ thường nhắc nhở:
“Lúc làm rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn ngơ bỏ giống hay sao ?” Nên Ngài thường khuyến khích:
“Giết cho sạch những loài sâu bọ,
Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng”.
Nếu chúng ta siêng năng kỹ lưỡng tu trì thì ắt đặng:
“Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông”.
MƯA NGÂU: Mưa nhỏ hột thưa vào tháng bảy. Từ nầy liên hệ với điển tích Ngưu lang Chức Nữ. Chức Nữ là cháu gái của một vị Trời chuyên nghề canh cửi; Trời thương tình gả Chức Nữ cho Ngưu Lang, vốn là một chàng chăn trâu. Sau khi lấy chồng, Chúc Nữ sanh lười biếng việc canh cửi nên bị Trời phạt cách ly chồng bởi sông Ngân Hà và chỉ cho vợ chồng gặp nhau mỗi năm một lần vào đêm thất tịch (mùng 7 tháng 7) nhờ đàn quạ mang đá làm cầu. Khi trùng phùng, vợ chồng ôm nhau khóc, nước mắt dầm dề chảy xuống hạ giới thành những giọt “mưa ngâu”.
GIỌT SƯƠNG ĐÔNG HẠ: Giọt sương giữa mùa Đông và mùa Hạ rất mát mẻ như nước cam lồ, nên dụ cho nguồn Giáo lý của Phật pháp. Đông Hạ là giữa mùa Xuân và mùa Hè (Hạ). Còn ngày rằm tháng 8 là giữa mùa Thu. Ngày Đức Giáo Chủ bắt đầu viết Sấm Giảng Kệ Kinh, mùa Thu có mưa phùn mát mẻ, do điển tích “Mưa Ngâu” (Ngưu Lang Chức Nữ trùng phùng nhau). Cho nên trong giáo lý PGHH chỉ mùa Thu có nguốn mưa pháp như nước cam lồ tưới cho các gốc lành (thiện căn) được sum sê nẩy nở. Như Đức Thầy từng cho biết:
“Giảng nầy ra cuối mùa Thu,
Dạy ăn dạy ở chữ tu vuông tròn”. Và:
“Đến trung tuần tháng tám Ta cùng Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy thiên cơ truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn năn cải hóa làm lành..”.
BUỒN DUYÊN:
U buồn cho số phận của riêng mình. Lúc mới ra đời phổ hóa chúng sanh chưa được hanh thông lắm. Đức Thầy lại phải lâm vòng Pháp nạn, khiến cho người tu gặp nhiều trở ngại
THIỆN CĂN: Căn lành. Xem lại tr. 48 Q. Thượng Tập 1/3.
CỬA THIỀN: Cửa Đạo. Ý chỉ cho đạo Phật.
NIỆM PHẬT: Niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Ý chỉ khuyên người lo niệm Phật làm lành (tu theo Tịnh Độ Tông). Chuyên lo làm lành niệm Phật để cầu Đức Phật A Di Đà tiếp độ vong linh mình sang cảnh giới an lành trong sạch (Cực Lạc) của Ngài. Đây ý khuyên mọi người lúc nào cũng giữ tâm tinh tấn Niệm Phật và làm lành, để tiến đến chỗ trọn lành trọn sáng.
CHUNG CUỘC: Kết cuộc (mãn tuồng). Nghĩa bóng là Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ Phật tử nên ẩn nhẫn niệm Phật làm lành cho đến ngày kết cuộc sẽ biết ai còn ai mất.
NAM MÔ ĐỊNH TÂM VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT: Đây là danh hiệu của vị Bồ Tát Đẳng Giác đã có đại nguyện để cứu độ chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp. Ngài có thệ nguyện giúp cho các hành giả, trước khi sáng tác hay đọc tụng Kinh giảng nên niệm đến danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ giúp cho tâm tánh an định, nội ma phiền não đều tan biến vượt qua các chướng ngại cản ngăn thử thách. Do đó, khi sáng tác xong bài “Diệu Pháp Quang Minh” chính Đức Thầy cũng niệm danh hiệu “Bồ Tát Định Tâm Vương” và Ngài cũng có dụng ý hướng dẫn tín đồ hành theo.

Bài 14. SA ĐÉC (SẤM GIẢNG THI VĂN GIÁO LÝ TOÀN BỘ 2004, tr. 345-351 )

XUẤT XỨ:
Khoảng cuối năm Kỷ Mão (1939) và đầu năm Canh Thìn (1940), nhà cầm quyền Pháp ra lịnh cho hai viên quận trưởng Tân Châu và Chợ Mới theo dõi Đức Thầy từ ngày mới khai Đạo tới giờ, để tìm lý do bắt Ngài, nên họ tổ chức rình rập hạch hỏi đủ cách.
Sự theo dõi kéo dài mãi đến ngày 12 tháng 4 năm Canh thìn (1940), họ mới bắt Ngài đem lên tỉnh Châu Đốc. Hai giờ sau đó, họ đưa Ngài luôn đến tỉnh Sa Đéc, làm việc hạch hỏi suốt hai ngày. Đến đêm thứ ba nhằm ngày rằm tháng 4 năm canh thìn, tức là đêm xét hỏi sau cùng, viên cò tên BAZIN, chánh chủ sở mật thám Sa Đéc mời Ngài ngồi ghế đối diện y. Đầu tiên, y chỉ bốn quyển Sấm Giảng mà y xem như là tang chứng để sẵn trên bàn và hỏi:
-Bốn quyển sách nầy có phải do ông viết ra chăng ? Đức Thầy đáp:
-Đúng là của tôi viết. Viên Cò hỏi tiếp:
-Vậy thì hiện giờ ông hãy viết trước mặt tôi và mọi người đang ở đây một bài tương đối như vậy, có được không ?
Đức Thầy gật đầu rồi ngồi xây mặt ra phía trước. Ngài vừa viết vừa đọc lớn cho mọi người cùng nghe. Suốt hai tiếng đồng hồ, ai nấy nghe qua đều ngạc nhiên thầm kính: Chưa từng thấy ông Thầy nào tài đức như vậy. Do đó, bài giảng nầy được mang tựa là “SA ĐÉC”.
VĂN THỂ:
Đây là một bài văn vần, thể thơ thất ngôn trường thiên, lối khuyến tu (thuyết giáo), dài 172 câu, khởi đầu bằng các câu:
“Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy,
Cửa thiền môn còn hỡi khóa then”.
Và chấm dứt bời các câu:
“Trong bá gia tìm đạo quá mòm,
Thôi giã thế ước mong đời thạnh”.
Chủ đích Đức Giáo Chủ muốn diễn tả định luật: bi- hoan, ly-hiệp và sự gian lao khổ khó của những người có trách nhiệm đang hoằng truyền Phật pháp.
NỘI DUNG:
Đây là một bài giảng đặc biệt, lời văn có lúc thì kiên cường có lúc mềm mỏng dẻo dai, có khi lại lâm ly thấm thiết. Trước nhứt Ngài bày tỏ ý chí của mình đang đương đầu với thời Pháp nạn:
“Cơn dông tố mịt mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của Đấng Từ Bi”.

Kế đó, Ngài bày tỏ tâm nguyện và lòng bác ái xót thương dân chúng và tìm phương cứu khổ cả vạn loại chúng sanh, nên trước sự thành bại Ngài chẳng nao núng lòng. Ngài phát nguyện gánh chịu mọi đau khổ cho chúng sanh:
“Muốn lập đạo có câu thành bại,
Sự truân chuyên của khách thiền môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.

CHÁNH VĂN
1. Nhìn cuộc thế bộn-bề sóng dậy,
Cửa thiền-môn còn hỡi khóa then.
Nương xứ xa tạm viết với đèn,
4. Tỏ tâm sự của người liễu Đạo.
LƯỢC GIẢI:

Tuy sống trong cảnh đất nước bị người Pháp đô hộ, Ngài bị họ bắt đi điều tra xét hỏi khó khăn, nhưng lòng Đức Giáo Chủ vẫn luôn nhớ đến cảnh sanh linh đồ thán, do cuộc đệ nhị thế chiến đang xảy ra, cũng như thuyền đang gặp sóng to gió lớn..
Để cứu dân cứu nước, Đức Thầy ra mở Đạo. Trên đường sứ mạng, Ngài phải dừng chân lại bởi người pháp ngăn giữ. Nhân dịp nhà cầm quyền Pháp bắt dẫn Ngài xuống Sa Đéc, Ngài mượn giấy mực của họ để bày tỏ tâm trạng của người đã chứng đắc đạo quả thị hiện cứu đời.
CHÚ THÍCH :
CUỘC THẾ: Cuộc đời, mọi cảnh vật, chung trong thế giới loài người. Đức Thầy có câu: “Cuộc thế trau dồi mượn tấc hơi”.
BỘN BỀ SÓNG DẬY: Nhiều việc rối rắm như biển đang dậy sóng. Đây chỉ cho cuộc thế chiến thứ II sắp xảy ra, dân chúng gặp nhiều tai nạn sắp đưa đến.
CỬA THIỀN MÔN: Cửa Đạo hoặc cửa chùa.
KHÓA THEN: Cái then gài cửa đang bị khóa chặt. Ý chỉ nền Đạo bị người Pháp ngăn chận chưa được truyền bá rộng.
LIỄU ĐẠO: Đắc đạo hoặc chứng đạo.
CHÁNH VĂN
5. Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu-thảo noi gương.
Ấy chẳng qua là đạo luân-thường,
Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dặm.
Non tuyết san rú-rừng thăm-thẳm,
 Đem thân phàm tầm đạo siêu-sanh.
Đến ngày nay còn rạng lấy danh,
12. Khắp bốn biển dân lành sùng bái.
LƯỢC GIẢI :

Đức Giáo Chủ khai hóa nhân sanh với tôn chỉ Học Phật Tu Nhân. Phần tu Nhân tức thực hành Nhân đạo, đức hiếu thảo đứng đầu. Còn về học Phật và tu Phật, hãy noi theo gương của Đức Thích Ca thuở xưa. Vì muốn cứu khổ chúng sanh, Ngài đã bỏ thành quách, lìa vợ đẹp con ngoan vào non Tuyết Lãnh chịu cực khổ gian lao, tìm ra chánh đạo để độ rỗi chúng sanh. Gương hy sinh tầm đạo ấy đã cách đây hơn 2.500 năm mà hiện giờ cả bốn biển năm châu, người người vẫn còn sùng kính.
CHÚ THÍCH:
THÂM ÂN DỤC BÁO: Muốn đáp ân sâu (của tổ tiên cha mẹ). Sách Thánh dạy: Công cha sanh ta, ơn mẹ nuôi ta, thương thay công ơn cha mẹ sanh đẻ và nuôi dưỡng ta cho được lớn khôn rất cần cù lao khổ.
LUÂN THƯỜNG: Giềng mối của Đạo làm người, gồm có Ngũ luân và Ngũ thường. Ngũ luân là đạo vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bè-bạn. Ngũ thường là 5 mối thường hằng, gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.. Đức Thầy từng dạy: “Luân thường nặng nợ phải vai mang”. Và:
“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,T
am cang trung trực người rằng ngu si”.
PHẬT THÍCH: Đức Phật Thích Ca, cũng chỉ đạo Phật, phát xuất từ xứ trung Ấn Độ (Népal ngày nay), cách đây trên 2.500 năm, Giáo Chủ là Đức Thích ca Mâu Ni Phật.
NON TUYẾT SAN: Cũng gọi là núi Tuyết thuộc dãy núi Hy Mã Lạp Sơn rất cao, quanh năm tuyết phủ giá lạnh, ít ai dàm tới. Thế mà Đức Thích Ca vẫn lên đây tu hành chứng quả.
ĐẠO SIÊU SANH: Đạo lìa khỏi sanh tử, đạt Niết Bàn. Đức Thầy đã xác định: “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
BỐN BIỂN: Bốn biển lớn trong quả địa cầu: Thái Bình Dương, Bắc Băng Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Đây chỉ cho toàn thế giới.
CHÁNH VĂN
13. Muốn lập Đạo có câu thành bại,
Sự truân-chuyên của khách thiền-môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
16. Ta chịu khổ, khổ cho bá-tánh.
LƯỢC GIẢI :

Xưa nay, bất cứ mọi sự việc gì có tổ chức hình tướng đều phải bị chi phối bởi định luật thành bại. Nhưng sự xấu ác gian xảo thì trước thành sau bại. Còn các điều tốt lành chơn chánh, như những người có đạo đức thì phần nhiều là trước bại sau thành.
Song sự thành bại ấy có khác nhau, hễ việc xấu ác thì khi thất bại bị mất luôn danh thể sự nghiệp và mạng sống. Còn việc tốt lành thì khi thành công thì thành công luôn vĩnh cửu. Đức Thầy đã xác định rõ:
“Bại rồi, thành lại nên tuồng,
Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma ha”.

Đến như PGHH hiện tình đang gặp cảnh truân chuyên khổ khó nhưng chỉ trong giai đoạn mà thôi. Ngài đã có bản nguyện gánh chịu muôn ngàn khổ khó cho cả vạn dân nên khi PGHH được phổ hóa khắp đại đồng thế giới thì mọi người mới đồn đãi ngợi khen. Đó không phải là việc ước mơ, mà “Quyết cứu đời dùng đạo phổ thông” và: “Khắp bốn biển liên dây Hoà Hảo”.
CHÚ THÍCH :
LẬP ĐẠO:
Khai mở nền Đạo.
TRUÂN CHUYÊN: Khó nhọc vất vả, như người đi thuyền bị sóng gió, nhồi dập làm lắc lư, phải chống đỡ rất khó khăn khổ nhọc. Ở đây chỉ cho PGHH đang đối đầu với thời kỳ Pháp nạn.
SÁU CHÂU: Chỉ sáu tỉnh (sáu châu) ở Nam Việt dưới thời nhà Nguyễn (Pháp thuộc): Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang và Hà Tiên. Sau đó, sáu tỉnh phân ra 20 tỉnh. Đây chỉ chung miền Nam Việt (Nam Kỳ Lục Tỉnh). Đức Thầy từng nói:
“Lục châu Ta dạo bằng nay,
Thấy trong lê thứ quá dài gian nan”.

CHÁNH VĂN
17. Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giàu có cạnh-tranh.
Bước chông gai đường đủ sỏi-sành,
20. Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã,
Bởi sự thường của bực siêu-nhơn.
Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ-bi.
Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
28. Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.
LƯỢC GIẢI :

Đức Giáo Chủ dùng giấy trắng mực đen kêu gọi khắp vạn dân sớm lìa khỏi sông mê để bước lên bờ giác. Muốn thế, mỗi người đừng ham luyến, tranh đấu vì lợi danh quyền tước,
Trên đường truyền Đạo, dù có dẫy đầy gai chông sỏi đá song Ngài chẳng bao giờ nản lòng thối chí. Nay Ngài lại phải tách rời quê hương để gánh chịu bao tai ách, Pháp nạn.
Với sự trạng vừa xảy ra Ngài chẳng buồn lòng, bởi vì Ngài xem đó là việc thường của bực siêu nhơn đã quyết tâm cứu đời. Với Ngài, miễn sao cho vạn loại chúng sanh thông hiểu con đường giải thoát.
Người Pháp bắt lưu đày Ngài ví như Ngài đang phải đối đầu trước một cuộc phong ba bão tố. Nhưng lòng Từ Bi chẳng hề làm Ngài nao núng trước cảnh huống ấy. Vì ngày thi công đức chưa tới nên Ngài phải chấp nhận một cuộc phiêu lưu để cứu độ chúng sanh.
CHÚ THÍCH :
SÔNG MÊ: Nói đủ là “sông mê bể khổ”, nơi chúng sanh đang sống, đối với “giác ngạn”, bờ giải thoát của chư Phật. Đức Thầy từng cho biết:
“Thoàn Bát nhã Ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.
Hoặc là: “Bến giác bờ mê, mê phải tránh”.

SỎI SÀNH: Sỏi là đá vụn hay đất hầm, sành là miển chén tộ bằng sành đập bể. Xưa, người ta thường dùng rải lên các con đường bị lầy lội. Chữ sỏi sành ở đây là chỉ con đường truyền Đạo cứu đời của Đức Thầy gặp nhiều khó khăn nguy hiểm, chưa được trơn láng êm xuôi:
“Trải qua một lúc sỏi sành,
Trung Ương hòa hiệp mới đành lòng đây”.

SIÊU NHƠN: Con người vượt người thường. Ý chỉ những người có đủ tài đức hơn người thường, tức các bậc Phật Thánh đã liễu Đạo, đắc Đạo.
DẠ SẮT: Lòng cứng rắn như sắt thép không một hoàn cảnh thử thách nào làm khờn mẻ lay chuyển được.
THIÊN ĐÌNH: Triều đình trên trời.
MỞ HỘI THI: Khai mở cuộc thi cử. Về trường đời thi cử một hay 2, 3 năm là có một lần thi văn chương tài lực để chọn bậc hiền tài ra giúp nước trị dân. Bây giờ, có khác, vì triều đình trên Trời tất phải thi theo định luật của vũ trụ, tức luật nhân quả, hiền còn dữ mất, để lập lại đời tân.
PHIÊU LƯU: Bay trôi khắp đó đây. Ý nói hiện giờ Đức Thầy phải lưu hành khắp nơi nơi để giáo độ chúng sanh.
CHÁNH VĂN
29. Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó ngờ đâu lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải-bươn,
Đến khuất dạng tình thương náo-nức.
Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
34. Bởi nạn-tai vừa mới vấn-vương.
Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.
Dạy con cả nào đâu than cực,
Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai.
Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
40. Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo.
Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng ?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
44. Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh.

LƯỢC GIẢI :
Những người hung ác khi nghe Đức Giáo Chủ nói người Pháp bắt Ngài đem đi vừa qua, chỉ là cơ thử thách, thì họ cho rằng Ngài nói túng để chữa thẹn. Chớ họ đâu có ngờ lòng Ngài quá yêu sanh chúng, nên nhân dịp nầy cũng giúp cho Ngài có đủ phương tiện phổ độ chúng sanh nhiều hơn.
Hôm ấy (rằm tháng Tư) xe của nhà chức trách Pháp rồ máy chở Ngài đi, khiến cho các môn đồ phải đau lòng bực tức. Ngài nghĩ âu cũng là một nạn tai cho Ngài mà cũng là một cuộc thử thách vậy thôi.
Vì lòng Từ Bi và trách nhiệm giáo hóa chúng sanh nên Ngài chẳng hề than van hay cảm thấy cực khổ. Ngài chỉ thương xót môn đồ như cha thương lo đùm bọc các con đang gặp hồi tai biến.
Do đó, Đức Giáo Chủ khuyên các môn đồ nếu bền lòng kiên chí thì sau nầy được gia tăng phẩm vị. Bằng thiếu đức tin, thối chí nản lòng, buông bỏ đạo đức ắt sẽ chịu muôn điều tai khổ.
CHÚ THÍCH :
BỰC TỨC: Bực bội tức tối làm cho lòng xao xuyến lo nghĩ.
LIÊN ĐÀI: Đài sen, nơi chư Phật ngự. Đây chỉ cho ngôi Tam Bảo hay các tự viện.
CÔNG ĐỨC: Công năng, đức hạnh. Kinh Thắng Mang nói:
“Ác tận ngôn công,
thiện mãn viết đức”
(Diệt hết điều ác là công,
đạt đến chỗ toàn thiện gọi là đức).
CON CẢ: Chỉ khắp hết môn nhơn đệ tử, không phân biệt cao thấp, trí ngu, nghèo giàu,... Ngài đã từng viết:
“Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.

NẶNG ĐÔI VAI: Hai bên vai đều chịu nặng nề hết. Nghĩa bóng chỉ bổn phận làm Thầy phải chịu trách nhiệm nặng nề.
KHÔI HÀI: Chuyện vui, chuyện đáng buồn cười. Đức Thầy ngụ ý nói: Vì lòng từ bi, Ngài mới ra đời khai Đạo cứu đời, thế mà có kẻ chê bai và ám hại. Chuyện đó thật đáng buồn cười:
“Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen”. Hoặc là:
“Nực cuời cho lũ sói muôn,
Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn Nghiêu”.
THÀY LAY:
Việc không phải của mình mà gánh lấy, chen vào.
ÔNG TẠO: Chỉ đấng Tạo Hóa (Hóa Công). Ý nói luật trời đất rất sâu kín mầu nhiệm, người đời khó hiểu đặng.
Thành ngữ “Thày lay Ông Tạo” xưa nay người ta thường dùng để thống trách bâng quơ khi mà việc không vừa ý mình. Đức Thầy từng dùng: “Trớ trêu con tạo thày lay”, hoặc là: “Trớ trêu tạo hóa ông bày trò chua”.
NHỒI QUẢ: Một trong 5 cách bị quả báo: Hiện báo, sanh báo, hậu báo, nhồi báo và dư báo.
Đây là loại quả báo thứ tư: Có nghĩa khi mình đã tạo nhân trong nhiều kiếp trước, bây giờ thay vì phải trả nhiều lần, nhưng nay vì do động lực của tâm hạnh mà phải trả dồn một lần cho mau hết.
CHÁNH VĂN
45. Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
Phải bền lòng mới rảnh trần-ai.
Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài,
48. Khó gặp chữ không không mà có.
Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao ?
Nấu lọc rành mới biết vàng thau,
52. Ai thật tánh ai người giả đạo.
Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han.
Nay thân Thầy cũng đặng bình-an,
56. Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng.
LƯỢC GIẢI :

Đức Giáo Chủ khuyên các nhà tu hành đã phát tâm kính tin Tam Bảo thì hãy rán lo trau dồi tâm đức cho được thanh tịnh tinh minh. Cứ bền lòng mãi mãi ắt sau nầy sẽ chấm dứt được cảnh đau khổ nhơ xấu. Trên đường tầm cầu Đạo pháp, ai muốn tiến tới chỗ chơn không bất hoại, hãy kiên tâm bền chí, không để một vi tế phiền não nào chi phối thì sẽ đạt kết quả như ý.
Người làm ruộng rẫy, khi bị sâu bọ quậy phá thì lo bắt sâu sửa nhánh thì ruộng rẫy không bị thất thoát. Còn nhà tu hành thì phải chăm sóc miếng ruộng tâm, loại trừ vọng tâm phiền não, để tâm trí mình được an nhiên tự tại, tất huệ nhựt hiện bày.
Người tu hành thanh lọc thân tâm để nhận chánh trừ tà cần kiên nhẫn giống như kẻ đem chì thau sắt vụn cho vào lò nấu lọc để chọn vàng và loại chì thau ra vậy. Cái tin người Pháp bắt Đức Thầy mang đi vang dội như sấm sét. Ngài viết bài Sa Đéc để báo tin cho bổn đạo được an lòng vì Ngài hiện vẫn được bình an, khuyên môn đệ đừng hoang mang xao xuyến.
CHÚ THÍCH :
PHẬT ĐƯỜNG: Cũng nói Phật đàng. Nhà hoặc nơi thờ Phật, đường về cõi Phật.
“Ngày nay sớm đến Phật Đàng,
Tu cầu chư Phật cứu an linh hồn”. Hoặc là:
“Trẻ già lớn nhỏ Phật đàng yên thân”.
TRẦN AI:
Trần: bụi bặm; Ai: đau thương. Cõi thế gian đầy bụi bặm thống khổ. “Rảnh trần ai” là tu hành giũ sạch nợ hồng trần để được giải thoát an vui. Đức Thầy từng khuyên:
“Nợ trần con sớm liệu toan,
Nghĩa ơn trọn vẹn mới an tấm lòng”. Và :
“Trần ai chỉ có thú phong lưu
Tranh đấu thành ra mãi oán cừu”. Hoặc là :
“Nợ hồng trần túc trái tiền khiên,
Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế”.
CAO SIÊU PHẬT PHÁP CÒN DÀI:
Giáo pháp của nhà Phật rất sâu, mầu diệu vô cùng tận, chẳng phải nhìn vào mặt văn từ ngôn ngữ mà thấu đạt được.
KHÓ GẶP CHỮ KHÔNG KHÔNG MÀ CÓ: Đây là nói đến cái lý sắc không hoặc cái lý chơn không bất hoại. Bản thể của vạn hữu vốn là chơn không, cho nên Bát Nhã Tâm Kinh nói: “sắc chẳng khác gì không”. Vả lại, từ cái chơn không, hiện ra mọi cảnh vật hoạn sắc cho nên nói: “không chẳng khác gì sắc”. Tuy nói là chẳng khác nhưng hai tiếng không và sắc vẫn còn. Để khỏi bị thiên chấp, trong “Bát Nhã Tâm Kinh”, Phật có giải: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Hoạn sắc tức là chơn không, chơn không tức là hoạn sắc). Nghĩa là nói ngoài cái hoạn sắc, không có cái chơn không, ngoài cái chơn không cũng cũng không có cái hoạn sắc (cảnh vật hữu vi).
Khi ngộ được lý “Sắc Không”, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có viết:
“Tòng vô hiện hữu, hữu vô không,
Hữu hữu vô vô tất kính đồng.
Phiền não bồ đề nguyên bất nhị,
Chân như vọng niệm tổng giai không”.
(Từ không bày có, có hoàn không,
Có có không không rốt cũng đồng.
Phiền não bồ đề không tưởng khác,
Chơn như vọng niệm thảy đều không.)
Như thế, sắc chất và chân không cũng chỉ cùng một tâm thể, như sóng và nước. Vậy câu “kiếm chữ sắc không” là nói thấu đạt cái “bản thể”, cái “chân như thật tướng” của chính mình. Đức Thầy từng dạy:
“Hãy tìm kiếm cái không mới có”.(SG, Q.2). Và:
“Sắc không không sắc chớ lìa xa”. (Tỉnh Bạn TG)
Tu phải tìm học nghiên cứu cho chính xác, rồi cố gắng thực hành theo mới thâm nhập được. “Tùng văn tư tu đắc nhập tam-ma-địa”.(Phải nương theo Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ để vào cảnh giới thanh tịnh). Đức Thầy có dạy:
“Quay về cội phúc đường chân đạo,
Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.
PHẬT TÁNH: Cái tánh chơn thật nơi mỗi chúng sanh đều có. Phật tánh còn có nhiều tên gọi khác như:
Chơn tâm, Bổn lai diện mục, Chủ nhơn ông, Như lai tạng, Không tánh, Không tướng, v.v...
SẤM SÉT: Tiếng nổ lò sáng trên nền trời báo tin trời sắp có mưa. Nghĩa bóng là chỉ cho tin tức quan trọng xảy ra làm cho ai nấy phải hoang mang lo sợ.
CHÁNH VĂN
57. Tuy xa đường có lời luận-biện,
Bởi bút thần bay luyện khắp nơi.
Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời,
60. Kim mài giũa kim kia mới bén.
Người làm phải như tằm trong kén,
Có muôn tơ bao bọc ấm thân.
Sách có câu “Minh đức tân dân”,
64. Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.
Ta còn thương, thương trò liệu-điệu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ-thông.
Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-Tông,
68. Cũng như Phật xuất gia thuở trước.

LƯỢC GIẢI :
Từ xã Hòa Hảo đến tỉnh lỵ Sa Đéc tuy không xa lắm, nhưng Đức Giáo Chủ đoán biết người Pháp sẽ đem Ngài đi luôn cả thời gian dài dặc nên khó mà về thăm nhà được. Ngài phải mượn “bút thần” đưa lời lẽ của Ngài tvề hăm viếng khắp nơi nơi.
Hòn ngọc vốn sáng nhưng để lâu không lau chùi ắt không chói rạng được. Kim được mài giũa thì mới trở nên sắc bén. Tâm trí người cũng thế, phải được trau giồi luôn thì mới sáng tỏ. Ví như loại tằm nhờ muôn tơ bao bọc, người làm lành thì kẻ ác hung cũng khó bề xâm hại được.
Đức Khổng Tử xưa có dạy: “Người hành đạo khi đến bực đại học, phải làm sao cho đức mình được sáng, dân được mới và đạt đến chỗ tột lành”. Theo đạo Phật, nhà tu khi cái tâm không còn chỗ để trụ vào, tất nhiên cái ánh huyền quang sẽ khai mở vô cùng tận. Đức Thầy đã dung thông các phương cách hành đạo của Tam giáo (Phật, Nho, Lão) viết ra đoạn giảng nầy.
Đức Giáo Chủ thương xót tín đồ còn đang lừng chừng toan tính trên đường tu học, chưa thấu đạt lý đạo trong khi Ngài bị người Pháp câu thúc, đày đi nơi nầy nơi nọ. Nhưng Ngài cũng mừng là có dịp đem chánh pháp ban rải khắp đó đây.
Noi gương Đức Phật Thích Ca sau khi tu đắc Đạo đã độ được vua cha Tịnh Phạn và cả dòng họ Thích đều giác ngộ tu hành kết quả. Người tu hành đắc đạo nào cũng cứu vớt được tổ tông như thế.
CHÚ THÍCH :
LUẬN BIỆN: Cũng gọi là biện luận, luận giải bàn bạc cho ra lý lẽ phải trái, hư nên, tốt xấu. Đức Thầy nói:
“Ta là kẻ tu hành thiển kiến,
Xét thế trần luận biện đôi điều”.
BÚT THẦN:
Cây bút và lời lẽ của các bậc siêu nhân khi nói ra đều mang lợi ích cho mọi người nên gọi là bút thần.
NGỌC NHỜ LAU NGỌC MỚI RẠNG NGỜI, KIM MÀI GIŨA KIM KIA MỚI BÉN: Hạt ngọc nhờ được luôn lau chùi thì mớ sáng, cây kim thường được mài giũa thì mới sắc bén. Cũng thế, người tu không siêng năng gội rửa, lọc lừa tánh mê xấu thì trí huệ không thể mở mang. Ngài từng dạy:
“Trí hiền tâm đức chùi lau,
Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”. (SG, Q.3) Và:
“Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”.(K.Th).

MINH ĐỨC TÂN DÂN: Đây là một câu chữ trong sách Đại Học của Đức Khổng Tử. Nói đủ là “Đại học chi đạo tại minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” (Người tu học đạt đến Thánh đạo thì trước phải làm cho tâm mình được sáng, dân chúng được mới và đưa họ đến cuộc sống lành manh.).
THỦ TRỤ: Thủ: giữ, Trụ: cầm. Cầm giữ. Nghĩa bóng: nhiếp tâm. Chữ Trụ nhắc ta nhớ đến câu kinh rất nổi tiếng trong Kim Cang Kinh: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên không trụ vào đâu mà sanh ra cái tâm kia. Ý nói: Nên để cái tâm trống không, đừng dính mắc vào đâu cả thì sẽ sanh ra cái tâm thanh tịnh, tức chơn tâm). Đức Lục Tổ Huệ Năng khi xưa vừa nghe đến câu kinh nầy mà hoát nhiên ngộ Đạo. (BHĐ).
HUYỀN KHAI NHỨT KHIẾU: Huyền khai: khai mở một cách mầu nhiệm; Khiếu: cái lỗ. Ý nói: Cái chỗ vô sư trí (bát nhã trí) sẽ được khai mở một cách mầu nhiệm.
LIỆU ĐIỆU: Liệu lượng toan tính.
PHỔ THÔNG: Phổ biến để thông suốt. Đức Thầy đem nguồn Giáo pháp phổ biến khắp nơi cho mọi người đều thông suốt.
TỔ TÔNG: Ông bà dòng họ đời trước.
CHÁNH VĂN
69. Các bực Thánh châu-lưu nhiều nước,
Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm.
Tuy cơ-hàn mà được danh thơm,
72. Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi.
Quá sung sướng rồi quên đạo ngỡi,
Thì khác chi loài thú rừng săng.
Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng,
76. Chỉ có biết ngủ ăn, ăn ngủ.
Khi đói mồi mặt mày sù-sụ,
Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn.
Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn,
80. Bu nút thịt của loài bạo ác.
LƯỢC GIẢI :

Các bực Phật Thánh xưa kia sau khi đắc đạo đều đem giáo thuyết truyền bá khắp nơi để cứu đời. Như Ngài Nhan Hồi ( đệ tử ưu tú của Đức Khổng Tử) tuy nhà nghèo chỉ sống với một bầu nước một đai cơm mà giữ tròn đạo hạnh, danh thơm lưu để ngàn thu, còn hơn người giàu sang chạy theo vinh hoa phú quí mà để tiếng đời sau chê trách.
Những kẻ giàu sang bạc ác, sống sung sướng mà quên đạo nghĩa thì chẳng khác gì loài thú cầm, suốt đời chỉ biết có ăn với ngủ, không làm điều gì lợi ích cho ai.
Những kẻ ấy khi chết xác thể chỉ làm mồi cho ruồi lằng bu nút, linh hồn bị đọa lạc trên đường mê, tiếng đời nhắc đến ai cũng nhạo chê phỉ báng.
CHÚ THÍCH :
BỰC THÁNH: Các bậc Thánh triết như Đức Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, ...
CHÂU LƯU: Châu là khắp nơi; Lưu là chảy. Di hành khắp đó đây.
THẦY NHAN: Tức thầy Nhan Hồi hay Nhan Uyên, học trò ưu tú nhất của Đức Khổng Tử. Ông sinh tại nước Lỗ (Trung Hoa) vào khoảng 514-543 TCN, bẩm tính rất thông minh và hiếu học. Ông có tiếng học một hiểu mười, vô cùng đức hạnh, không bao giờ để phạm lỗi lần thứ hai. Nhà nghèo, chật chội, ông thường vui sống với sự ăn uống khắc khổ đạm bạc: một túi cơm, một bầu nước lã. Nhan Hồi mới 29 tuổi, tóc đã bạc hết, năm 31 tuổi thì tạ thế. Đức Khổng Tử vô cùng thương tiếc khóc than. Nhan Hồi được xếp một trong 10 vị hiền triết nổi tiếng của Trung Hoa. Trong đạo Nho, ông chỉ đứng sau Đức Khổng Tử.
ĐẠO HẰNG: Đạo: con đường phải; Hằng: thường. Những phép tắc thường hằng trong đời sống đạo đức rất cần phải tuân giữ. Đạo hằng ở đây chỉ đạo Ngũ thường: Nhân, Nhĩa, Lễ, Trí , Tín.
“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
Tam cang trung trực người rằng ngu si”.
(Để Chơn Đất Bắc)
CHÁNH VĂN
81. Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát,
Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.
Chữ Nam-mô trì giái giữ chay,
84. Chay được tánh chay tâm mới quí.
Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí,
Chỗ tâm-thần tọa vị nơi thân.
Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
88. Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.
LƯỢC GIẢI :

Cái đạo mà có hương vị thơm tho cao quý chính là cái đạo đã rũ sạch trần ai, không bận tâm đến sự khen chê của người đời.
Đã quyết chí tu hành, trì chay, giữ giới, niệm Phật, nhà tu cần phải đạt đến chay tâm chớ chẳng phải ăn chay ở hình thức bề ngoài mà gọi là đủ.
Đạo Phật vốn rất cao siêu huyền bí. Nhà tu không chỉ tu hình tướng bề ngoài mà thông hiểu được. Cái thần hồn, trí huệ , sắc tướng vốn hòa đồng chung một thể tánh. Muốn thành công đắc quả, cần phải tinh tấn hành trì khuya sớm với lòng thiết tha tin tưởng nguyện cầu hướng về Phật Thánh.
CHÚ THÍCH :
NAM MÔ: Xem lại CT tại tr. 81-82 Q. Thượng, Tập 1/3.
TRÌ GIÁI: Gìn giữ giới luật đừng cho sai phạm. Người Phật tử mới vào đạo thì bắt đầu giữ Ngũ giới, rồi 18 giới; hàng Tỳ kheo có 250 giới, Tỳ kheo ni có 348 giới,... Đức Giáo Chủ PGHH hiện nay thì dạy môn đồ giữ 8 giới gồm trong “Tám điều răn cấm”. Ngài nhắc nhở:
“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.

CHAY TÁNH CHAY TÂM: Hình thức ăn chay nói chung trong đạo Phật là không ăn loài hữu tình, có mạng sống, có tri giác.. Còn chay tánh chay tâm thì có ý nghĩa cao siêu hơn. Không chỉ ăn chay bằng thân, khẩu mà phải ăn chay cả ý: giữ lòng từ bi, nhơn đức. Nghĩa là phải luôn luôn giữ tâm thanh tịnh, thương người, giúp đời, dẹp hết sân si, phiền não nhiễu hại mình lẫn người.
HUYỀN BÍ: Sâu kín mầu nhiệm không thể dùng mắt phàm phu mà thấy được.
CHỖ TÂM THẦN TỌA VỊ NƠI THÂN: Cái thần hồn, linh tánh trí tuệ, sắc thân của mỗi người đều hòa đồng với nhau cùng một thể. Thể là chơn tánh (không tánh) bất sanh bất diệt, từ thể sanh ra tướng tức là sắc thân hình tướng, nhờ có sắc thân hình tướng mà thể hiện được cái sinh hoạt diệu dụng cứu độ chúng sanh, cải hóa xã hội loài người,...Câu giảng nầy ý chỉ Thể, Tướng, Dụng là 3 mặt của vạn hữu không bao giờ tách rời nhau.
“Trong cây có trái hoa,
Trong tâm có Phật Đà.
Chớ thấy bằng nội tướng,
Phải thấy bằng tâm ta”. (TS).
CHÁNH VĂN
89. Đuốc thiền-lâm phương Đông chói ánh,
Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
92. Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh.
Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
Đồng bay về Cực-Lạc một đàng.
Thì thân Thầy hết phải gian-nan.
96. Đâu có chịu mang câu nhạo báng.
Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng,
Dòm êm trời thì cứ ra tay.
Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai,
100. Mới ngơi-nghỉ tấm thân của Lão.

LƯỢC GIẢI :
Đuốc huệ Phật giáo đang chiếu sáng phương Đông để dắt chúng sanh vượt sông mê trở về bến giác. Dầu cho ngày nay Thầy tớ có xa cách nhau nhưng sau sẽ gặp nhau nơi Phật cảnh.
Đức Giáo Chủ mong khắp bá tánh đều tu hành dứt nghiệp trần mê để nhẹ nhàng sớm siêu thăng Lạc quốc. Bấy giờ, Thầy trò mới thoát khỏi cảnh gian nan lao khổ và cũng thoát được cảnh người đời nhạo chê phỉ báng.
Ngày tháng trôi qua mau lẹ nên cứ gặp thuận duyên thuận cảnh thì Ngài liền ra tay cứu đời. Ngài đã quyết định đưa chúng sanh cho đến cảnh Bồng lai thanh tịnh thì mới cho thân Ngài an nghỉ.
CHÚ THÍCH :
ĐUỐC THIỀN LÂM: Đuốc từ bi trí huệ của nhà Phật.
PHƯƠNG ĐÔNG CHÓI ÁNH: Chỉ chung vùng Đông Á đang được chiếu sáng (bởi đuốc thiền lâm).
DẮT HỒN NGƯỜI: Dẫn dắt linh căn thần thức người.
VƯỢT KHỎI SÔNG MÊ: Qua khỏi sông mê bể khổ. Nghĩa bóng: qua khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
SỞ VÀ TỀ: Hai nước chư hầu của nhà Châu ( Trung Quốc) cách nhau rất xa rất hiểm trở . Chỉ cho sự ngăn cách không gian rất khó gặp nhau.
BỒNG LAI: Còn gọi là Bồng Hồ, một trong 3 hòn đảo ở biển Bột Hải (Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu). Ý chỉ cảnh Tiên, nơi tiêu diêu thoát tục. Đức Thầy viết: “Nam nhi hữu chí kiến Bồng Lai”.
CHÁNH VĂN
101. Lúc Tam-Tạng Tây-phương quyết đáo,
Bị loài yêu làm bạo lắm phen.
Đức từ-bi phải lộ trắng đen,
104. Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn.
Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
Thấy Đường-Tăng thơm thịt muốn ăn.
Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng,
108. Với Đại-Thánh Tề-Thiên cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,
110. Thì nạn tai cũng thoát như không.
LƯỢC GIẢI :

Pháp sư Tam Tạng đã vâng lịnh vua Đường Cao Tôn (Trung Hoa) đến Thiên Trước (Ấn Độ xưa) thỉnh Tam tạng kinh điển đem về Trung Quốc để phiên dịch truyền bá giác ngộ chúng sanh. Trên đường đi, cả thầy lẫn trò đã phải đương đầu biết bao tai nạn, nào yêu tinh cọp cáo, nào giặc cướp cản ngăn,...Song, nhờ lòng Từ Bi, chí cương quyết mà Ngài đã vượt qua khỏi chướng ngại để đi đến đích. Cho nên, sáu chữ Di Đà niệm không ngưng nghỉ thì tai nạn nào cũng đều qua khỏi được.
CHÚ THÍCH :
TAM TẠNG: Đường Tam Tạng tên thật là Trần Vĩ, con thứ tư của Trần Huê ở huyện Hầu Thị, Châu Lạc Xuyên (Trung Hoa). Ngài sanh năm Khải Hoàng thứ 16, đời vua Văn Đế nhà Tùy (569).
Vốn là một người thông minh xuất chúng, từ thuở bé lại được thân phụ giảng dạy Hiếu Kinh từ năm Ngài lên 8 tuổi nên về Nho học Ngài có một trình độ khá cao. Ngài thường tới lui chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương để nghe người anh làm Hòa Thượng ở chùa giảng dạy kinh Phật. Những buổi giảng làm Ngài nghe say mê và đã ảnh hưởng rất nhiều cho cuộc sống tu hành của Ngài sau nầy. Và Ngài cũng bắt đầu có xu hướng nghiên cứu về Phật Giáo.
Năm 13 tuổi, Ngài chính thức xuất gia tu học với Pháp Minh Hòa Thượng và được sư phụ đặt pháp danh là Huyền Trang. Từ đó, Ngài tận tâm nghiên cứu Kinh điển. Khi nghe có Tăng sư nào đức hạnh và kiến giải sâu xa thì Ngài đến cầu học. Không bao lâu, Ngài nổi tiếng là người học vấn uyên thâm, biện thuyết thông suốt. Pháp sư Đạo Cơ, một cao tăng thời bấy giờ, đã nói về Ngài: “Ta đi qua các giảng đường khá nhiều mà chưa thấy một sư trẻ tuổi nào thâm ngộ Đạo pháp như thế nầy.”
Năm Ngài 34 tuổi (có chỗ chép 28 tuổi), ở phụ cận kinh đô Trường An gặp nạn mưa đá mất mùa, dân chúng đói khổ, nhà vua ra lịnh cho dân chúng di cư tản mát đến các miền phong phú mà sống, Ngài thừa cơ hội đó làm cuộc Tây du sang Ấn Độ.
Trải qua 128 nướ (?) lớn nhỏ, với bao sự gian nguy trên đường đi, như vượt qua những phong hỏa đài, nạn giặc cướp, sa mạc Qua Bích (Gobi), tuyết sơn …Ngài phải chịu đói khát, bị bắt bớ tù đày có khi suýt vong mạng.
Suốt 17 năm ở Ấn Độ, gót chân Ngài lưu hành khắp đó đây tu học tại các đại tự. Nhất là ở ngôi chùa Na Lan Đa (Nalanda). Nơi đây được sư trưởng Giới Hiền Luận Sư truyền giới Duy Thức cho Ngài.
Còn theo truyện Tây Du Ký, thì Đại Thánh Tề Thiên vốn là một “thạch hầu”, do tảng đá thọ khí âm dương sanh ra. Ông lớn lên, tìm ra động Thủy Liêm trên Hoa Qủa Sơn, nên được bầy khỉ tại đây tôn làm chúa động, cầm đầu cả đàn rồi tự xưng là Mỹ Hầu Vương.
Sau Thạch Hầu vượt biển tầm Tiên cầu đạo trường sanh, được Bồ Đề Tổ Sư thâu nhận làm đệ tử, đặt tên là Tôn Ngộ Không, và truyền cho thất thập nhị huyền công (72 phép thần thông biến hóa) và pháp “cân đẩu vân”, nhảy một cái đi xa 10 muôn 8 ngàn dặm. Khi thành tài, Tôn Ngộ Không trở về luyện tập bầy khỉ, phân làm đội ngũ như người. Ngộ Không xuống biển Đông Hải lấy trụ sắt trấn biển của vua Đại Võ ngày trước làm thiết bảng, rồi xuống Long cung bôi sổ từ của loài hầu, Thượng Đế chọn người tài có công học đạo nên triệu về phong chức Bật Mã Ôn. Sau rõ chức đó hèn mọn, Tề Thiên bỏ về xưng là Tề Thiên Đại Thánh. Ngọc Hoàng phải chiều ý phong chức cai quản vườn Đào tiên. Đến mùa đào chín, ông trộm ăn gần hết cả vườn; bà Tây Vương Mẫu lập hội Vườn Đào, ông lén vào ăn mấy món ngon hết, còn lấy trộm thuốc kim đơn của Thái Thượng Lão Quân. Thượng Đế nổi giận cho Thiên binh, Thiên tướng vậy đánh bắt được đem về nhốt vào lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân đốt 49 ngày đêm. Ông sợ lửa bèn ẩn trong cung Tốn bị khói nung thành mắt nửa tròng vàng. Sau ông ra khỏi đó, liền loạn Thiên cung đánh tới Linh Tiêu Bửu Điện. Ngọc Hoàng kinh hải cho thỉnh Phật Tổ Như Lai đến. Phật hóa phép đè Tề Thiên dưới Ngũ Hành Sơn trọn 500 năm.
Phần Đường Tăng, vào đời Đường Thái Tôn có Trần Giang Lưu là con quan trạng nguyên Trần Quang Nhụy và bà Ân Ôn Kiều, xuất gia từ thuở nhỏ, được Pháp Minh Hòa Thượng đặt Pháp danh là Huyền Trang.
Sau vua Đường muốn cầu siêu cho các cô hồn thác oan vì chiến tranh vừa qua nên tuyển lựa trong tăng chúng thấy Ngài Huyền Trang tài đức vẹn toàn. Vua truyền thiết lập trai đàn thỉnh Ngài thuyết pháp và thí thực cúng cô
hồn. Khi ấy, Phật Bà Quan Âm vâng lịnh Phật Thích Ca sang Đông Độ (Trung Quốc) lựa người sang thỉnh Kinh bên Tây Vức (núi Khứu Linh), có lẩn vào thính chúng nghe kinh. Nghe xong, Phật Bà cho vua tôi nhà Đường biết: Kinh nầy thấp lắm, không thể cứu được cô hồn, nay Phật có ba tạng kinh ở chùa Lôi Âm nước Thiên Trước bên Tây Thiên, mới độ nổi vong hồn. Nói xong Phật Bà để lại một bài Kệ rồi biến mất. Bài Kệ ấy như sau:
“Tỏ cùng Chúa Đại Đường,
Kinh tại bên Tây Phương.
Dặm đã xa mười vạn,
Đường thêm lẻ tám ngàn.
Kinh cao về nước cả,
Hồn quỉ khỏi thành oan.
Ai có công đi thỉnh,
Ngày sau hóa Phật vàng”.
Huyền Trang nghe xong, tình nguyện thân hành sang Tây Phương thỉnh ba tạng Kinh đem về Trung Quốc. Vua Thế Tôn liền kết làm anh em với Ngài và đặt cho Ngài là Tam Tạng Quốc Sư. Đoạn, Ngài từ giã vua và khởi hành.
Trải bao gian nan khổ khó, vượt bao đường xá chông gai vất vả, Tam Tạng bị yêu bắt ăn thịt mấy người tùy tùng. Còn Ngài nhờ Thái Bạch Kim Tinh cứu thoát. Sau có Lưu Bá Khâm cứu khỏi nạn bị thú dữ bao vây và đi đến Ngũ Hành Sơn gặp Tề Thiên; Tề Thiên xin hối cải qui y Tam tạng và nguyện theo Thầy đi thỉnh Kinh. Tam Tạng ưng chịu và lên chót núi gở lá bùa của Phật Tổ. Tề Thiên ra khỏi núi và được Tam Tạng đặt hiệu là Hành Giả. Vì Tề Thiên tánh còn sân hận không nghe lời Tam Tạng, nên Phật Bà bắt niền chiếc “kim cô” lên đầu. Mỗi khi Tề Thiên làm trái lời thì Tam Tạng niệm thần chú, kim cô sẽ bóp siết vào làm cho tề thịên nhức đầu thấu ruột gan, chịu không nổi mà một lòng theo Thầy, không dám trở lòng.
Khi đến suối Ưng Thần núi Xà Bàn, con ngựa chở Tam Tạng bị con rồng nuốt mất. Tề Thiên đánh mãi không bắt lại được, sau nhờ Phật Bà Quan Âm bắt con rồng nầy hóa ra ngựa long cu, chở Tam Tạng đi thỉnh Kinh để chuộc tội. Thầy trò lại đội tuyết dầm sương chẳng nài khổ cực đi đến xứ Cao Lão gặp Trư Cang Liệp ở núi Phước Lăng (vốn là Thiên Bồng Nguyên soái, vì mắc tội nên Ngọc Hoàng đày đội lốt con heo). Tề Thiên Đại Thánh bắt được Trư Cang Liệp dẫn đến xin qui y và được Tam Tạng đặt hiệu là Bát Giái - Phật Bà có đặt Pháp danh cho y là Ngộ Năng từ trước.
Đến đây, ba Thầy trò Đường tăng đồng lên đường. Một hôm đi ngang qua Huỳnh Phong Lãnh, Tam Tạng bị chúa yêu là Huỳnh Phong bắt định ăn thịt. Tề Thiên, Bát Giái đánh không lại chúa yêu nên phải cầu Linh Khiết Bồ Tát xuống thâu y về núi. Thoát nạn rồi, Thầy trò đề huề nhắm hướng Tây thẳng tiến. Đi đến sông Lưu Sa, gặp con thủy quái rất dữ chận ngang sông lại định bắt Tam Tạng ăn thịt. Nguyên con Thủy quái nầy vốn là Quyện Liêm Tướng quân, vì mắc tội làm bể chén lưu ly của Ngọc Hoàng nên bị đày làm Thủy quái ở sông Lưu Sa. Tề Thiên và Bát Giái vây đánh; Thủy quái đánh không lại phải lặn xuống sông mà thoát. Tề Thiên phải cầu với Quan Âm. Phật Bà cho Huệ Ngạn xuống bắt Thủy quái theo làm đệ tử Tam Tạng,. Đường Tăng liền đặt tên cho Thủy quái là Sa Tăng - Phật Bà có đặt cho y Pháp danh là Ngộ Tịnh từ trước.
Bây giờ, Thầy trò gồm 4 người đồng nhắm hướng Tây trực chỉ. Chúa yêu ở các động nghe Tam Tạng là hậu thân của Kim Thiên Tử, đệ tử thứ hai của Phật Tổ mắc đọa, tu đã 10 kiếp, nếu ai ăn đặng một miếng thịt của Ngài sẽ trường sanh bất tử, nên các yêu tranh nhau đón bắt. Song nhờ có các đệ tử hết lòng bảo hộ và nhờ Tam Tạng tâm tư lúc nào cũng tưởng nhớ Phật nên đều lần lượt thoát qua các nạn tai. Đến đò Lăng Vân, Tam Tạng bỏ xác phàm tại đây, rồi lên núi Linh Sơn vào chùa Lôi Âm thỉnh được ba tạng: Kinh, Luật, Luận đem về Đông Độ cầu siêu cho các cô hồn, giác ngộ bá tánh. Xong xuôi, Ngài trở về Tây phương đắc quả Phật hiệu là Chiên Đàn Công Đức Phật.
Tính qua bao gian khổ nguy nan, Ngài Tam Tạng phải thọ khốn đến 81 lần (tiêu biểu cho 81 món phiền não gồm có nội, ngoại ma).
Ngài Huyền Trang trở về cố rạng rỡ vinh quang: 175 bộ kinh Phạn ngữ gồm 1.335 quyển được Ngài phiên dịch và chú thích rành rọt, giúp Phật Giáo có cơ phát triển lên cao.
Ngài mất vào giữa đêm mùng 5 tháng 2 năm 664 tại Ngọc Hoa Cung hưởng thọ 69 tuổi có chỗ chép 63 tuổi, để lại bao sự mến thương cảm kích của vua Đường Cao Tôn và tăng lữ cùng đại đa số tín chúng.
CHÁNH VĂN
111. Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông,
Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng.
Ai mê tâm nghe qua không phủng,
Rán suy tầm đặng mở tánh linh.
Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh,
116. Thì cũng thấy bổn lai diện mục.

LƯỢC GIẢI :
Từ xưa đến nay trong giới tu hành, ít ai tìm thấy “Chủ nhơn ông” (Phật tánh, Chơn tâm) của chính mình. Phật tánh không hiện được chính vì do vô minh che phủ. Dẹp được vô minh thì phật tánh sẽ hiển lộ.
Còn mê tâm (vô minh), ta phải cần cố gắng học hỏi (suy tầm) tu tập. Khi đã ngộ đạo thì không cần đến nhiều kinh sách nữa cũng thấy được “chủ nhân ông” (bổn lai diện mục).
CHÚ THÍCH :
CHỦ NHƠN ÔNG: Ông chủ nơi tâm mình. Đây chỉ Chơn tâm, Phật tánh,...Theo kinh Phật giải: Mỗi người đều có trí vô sư, tức là Phật tâm. Ông Phật thật nầy có từ đời vô thỉ và hiện hữu đến vô chung (tức không có lúc sanh, không có lúc diệt). Như câu: “Có một vật không sinh mà có, không tạo mà nên, không lập mà thành”. Đức Giáo Chủ PGHH xác định trong quyển “Khuyến Thiện” như sau:
“Các chúng sanh đều có như Ta,
Bị vô minh vọng tưởng vạy tà.
Nên quay lộn Ta Bà cõi khổ”.

SANH CHÚNG: Cũng gọi là chúng sanh, gồm có bốn loài: Thai, noãn, thấp, hóa.
-Loài sanh bằng bào thai.
-Loài sanh bằng trứng.
-Loài sanh nơi ẩm thấp
-Loài hóa sanh, như: Rệp nước hóa sanh ra chuồn chuồn, rễ gáo hóa thành lươn.(?).
MÊ TÂM: Tâm mê muội, tâm chưa giác ngộ. Nghĩa bóng: Chỉ tâm còn dính mắc hình tướng sắc màu, vô minh che phủ, chưa nhận ra chơn lý.
SUY TẦM: Suy xét và tầm kiếm. Nghĩa bóng: Tra cứu, xét nét, thật hành, đúng theo lẽ phải. Hoặc thật hiện theo pháp: Văn, Tư, Tu để mở trí sáng.
BỔN LAI DIỆN MỤC: Còn gọi là Bổn lai tâm, tức là Tâm Phật của chính mình. Kinh dạy: Nếu tâm giác ngộ là Phật, còn tâm mê muội là chúng sanh.
Thuở xưa, Đức Lục Tổ ở xứ Lãnh Nam vốn là người không biết chữ Một hôm Ngài đi đốn củi đổi gạo gặp một Sa Môn đọc kinh Kim Cang đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, thì Ngài liền giác ngộ. Ngài đến quy y với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, ngày ngày tạp dịch, giã gạo tại chùa Huỳnh Mai. Sau 8 tháng, Ngài được Ngũ Tổ bảo hãy vào nhà sau mà kín đáo truyền pháp. Ngũ Tổ cũng lấy kinh Kim Cang giảng nghĩa cho ông nghe, và cũng đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ông liền đại ngộ. Vì thế, ông thốt lên bài Kệ như sau:
“Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,
Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt.
Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp,
Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ,
Nào dè tánh mình vốn luôn trong sạch”.

CHÁNH VĂN
117. Lần thứ chót gọi lời kêu thúc,
Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng.
Chừng ơn trên ban được Lục-Thông,
Thầy mới được Tây, Đông du-thuyết.
Thâu cho được con long ác-nghiệt,
122. Thì khắp nơi mới biết mến yêu.

LƯỢC GIẢI :
Theo lịch trình diễn tiến của lý tam ngươn, hiện thời là đời mạt hạ: “Hạ ngươn nay đã hết đời, Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang”. Đức Giáo Chủ lâm phàm đây là lần chót, như Ngài minh định: “Nên kiếp chót nầy đây há lại tiếc chi thân phàm tục. Song vì tình cốt nhục tương thân cũng ủng hộ chở che cho xác phàm bớt nỗi cực hình”.
Ngài nhắc cho mọi người hiểu biết để tự lo liệu hoạch định chương trình tu tiến cho kịp chuyến đò chiều..
Tuy nhiên cơ trời biến chuyển có khi chậm, khi mau. Đức Giáo Chủ phải “Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Ngày giờ nào Trời Phật ban bố cho Ngài có đủ sáu phép thần thông, chừng đó Ngài mới thỏa lòng mong ước, chu du độ chúng.
Cơ trời vận chuyển đến đúng thời kỳ con long nghiệt xuất hiện tại sông Vàm Nao, nó hoành hành dữ dội đến đại bác súng đồng cũng không hàng phục nổi. Chừng đó cả nhơn loại đều hoang mang mong mỏi một vị cứu tinh xuất hiện để thâu phục con độc long cho yên bá tánh. Đức Giáo Chủ PGHH mới đúng lúc trở về và thi hành bổn phận hàng phục con sấu dữ. Và danh tiếng Ngài chói rạng nghìn thu, dân chúng đều phục tùng nể kính.
CHÚ THÍCH :
LỤC THÔNG: Sáu pháp thần thông.
1- Thiên Nhãn Thông: Mắt thấy mười phương không bị vật gì ngăn cản.
2- Thiên Nhĩ Thông: Tai nghe suốt tám giới thập phương không bị vật gì làm trở ngại.
3- Túc Mạng Thông: Biết các kiếp quá khứ, vị lai của mình và của chúng sanh.
4- Tha Tâm Thông: Biết rõ ý niệm nơi người khác.. 5-Thần Túc Thông: Đi lại mười phương chớp nhoáng.
6-Lậu Tận Thông: Diệt hết phiền não, không còn một mảy ô trược. Đức Giáo Chủ minh định:
“Ngày nào đắc được lục thông,
Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.
DU THUYẾT: Dùng tài hùng biện đi châu du thuyết giảng. Xưa có nhà hùng biện là Tô Tần, tự Quý Từ, người Đông Châu, lúc chưa gặp vận đi du thuyết khắp nước Trung Hoa, không có nơi nào trọng dụng. Suốt ba năm trường, tiền bạc xài hết, áo hồ cừu rách nát, thân hình tiều tụy xơ xác. Sau thời cơ đưa đến, nhờ dùng pháp “hợp tung” hiệp sáu nước: Triệu, Hàn, Ngụy, Yên, Tề, Sở chống cự với nước lớn là Tần, mang ấn sáu nước danh tiếng lẫy lừng. Ở đây Đức Thầy ví Ngài sau nầy cũng như Tô Tần vậy.
LONG ÁC NGHIỆT: Là con rồng dữ. Lịch sử Phật Giáo đã chứng minh hai dữ kiện: Một của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hai của Đức Lục Tổ Huệ Năng.
Lúc Đức Phật còn sanh tiền, có lần Ngài đến động của ông Ca Diếp, buổi ban đầu dùng lửa tam muội thiêu đốt hang động và thu phục con rồng tại đây. Ông Ca Diếp mới đầu không cho. Nhưng Đức Phật quả quyết đến chung ngụ với rồng để thâu phục con long ác nghiệt và chú nguyện cho rồng ấy thoát xác.
Thuở Đức Lục Tổ Huệ Năng lưu cư tại chùa Bửu Lâm, thuộc tỉnh Thiều Châu (Trung Hoa) gần chùa có con rồng dữ ở dưới cái hào rất sâu, thường làm mưa làm gió và tác hại dân chúng quanh vùng.
Một hôm, rồng hiện hình lớn lên, làm cho sóng nổi, nước dâng trào, mây giăng tối mịch. Các môn đồ sợ hãi, Đức Lục Tổ nghe báo bước ra xem, nạt rồng: “Ngươi có thể hiển hiện ra hình lớn, chớ không biến lại hình nhỏ được. Nếu ngươi là bậc thần thông thì biến hóa lớn, nhỏ cho ta xem”. Rồng hụp xuống, một phút sau thu hình nhỏ lại, nhảy khỏi mặt hồ. Tổ Sư liền mở bình bát ra thách rằng:“Nhà ngươi có dám chui vào bình bát của lão tăng không ?”. Rồng tự hăm hở chui vào, nhưng sau đó hết phương vùng vẫy. Tổ đem bình bát về chùa thuyết pháp cho rồng nghe, nó liền cổi lốt đi mất. Bộ xương rồng dài 7 tấc, đầu đuôi sừng cẳng đều có đủ, để lưu lại chùa làm kỷ niệm.(bộ xương nầy lưu giữ cho đến năm Kỹ Mão, niên hiệu Chí Chánh, bị nạn binh lửa lạc mất).
CHÁNH VĂN
123. Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu,
Chữa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt.
Thì đạo-hạnh ngày kia mới đắc,
126. Chớ chứa hờn đứa dữ ích chi.

LƯỢC GIẢI :
Con người ai ai cũng đều có “hòn núi lửa” (hỏa diệm) trong tâm. Nó ẩn sâu dưới màng vô minh; bình thường thì nó lặng yên, nguội lạnh. Khi có việc làm nào làm ta phật ý hoặc quá sức chịu đựng thì nó bùng cháy. Khi bùng cháy, nó không còn kiêng nể ai, dù đó là người thân hoặc kẻ lạ..Như con thú dữ sắp bắt được mồi, nó vồ chụp, nó thét gào, nó đay nghiến,… miễn sao được thỏa dạ mới thôi. Chúng sanh vì nó mà tan nhà nát cửa, đất nước vì nó mà phải đảo điên, thiên hạ, thế giới vì nó mà xâu xé nhau, gây cảnh chiến trường máu rơi, thịt đổ, tan nát cuộc đời. Nó không bao giờ dự định trước để cho ta chuẩn bị cách đối phó. Trong Q. 5 (Khuyến Thiện) Đức Giáo Chủ PGHH còn diễn tả các đoạn sau đây:
“Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
Nổi lôi đình đâu có định chừng,
Cho ta biết mà toan giữ trước.
Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,
Nên loài người ở cõi thế gian
Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,
Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
Hơn tự đắc, khoe khoang, dõng sức,
Phải bị người hiềm khích ghét ganh.
Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,
Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,
Phân từ mảnh mới là thỏa dạ”.
Muốn chữa “hỏa diệm” nơi tâm, phải dùng đến “quạt ba tiêu” ( tức 3 phương pháp căn bản) để đối trị. Đó là : khoan dung, nhẫn nhục và từ bi. Ba phương pháp nầy cũng xuất phát từ từ trong tâm. Vì vạn vật do tâm tạo:“Tâm sanh chủng pháp sanh, tâm diệt chủng pháp diệt”.
“Diệt được nó tâm trần thong thả,
Ta thường nên tập tánh khoan dung.
Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.
Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.
Nay ta đã quy y cầu Đạo,
Gây gổ là trái thuyết từ bi”.
CHÚ THÍCH :
QUẠT BA TIÊU: Truyện Tây Du ký kể: Thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh đến chơn núi Thúy Vân thì khí trời trở nên nóng nực lạ thường; và được gặp một cụ già mách bảo: Phía trước có hòn “Hỏa Diệm Sơn”, ngày đêm lửa cháy hừng hực nên tiết ra sức nóng dữ dội. Nhưng quý ông không có con đường thứ hai để tránh đi ngang qua đó. Lúc đó lại có một người bán bánh đi vừa tới, Tôn Ngộ Không bước đến thăm hỏi:
-Ở vùng nầy khô hạn và nóng bức làm gì có lúa nếp để làm bánh ?
-Sở dĩ vùng nầy có lúa nếp là nhờ Thiết Phiến Công Chúa ở núi Thúy Vân có cây quạt phép “Ba tiêu”. Quạt lần đầu thì tắt lửa, quạt lần nữa thì có mưa.

Tôn Hành Giả thỉnh ý Thầy rồi đằng vân đến núi Thúy Vân. Sau bao lần chiến đấu vất vả, và cuối cùng nhờ Như lai, Bồ tát trợ lực mà hàng phục được vợ chồng Ngưu Ma Vương. Tôn Hành Giả được bà Thiết Phiến Công Chúa trao cho quạt “Ba Tiêu” để dập tắt “hỏa diệm”.
Nghĩa bóng: Chính nhờ Phật pháp mà chúng sanh diệt được tính nóng nảy trong tâm.
CHÁNH VĂN
127. Phận tu-hành tai gác mặt lỳ,
Chịu cay đắng của người sang-sớt.
Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt,
Đừng thở-than bận đến lòng Ta.
Để cho Thầy đi dạo ta-bà,
132. Đặng dạy kẻ đường xa chưa rõ.

LƯỢC GIẢI :
Bổn phận hành giả trên bước đường tu là phải tập nhẫn nhục. Dầu miệng thế có lắm điều trêu chọc, cay đắng đủ điều cũng kiên tâm nhịn chịu: “Chịu cay đắng tu hành mới giỏi”.
Người tu phải đặt lòng vị tha cao cả lên hàng đầu. Vì đó là chí nguyện thiêng liêng của Phật, của Thầy Tổ. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên môn đồ hãy xóa đi tình yêu thương nhỏ hẹp, riêng tư giữa sư đệ. Có thế, Ngài mới yên tâm dấn thân trong gió bụi trên cõi ta bà để khuyến dạy người đời.
CHÚ THÍCH :
TAI GÁC MẶT LỲ: Gác bỏ ngoài tai những chuyện thế sự, gương mặt trở nên lầm lỳ, chịu đựng tiếng đời mai mỉa, kẻ sang người sớt. Nghĩa bóng: nhẫn nhịn các tiếng thị phi nguyền rủa để an phận lo tu hành. Đức Thầy sách tấn: “Phải nhẫn nhục chờ người cổ tích trở lại và Phật Trời phân định cho ta”.
TA BÀ: Còn gọi là Sa Bà, Phạn ngữ: Saha. Dịch nghĩa: kham nhẫn, đại nhẫn. Cõi chúng sanh đang sống, cõi mà hành giả phải nhẫn nhục, chịu đựng các khổ não mới có thể tiến tu được. Cổ nhân có câu:
“Ta bà khổ, Ta bà khổ, Ta bà chi khổ thùy năng sổ”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ bảo:
“Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”.
CHÁNH VĂN
133. Nay rừng bụi có người mở ngõ,
Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.
Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê,
Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh.
Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường-ngạnh,
Ôi ! kể sao cho hết thói đời !
Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,
140. Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống.

LƯỢC GIẢI :
Rừng núi vốn âm u rậm rạp nay đã có người đứng ra khai đường dẫn lối. Người tu chỉ đi theo dấu chân của người trước là đến đích tương đối dễ dàng.
Đức Huỳnh Giáo Chủ trên đường truyền giáo trong lúc người Pháp tìm cách cản trở, rồi còn giục thúc Ngài phải bôn ba đây đó, không cho Ngài được rảnh rang thong thả. Nhưng Ngài thệ nguyện không chùn bước, mượn hoàn cảnh lưu đày nầy đổi lại cuộc vân du giáo đạo, miễn sao làm tròn sứ mạng mới là toại chí an lòng.
Tuy nhiên, con người giữa buổi Hạ nguơn, dữ nhiều lành ít, ngỗ ngang cường ngạnh đủ điều, ít ai hướng về nẻo thiện mà lo trau tâm sửa tánh. Ngài cất tiếng buồn than cho thói đời và Ngài xác định: Lòng dạ con người đời nay chỉ biết đua chen theo con đường ăn chơi, sa ngã vào chỗ hư hèn nên mãi mãi phải chịu luân hồi lên lên, xuống xuống.
CHÚ THÍCH :
DẤU THỎ ĐÀNG DÊ: Dấu thỏ: Con thỏ đi qua để lại dấu. Đàng dê: Do chữ dương trường, đường cong quẹo khúc khuỷu như ruột dê. Nghĩa bóng: Chỉ giáo lý nhà Phật rất tinh tế, sâu kín huyền diệu, phải tìm hiểu một cách chính xác để khỏi lạc vào tà đạo.
GIỤC VÓ CU: Tiếng gió ngựa phi nhanh. Nghĩa bóng: Trên bước đường bôn ba khắp mọi nơi phải chịu nhiều vất vả.
NGHINH NGANG, CƯỜNG NGẠNH: Nghinh ngang: Ngang tàng bướng bỉnh, không phục tùng ai; Cường ngạnh: Cường: mạnh mẽ. Ngạnh: Gai gốc, u nần. Nghĩa bóng: chỉ hạng người hung hăng bất trị. Xã hội đời nay thiếu gì hạng người đó. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã xác định:
“Hung đồ cường nghịch một hồi cười reo.
Đâu đây mà có hùm beo,
Khéo bày bá láp nghe theo làm gì”.

SAY SƯA: Say đắm triền miên không bao giờ dứt.
Đức Thầy có câu: “Cớ sao đời còn mãi say sưa”.
CHÁNH VĂN
141. Suối Tiên Thánh đổ ra cuồn-cuộn,
Tràn ruộng đồng gieo giống mới nên.
Kẻ vô-tình chẳng có chí bền,
Phải sa-ngã theo nơi mộng-ảo.
Giấc mộng vàng đặng truyền đại-đạo,
146. Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.

LƯỢC GIẢI :
Trên đường hoằng pháp, lời giáo pháp của Đức Tôn sư tuôn ra như suối đổ, làm thấm mát cõi lòng nhân thế, số người quy y thọ giáo rất đông, nhưng người tu thật tâm thì ít, còn người chạy theo hình thức quá nhiều. Chỉ được một thời gian hành đạo gặp nhiều khổ khó, kẻ vô tình phải chùn chân thối bước, sa ngã theo đường danh nẻo lợi, vật dục kim tiền.
Nếu người tu chân chánh, đầy lòng vị tha thì luôn luôn được Trời Phật ủng hộ. Các Ngài thị hiện trước mắt bằng thực tế, hoặc báo mộng trong giấc ngủ, hoặc mượn tay trước tác thi thơ Sấm Giảng.v.v…Như trường hợp của cậu hai Trần văn Nhu, ông Ba Thới (thế hệ BSKH)…và gần nhất là ông Thanh Sĩ, một môn đệ Đức Huỳnh Giáo Chủ được Phật truyền Pháp nhiều lần. Cuộc đời của Ngài là cả mộtsự nghiệp hưng truyền Phật pháp PGHH từ quốc nội cho đến quốc ngoại.
Vả lại, Niết bàn là cõi tịch tịnh an nhiên, hoàn toàn trong sạch, dù người tu hay không tu khi được trông thấy thực tế, hoặc trong giấc mộng, hay trong kinh điển, cả thảy đều say mê trìu mến. Nhưng người sâu duyên thì đuợc đại ngộ, kẻ kém duyên phải chịu nhiều vất vả khó mà nhận được chơn lý.
CHÚ THÍCH :
SUỐI TIÊN THÁNH: Suối: Dòng nước chảy qua rừng núi. Tiên: Bậc tu trên núi đã chứng đắc, có phép thuật và trường sanh bất lão. Đức Thầy cho biết: “Thơ với phú Thần Tiên giáng bút”. Thánh: Bậc đã chứng đắc hoàn toàn giác ngộ, không còn ô nhiễm trần tục. Đức Thầy xác nhận: “Cư trần bất nhiễm là người Thánh”. Suối Tiên Thánh: Là lời thuyết pháp của Tiên Thánh đổ ra cuồn cuộn như suối chảy, không phút nào ngưng và có giá trị thực tiễn, đưa người từ bờ mê sang qua bến giác, thành công chắc chắn. ( Chú ý: SGTVTB 2004 ghi: “Suối Tiên thanh”).
CUỒN CUỘN: Chạy uốn khúc, nước bắn lên tung tóe, cuộn vòng triền miên.
TRÀN RUỘNG LÒNG: Tràn: Đầy ra ; Ruộng Lòng: Cũng gọi là ruộng tâm hay tâm điền , chỉ tâm từ bi của hành giả. Tràn Ruộng Lòng: là đầy tràn tâm từ bi giác ngộ.
VÔ TÌNH: Không có tình cảm. Nghĩa bóng: Chỉ cho người kém duyên đạo pháp.
SA NGÃ: Rơi rụng , dính mắc vào chỗ hư hèn.
MỘNG ẢO: Mơ mộng ảo huyền. Nghĩa bóng: Mơ mộng việc tục trần, đam mê danh, lợi, tình.
GIẤC MỘNG VÀNG ĐẶNG TRUYỀN ĐẠI ĐẠO: Giấc chiêm bao thấy được điềm lành. Ông Trần văn Nhu (con Đức Cố Quản Trần văn Thành) trong khi thập tử nhất sanh, ông nằm trên chiếc võng bỗng té khụy xuống bộ ván, rồi liệm đi suốt ba ngày. Bữa thức, ông tự nhiên ngồi dậy và cho biết: trong mấy ngày rày ông được Đức Phật Thầy Tây An truyền Đạo và chỉ rõ việc vị lai. Từ đó, ông bắt đầu thuyết giảng đạo lý và mang con ấn BSKH (của Đức Phật Thầy đã giao cho Đức Cố Quản trước kia) tiếp tục hoằng truyền đạo pháp, sau trở thành bậc liễu ngộ trong thập nhị hiền thủ (12 vị đệ tử lớn) của Đức Phật Thầy Tây An.
VÔ SANH: Không còn sanh diệt, chỉ cảnh niết bàn tịch tịnh an nhiên.
CHÁNH VĂN
147. Mùa nước tràn ngập cả điền đê,
Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy.
Cuộc gian-nan năm qua đã thấy,
Luận việc đời cũng khúc lớn ròng.
Khi dậy thì tràn cả bờ sông,
152. Lúc khô hạn đi đồng khao-khát.

LƯỢC GIẢI :
Căn cứ vào thời tiết và địa dư thì miền Nam chịu ảnh hưởng mực nước lên xuống hai mùa rõ rệt. Đông Xuân thì nước hạ thấp dần đến lúc cạn kiệt, đồng ruộng khô khan, cỏ cháy. Nhưng từ độ cuối Hè sang Thu nước cứ dâng cao mãi ngập cả ruộng đồng, đê điều trắng dã. Nguyên nhân là do dòng sông Mê Kông bắt nguồn từ Tây Tạng chảy xuống.
Bàn luận việc đời kiếp sống con người cũng thế, cũng có lúc lớn ròng, khi thạnh khi suy, lúc may lúc rủi. Khi lên, lên tận chín từng mây. Khi xuống, xuống tận đáy ao hồ. Đó là lẽ thường tình của kiếp nhân sinh thế sự.
CHÚ THÍCH :
ĐỒNG KHÔ CỎ CHÁY: Ruộng đồng cằn cổi, nứt nẻ, cây cỏ héo xào có thể đốt cháy.
GIAN NAN: Khó khăn nguy hiểm.
KHAO KHÁT: Thèm muốn gắt gao. Đức Giáo Chủ bày tỏ tâm nguyện: “Đi tới đâu giúp người khao khát”.
CHÁNH VĂN
153. Biết làm sao lên lưng bạch hạc,
Bay cả trời tỏ ý từ-bi.
Khắp thế-gian con thảo phục quì,
156. Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế.

LƯỢC GIẢI :
Vì sống trong vòng kềm kẹp của Thực dân Pháp, xác thân ĐHGC phải chịu lưu đày đây đó, không được tự do như cánh chim bằng tung bay khắp cả bốn phương trời, nên Ngài ước mong đất nước sớm hòa bình, toàn dân hát khúc khải ca đồng quì trước bệ ngọc của Đức Ngọc Đế hoặc vua Thánh Đức đời Thượng nguơn sắp đến. Như các Tiên ông được sống cuộc đời thảnh thơi nhàn nhã, muốn sao tùy ý, “Ngao du tứ hải dạo khắp Tiên bang cảnh an nhàn của người liễi Đạo muôn ngày vô sự, long sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần, đặng chịu cảnh chê khen ? Vì lòng từ ái chứa chan, thương bánh tính tới hồi tai họa. Phật Vương đà chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa Bình cho vạn quốc chư bang”. Cũng vì sứ mạng thiêng liêng như trên mà Phật Trời chưa đến ngày phân định, nên Đức Thầy phải chấp nhận thân cá chậu chim lồng, tủi hổ thế thôi, thật ra muốn thoát khỏi vòng cương tỏa ấy cũng rất dễ dàng, như Ngài xác định:
“Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
Cớ sao đời còn mãi say sưa ?
Không tìm thấy đặng hưởng phước thừa.
Ngày lập Hội tay vin cành quế.
Trau thân phận rạng danh hiếu đễ,
Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng”.
CHÚ THÍCH:
BẠCH HẠC: Bạch: trắng; Hạc: chim hạc. Tương truyền chim hạc sống đến 1.000 năm. Hạc trắng ngày xưa thường được các vị Tiên trưởng cỡi.
TỪ BI: Từ là hiền lành; Bi là thương xót. Từ Bi là hai trong bốn đức của chư Phật (từ, bi, hỉ, xả). Như Đức Thầy đã khẳng định: “Từ bi buộc chặt cõi lòng”.
NGỌC ĐẾ: Vua Trời.
CHÁNH VĂN
157. Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ,
Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu.
Phải chuyển-xây trái đất một bầu,
160. Đặng lừa-lọc con Tiên cháu Phật.
Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất,
Xử phân người cùng vật thưởng phong.
Cho dương-trần rõ luật Thiên-công,
164. Có Địa-ngục Thiên-đường hay chẳng.

LƯỢC GIẢI :
Sự nhục vinh trong trần thế xét kỹ đều do Hóa công sắp đặt. Thế hệ nầy qua, kế thế hệ khác tiếp, từ một đơn vị nhỏ hẹp, đến cái bao la trừu tượng cũng đều nằm trong bộ máy tuần hoàn.
Cơ vận chuyển của trời đất rất huyền diệu, kẻ phàm nhơn không lường tính kịp. Khoảng thời gian từ vô thỉ đến vô chung luôn luôn được chuyển biến qua ba thời trong một chu kỳ: Thượng, Trung, Hạ. Cũng gọi là lý Tam nguơn. Thời Thượng nguơn là thời Thánh đức, Trung nguơn là là thời ăn no mặc ấm hưởng nhàn; đến Hạ nguơn thì lòng dạ đổi dời nham hiểm luôn phải đấu tranh giành sự sống. Hạ nguơn cũng là thời chọn lọc lành còn dữ mất, Phật Tiên Thần Thánh lâm phàm tìm kiếm người lương thiện để lập lại hội thi (tội trừng, công thưởng) cho con người và vạn vật trên quả địa cầu. Luật nầy rất là công bằng chánh trực không hề tư vị một ai.
Muốn thấy hiện thực luật tuần hoàn, trời đất sắp đặt tới đây, ta phải ráng lo tu để được sống sót hầu chứng kiến cảnh Đức Tôn Sư PGHH “Trên đài cao gọi các linh hồn”. Chừng đó kẻ dương trần mới thấu rõ bộ luật của hóa công, và rành phân cảnh Thiên đàng, Địa ngục.
CHÚ THÍCH :
THẾ HỆ: Thời đại có những mối liên lạc ràng buộc với nhau, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Đức Thầy có câu: “Kim với cổ nhìn xem thế hệ”.
SẮP ĐẶT: Cơ trời đã định sẵn.
CHUYỂN XÂY: Vận chuyển xây vần.
LỪA LỌC: Lựa chọn đúng chuẩn.
SỬA SANG: Sắp đặt lại cho tốt hơn. Đức Thầy bảo: “Phận làm người thủng thỉnh sửa sang”.
TIÊM TẤT: Cũng gọi là tươm tất. Thứ tự chu đáo.
XỬ PHÂN: Xét rõ để giải quyết. Đức Thầy khuyên: “Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào”.(SG, Q.3).
DƯƠNG TRẦN: Cảnh bụi bặm ở cõi chúng sanh đang sống. Đức Thầy mong mỏi:
“Ước sao mình như cuội trên trăng,
Đặng soi khắp cả dương trần”.(Thu Đã Cuối).
THIÊN CÔNG: Tài khéo léo của máy trời.
ĐỊA NGỤC: Tiếng Phạn: Niraya, Naraka, phiên âm: Nê-lê-giả, Na-lạc-ca. Nơi giam giữ tội nhân khi có trọng tội phải chết xuống âm phủ. Đức Thầy cho biết: “Mê muội ác hung về địa ngục”.
THIÊN ĐƯỜNG: Cõi trời. Đức Thầy phân định:
“Địa ngục cũng tại tâm làm quấy,
Về Thiên Đàng tâm ấy tạo ra”.
CHÁNH VĂN
165. Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng,
Suy cho tường rồi sẽ biện-minh.
Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình,
168. Cho phép Lão tố-trần đôi lẽ.

LƯỢC GIẢI :
Tất cả mọi người mọi giới, sau khi nghe lời Đức HUỲNH GIÁO CHỦ bình phán bộ máy tuần hoàn, cách xử phân của trời đất, sự lừa chọn con Tiên cháu Phật của cha hiền Ngọc Đế, và đâu là Thiên đàng và đâu là Địa ngục thì hãy yên lặng nghĩ suy cho tường tận rồi mới biện minh cho đúng lẽ thật. Nhân lúc vui vẻ Đức HUỲNH GIÁO CHỦ xin phép với Đấng Thiên Đình cho Ngài bày tỏ tâm niệm tường trình công việc ở thế gian, đồng thời Ngài tỏ lời cám ơn và từ tạ các đấng Thiêng liêng.
CHÚ THÍCH :
BIỆN MINH:
Nói cho rõ ràng, làm sáng tỏ lẽ phải trái.
THIÊN ĐÌNH: Thiên:Trời; Đình: Nơi vua tôi gặp nhau. Triều đình ở trên trời.
TỐ TRẦN: Là sẵn sàng bày tỏ một việc gì.
CHÁNH VĂN
169. Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ,
Bao nhiêu tình bác-ái góp tom.
Trông bá-gia tìm Đạo quá mòm,
172. Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.
NAM-MÔ A-DI ĐÀ PHẬT
Sa Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh Thìn.

(Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần-tử muốn thử coi sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng).
LƯỢC GIẢI :
Để kết luận bài SA ĐÉC, Đức Tôn Sư PGHH nhấn mạnh rằng lời Thầy dạy trong đây thật là tỏ tường cặn kẽ. Bao nhiêu tình bác ái nhủ khuyên Ngài đã dành sẵn đều tom góp vào đây.
Trên đường phiêu lưu độ chúng, Ngài nhận thấy nam nữ tu hành tìm Đạo khá khổ nhọc, vậy bổn đạo chớ nản lòng. Viết đến đây, Ngài giã biệt mọi người và cũng ước mong cho tất cả sống cảnh thanh bình thạnh thái.
CHÚ THÍCH :
CẶN KẼ: Kỹ lưỡng tỉ mỉ.
BÁC ÁI: Bác: rộng lớn; Ái: yêu thương. Lòng yêu thương rộng lớn. . Đức Thầy có câu: “Bác ái xả thân tầm Đạo chánh”.
BÁ GIA: Trăm nhà. Ý chỉ mọi người.
ƯỚC MONG: Mong muốn được như ý.
QUÁ MÒM: Quá kiệt sức mòn mỏi.

Bài 15. NANG THƠ CẨM TÚ (SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ 2004, tr. 366-373 )


XUẤT XỨ:
Trên bước đường truân chuyên truyền Đạo, tấm thân Đức Huỳnh Giáo Chủ phải rời xa quê hương, lưu lạc xứ người. Vì nghĩ đến đấng sanh thành và tình sư đệ nay chia tay cách biệt, chẳng biết ngày nào mới được trùng phùng nên Ngài cất tiếng than và tỏ cho mọi người biết: Âu cũng là sự sắp đặt của hóa công, chớ lòng Ngài không muốn vậy. Nhưng “Tuy thân Thầy lướt cuộc gió sương, Mà thỏa chí tang bồng hồ thỉ” và: “Càng đi càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”.
Hôm ấy nhằm ngày 29/5 năm Canh Thìn, nhà đương cuộc Pháp dời Ngài đến làng Nhơn Nghĩa (Xà No). Đức Giáo Chủ sáng tác bài: “Nang Thơ Cẩm Tú” để nói lên ý chí tự tin và tài thao lược của đấng giác ngộ.
VĂN THỂ:
Đức Giáo Chủ PGHH viết bài nầy bằng thể thất ngôn trường thiên, lối thuyết giáo, dài 214 câu.. Khởi đầu bằng câu: “Trời thanh lặng gió đưa hiu hắt” và chấm dứt bởi câu: “Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”. Hai câu chót viết theo thể lục bát bằng lối ngâm
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ nói lên nỗi lòng héo hắt xa quê hương, lìa cha mẹ, ly cách Thầy trò. Nhưng đây là cơ thử thách để tỏ rõ tấm lòng của bậc trượng phu có nao núng cùng chăng ? Rồi Ngài bày tỏ chí khí của bậc anh hùng mang một hoài bão to tát: “Lấp biển vá trời”, dựng lên thời thế liệt oanh. Sau cùng, Ngài cầu chúc bá tánh hưởng cuộc đời vui tươi hạnh phúc đồng hát khúc khải ca, muôn nhà thạnh thái.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ mong mỏi tín đồ và toàn dân nước Việt nuôi chí quật cường lên để “Phá tan óc tinh thần nhu nhược” và “Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Sau đó, Ngài kêu gọi tinh thần đoàn kết không phân biệt Bắc Nam rồi Ngài đơn cử những bậc anh hùng
để kích thích lòng nghĩa khí của những trang tuấn kiệt, noi theo gương hạnh của người xưa trong sách sử.
CHÁNH VĂN
1. Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắt,
Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh-lùng.
Gẫm xác trần còn cách cội thung,
4. Đâu có được giũ mùng quạt gió.
CHÚ THÍCH :

NANG THƠ: Nang: cái đãy, bao, túi; thơ: bài văn vần. .Bao hay túi đựng thơ văn. Nghĩa bóng: Bài văn tiên đoán vận mệnh tương lai được để lại cho hậu thế.
CẨM TÚ: Cẩm: gấm; Tú: thêu. Sự đẹp đẽ như gấm thêu. Nghĩa bóng: Văn chương hay đất nước đẹp đẽ như gấm thêu.
HIU HẮT: Nhè nhẹ. Ôn Như Hầu có câu: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt”. Đức Thầy cũng diễn tả: “Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẽ”.
LẠNH LÙNG: Lạnh lẽo. Nghĩa bóng: Không có vẻ ân cần sốt sắng. Đức Thầy cũng bảo: “Lạnh lùng mây bạc bị luồng giông”.
CỘI THUNG: Cội: gốc rễ. Thung: loài cây sống lâu, biểu tượng người cha (thung cỗi huyên già), cha già.
GIŨ MÙNG QUẠT GIÓ: Rung mùng cho sạch bụi bặm, quạt mạnh để đuổi muỗi mòng. Nghĩa bóng: chăm lo săn sóc cha mẹ già yếu.
LƯỢC GIẢI :
Vào một ngày giữa mùa hè, trời trong thanh lặng, cảnh vật nên thơ, gió đưa hiu hắt khiến lòng lữ thứ hoài cảm bao mối tâm tư. Đức Thầy ngồi một mình đối diện với bóng đèn khuya, chợt nhớ đến đến hoàn cảnh ly hương mà lòng Ngài bắt lạnh lùng chua xót. Gẫm lại xác nầy do cha mẹ sanh ra trăm cay nghìn đắng mới được nên người, giờ đây phiêu lưu gió bụi cách biệt song thân, cái ân sanh thành ấy biết chừng nào đền đáp được. Âu cũng là số mạng trớ trêu. Nghĩ rất buồn thay cho số phận!
CHÁNH VĂN
5. Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.
Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,
Nào phải giống chim muông điểu-thú.
Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,
Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu.
Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,
12. Nên còn ngại bước đường trở gót.
CHÚ THÍCH :

LŨ Ó: Lũ: bầy. Ó: Chim ó. Bầy chim ó. Nghĩa bóng chỉ cho bọn thực dân Pháp.
NGẬM NGÙI: Thương nhớ trong lòng không lộ ra. Bùi ngùi xúc động.
LỤY NGỌC: Lụy: nước mắt; Ngọc: quý báu. Ý chỉ bậc vương giả. Nước mắt của kẻ giàu sang hay người con gái đẹp. Đức Thầy có câu: “Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn”.
CHIM MUÔNG ĐIỂU THÚ: Các giống chim và thú vật. Trong Cung Oán có câu: “Kìa điểu thú là loài vạn vật”.
QUÊ HƯƠNG: Nơi mình sinh ra. Đức Thầy có câu “Quê hương rày đã dặm tràng sơn xuyên”.
HẤP THỤ: Nhận chịu lấy, thu nhặt vào.
LUNG TUNG: Loạn xạ, không có thứ tự. Đức Thầy có câu: “Âu Á lung tung nhuộm máu đào”.
TRỜI ÂU: Cũng gọi là trời Tây. Chỉ cho Châu Âu, châu này gây nên cuộc Đệ nhị thế chiến (1939-1045).
LƯỢC GIẢI :
Cuộc trùng phùng giữa thân quyến và tớ-thầy chưa được hả hê, bỗng nhiên hung tin bất ngờ đưa đến, rồi người Pháp dùng áp lực bắt buộc lưu đày Ngài đi nhiều nơi, khiến xác thân Ngài phải chịu vày vò đau khổ và phải chịu cảnh lìa quê hương một cách đột ngột không một lời từ giã. Ngài buồn tủi xác thể con người chớ nào phải loài cầm thú chi mà bọn thực dân đối xử quá nhẫn tâm. Ôi ! Cuộc nhân tình thế thái nào ai khôn lường trước được.
Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, nghĩa sanh thành dưỡng dục cù lao, tình Thầy tớ ruột rối tơ vò, ân nghĩa mặn nồng như chim liền cánh, cội liền cành thế mà nay phải chịu cảnh chia ly cách biệt. Ôi ! Có cái khổ nào bằng cảnh:
“Người mình thương bỗng lại chia lìa,
Khi khóc than nước mắt đầm đìa.
Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót”.
Tạo hóa nỡ bày chi lắm điều chua cay quá nhỉ !
Lại nữa cuộc chiến cứ bùng nổ lung tung khắp bầu trời Âu Á làm cho nhân loại điêu linh trong cơn binh lửa, làm trở ngại bước đường về. Thế nên Đức Tôn Sư PGHH phải đành chấp nhận thực tế phũ phàng quên câu nghĩa cũ.
CHÁNH VĂN
13. Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,
Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.
Con lạc cha con hỡi u-ơ,
16. Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.
 Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,
Đặng chung cùng một tiệc quỳnh-tương.
Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,
20. Cho chim phụng mặc tình sè múa.
Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,
Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.
Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,
24. Ta thỏa chí hô-hào trung-nghĩa.
 Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,
Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho.
Tuy ngày nay chưa được ấm no,
28. Sau được dựa nơi non nhược thủy.

CHÚ THÍCH :
THẢNH THÓT: Trong trẻo, rõ từng tiếng một. Trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu: “Giọt ba tiêu thảnh thót cầm canh”. Ý nói: Lời thở than chua xót của bổn đạo khắp nơi đều được Đức Thầy nghe rõ từng tiếng.
ƯỚC MƠ: Mong mỏi hy vọng, Đức Thầy có câu: “Ước mơ thế giới lân Hoà Hảo”.
U Ơ: Nói không rõ tiếng. Ông Nguyễn Thanh Tân có câu: « U ơ bầy bướm hỡi chờ xuân. »
NGẨN NGƠ : Kinh ngạc, lấy làm lạ. Nghĩa bóng : Không còn thiết sự đời nữa.
« Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,
Trị chơi ít bịnh ngẩn ngơ xóm riềng. » (ĐT)
VẬN THỜI : Khí số xoay vần theo diễn tiến của thời gian. Đức Thầy xác định :
« Vận thời luân chuyển đưa Ta tới,
Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh điên. »

TIỆC QUỲNG TƯƠNG : Quỳnh : tên một loại ngọc ; Tương : nước dùng để uống. Tiệc của các Tiên gia đãi Thánh chúa và chư Tiên họp ăn mừng các ngày đại lễ. Đức Thầy có câu:
“Chén Quỳnh Tương gác điều gai ngạnh,
Vui tinh thần bày biện cuộc cờ.
Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ,
Bày thi phú than qua thời thế”.
CÂY NGÔ ĐỒNG: Loại cây to, gỗ nhẹ, thường dùng làm đàn, cứ đến mùa Thu thì lại trụi cành. Tương truyền: Nơi nào có cây ngô đồng tức có chim phụng đến đậu. Nghĩa bóng: Cây quý. Cổ thi có câu: “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”.(Ngô đồng một lá rụng rơi, Ai ai cũng biết cảnh trời sang thu).
ĐƯỢM SƯƠNG: Đượm: Thắm thía; Sương: Hơi nước ở trong không khí, ban đêm hoặc buổi sớm mùa lạnh thường đọng lại trên cây cỏ. Đượm hơi sương lạnh. Nghĩa bóng: Thỏa lòng mong muốn.
CHIM PHỤNG: Chim phượng hoàng. Con trống là “phượng”, con mái là “hoàng”; loài chim nầy có mình hạc, mỏ gà, mắt người, cổ rắn, hàm én, lưng rùa, đuôi cá, lông ngũ sắc. Loài chim chẳng phải cây ngô đồng thời không đậu, chẳng phải cây trúc thời không ăn. Phụng hoàng là giống chim đem lại điềm lành (điều lành). Khi nào phụng hoàng ra đời thì có Thánh nhân xuất hiện. Loại chim nầy là một trong bốn con vật linh thiêng: Long, lân, qui, phụng. Đức Thầy có câu:
“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng hoàng,
Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.
SÈ MÚA: Sè: giương cánh ra; Múa: thể hiện những động tác mềm mại, liên tiếp biểu hiện những tư tưởng tình cảm. Sè múa: Cử động đôi cánh và hai chân ăn nhịp theo điệu khúc tình tiết xúc động. Nghĩa bóng: Biểu hiện tình tiết thỏa mãn của lòng mong muốn.
SUM VẦY: Đoàn tụ hội hiệp, Đức Thầy có câu: “Trên cùng dưới sum vầy một buổi”.
MÂY LÀNH: Mây: Đám hơi nước trong khí quyển ngưng lại, lơ lửng trên bầu trời.; Lành: thiện mỹ, tốt tươi. Nghĩa bóng: Có Trời Phật che chở.
TRỜI NAM: Chỉ cho nước Việt Nam. Đức Thầy có câu: “Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ”.
THIÊN LA: Thiên: trời; La: lưới. Do câu: “Thiên la địa võng”, lưới trời lồng lộng. Nghĩa bóng: Luật trời hay luật nhân quả. Đức Thầy có câu: “Ly kỳ thiên định dĩ thiên la”.
THÁNH HIỀN: Bậc Thánh và bậc Hiền. Nho học cho rằng trong nhân loại có ba hạng người: Sinh nhi tri (không học mà biết) đó là bậc Thánh nhân; học nhi tri (học thì biết) đó là bậc Hiền nhân; học nhi bất tri (học mà vẫn không biết) là hạng người ngu muội. Đức Thầy có câu: “Thánh hiền chẳng biết sao vừa lòng dân”.
NÔM NA: Do thành ngữ: “Nôm na là cha mách qué”. Theo lối nôm thì được cấu tạo như sau. Thí dụ: Chữ “Biết” (còn gọi là Biệt). Khi đọc là Biết, khi đọc là Biệt, tùy theo chỗ đứng của nó. Trong Kiều có câu: “Thấy chàng đau nỗi biệt ly”. Và câu “Thoát trông nàng đã biết tình”. Nghĩa bóng: Dùng chữ nghĩa để lòe đời. Đức Thầy có câu: “
Theo học cổ nôm na ít tiếng,
Làm nhiều điều xao xuyến nhơn tâm”.
NÔM: Tiếng thông dụng của người Việt Nam xưa.
Chữ Nôm đối với chữ Nho. Chữ Nôm hoặc dùng nguyên chữ Nho, hoặc lấy hai ba chữ Nho ghép lại để đọc theo tiếng nói của người Việt. Ví dụ: Túc cầu nói nôm na là bóng đá. Nghĩa rộng: Dùng tiếng nước nhà. Đức Thầy có câu: “Ngày nay ta cũng nôm na”, theo mỹ ý toàn câu: Dùng chữ nghĩa Thánh Hiền xưa, nay Đức Thầy tạm gượng ép thành chữ nghĩa để viết ra Sấm Giảng cho người Việt chúng ta xem.
HÔ HÀO: Hô: kêu gọi; Hào: la lớn. kêu gọi kích động mọi người cùng làm một việc trọng đại.
TRUNG NGHĨA: Trung: hết lòng với vua, với nước; Nghĩa: làm theo chánh nghĩa hoặc theo lẽ phải. Trung Nghĩa: Hết lòng phò tá với dân với nước theo con đường chánh nghĩa. Dù có hy sinh tánh mạng chẳng nao lòng. Đức Thầy có câu: “Thương những người trung nghĩa vẹn toàn”.
GIỐNG HIỀN XƯA: Giống: hột giống. Hiền xưa: hiền nhiều kiếp trước. Giống hiền xưa: Giống lành sẵn có trong tâm của mỗi chúng sanh. Do câu sách Thánh: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”(Người mới sanh, tánh vốn lành). Nghĩa rộng: Hột giống Phật tâm mình xưa kia đã bị vùi lấp, ngày nay mới bắt đầu tỉa lại.
THƠM THO: Mùi hương dễ chịu bay loan tỏa khắp nơi. Nghĩa bóng: Việc hợp với đạo lý khiến mọi người ưa thích làm theo. Đức Thầy sách tấn: “Thơm tho gia trụ danh đề Tổ Tông”.
ẤM NO: Đầy đủ về vật chất. Ví dụ: Xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Truyện Kiều có câu: “Tay không chưa dễ tìm vành ấm no”.
NHƯỢC THỦY: Tên một con sông ở về cực Tây nước Tàu . Sách “Sơn Hải Kinh” có nói về nước sông ấy có tính rất yếu, không đỡ nổi hột cải. Nghĩa rộng: Ý chỉ cảnh Tiên nơi thoát tục.
LƯỢC GIẢI :
Sau cái hung tin bất ngờ, đồng đạo trẻ già phải chịu cảnh “con xa cha, Thầy lạc tớ”, trăm người như một, não nuột sầu bi, khó đứng khôn ngồi, lệ ứa thâm mi, dường như cắt đau từng khúc ruột. Ôi ! Không có cái khổ nào bằng cái khổ “kẻ ở người đi”. Nhưng rồi lần lượt thời gian cũng trôi qua, ai cũng đều trông ngóng vận thời đưa đến trong một ngày gần đây, tớ thầy đồng sum hợp “Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
Ấy thời đại thánh tiên trổ mặt”.
Để cùng xiết chặt tay nhau dự hội Quỳnh Tương nơi miền Bảy Núi:“Trên non Tiên văng vẳng tiếng phụng hoàng, Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.
Chừng đó nhà nhà đều không đóng cửa, ngoài đường của rơi không có người lượm. Chim phụng gáy đầy ngoài đồng nội. Cây ngô đồng mọc đầy đường, cành lá tốt tươi, hoa trổ bốn muà thơm ngát. Đó là cảnh “Bốn biển một nhà Cha, Phật, Thánh”. Khắp cả trời Nam đều có mây lành bay tủa, các bậc Thần Tiên đều lâm phàm, quăng phép mầu: Trên bố trí thiên la, dưới quăng địa võng, bao bọc khắp thành trì miền Bảy Núi. Thật là cảnh an nhàn vui đẹp chưa từng thấy.
Chừng đó nền Đạo Thánh mới được rạng rỡ và gương trung nghĩa được danh bia khắp chốn. Giá trị của người tu được nâng cao tột bực. Bao nhiêu ước vọng hoài mong trong nhiều tiền kiếp do Đức Huỳnh Giáo Chủ nung nấu từ ngàn xưa rồi đây sẽ trở thành hiện thực. Hoa từ bi sẽ nở rộ khắp trời Nam, mọi nhà, mọi giới, mọi hồn linh đều được hoan ca vui khúc khải hoàn. Tuy rằng hiện giờ thân xác Thầy phiêu lưu trôi giạt, như cánh buồm không định hướng, toàn dân chưa được ấm no. Nhưng ngày sau chắc chắn sẽ được tròn nguyện ước trên cảnh non bồng nước nhược.
CHÁNH VĂN
29. Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,
Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
32. Cúi đầu trước quy-y Phật-Pháp.
Quản chi thân bị mưa, nắng táp,
Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.
Vẽ cho dân lập chí râu mày,
36. Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.
Thân nặng nề như chim ô-thước,
Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.
Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,
40. Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.
CHÚ THÍCH :
TRƯNG BÀY:
Trưng: Chứng cớ. Bày: Phô trương. Nghĩa rộng: Có bằng chứng rõ rệt. Đức Thầy có câu: “Trưng bày tích cũ đành rành”.
CANG KỶ: Còn gọi là Cương kỷ. Trật tự và quy luật của một quốc gia. Cang: giềng mối. Theo quan niệm xưa, xã hội Á Đông lấy Tam cang (Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang) và Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) làm trọng. Đức Thầy có câu: “Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”.
TỈ MỈ: Phân ra nhiều phần nhỏ, rất chi li.
RUNG HỒN: Làm xao động tâm hồn. Tiếng đàn có cảm xúc rung động trái tim của các đối tượng.
DẠ ÁI: Dạ: lòng. Ái: yêu. Dạ ái: Lòng yêu thương sẵn có nơi tâm hồn nhân đạo của con người.
BẮT NÔN: Bắt nôn nóng làm nhanh lên. Ý khuyên: Làm người nên phải nhanh chóng quy y phật pháp.
MƯA NẮNG TÁP: Nói cho đủ “nắng táp mưa sa”. Ý chỉ cảnh gian truân vất vả, gây bao nỗi cực nhọc. Ca dao có câu:
“Mưa xuân lác đác vườn đào,
Công anh đắp đất ngăn rào trồng hoa.
Ai làm gió táp mưa sa,
Cho cây anh đổ cho hoa anh tàn”.

ẤM ÁP: Ấm: Không lạnh, không quá nóng, dễ chịu. Nghĩa bóng: Thỏa mãn về vật chất lẫn tinh thần.
LẬP CHÍ: Nuôi dưỡng ý chí để đạt mục đích.
RÂU MÀY: Nghĩa chữ Tu mi. Chỉ người đàn ông.
Đức Thầy có câu: “Sống sanh ra phận râu mày”.
TINH THẦN: Tinh: Cái gì thuộc về linh hồn (trái với vật chất). Thần: Phần thiêng liêng sáng suốt của con người. Nói chung chỉ về phần tâm hồn. Đức Thầy có câu: “Lấy tinh thần hiệp vén ngút mây”.
NHU NHƯỢC: Nhu: mềm mỏng. Nhược: Yếu đuối, mềm mại. Tục ngữ: Lấy nhu để thắng cương. Đức Thầy có câu: “Gìn tâm nhu nhược chờ vận đến”.
CHIM Ô THƯỚC: Ô thước còn gọi là cầu Ngân do chim quạ kết thành cầu bắc qua sông Ngân hà. Do điển tích Chức Nữ và Ngưu Lang: Kẻ dệt vải, người chăn trâu. Cả hai đều siêng sắn, Thượng Đế thương tình cho kết làm chồng vợ. Nhưng khi có đôi bạn sanh ra lười biếng, nên bị đày, lấy sông Ngân làm ranh giới. Hằng năm chỉ đến đêm trừ tịch (mùng 7 tháng 7), khi chim quạ nối đuôi nhau thành cầu, hai người mới được gặp nhau. Đức Thầy có câu:
“Chim ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót cho gần người nay”.

Ở đây, Đức Thầy ví mình như chim Ô Thước, chúng sanh nhờ lập công bồi đức ngày sau được gặp lại Ngài.
CẦU ĐÁ SÔNG NGÂN: Cầu đá: cầu bằng đá. Tương truyền: Chim quạ đội đá bắc cầu qua sông Ngân. Sông Ngân: Nghĩa của chữ Ngân hà, tức con sông bạc, danh từ dùng gọi con đường trắng ở về phía đông trên nền trời, người ta đặt tên là Ngân hà hay Thiên hà tức là con sông trên trời. Thành ngữ Việt Nam có câu: “Trăm năm thề chẳng lòng phàm, sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người”, và trong thơ có câu:
“Đêm đêm trong dãy ngân hà,
Chuỗi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đêm mòn mà dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”.

BÁU NGỌC CHÂU TRÂN: Báu ngọc: ngọc ngà châu báu. Châu: hạt trai. Trân: quý. Châu trân: hạt trai quý báu. Báu ngọc châu trân: Đồ quý giá bằng ngọc ngà châu báu được người đời trân trọng.
CON THẢO: Người con hiếu thảo.
NHUẦN ÂN: Gội nhuần ân đức.
THÁNH ĐẾ: Ông vua đắc quả Thánh. Đức Thầy có câu: “Rày gặp mưa nhuần ân Thánh Đế”.
LƯỢC GIẢI :
Đức Huỳnh Giáo Chủ ví lời Sấm Giảng như một bản đàn thâm diệu. Ngài rung động đê mê để đánh thức bao tâm hồn có căn lành sớm quay về nẻo giác. Giữ gìn thuần phong mỹ tục, kỷ cương của tôn giáo, lo tu hành tiến thẳng về cảnh Tiên Phật.
Ngài chẳng ngại chi thân bị sóng dập gió vùi, chẳng màng đến cảnh giàu sang phú quý của thế nhân, miễn làm sao chúng sanh biết tu thân lập mạng tỏ ra chí khí trượng phu, dũng mãnh tiến xa trên đường giải thoát, đánh tan đầu óc nhu nhược.
Mang lấy thân phàm rất là nặng nhọc, hơn nữa bị cảnh lưu đày, nhưng ý chí vùng lên không bao giờ chùn bước. Ngài quyết làm như loài chim Ô thước lập xong cầu đá lấp ngang dãy Ngân hà cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Lòng Thầy như thế đó, biết trò có đủ khả năng, tròn công đức, đủ điều kiện gặp gỡ trùng phùng như chàng Ngưu, ả Chức hay chăng ? Trên đường truyền giáo, miễn sao tròn chí nguyện, thành công tốt đẹp, hoàn thành nhiệm vụ để nhà nhà no ấm được gội nhuần ân đức của Thánh Vương, còn tấm thân của Đức Thầy không màng chi báu ngọc châu trân.
CHÁNH VĂN
41. Đứng anh-hùng dựng nên thời-thế,
Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.
Vội đem lòng cượng-lý ghét ghen,
44. Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn.
Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện,
Đang trông ngày tới số bắt hồn.
Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
48. Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.
CHÚ THÍCH :

ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa; Hùng là vua các loài thú. Nghĩa bóng: Chỉ cho những người tài giỏi an bang tế thế. Theo sách Vương Thông cho biết: “Tự trị giả anh, tự thắng giả hùng” (Tự biết mình là anh, tự thắng mình là hùng). Nguyễn Công Trứ có câu: “Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay”.
TRÙNG DẾ NHỎ NHEN: Con trùng con dế sống ở dưới đất rất là nhỏ nhen.
CƯỢNG LÝ: Chống lại lẽ phải.
GHÉT GHEN: Vừa ghét vừa ghen kẻ hơn mình.
TIẾNG KÈN LỜI QUYỂN: Do thành ngữ “Giọng kèn giọng quyển”, lời dệt thêu thêm bớt không trung thực. Đức Thầy có câu: “Tiếng quyển tiếng kèn mặc ý bá gia”.
ÂM TY: Cõi âm phủ. Tục truyền vua Tần Quảng Vương ngự trị tại đây, xét việc lành dữ của chúng sanh để tra tấn và hành phạt.
NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN: Đầu trâu mặt ngựa, chỉ cho quỷ sứ dưới cõi âm ty.
CÕI ÂM THẦN: Âm: cõi người chết. Thần: Buổi ban mai, cõi người sống.
BỊNH SÁI ÔN DỊCH: Bịnh dịch tả, còn gọi là bịnh thời khí. Bịnh nầy ngày xưa thường hay ói, tả tử vong rất cao. Người ta bảo nhau là bịnh ôn dịch do trời đất ban cho. Ông Sư Vãi có câu:
“Chết mà chẳng thấy trối trăn,
Là kêu ôn dịch hay mang khốn nghèo”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng bảo: “Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh”.
LƯỢC GIẢI :
Là đấng anh hùng trong trời đất, có bản lãnh cao cường tạo nên thời thế, nghĩa là có khả năng thay thế cuộc diện: từ thua bại trở thành thắng lợi, nên những ghét ghen cượng lý, thêm bớt, tiếng kèn lời quyển chỉ là lẽ tầm thường, nhỏ nhen ích kỷ, không đáng bận tâm. Chí lớn của Đức Huỳnh Giáo Chủ đâu phải là như thế.
Cái đáng sợ là lưỡi hái của tử thần, những dịch bệnh âm binh, những cảnh trừng phạt của ngưu đầu mã diện nơi chốn âm ty. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng sanh nên trực nhận xác thân vô thường, coi việc sanh, lão, bịnh, tử là trọng.
CHÁNH VĂN
49. Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,
Nhà cha xưa cửa đóng then gài.
 Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,
52. Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.
Nhìn gương kiến sao không biết hổ,
Lũ gian thần nào biết Tổ-Tông.
55. Làm âu-sầu một góc trời Đông,
Bị miệng sói thổi lông tìm vít.
Văn cang-thường đem ra bày trích,
58. Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.
CHÚ THÍCH :

TIÊN BANG: Nước Tiên hay cõi Tiên. Đức Thầy khuyến dạy:
“Theo Ta đến chốn Tiên bang,
Đặng coi các nước hội hàng Năm Non”.

Nghĩa bóng ám chỉ nước Việt Nam sau nầy quí báu như cảnh Tiên.
KHÓA CỔNG: Đóng cổng lại. Nghĩa bóng: chưa đến thời kỳ.
NHÀ CHA XƯA: Nhà cửa của đấng cha lành trước kia.
CỬA ĐÓNG THEN GÀI: Nhà chưa mở cửa, then còn gài chặt. Nghĩa bóng: chỉ thời kỳ chưa có vua chúa xuất hiện.
THẢO NGAY: Thảo: bảo dưỡng. Ngay: Ngay chánh. Hết lòng bảo dưỡng cha mẹ và trung thành với dân với nước.
NGỖ NGHỊCH: Ngang tàng nghịch ngợm, xem mọi người không ra gì.
ĐỨT CỔ: Bị chặt cổ. Nghĩa rộng: Bị chết một cách thảm khốc.
GƯƠNG KIẾN: Gương lũ kiến: loài vật biết kết đoàn và tận tình giúp đỡ nhau đến tận cùng, lúc nào cũng tha mồi về đầy tổ để có no đủ cho cả đàn.
LŨ GIAN THẦN: Nói đủ “Gian thần nịnh tặc”. Bầy tôi gian nịnh, ham sống sợ chết, a dua theo quyền thế, bợ đỡ để mua quan bán chức.
ÂU SẦU: Lo lắng buồn phiền. Đức Thầy có câu: “Lòng ta thương chúng luống ưu sầu”.
TRỜI ĐÔNG: Một vòm đất ở phía đông, gồm có nhiều quốc gia: Việt Nam, Cam Bốt, Ai Lao, Thái Lan…
THỔI LÔNG TÌM VÍT: Vạch lưng chim, thú vật để tìm vết thương, vết sẹo. Nghĩa bóng: Bới móc tìm chỗ xấu của người khác để chê bai, chỉ trích.
VĂN CANG THƯỜNG: Văn: chữ nghĩa lời văn. Cang: giềng mối. Thường: Thường hằng. Bổn phận thường hằng của người: nam thì có Tam cang, Ngũ thường, nữ thì có Tam tùng, Tứ đức (theo quan điểm thời xưa của người Á Đông).
Tam Cang: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang. Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tam tùng: Tùng phụ, Tùng phu, Tùng tử. Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
BÀI TRÍCH: Bài bác, chỉ trích để gạt bỏ ra.
CỔ TÍCH: Truyện xưa tích cũ. Những di tích lịch sử từ xưa lưu truyền lại.
LƯỢC GIẢI :
Theo cơ thiên định, luật hằng chuyển của lý Tam nguơn, nay là thời mạt pháp, người tâm trí tối đen, đời lắm ma vương khuấy rối. Nhà Tiên cửa Thánh của ông cha ta trước kia, tức dòng giống Tiên bang còn cửa đóng then gài, chưa đến thời Minh Vương xuất thế, trị chúng để thế giới bình an.
Hôm nay, đứa con nào biết hướng thượng, qui ngưỡng về Tông Tổ xưa cũng như cha lành của nước Việt Nam sau nầy là thuận với lẽ Trời. Nếu hiện tại biết lo tu hành, thảo cha ngay chúa, hiếu đễ cha mẻ sẽ được sống sót đến ngày lập Hội và được vinh Tông diệu Tổ. Ngược lại, đứa con nào ngỗ nghịch thì sẽ bị luật Thiên đình trừng phạt, khó mong sống sót.
Đây là gương kiến: tuy mang thân súc vật nhỏ nhoi, nhưng chúng biết sống vầy đoàn, nhường nhịn từ miếng ăn, chung sức bảo vệ tiếp sức lẫn nhau đến cùng. Huống chi ta, được mang thân người, linh hơn muôn vật sao chẳng chịu học đòi theo mà còn làm trái lại: a dua theo lũ nịnh thần, hại dân bán nước, làm tay sai cho bọn Thực dân, quên đi nền luân lý cổ truyền của dân tộc Á Đông đã có trên bốn ngàn năm văn hiến.
Bọn Tây Dương quen lối sống hùng hổ, xâm lấn cõi bờ các nước nhược tiểu, làm tan nát cuộc đời và gieo biết bao hận thù truyền kiếp với chúng dân Đông Nam Á. Chúng ta còn lạ gì lũ giặc đó nữa.
Nền luân lý Tam cang, Ngũ thường của Thánh nhơn xưa là giềng mối căn bản nhứt, các bậc Thánh triết đã truyền thừa qua nhiều thế hệ kế vãn khai lai, ảnh hưởng toàn cõi Trung Hoa lan dần qua Đông Nam Á. Các bậc tiền nhân Việt Nam ta nhờ thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh giữ vẹn nhân luân, phụng hành trung hiếu và giữ an bờ cõi một cách đắc lực.
Thế mà hôm nay lũ nịnh thần lại thổi lông tìm vết, đem bài bác biếm nhẻ người xưa. Nghĩ thật buồn cười cho bọn chúng.
CHÁNH VĂN
59. Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,
Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.
Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,
62. Rưới cho trần được tỉnh chút tâm.
Mãi để câu vi diệu thậm thâm,
Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.
Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,
Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.
Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
68. Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.
CHÚ THÍCH :

GIÀY BỪA: Chà đạp một cách không thương tiếc.
LĂN LÓC: Từng trải qua, từng nếm qua. Ví dụ: lăn lóc trong cuộc đời. Đức Thầy có câu: “Dù cho lăn lóc rán kiên trinh”.
BÌNH TỊNH: Còn gọi Tịnh bình, tức bình đựng nước cam lồ. Theo truyền thuyết xưa, Phật Bà Quan Âm thường sai Hồng Hài Nhi theo hầu và cầm tịnh bình, trong chứa nước cam lồ, và nhành dương liễu, khi hữu sự rưới xuống trần gian cứu độ người lâm tai nạn. Đức Thầy có câu: “Khẩn bái Quan Âm trút tịnh bình”.
VI DIỆU: Vi: nhỏ nhặt, huyền bí; Diệu: tốt đẹp. Đã đến chỗ tốt đẹp tinh tế.
THẬM THÂM: Thậm: rất; Thâm: Sâu xa. Hết sức sâu xa. Đức Thầy có câu: “Thậm thâm đây đó niềm liên ái”.
RỪNG LÂM: Núi rừng trùng điệp, khó tìm lối thoát hiểm. Đức Thầy có câu:
“Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột Năm non có các-đài”.
MÃI ĐỂ CÂU VI DIỆU THẬM THÂM, CHO SANH CHÚNG RỪNG LÂM KHÓ MỞ: Ý nói: nền đạo Phật rất cao sâu huyền diệu. Như câu: “Đạo Phật diệu diệu thậm thâm, Dầu mà tận thế ngàn năm vẫn còn”.
Thật vậy, Đạo Phật gồm có pháp hữu và pháp vô. Nếu lấy bên hữu không, cũng chẳng được. Ngược lại, nếu chấp bên vô cũng chẳng rồi. Có lúc phải dùng hữu và có lúc phải dùng vô. Hơn nữa, có lúc còn phải dụng quyền, có lúc dụng thiệt, có lúc dụng đốn và có lúc dụng tiệm. Cho nên, kẻ mới phát tâm không sao hiểu thấu nguồn gốc của Đạo.
Kinh Phật thường ví nền Đạo như đám rừng, nếu lạc vào rừng, ta thiếu duyên lành thì khó kiếm nẻo ra. Mặc dù thế, nếu hành giả thật chân tu và sâu duyên cùng Phật pháp sẽ tìm được lối thoát một cách dễ dàng.
GIÓ NHẸ: Tiếng gió đưa nhè nhẹ. Nghĩa bóng: Chỉ lúc chính sách thực dân để lặng êm cho Đức Tôn Sư PGHH bành trướng nền Đạo.
ÂM KHÍ: Âm: thuộc về cõi chết. Khí: hơi khí lạnh lẽo, nặng nề như từ cõi âm đưa lại. Nghĩa bóng: Tin di dời Đức Giáo Chủ như sét đánh bên tai, dự báo như một luồng âm khí nặng nề đưa đến.
PHỤNG GẶP KÊ: Phụng: chim phụng (ám chỉ Đức Thánh Vương); Kê: gà. Nghĩa bóng: Chúa Thánh sẽ gặp tôi hiền. Ấy là thời đại Phật, Thánh, Tiên trổ mặt.
LƯỢC GIẢI :
Xét nghĩ: Không biết nguyên do vì đâu có cuộc giày bừa của quân đội Pháp, làm cho đất nước ta bị bệnh binh đao tang tóc, số người mới quy y Phật pháp phải một trận “thất điên bát đảo”, đạo tâm lung lạc.
Đức Huỳnh Giáo Chủ ước chi Phật dùng nước cam lồ rưới xuống trần gian cho sanh chúng gội nhuần ân đức, tỉnh tâm, cải tà quy chánh lo tu hành..
Nguồn chơn lý của đạo Phật từ ngàn xưa đến giờ vốn rất cao thâm huyền diệu. Khi thì cao tận trời xanh, khi thì thấp la đà mặt đất; khi rộng thì lan khắp bốn biển năm châu, khi nhỏ thì như hạt tiêu hạt cải. Hơn nữa, khi quyền, khi thiệt, lúc đốn, lúc tiệm, làm cho người ít thiện căn khó mà nắm vững. Ví như kẻ đã lạc vào rừng khó tìm được nẻo ra.
May mắn thay, vào thời mạt pháp chúng sanh được Phật Trời ân xá bớt tội căn, và được chư Phật sắc lịnh cho Đức Thầy giáng trần khai Đạo là điều diễm phúc. Nhưng thật tế lại khác, giặc Pháp ngang nhiên tác oai, tác quái làm cho nền Đạo bị ngưng trệ, và tấm thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ phải xa cách môn đồ mà dấn thân trên đường gió bụi. Có thể nói, cảnh huống đó như một cơn lốc dữ dội đưa đến nền đạo PGHH, nhưng đó chẳng qua tại lẽ trời.
Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên nên: “Đợi cơ thiên địa xây vần đến, Chờ cuộc phong lôi đổi vận lành”. Trông đúng ngày chim phụng gáy, đó là ngày Đức Thánh Vương ra đời, có đủ Phật, Thánh, Tiên lâm phàm trợ trưởng lập lại cuộc đời tân. Theo truyền thuyết xưa, đời Ngũ Đế bên Trung Hoa trị vì thiên hạ, chim phụng xuất hiện đầy đồng nội. Đến đời Võ Vương thì chim phụng gáy ở chót núi Kỳ Sơn. Nếu cuộc thế xoay vần đúng lúc, qua khỏi khúc quanh lịch sử, mai sau chim phụng và gà có ngày được gặp mặt nhau tại trung tâm điểm miền Nam Việt Nam. Suy ra, giữa tín đồ và Đức Tôn Sư PGHH hoàn cảnh sau đây cũng na ná như vậy.
CHÁNH VĂN
69. Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,
Đau chi bằng đau khúc đoạn-trường.
Ước sao mà thuận gió buồm trương,
72. Đò bát-nhã rước tôi lương đống.
Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
Cớ sao đời còn mãi say-sưa ?
Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,
76. Ngày lập hội tay vin nhành quế.
Trau thân phận rạng danh hiếu để,
Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng.
Đừng chia lìa Bắc tổ Nam tông,
80. Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.
CHÚ THÍCH :

ĐOẠN TRƯỜNG:
Đứt ruột. Chuyện hết sức bi thảm và khổ cực, khiến đến tan nát cõi lòng. Sách Sử ký xưa có ghi lại câu chuyện: Vua Hứa Tinh Vương và quần thần đi săn đến một vùng núi nọ gặp hai mẹ con khỉ đột đang chuyền nhảy trên cành. Hứa Tinh Vương lắp tên bắn cả hai. Khỉ mẹ nhờ lanh tay nên bắt tên kịp, khỉ con yếu đuối nên bị trúng tên. Hứa Tinh Vương sai người trèo lên cây lôi khỉ con xuống và vác xác khỉ con đi. Lúc đó khỉ mẹ rất đau lòng, từ trên cây buông tay rớt xuống đất. Quăn lính bắt cả hai đem về trào làm thịt. Khi mổ bụng cả hai mẹ con khỉ thì thấy khỉ con tuy bị tên nhưng ruột vẫn còn nguyên vẹn, còn khỉ mẹ tuy không bị tên nhưng ruột đứt từng đoạn, trông thật là thảm não. Hứa Tinh Vương trực nhận được hoàn cảnh đó, ông rất bùi ngùi cảm động, tự hối tận đáy lòng. Bắt đầu từ đó, ông ra lịnh cấm chỉ đi săn. Và thời gian sau ông bỏ ngôi tự nguyện xuất gia, chỉ trong một kiếp đó, Hứa Tinh Vương được đắc đạo. Ở đây, Đức Thầy muốn xác định: Lòng Đức Tôn Sư nhìn cảnh chia ly giữa tình thầy tớ hiện giờ đứt từng đoạn ruột như khỉ mẹ vậy.
THUẬN GIÓ: Xuôi theo chiều gió thổi. Nghĩa bóng: Đồng một quan niệm, một đưòng lối hay một chí hướng.
BUỒM TRƯƠNG: Cũng gọi là trương buồm, mở buồm cho bọc gió.
ĐÒ BÁT NHÃ: Cũng gọi là bát nhã thoàn. Bát nhã tức là trí huệ, một trong sáu pháp Ba la mật của chư Bồ Tát thường hành, có diệu năng đưa người từ bờ mê sang qua bến giác. Bát nhã là một từ đặc dụng trong Phật pháp, bao gồm nhiều ý nghĩa từ thấp đến cao:
Văn tự Bát Nhã: Sự sáng suốt thông hiểu lý nghĩa mầu nhiệm trong kinh điển đạo Phật, do học rộng, nghe nhiều sưu tập mà đạt.
Quán chiếu Bát Nhã: Cái trí thấu suốt phân biệt các pháp do tịnh lự tư duy mà mở thông.
Thật tướng Bát Nhã: Cái linh trí sáng suốt sẵn có của mọi người (trí vô sư).
LƯƠNG ĐỐNG: Lương: cái rường nhà. Đống: cái đòn tay nhà. Rường và đòn tay là hai bộ phận quan trọng (không thể thiếu được) trong căn nhà. Nghĩa bóng: Kẻ bầy tôi quan trọng của đất nước. Đức Thầy bày tỏ:
“Liên hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương đống chào người chơn tu”.

VUI TƯƠI: Vui vẻ tươi tỉnh và phấn chấn. Thí dụ: Không khí vui tươi của ngày hội.
LỐ BÓNG: Nổi lên, nhô ra. Bóng: hình dạng. Lố bóng: lộ hình dạng cho thấy rõ.
SAY SƯA: Say đắm triền miên. Đức Thầy bảo: “Say sưa chuyện cổ nhắc chừng đời”.
PHƯỚC THỪA: Phước: Tốt đẹp may mắn. Thừa: dư. Phước thừa: Trời Phật ban bố phước đức thừa sức.
TAY VIN NHÀNH QUẾ: Chỉ đỗ đạt, thành công. Trong sách “Tam Tự Kinh” có chép: Ngày xưa, ở đất Yên Sơn có nhà họ Đậu, là người phẩm hạnh hiền đức, thông minh học rộng biết nhiều. Gia đình khá giả, hạ sanh được năm người con. Ông Đậu giáo huấn các con đều nên người, ai cũng chuyên cần học tập, nên về sau đều thi đỗ được bổ làm quan nơi triều chính. Thật là một gia đình gương mẫu, đời sau sách sử ghi biên, văn gia ca ngợi. (Đậu Yên Sơn ngũ chi đan quế).
HIẾU ĐỄ: Có lòng kính trọng cha mẹ và hòa thuận với anh em trong gia đình.

MÂY RỒNG: Nghĩa chữ Long Vân. Rồng gặp mây thì tha hồ vùng vẫy. Nghĩa bóng: Tôi chúa gặp nhau tớ thầy sum hợp, thi cử đổ đạt. Đức Thầy có câu: “Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa”.
BẮC TỔ NAM TÔNG: Bắc Nam cùng chung giống con Hồng cháu Lạc.
LẠC HỒNG: Còn gọi là Hồng Lạc, tức chỉ họ Hồng Bàng bắt đầu từ Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên nước Việt Nam. Gọi chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là “Hồng Lạc”, tức tổ tiên người Việt Nam. Cổ thi có câu: “Nhớ câu ngọc bổn thủy nguyên, Cháu con Hồng Lạc lưu truyền ngàn xưa”, và Đức Thầy cũng bảo: “Quyết chí nâng niu giống Lạc Hồng”.
THƯỢNG CỔ: Còn gọi là Thương nguơn (thời xa xưa). Thời con người còn ăn lông ở lổ. Đức Thầy có câu:
“Huờn lai Thượng Cổ mới bình yên”.
LƯỢC GIẢI :
Càng nhìn dân, lòng từ của chư Phật càng ruột thắt tơ vò. Thảm cảnh cha xa con, Thầy lạc tớ diễn ra trên thật tế thật phũ phàng đứt ruột. Kẻ đi người ở bùi ngùi, giọt lệ ướt đẫm bời mi, dầu ta lòng gan sắt đá cũng không nén được tức tửi. Thật là cảnh đoạn trường chưa từng có trên lịch sử Việt Nam.
Dù thế, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng ước mong sao trên đường phiêu bạc được thuận gió xuôi buồm, thuyền chèo mát mái. Con thuyền Bát nhã của Ngài được tự do đưa rước những tôi lương đống, chào đón những kẻ chân tu để qui hồi cựu vị.
Đức Tôn Sư PGHH cho biết thêm ngày lập Hội nơi miền Bảy Núi cũng không còn xa lắm, sắp lố dạng nay mai. Cớ sao đời cứ mãi say sưa trụy lạc, không chịu quay về nền xưa nếp cũ tìm gặp Đức Thầy để tiến xa trên đường tu tỉnh, hầu hưởng được ân thừa của Trời Phật ban bố và ngày thi cử được chiếm bảng vàng.
Một lần nữa, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyến khích nhơn sanh lo lập thân hành đạo cho tròn vẹn kiếp con người, làm rỡ ràng đứa con hiếu thảo và tỏ rạng danh Thầy trong ngày đại hội Long Vân sắp đến.
Tinh thần đạo Phật vốn chủ trương đoàn kết, tương trợ lẫn nhau như con một cha, không phân biệt đông, tây, nam, bắc, bến bờ. Vì sao ? Vì toàn thể dân tộc Việt Nam vốn phát sinh từ gốc Lạc Long Quân họ Hồng Bàng, thượng cổ thời đại.
CHÁNH VĂN
81. Tai nghe chi những câu ái-ố,
Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.
Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,
84. Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.
Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,
Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.
Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,
88. Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.
 Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.
Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,
92. Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển.
CHÚ THÍCH :

ÁI Ố: Ái: thương. Ố: ghét. Thương ghét.
LÒNG TỪ BI: Từ: hiền lành; Bi: thương xót. Từ Bi là hai trong bốn đại đức của chư Phật (Từ, Bi, Hỉ, Xả). Ý nói: Người Phật tử lúc nào cũng điêu luyện, tâm thương xót tất cả muôn loài, không dính mắc lời gièm siễm của người đời, vì đó là tánh xấu xa ích kỷ.
GỎI NEM: Gỏi là thức ăn được trộn nhiều thứ như: Cá thịt, đậu hủ, các thứ rau, giấm, chanh. Nem: Thức ăn làm bằng thịt, vỏ bưởi…trộn lẫn với các thứ gia vị khác, gói bằng lá chuối, lá dừa để vài ba bữa lên men chua mới sử dụng. Người xưa thường nói: “Nem công chả phượng”. Gỏi nem là hai thức ăn ngon, thích khẩu mọi người. Nghĩa bóng: Đạo đức vốn hợp với lý lẽ chân thật, được mọi người tôn kính chấp nhận. Đức Thầy đã so sánh: “Mùi đạo diệu gỏi nem khó sánh”.
LẤM LEM: Dính dơ nhiều.
TRẦN TỤC: Trần: bụi bặm. Tục: nơi mọi người đang ở. Cõi đời đầy bụi bặm mà chúng sanh đang sống. Đức Thầy có câu: “Lánh nơi trần tục học hành đàng Tiên”.
GANH HỜN: Ganh: ghen. Hờn: giận dỗi. Cụ Nguyễn Du có câu: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
NGHI NGÚT: Bốc cao lên cuồn cuộn, lan tỏa khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Hương đăng nghi ngút lễ vọng cầu”.
BẦN TĂNG: Bần: nghèo. Tăng: thầy tu. Tiếng các thầy tu tự xưng một cách khiêm nhường. Đức Thầy có câu: “Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt dùm”.
SỒNG NÂU: Sồng (sùng): Giống cây có lá dùng để nhuộm màu đen. Nâu: loại cây leo, có trái màu dà sẩm để làm thuốc nhuộm. Nghĩa bóng: Người quy y đầu Phật. Trần Tế Xương có câu: “Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng”. Và Truyện Kiều có câu: “Nâu sồng từ bén màu thiền”. Ông Thanh Sĩ cũng cho biết:
“Những bộ áo sồng nâu đâu vắng,
Se sua đồ xinh xắn lụa the”.
THIÊN LÝ: Thiên: ngàn. Lý: dặm. Nghìn dặm. Nghĩa bóng: Rất xa xăm, rất dài.
CHẠM BẢNG: Chạm: đụng nhẹ vào vật gì. Bảng: vật có mặt phẳng thường bằng gỗ, dùng để viết hoặc dán nội dung thông báo vào đó cho người xem. Chạm bảng: ghi khắc tên tuổi những nhân vật có công trạng với nước với dân hay Đạo pháp. Ở đây Đức Thầy cho biết: Ngày hội thi sắp đến, thanh danh Ngài được khắc ghi trên bảng vàng.
LINH HỒN: Xem lại CT tại tr. 384, Q. Thượng, Tập 3/3.
LEN LÕI: Chen mình vào giữa đám đông, hoặc chỗ khó đi một cách vất vả. Đức Thầy có câu: “Ta thương đời len lõi xuống trần”. Ở đây, Đức Thầy muốn nói: Ngài giả người khờ khạo để len lõi tận thôn quê hẻo lánh dạy đời.
HƯƠNG THÔN: Xóm làng. Đức Thầy có câu: “Hương thôn bổn đạo lo âu mối giềng”.
LƯỢC GIẢI :
Tai người biết Đạo phải luyện tập không cho phật ý khi nghe tiếng huyễn lời gièm hay tiếng nịnh hót. Vì người tu đầy lòng bác ái vị tha, từ, bi, hỉ, xả. Được thế, mới đúng đường chơn lý Phật gia.
Gỏi nem là thực phẩm ngon nhất trong buổi tiệc, là món cao lương từ thành thị đến thôn quê. Cái lý đạo, nếu chúng ta nắm bắt được và hành trì theo, còn ngon hơn gỏi nem nữa. Mặc dù chúng ta đang sống trong cõi tục trần, đầy bùn trịn, nhưng người hiểu Đạo sẽ được vươn lên khỏi chất ô trược bợn nhơ.
Cái tâm ganh hờn ghét ngỏ, nếu chúng ta còn chất chứa trong lòng, sẽ cao vút tận chín tầng mây, đời đời kiếp kiếp chuyển luân trong cõi thế để trả cái nghiệp oan oan tương báo. Là Phật tử, ta phải luôn luôn tiêu diệt chúng, bằng cách: “Giữ dạ trong đừng đục mới mầu”. Nghĩa là phải bỏ tất cả lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siễm, dua nịnh, ích kỷ, tư tâm, sự gây gổ mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng.
Bản thân Đức Giáo Chủ hiện giờ tuy bên ngoài khoác bộ sồng nâu của người chơn Phật tử nhưng Ngài vẫn là một cao đệ của Đức Phật Tổ Thích Ca xưa kia, nên cuộc sinh hóa vận hành trong trời đất của vũ trụ càn khôn Ngài đều biết rõ, và biết một cách chính xác.
Tuy hiện giờ, Đức Huỳnh Giáo Chủ giả dại giả ngu vào lòn ra cúi, ở trong hang cùng ngõ hẻm. Nhưng sau nầy Ngài sẽ là một vị an bang xuất chúng, phò trợ Đức Thánh Vương ở thời Thượng nguơn tới đây. Chừng đó thanh danh Thầy sẽ rạng rỡ khắp năm châu rồi Ngài sẽ hoàn thành sứ mạng: “Chọn những đấng tu hành cao công quả ban cho xứng vị, xứng ngôi. Người đủ các thiện căn để giáo truyền đại đạo, định ngôi phân thứ, gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”. Và Ngài sẽ hoàn toàn đắc đạo, tiếng đồn vang xa bốn biển.
CHÁNH VĂN
93. Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,
Kệ cùng ca lựa tuyển con lành.
Tuy là Ta không thể sanh-thành,
96. Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.
Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền.
Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,
100. Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.
CHÚ THÍCH :

GIẢNG VỚI SẤM: Giảng: giải thích cho hiểu rõ; bài vận văn khuyến tu. Sấm: những lời dự đoán tương lai do những câu truyền khẩu hay sách xưa để lại.
SỬA KIỂNG: Sửa cây cảnh cho có giá trị và trồng các loại hoa quý hiếm. Nghĩa bóng: Lo trau dồi đạo hạnh hằng ngày được trở nên tốt đẹp. Đức Thầy có câu:
“Biết lo sửa kiểng trồng huê,
Thơm tho gia trụ danh đề tổ tông”.

KỆ CÙNG CA: Kệ: là một thể văn trong Kinh Phật. Thường cứ một thiên Kinh thì có một bài Kệ, để tán thán hoặc tóm ý đoạn Kinh đó. Như trong quyển Khuyến Thiện, Đức Tôn Sư PGHH sáng tác hai bài Kệ: “Tiếng kệ từ bi…” và tiếng kệ “Đêm thanh”. Và trong kinh Pháp Bửu Đàn, Đức Lục Tổ có viết bài kệ phá tướng: “Bồ đề bổn vô thọ…” hay sư Thần Tú viết bài Kệ chấp tướng như sau: “Thân thị bồ đề thọ…” Ca: những bài vận văn ca tụng công đức hay giáo pháp của chư Phật, như bài “Chứng Đạo Ca” trong kinh Phật.
LỰA TUYỂN: Lọc lừa, kén chọn. Đức Thầy có câu: “Hội triều đình các quan lựa tuyển”.
SANH THÀNH: Sanh: đẻ ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ cho nên người. Thành: thành công. Nghĩa bóng: chỉ công ơn cha mẹ. Đức Thầy có câu: “Ham công danh quên chữ sanh thành”.
DẠY DỖ: Chỉ dạy, dỗ dành. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Ngài không bỏ rơi một chúng sanh nào dù: ngu hoặc trí, lười biếng hoặc siêng năng. Nếu ai có căn duyên quày đầu hướng thiện đều được độ tận, được đùm bọc đến nơi đến chốn.
SUY KIM NGHIỆM CỔ: Xét chuyện nay nghĩ đến chuyện xưa.
CƠ ĐỒ: Cơ: nền móng. Đồ: mưu tính. Sự nghiệp vững chắc. Đức Thầy có câu: “Chừng nào thấy được cơ đồ”. Ý Đức Thầy muốn nói: Muốn an bang tế thế phải thông hiểu binh thơ đồ trận, đầy thao lược mới dựng nên thời thế, cơ nghiệp của Thánh Hiền. Như ông Khương Tử Nha giúp nhà Châu dựng nên cơ nghiệp, trị vì suốt 800 năm, hoặc Trương Tử Phòng (Trương Lương) phò trợ Lưu Bang thống nhất lãnh thổ Trung Hoa dựng nên cơ nghiệp nhà Hán (202 TCN), xây dựng đất nước thanh bình, toàn dân an cư lạc nghiệp suốt thời gian dài.
THÁNH HIỀN: Xem lại CT tr. 382 trên.
OAN KHIÊN: Oan: oan ức. Khiên: tội lỗi. Bị kết tội một cách oan ức. Ở đây ý Đức Thầy cương quyết một lòng rứt sạch oan trái, dầu cho giặc Pháp kết án oan ức hay lưu đày, Ngài vẫn bình tâm cứu an bá tánh, đồng lo tu hành giải thoát khỏi cảnh ta bà thống khổ nầy.
BÁ TÁNH: Trăm họ. Chỉ cho tất cả mọi người.
LAO KHỔ: Cực nhọc, lao đao khổ sở. Ý nói: Còn mắc trong vòng ràng buộc của hóa công và giặc Pháp.
LƯỢC GIẢI :
Kệ giảng và sấm cơ được Đức Huỳnh Giáo Chủ ra công viết và sửa chữa rất dày dặn. Nó có công năng đưa hành giả từ phàm phu thành Phật Thánh. Dầu Ngài không sanh dưỡng chúng dân nhưng lòng thương hết mọi người nên quyết ra công dạy dỗ, dìu dắt họ. Làm người, ta cần phải biết nghiệm suy những gương kim cổ, phải học tập để lảu thông thao lược, dựng lại cơ nghiệp đạo đức của Thánh Hiền để vùa dân giúp nước.
Đức Huỳnh Giáo Chủ dù là tăng sĩ độ đời, nhưng lúc nào cũng nguyện đem hết lòng phụng sự tổ quốc. Ngài nguyện đưa con Hồng cháu Lạc ra khỏi gông cùm của giặc ngoại bang, cứu độ dân sinh khỏi vòng binh lửa và quyết giải nợ tiền khiên túc trái trong nhiều đời nhiều kiếp mà Ngài đã vương mang.
CHÁNH VĂN
101. Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,
Có một ngày rớt lốt hổ-hang.
Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
104. Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp.
Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,
Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.
Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,
108. Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.
CHÚ THÍCH

GÀ LÔI: Loại gà có thân hình cao, trông giống như con công, người ta thường nuôi để lấy thịt.
TỐ HỘ: Nghĩa bóng: Con gà lôi mượn oai của con công để làm uy với đồng loại; ý nói mượn uy danh, hay tay của người khác để ra oai với mọi người.
HỔ HANG: Xấu hổ. Ca dao có câu:
“Làm người sao chẳng hổ hang,
Thua em kém chị xóm làng cười chê”.
Ý nói: Mình mượn uy người hay tay chân của người khác, một khi đổ bể hay lộ mặt nạ, rớt lốt khoác bề ngoài, rất là xấu hổ.
NHU HIỀN HÒA NHƯỢC ẮT THẮNG CANG: Nhu: mềm mỏng; Hiền: đức hạnh, trung hậu; Hoà: thuận thảo, biết tiến thoái trong việc xử thế tiếp vật; Nhược: mềm yếu. Lấy nhu để thắng cang, lấy mềm mỏng, hiền hòa, nhu nhược để thắng lòng cứng cỏi của đối phương. Trường hợp Lưu Bang thắng Hạng Võ xưa là chứng tích điển hình. Hay Tư Mã Ý thắng kế Khổng Minh trước kia, cũng là tấm gương ít có. Hôm nay, ĐHGC học theo gương hạnh của tiền nhân để thắng giặc Pháp.
ĐỜI CÙNG ĐẠO BI HOAN, LY HIỆP: Ý nói việc đời, việc Đạo đều diễn biến theo định luật: buồn vui, tan hiệp. Hay nói một cách khác: bỉ, thái, cùng, thông. Nghĩa bóng: Đời hay Đạo đều nằm trong lý vô thường: hết buồn đến vui, hết tan đến hiệp. Ý khuyên con người sớm tỉnh mộng trần gian và kiên tâm chịu đựng những hoàn cảnh khổ khó, rèn đúc ý chí cang cường bất khuất để đạt những thành quả tốt đẹp.
TẤM LÒNG THÀNH: Lòng: nghĩa của chữ tâm. Thành: thật thà, chất phác. Đức Thầy có câu:
“Đầu ngưỡng vọng đất trời minh chứng,
Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời”.
Ở đây ý nói: Lòng thành đã toát ra, dù nhọc nhằn, lao khổ cách nào không bao giờ sờn lòng thối chí. Tục ngữ có câu:
“Mũi tên dồn hết tâm thành,
Bắn vào đá cứng, tan tành như chơi”.

GIAN TRUÂN: Gian nan, khó khăn khổ sở. Đức Thầy có câu: “Gẫm trong thế sự còn đầy gian truân”.
CHỚ KHIẾP: Không khiếp sợ. ĐỨC TỪ BI: Chỉ Đức Phật
TIẾP DẪN: Nhận dẫn dắt, rước đưa. Khi nói : Đấng Tiếp Dẫn thì từ nầy còn chỉ vị “Tiếp Dẫn Đạo Nhơn” tức Đức Phật A Di Đà, vị Phật có sứ mạng tiếp dẫn các vong hồn có thiện duyên về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.
NÉN HƯƠNG NGUYỀN: Nén hương cầu nguyện oai linh chư Phật cứu giúp chúng sinh.
PHẬT TÔN: Tiếng tôn xưng đối với Đức Phật Tổ Thích Ca. Đức Thầy có câu: “Lão đây vâng lịnh Phật Tôn”.
PHƯỚC HUỆ: Phước: những điều may mắn tốt đẹp đưa đến, do nhân lành đã gieo từ trước. Huệ: sự thông minh thấu suốt mọi lẽ, do công tu dẹp sạch vô minh phiền não mà đạt được. Phước Huệ cũng chỉ hai phương pháp tu trì: phước đức và trí huệ; ai hành đủ hai môn đó mới có đủ điều kiện để trở thành bậc Chánh Giác.
CỨU NÀN: Cứu hết tai nạn.
DƯƠNG THẾ: Cõi chúng ta đang ở.
LƯỢC GIẢI :
Làm người ở đời phải sống thật với chính lòng mình, không nên vay mượn oai của kẻ khác để hù dọa đồng loại; nhứt là mượn oai của ngoại bang, vì chúng không bao giờ để yên cho ta hưởng thụ. Chúng ta đời đời nhớ câu Tục ngữ “Hết xôi, rồi việc” để răn lòng. Đã mang thân gà lôi, có hình sắc như giống công, chớ nào phải thật công đâu mà mượn oai công hù dọa đồng loại. Nếu ta cứ mượn oai của người khác, không sớm thì muộn sẽ lòi mặt nạ giả. Chừng ấy thật là xấu hổ.
Trên phương diện đời hoặc Đạo, chúng ta phải lấy bài học “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Gương của Lưu Bang thắng Hạng Võ, Tư Mã Ý thắng kế Khổng Minh để làm bài học gối đầu giường.
Về sách sử cũng như thật tế, cuộc diện: bi hoan, ly hiệp thường diễn ra trong xã hội loài người. Hết vui tới buồn, hết thạnh tới suy, hết hiệp rồi tan; đó là tính vô thường của hóa công vậy.
Lòng thành là điều kiện tất yếu để hoàn thành công việc đời hoặc Đạo, có nó chúng ta mới không khiếp sợ trước gian truân thử thách của trường đời. Các chư Phật hằng nguyện tiếp dẫn chúng sanh về cảnh giới Cực Lạc, nếu ta có đủ tấm lòng thành. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng là một vị cứu tinh trong nhơn loại; Ngài luôn luôn có bản nguyện với mười phương chư Phật độ rỗi và ban phước huệ cho cả chúng sanh trong thế giới Ta Bà để được giải thoát tai nạn và lo tinh tấn tu hành đến ngày công viên quả mãn.
CHÁNH VĂN
109. Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế,
Nay được nên vai-vế trưởng-thành.
Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh,
112. Thân hành Đạo vang danh khắp chốn.
Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn,
Câu quân-thần phụ-tử rã-rời.
Khuyên tu hành hao sức tổn hơi,
116. Chẳng hề mở miệng ra than trách.

CHÚ THÍCH :
BỒNG BẾ: Bồng con và bế cháu. Tục ngữ có câu “Tay bồng, tay bế”. Nghĩa bóng: Chịu đựng vất vả.
VAI VẾ: Hai vai và hai vế. Đủ bộ phận của người thành nhân. Nghĩa rộng: Đủ tay chơn bộ hạ.
TRƯỞNG THÀNH: Lớn khôn. Từ 18 tuổi trở lên là trưởng thành. Dưới 18 tuổi trở xuống là vị thành niên.
TRƯỢC THANH: Trược (trọc): đục bẩn. Thanh: trong sạch. Nghĩa bóng: Sự đê hèn thấp kém và sự thanh cao trong sạch.
HỖN ĐỘN: Hỗn: lẫn lộn. Độn: rối loạn. Cuộc đời lộn xộn chưa phân định tà chánh, chúa tôi, ai cũng giành nắm quyền hành trong tay. Ví như đời “Thập Bát Phản Vương” bên Trung Hoa hay thời loạn “Mười Hai Sứ Quân” trong lịch sử nước ta. Ở đây Đức Thầy ví thời Pháp thuộc cũng giống như hai thời loạn vừa kể trên.
QUÂN THẦN: Quân: vua. Thần: tôi. Vua tôi. Đây chỉ bầy tôi không còn kính mến vua nữa.
PHỤ TỬ: Phụ: cha; Tử: con. Tình nghĩa cha con. Ý chỉ bỏ hết lễ nghĩa luân thường đạo lý.
RÃ RỜI: Chia ra từng mảnh vụn. Cảm thấy nát rời vì mệt mỏi. Câu “Quân thần phụ tử rã rời” ý nói: Giữa tình vua tôi, thầy tớ, cha con, chồng vợ không còn thắt chặt như xưa nữa. Mạnh ai nấy lo chiếm đoạt giềng mối để làm của riêng.
TU HÀNH: Tu: sửa. Hành: làm. Đức Thầy có câu:
“Bởi chữ tu liền với chữ hành,
Hành bất chánh người đời mới nói”.

HAO SỨC TỔN HƠI: Hao sức: tổn sức lực. Tổn hơi: giảm lần hơi thở. Ý nói: Tốn kém sức lực và mòn lần kiếp sống.
THAN TRÁCH: Than van trách phận.
LƯỢC GIẢI :
Nhớ lại thuở ấu thơ nhờ ơn cha mẹ sanh đẻ ẳm bồng, ân cần dạy dỗ cho mình được nên người, công lao thật là rộng lớn. Ca dao có câu:
“Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Hôm nay mình được trưởng thành, làm nên danh phận trong xã hội là do sự khó nhọc của tổ tiên cha mẹ mà ra.
Suốt cuộc đời nếu đem ra suy gẫm tường tận nó chỉ nằm trong hai lẽ “trược và thanh”. Trược thì miệng thế chê bai biếm nhẻ. Thanh sẽ được người đời ca tụng nhắc nhở đến luôn. Và nhứt là “chơn Phật tử” sẽ được thế gian lưu truyền mãi mãi, thanh danh sẽ lan rộng khắp bốn biển năm châu, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ xác định:
“Ta bây giờ tu niệm tầm thường.
Sau danh thể sạ hương khắp chốn”.
Nhưng ngặt nỗi sanh bất phùng thời, chưa gặp vị chơn chúa, nên cuộc đời đảo lộn, không ra thể thống gì cả: Giữa tình cha con, chồng vợ, giữa nghĩa kim bằng, ân thầy trò và vua chúa, không còn trật tự như xưa nữa; tất cả đều rã rời tan nát. Thật là một thời đại suy thoái chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.
Đức Tôn Sư PGHH ra đời dạy Đạo dùng đủ lời lẽ giải bày, hao sức tổn hơi và chịu nhiều gian khổ, nhưng Ngài không bao giờ mở miệng ra than trách. Vì sao ? Vì mang lấy sứ mạng, vì vĩ nghiệp của đấng cha lành trong tam cõi, vì muốn phục hưng nền đạo pháp bị bóp méo sự thật, vì muốn phò trợ Đức Thánh Vương trong tương lai, và vì muốn chọn người có đủ thiện căn để giáo truyền Đại Đạo trong thời Thượng nguơn sắp đến, nên Ngài tự nguyện “Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”,
CHÁNH VĂN
117. Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách,
Các con lành khá chọn ngay đường.
Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương,
120. Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ.
Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ,
Chữ anh-tài của đấng trung-lương.
Phận tu hành đạm bạc rau tương,
124. Miễn cầu được an-khương bốn bể.
CHÚ THÍCH :

TÁNH TÌNH KIÊU CÁCH: Tánh tình tự cao tự đại, kiêu căng tự đắc. Nghĩa bóng: Tự cho mình là hay là giỏi hơn người. Đức Thầy có câu: “Giết sanh vật đầy lòng kiêu cách”.
NGAY ĐƯỜNG: Còn gọi đàng ngay, nẻo thẳng. Con đường ngay thẳng, chơn chánh đúng theo đạo lý. Nghĩa rộng: Đúng chơn lý, đúng lẽ phải, đúng đối tượng và hợp thời đại.
GIÓ SƯƠNG: Gió: Luồng không khí chuyển động từ vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp, thường gây cảm giác mát hoặc lạnh. Sương: hơi nước gồm những hạt màu trắng, rất nhỏ làm đọng lại trên cây cỏ vào ban đêm hoặc buổi sớm mùa lạnh. Nghĩa rộng: Chỉ sự chịu đừng vất vả gian lao trong cuộc đời xông pha gió bụi.
TANG BỒNG HỒ THỈ: Tang: cây dâu; Bồng: cỏ bồng; Hồ thỉ: cung tên. Bên Trung Hoa có tục lệ, khi sanh người con trai thì dùng gỗ bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng bắn ra bốn hướng để cầu chúc đứa bé ngày sau lớn lên vùng vẫy dọc ngang, lập công danh hiển hách. Ông Nguyễn Công Trứ có câu:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay”.
TRƯỢNG PHU: Người đàn ông giỏi giắn, đầy đức hạnh. Chỉ người có chí lớn. Đức Thầy có câu:
“Trượng phu chí cả dọc ngang,
Dạo trong bốn biển mới trang Thánh Hiền”.

NGHĨA SĨ: Nghĩa: lẽ phải hợp đạo lý. Sĩ: người có học thức. Người có học thức giỏi, ứng xử hợp với đạo lý và có chí khí hơn người.
TRUNG LƯƠNG: Trung: ngay thẳng chơn chánh. Lương: lành. Tôi trung lương chánh trực. Đức Thầy có câu: “Trung lương chánh trực dựa kề đài mây”.
AN KHƯƠNG: An: yên ổn; Khương: vui vẻ, tráng kiện. An khương: được yên vui, tận hưởng điều lành.
BỐN BỂ: Còn gọi bốn biển, gồm có: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương.. Chỉ chung những đất nước trên thế giới loài người chúng ta đang ở trên quả địa cầu.
LƯỢC GIẢI :
Người tu cần bỏ dứt tấm lòng tự cao tự đại. Nó là tâm ngã mạn; nó có từ ngày tạo thiên lập địa và là bản tánh hằng hữu của chúng sanh. Con người cũng vì nó luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Là phật tử, chúng ta nên chọn con đường chơn chánh, đúng chơn lý đạo Phật, đúng chánh pháp vô vi, đúng chân truyền của chư Tổ, chư Sư mới thỏa nguyện vọng người tầm sư học đạo. Trong thời này, tà chánh còn lẫn lộn khó phân.
Tuy xác thân Thầy hiện giờ chịu lắm phong ba bão táp, sự kềm kẹp của người Pháp, nhưng đó chẳng qua tại lẽ trời. Vả lại nhờ nó mà Thầy được luân lưu khắp chốn, thỏa chí tang bồng của đấng trượng phu quân tử:
“Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”.

Hơn nữa, người anh hùng phải đặt mình vào chốn hiểm nguy không cho mềm lòng nản chí, kẻ trượng phu phải vùng vẫy hiên ngang, mới là trang tuấn kiệt. Người Pháp đặt Ngài vào hoàn cảnh khó xử, nhưng tấm thân Ngài đã hiến cho trần thế, nên xem đó là cơn thử thách, phải vượt qua tất cả những chướng ngại gai chông để tỏ rõ chí khí anh tài của trang lương đống nước nhà:
“Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.

Trên đường lập thân hành đạo, Đức Tôn Sư PGHH sanh sống rất là đạm bạc, ngày hai bữa cơm tương là đủ. Ngài không đòi hỏi gì khác nữa, chỉ có tâm hồn hướng thượng và cầu mong cho bá tánh được an khương bốn bể, nhà nhà được lạc nghiệp, phát bồ tâm tu tiến đến ngày chung cuộc.
CHÁNH VĂN
125. Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ,
Gọi hồn người hành thiện truy kinh.
Ra khuyên dân hẹn có sơn-minh,
128. Dìu bá-tánh hứa câu thệ-hải.
Miễn tâm được hư-vô tồn-tại,
Sống ở trần hối-cải tiền phi.
Sống làm sao vẹn chữ tu-mi,
132. Sống vùng-vẫy râu-mày nam-tử.
CHÚ THÍCH :
CHUÔNG LÀNH:
Chuông: Vật được đúc bằng hợp kim đồng, lòng rỗng, miệng loe tròn, phát ra tiếng trong và ngân dài khi kéo, rung. Lành: Hiền lành. Rung chuông lành: Rung chuông thức tỉnh việc làm lành để mọi người trở lại con đường quang minh chánh đại vì tiếng chuông có công năng tỉnh giác người còn mê ngủ. Nghĩa bóng: Kinh giảng so sánh như tiếng chuông, vì Kinh giảng có diệu năng thực tế, bằng ngôn ngữ im lặng, bằng tiếng nói tự đáy lòng, bằng vô vi pháp, hữu tướng, vô tướng:“Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ”. Đức Tôn Sư PGHH mượn tiếng chuông ngân để bộc lộ giáo pháp hữu vi, vô vi thật tướng của Thiền na. Ngài rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ giảng để đưa tâm hồn chúng sanh lạc lỏng chơ vơ trở về Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni tự nghìn xưa, hôm nay đành quên lãng: “Đờn tây rồi lại đờn đông, Trách trong bá tánh gặp sông quên nguồn”. Tiếng kệ ấy nói lên chánh pháp vô vi, thật tướng của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni trao cho ông Ma Ha Ca Diếp tại Hội Linh Sơn: “Đạo vô vi của Phật ân cần, Noi theo chí Thích Ca ngày trước”. Ngài còn ví Kệ giảng như tiếng đàn, nhưng đàn không dây không phím: “Lắng tai nghe rõ tiếng đờn, Không dây không phím oán hờn cũng không”. Qua đó, chúng ta thấy Ngài rung chuông bằng Kệ Giảng, bằng giáo lý biệt truyền, bằng bản đàn tại chùa Lôi Âm trên non Linh Thứu.
“Chuông Linh Thứu ba hồi giục thúc,
Đờn Lôi Âm khải điệu êm tai”.
Ta hãy lắng nghe tiếng chuông để cho tâm hồn ta lâng lâng thoát tục. Ta nghe Kinh giảng để lòng ta hành thiện truy kinh, hầu tìm hiểu nghĩa, làm theo đắc đạo.
Thật vậy, Kinh giảng có công năng hơn tiếng chuông chùa. Chuông chùa chỉ làm cho ta vơi bao niềm trần tục, vơi chớ không đoạn lìa hết được. Vả lại, Kinh giảng đưa ta nhận chân cuộc đời là khổ hải, danh-lợi-tình là xiềng xích trói buộc con người vào hố sâu tội lỗi. Ngày trước, ta không biết nên ta đam mê, hôm nay, ta đã giác ngộ nên tự đoạn lìa. Thế nên Đức Tôn Sư PGHH rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ, chớ không rung bằng tiếng chuông chùa, thật là linh diệu biết bao.
HÀNH THIỆN TRUY KINH: Làm việc thiện và truy tầm kinh điển. Dụng ý Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa hành giả từ chỗ mới phát tâm tu thân hành thiện đến chỗ truy tìm nghĩa lý để tiến xa trên đường Phật pháp. Hành thiện không chưa đủ, vì nó mới là bước sơ cơ, ta còn phải truy kinh để mở mang trí tuệ. Đây là pháp Học Phật Tu Nhân căn bản mà mỗi tín đồ PGHH không thể thiếu được.
Kinh kệ vốn là chìa khóa nhập môn để mở rộng kho tàng pháp hải, là kim chỉ nam đưa người tu không lầm đường lạc hướng, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ dùng đưa tín đồ nắm vững những then chốt và yếu lý của Đạo.
SƠN MINH: Sơn: núi. Minh: thề nguyền. Do thành ngữ “sơn minh hải thệ” (non thề biển hẹn). Lấy non thề nguyền để chứng thật thân tâm của lòng mình.
THỆ HẢI: Lấy biển làm chứng lời thề nguyền. Dụng tâm hành giả ngưỡng mong đất trời chứng giám: lấy núi non làm điểm tựa, lấy sông biển làm căn cứ cho lòng thành của con người đứng trong vũ trụ.
HƯ VÔ: Hư: trống rỗng. Vô: không. Giữa khoảng trống không trên bầu trời. Nhưng trong khoảng không đó có thiên hình vạn trạng biến hóa khôn lường. Tâm được hư vô là tâm không dính mắc, không ô nhiễm, không điên đảo vì ngoại cảnh chi phối. Đức Thầy ước mong tâm hư vô đó vẫn tồn tại mãi với thời gian, với không gian vô cùng, vô tận, vô thỉ, vô chung. Và bản tâm đó sẽ được trời đất, núi non, sông biển chứng minh cho lòng phát thệ của Ngài.
HỐI CẢI: Hối: ăn năn. Cải: Sửa đổi. Ăn năn lỗi lầm và tự nguyện sửa đổi.
TIỀN PHI: Tiền: trước. Phi: sai trái. Điều sai quấy trước kia đã gây nên.
SỐNG Ở TRẦN HỐI CẢI TIỀN PHI: Con người sống trong trần phải biết tự giác, cải sửa những lỗi lầm mình đã gieo tạo từ nhiều kiếp trước. Có thế mới là đáng sống, đáng mặt anh hùng sanh trong vũ trụ. Vì bản thân chúng ta vốn do vô minh sanh ra, rồi hành động cho đến lão tử nên người biết Đạo, như Đức Thầy, phải hối cải những lỗi lầm trước. Ngài khuyên chúng ta hãy ghi nhớ trong lòng để cải sửa, những hành vi đen tối đã gây tạo.
TU MI: Tu: râu; Mi: lông mày. Nghĩa rộng: Bậc tu mi nam tử (người đàn ông, con trai) Đức Thầy có câu:
“Hiền thần sách sử nêu ghi,
Miễu son tạc để tu mi trung thần”.
VÙNG VẪY:
Tung hoành khắp nơi.
LƯỢC GIẢI :
Đức Tôn Sư PGHH rung chuông lành bằng muôn lời Kệ giảng, bằng chứng Ngài đã sáng tác kho tàng Thi Văn Giáo Lý toàn bộ. Đó là chìa khóa để mở bản tâm thật tướng, vô tướng trong xác thể con người.
Ngài kêu gọi những linh hồn có thiện duyên phải nhứt tâm hành thiện và truy tầm Kệ giảng để tìm hiểu nghĩa đặng hành theo mới là đắc Đạo:
“Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn giữ tánh thuần lương”.

Ngài dạy Đạo, khuyên dân, thề có biển non chứng giám. Ngài cũng dắt dìu mọi người xin nguyện cùng biển cả chứng tri, trời đất có thấu chăng tấm lòng thành của Ngài !..
Bản tâm của con người vốn vô hình vô ảnh, nhưng nó ẩn chứa tiềm tàng muôn hình vạn trạng. Có khi hữu, có khi vô, có lúc quyền, có lúc thiệt, có khi đốn, có khi tiệm. Nó vốn linh diệu vô cùng tận. Nên ví nó giống khoảng trống của không gian, u minh, huyền ảo, trường cửu với thời gian, không phải là xác thể của con người. Vì nó vốn hư vô nên ngoài xác thân ta lại không có nó. Thật là mầu nhiệm biết bao !
Làm thân con người phải biết cách sống: Sống sao tâm hồn thong thả an vui. Sống phải biết ăn năn những lỗi lầm của mình đã gây tạo trong nhiều kiếp đã qua. Sống phải biết vùng vẫy vươn lên cho rõ chí khí đấng râu mày nam tử. Sống làm cho vẹn chữ tu mi, mới xứng đáng con người sinh trong vũ trụ.
CHÁNH VĂN
133. Tự như nhiên oai-phong thiên-tứ,
Bút thần-linh mượn mực tay đề.
E dương-trần công việc trễ-bê,
136. Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy.
Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy,
Lo cho đời qưên vóc ốm gầy.
Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây,
140. Xanh men-mét cũng thây thịt xác.
Đi tới đâu giúp người khao-khát,
Ngặt giếng sâu khó múc mau đầy.
Trong suốt ngày làm việc lây-quây,
144. Dùng giấy, mực trưng bày đạo-đức.

CHÚ THÍCH :
TỰ NHƯ NHIÊN: Tự: chính mình; Như: giống như, như là; Nhiên: vậy. Không rõ duyên do vì sao mình muốn như vậy.
OAI PHONG: Oai (uy): sức mạnh. Phong: dung mạo thái độ. Oai phong là dung mạo thái độ uy dũng.
THIÊN TỨ: Thiên: trời. Tứ: ban cho. Trời ban cho.
THẦN LINH: Thần: Những gì có tính cách thiêng liêng. Linh: hiển hiện. Những gì có tính linh hiển làm cho người ta nhận biết.
DƯƠNG TRẦN: Dương: cõi dương. Trần: bụi. Cõi chúng sanh đang sống. Đức Thầy có câu:
“Ước sao mình như cuội trên trăng,
Đặng soi khắp cả dương trần”.
TRỄ BÊ: Còn gọi là bê trễ. Chễnh mảng phóng túng, không theo lề lối qui củ
GIỤC THÚC: Giục giã thúc hối làm việc gì cho mau xong.
NHƠN SANH: Nhơn: người. Sanh: sinh ra. Chỉ chung mọi người cùng sống chung trong quả địa cầu, không phân biệt màu da tiếng nói.
CÀY CẤY: Làm ruộng nói chung, Nghĩa bóng: Sốt sắng tu hành.
BÁ NHA: Xem lại điển tích “Tri Âm” tại tr. 157- 159 Tập nầy và chữ “Đờn Bá Nha” tại tr. 265-267 Q. Thượng Tập 1/3.
HỘI MÂY RỒNG: Nghĩa của chữ Hội Long Vân, ngày xướng danh những người đỗ đạt. Cổ thi có câu:
“Mong con gặp hội Rồng Mây với người”.
Ngoài ra, còn có nghĩa: Hội tôi chúa trùng phùng.

Cổ thi có câu:
“Trời sinh trời chẳng phụ nào,
Long Vân gặp hội anh hào ra tay”.
MEN MÉT: Da màu xanh nhợt nhạt, yếu ớt.
KHAO KHÁT: Thèm muốn gắt gao. Đức Thầy có câu: “Lúc khô hạn đi đồng khao khát”.
LÂY QUÂY: Cũng viết loay hoay. Làm nhiều việc, hết việc nầy đến việc khác, quây quần tối ngày. Ở đây Đức Thầy muốn nói Ngài bận rộn nhiều việc: Nào trị bệnh độ đời, nào thuyết pháp độ đời, nào viết Sấm Giảng độ đời,...
TRƯNG BÀY: Trưng: chứng cớ. Bày: phô trương, kết đặt. Nghĩa rộng: Sắp xếp có bằng chứng rõ ràng. Đức Thầy có câu: “Trưng bày tích cũ đành rành”.
ĐẠO ĐỨC: Đạo: Con đường hợp lẽ phải, đúng chơn lý, sát thực tế, đạt dến chỗ tuyệt đối. Đức: Tâm đạt đến chỗ tột lành. Đạo Đức: Con đường đưa hành giả tiến đến chỗ tốt đẹp, từ thể xác đến tâm hồn, một lối đi rất quang minh chánh đại để lòng mình hướng về chân thiện mỹ. Đức Thầy có câu:
“Việc đạo đức bất cần thối thắng.
Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi”.
LƯỢC GIẢI :
Tự nhiên Đức Tôn Sư PGHH được thiên phú oai lực phi thường để tự sáng tác bốn quyển Giảng một cách mau lẹ như ngọn bút thần.
Ngài sợ chúng sanh chểnh mảng công việc cày cấy ruộng nương, cũng như chăm bón ruộng lòng nên hằng giục thúc mọi người sốt sắng lo làm ăn và lo tu hành chơn chất.
Bá Nha xưa có tài đờn tuyệt diệu không ai sánh bằng. Ông tự mãn rằng trong khắp thiên hạ khó tìm cho được bạn tri âm. Nhưng rồi ông gặp Tử Kỳ, câu nghi vấn của ông được giải tỏa. Đức Huỳnh Giáo Chủ mượn tài đờn của Bá Nha lồng vào giáo pháp bằng lời Kinh tiếng Kệ. Ngài “Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn”, Ngài “Lo cho đời quên vóc ốm gầy, Xanh men mét cũng thây thịt xác”. Mục đích cầu mong mọi người mau gặp hội Rồng Mây, mới thỏa nguyện vọng của mình.
Ngài càng đi càng giúp đồng bào giải cơn khao khát, hưởng trọn niềm vui phấn chấn tu hành. Nhưng ngặt nỗi giếng nhà quá sâu, khó múc nước đủ để cung cấp cho quá nhiều người mê muội. Dù vậy nhưng Ngài không chùn chí khí hiên ngang: Hết trị bịnh độ đời, hết thuyết pháp khuyến tu đến tiếp tục viết Sấm thi độ chúng. Ngài làm việc suốt ngày cho việc “Hoằng pháp lợi sanh”.
CHÁNH VĂN
145. Biết bao giờ gái trai tỉnh thức,
Trẻ cùng già đồng hiểu Phật gia.
Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca,
148. Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo.
Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
Khói mịt-mù văng xác đầy đường.
Cuộc đời nay như ngựa buông cương,
152. Khó dừng lại vó cu lụp-bụp.
CHÚ THÍCH :

TỈNH THỨC: Tỉnh: Hiểu biết; Thức: Biết. Bỗng nhiên tỉnh ngộ hiểu biết. Nghĩa bóng: Chỉ lúc con người được giác ngộ. Đức Thầy có câu: “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ”.
PHẬT GIA: Nhà Phật, đạo Phật. Đức Thầy có câu:
“Nền đại đạo lưu thông khắp cả,
Bậc Tiên hiền đều trọng Phật gia”.

HÙNG PHONG: Hùng: mạnh mẽ. Phong: bộ dạng., dáng vẻ. Hùng phong: dáng dấp mạnh mẽ.
CUỒNG CA: Cuồng: ngay dại, điên khùng; Ca: còn gọi là hát, giọng ngâm nga cao thấp. Cuồng Ca: Ca hát theo lối ngây dại, không có bài bản. Nhưng chữ cuồng ca ở đây được Đức Thầy dùng với dụng ý giả làm bộ dạng điên khùng, ca hát líu lo làm cho người Pháp không để ý đến Ngài.
CUỘC THẾ: Còn gọi là cục thế. Cuộc diện hay cảnh trạng trong đời.
KHUYNH ĐẢO: Khuynh: nghiêng; Đảo: xô ngã. Làm cho nghiêng ngã, sụp đổ. Đức Thầy có câu: “Xưa nước đã bao lần khuynh đảo”. Hoặc: “Thấy nhơn gian khuynh đảo tỏ bày”.
NƯƠNG HÙNG-PHONG TRỔI GIỌNG CUỒNG CA, CA CUỘC THẾ CA CÂU KHUYNH ĐẢO: Đức Thầy giả dạng khùng điên để ẩn sau sức mạnh của thời thế mà mạnh dạng hát ca những bài có nội dung yêu nước, yêu dân nhằm đánh thức một số người đang ngủ vùi dưới ách thống trị của người Pháp. Ngài diễn ca: “Cuộc đời ly loạn bất an”, kế báo cho chúng dân biết đất nước lâm nguy, đang trải qua nhiều cảnh hãi hùng, đưa đến khuynh đảo cuộc diện ở ngày mai.
MỊT MÙ: Xa xôi, mù mịt. Không thấy gì. Đức Thầy có câu: “Cơn dông tố mịt mù bụi cát”.
VÓ CU LỤP BỤP: Vó cu: còn gọi là vó câu, ý nói móng con ngựa to chạy rất nhanh; Truyện Kiều có câu: “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”. Lụp Bụp: Tiếng vó ngựa phi nhanh, chỉ nghe tiếng lụp bụp nện trên đường.
LƯỢC GIẢI :
Đạo Phật là một nền Đạo vô cùng huyền sâu mầu nhiệm và thật tế đưa chúng sanh tới bờ giải thoát, thế mà thời nay ít có người tỉnh thức, biết nương theo giáo lý để tu hành.
Đức Tôn Sư PGHH phải giả dạng khùng điên để ẩn lánh sau sức mạnh của giặc Pháp mà hát lên những bản hùng ca có nội dung yêu nước, yêu dân để thức tỉnh số người vong bản. Ngài ca hát về sự đời áo não năm châu, cuộc thế xoay vần và đất nước bị khuynh đảo, dẫn đến cảnh biến thiên sụp đổ ở ngày mai.
Trong cảnh thanh bình, việc đốt pháo vẫn thạnh hành trong mỗi buổi tiệc hoặc mỗi cuộc lễ để giúp buổi hội họp tăng phần long trọng, phấn khởi. Cảnh vui tươi có xác pháo văng tung tóe đầy đường sá nay không còn nữa.
Cuộc diện nước Việt Nam ngày nay, dưới ách thống trị của người Pháp, thiếu vắng người lãnh đạo, chẳng khác ngựa phi không cương nên khó mà dừng chân ngơi nghỉ.
CHÁNH VĂN
153. Mặt nước biển lô-nhô lặn-hụp,
Chim đua bay, cá lại tranh mồi.
Ngọn thủy-triều nô-nức sục-sôi
Bầu trái đất một phen luân-chuyển.
Ta là kẻ tu-hành thiển kiến,
Xét thế-trần luận-biện đôi điều.
Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu,
160. Muốn giác-tỉnh người mê trở lại.
CHÚ THÍCH :

LÔ NHÔ LẶN HỤP: Mặt nước biển do sóng mà khi cao khi thấp, cứ thế liên tiếp không lúc nào ngừng. Nghĩa rộng: chỉ sự chinh chiến kéo dài.
THỦY TRIỀU: Con nước biển lên xuống.
NÔ NỨC: Háo hức, hăm hở. Đức Thầy có câu: “Nô nức nhau kiến thiết quốc gia”.
SỤC SÔI: Dâng trào cao ngọn.
LUÂN CHUYỂN: Luân: bánh xe; Chuyển: xê dịch, quay. Nghĩa bóng: Luân hồi chuyển kiếp, còn trong vòng sanh tử. Đức Thầy có câu: “Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp”.
TU HÀNH: Tu: sửa; Hành: làm. Chấp nhận cải sửa việc xấu và làm theo việc lành, việc phải. Đức Thầy có câu:“Bởi chữ tu liền với chữ hành, Hành bất chánh người đời mới nói”.
THIỂN KIẾN: Thiển: ít; Kiến: nhìn thấy. Thiển kiến: kiến thức, ý kiến nông cạn. Tiếng khiêm nhường dè dặt trong phát biểu, viết lách. Ví dụ: Theo thiển kiến của tôi,...
THẾ TRẦN: Còn gọi là trần thế. Thế: đời; Trần: bụi. Cõi đời đầy bụi bặm.
LUẬN BIỆN: Bàn luận giải bày. Bàn luận giải bày cho rõ ràng một vấn đề còn khúc chiết.
TRỚ TRÊU: Né tránh ranh mảnh. Sự tráo trở né tránh. Đức Thầy có câu: “Trớ trêu tạo hóa ông bày trò chua”. Hoặc: “Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu”.
GIÁC TỈNH: Giác: biết; Tỉnh: hiểu biết tỉnh táo. Nghĩa rộng: Được giác ngộ, hết mê lầm.
LƯỢC GIẢI :
Cả thế giới đang phải chịu cảnh bom rơi đạn lạc, ba đào sóng dậy triền miên: “Chim đua bay cá lại tranh mồi”. Nước lớn hiếp đáp nước nhỏ, quốc gia nầy sát phạt quốc gia kia, gây nên cảnh máu rơi thịt đổ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Lúc biến thiên ,ngọn thủy triều cứ dâng cao, nước văng tung tóe, sức nóng dữ dội. Quả địa cầu phải một phen luân chuyển, thay đổi toàn diện: đất đai, sông biển, núi non, luôn cả loài người và vạn vật.
Đức Tôn Sư PGHH tỏ lời khiêm nhượng, Ngài là người ít hiểu biết, trí thức nông cạn, tu hành thấp thỏi. Nhưng xét cuộc thế trần trong ngày biến thiên sắp đến, lòng Ngài bắt xót thương nên bàn luận điều hơn lẽ thiệt cho dân chúng tỉnh trí tu thân.
Mục đích chính của Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời là để giác tỉnh người mê trở lại con đường lành. Ngài không phải hạng người thêu dệt trớ trêu: “Nói xiên xỏ cũng không no béo”, vậy chúng dân nên mạnh tin để tiến xa trên đường về chân thiện mỹ.
CHÁNH VĂN
161. Mong sanh-chúng học điều thông-thái
Rèn tâm lành bác-ái trau-tria.
Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya,
164. Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế.
Mà nào khác chợ trưa đồ ế,
Bán rẻ-rề ít kẻ hỏi mua.
Mảng lo theo lối mới tranh-đua,
168. Lại bỏ ngón se-sua học-thức.
Thân hèn-yếu lại vô năng-lực,
Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân.
Miệng toàn lời bắt chước chúa Tần,
172. Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ.
CHÚ THÍCH :

THÔNG THÁI: Hiểu biết rộng rãi hơn người. Đạo Phật gọi là thế trí biện thông. Đức Thầy có câu:
“Học chữ nghĩa cho thông cho thái,
Đặng xuê xang đài các xe tàu”.
BÁC ÁI: Bác: rộng lớn; Ái: thương yêu. Lòng thương yêu rộng lớn. Đức Thầy có câu: “Bác ái xả thân tầm đạo chánh”.
TRAU TRIA: Dồi mài, sửa soạn cho tốt đẹp. Đức Thầy có câu: “Mảng trau tria xác thịt thanh bai”.
CẤP CẤP: Gấp gấp.
SỚM KHUYA: Còn gọi khuya sớm. Tinh tấn ngày đêm. Nghĩa bóng: Tích cực với công việc. Đức Thầy có câu: “Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.
HÀNH ĐẠO THIỀN CẤP CẤP SỚM KHUYA: Yếu lý của PGHH là “Thiền Tịnh song tu”. Nhưng chỗ nầy Đức Tôn Sư PGHH tuyên dương Pháp môn Thiền, là pháp tu tự lực:“Tự mình đắm mê, tự mình giác ngộ”. Đây là pháp tối thượng thừa dành độ những bậc thượng căn, thượng trí. Vào thời Phật Thích Ca còn trụ thế, lần đầu tiên đi giác chúng, Phật đem pháp Thiền nầy độ năm anh em ông Kiều Trần Như. Chỉ sau một thời pháp, năm người đều đắc quả A-la-hán. Và từ đó Phật, Pháp, Tăng có đủ. Đây chính là pháp “Tứ Đế” và “Bát Chánh đạo”. Đức Tôn Sư PGHH tuyên dương như sau:
“Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
Non Tuyết rèn ra Bát chánh kìa.
Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
Hoàn cầu bốn biển khắc danh bia”.
Và từ đó, y bát được Tổ Tổ tương truyền, trải qua 33 đời, từ Ấn Độ sang Trung Hoa (27 đời ở Ấn Độ + 6 đời ở Trung Hoa – Tổ Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ 28 ở Ấn Độ và là Tổ thứ nhất ở Trung Hoa), rồi lại bặt truyền sau đời Đức Lục Tổ Huệ Năng. Pháp thiền tại Việt Nam trong hệ phái
Bửu Sơn Kỳ Hương có vị Giáo tổ là Đức Phật Thầy Tây An:
“Thọ truyền giáo đạo Thích Ca,
Mùi Thiền tâm ấn phép nhà nhiệm thay”.
Nay lại đến Đức Huỳnh Giáo Chủ:
“Đạo vô vi của Phật ân cần,
Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.

Ngài khuyên hãy kíp kíp rán hành đạo Thiền, suốt cả ngày đêm, không phân biệt giờ khắc. Vì đó là pháp môn tối diệu.
KHUYÊN RĂN: Khuyên lơn, răn bảo.
RẺ RỀ: Rẻ mạt, rẻ như bèo. Thí dụ: Món hàng nầy bán rẻ rề.
MÀ NÀO KHÁC CHỢ TRƯA ĐỒ Ế, BÁN RẺ RỀ ÍT KẺ HỎI MUA: Đây là ĐHGC dùng lối văn ẩn dụ, so sánh ngầm, tỷ dụ ngầm. Ngài ví giáo lý như món hàng đem vào chợ bán rẻ rề, ngồi đến trưa mà chẳng có ai đến mua. Thật là buồn cười cho số phận. Vì quá yêu đời nên lặn lội xuống trần đặng chịu cảnh chê khen. Ngài đem giáo lý nhiệm mầu, có công năng cứu vớt và đưa con người từ một chúng sanh mê tối sa đọa tiến về bến giác siêu cao, thoát đọa trầm luân, thế mà ít người ân cần han hỏi.
TRANH ĐUA: Giành giựt hơn thua.
SE SUA: Khoe khoang bằng việc làm, điệu bộ với áo quần đẹp, tiền bạc nhiều. Đức Thầy có câu: “Se sua nói nói cười cười”.
HỌC THỨC: Trí thức thu nhận được qua quá trình học tập.
HÈN YẾU: Yếu ớt, không can đảm.
NĂNG LỰC: Khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc.
BẮT CHƯỚC: Làm theo một cách rập khuôn máy móc.
CHÚA TẦN: Chúa nhà Tần là Tần Thủy Hoàng (221-206 TCN): Sau khi gồm thâu lục quốc (Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở) liền thống nhứt nước Trung Hoa, bãi bỏ chế độ phong kiến, xây Vạn lý Trường thành, trở thành ông vua độc tài chuyên chế nổi tiếng ở Phương Đông. Ông dùng chánh sách bạo ngược để cai trị dân, hầu hết sĩ phu đều bất phục nên ông đốt kinh sách của Thánh hiền và chôn sống học trò. Nói đến Tần Thủy Hoàng là nói đến chánh sách cai trị gắt gao tàn bạo. Đức Thầy có câu: “Bỗng hay đâu nghi ngút khói vua Tần”.
ANH TÀI: Tài đức hơn người, xuất sắc nhiều mặt. Đức Thầy có câu: “Chữ anh tài của đấng trung lương”.
NHU SĨ: Còn gọi là Nho sĩ, chỉ các học trò của Đức Khổng Tử hoặc chỉ người theo Nho giáo. Đức Thầy có câu: “Nhu sĩ lương hiền thêm cảm mến”.
LƯỢC GIẢI :
Đức Huỳnh Giáo Chủ mong tất cả chúng sanh cố gắng học hiểu thông thái về mặt đời cũng như đạo. Nhứt là trau luyện tâm từ bi bác ái càng ngày càng mở rộng thêm ra, cho duyên Bồ đề in sâu vào tâm khảm.
Hằng ngày phải lóng sạch phàm tâm, trở về với bản lai thanh tịnh, phải sống thật với lòng mình từ giây, từ phút không kể đêm ngày để tiến xa trên bước đường giải thoát. Đức Thầy vì quá thương xót chúng sanh nên dạy khuyên đủ lẽ.
Nhưng với Thế kỷ XX vừa qua, số người thật tu quá ít, Đức Thầy ví việc đạo đức như món hàng đem ra chợ bán, ít thấy ai hỏi mua, chẳng khác bán chợ trưa đồ ế. Người đương thời cứ chạy theo lối sống mới tranh đua xa hoa trụy lạc của người phương Tây. Và lại tuyên truyền rằng: Người Âu Mỹ văn minh hơn mình, toàn là dân học thức.
Đức Tôn Sư PGHH xác định, bản thân của người Việt chúng ta phần đông hèn yếu, và thiếu khả năng học hỏi, sao chẳng tìm phương thuốc thật hay điều trị, trước sửa gân cốt cho thân khỏe mạnh, sau điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng chung lưng đoàn kết, xiết chặt tay nhau chờ thời cơ hưng hóa nước nhà. Cớ sao lỗ miệng phần đông nói a dua theo giặc Pháp, bắt chước bọn Tây Dương, bọn họ chủ trương cám dỗ nhồi sọ cho dân ngu để dễ bề cai trị. Họ lại theo chánh sách nhà Tần “Quyết chôn sống anh tài nhu sĩ”. Vậy toàn dân Việt Nam hãy mau thức tỉnh.
CHÁNH VĂN
173. Nhưng mắc phải từ-bi lập chí,
Lược cùng thao, thao lược vẹn hai.
Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày,
176. Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả.
Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã
Hạ bút thần thơ đã đề khai.
Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay,
180. Chỉ tưới nước vun phân cây quí.

CHÚ THÍCH :
TỪ BI: Xem lại CT tại tr. 39 Q. Trung.
LẬP CHÍ: Nuôi dưỡng ý chí để đạt mục đích.
LƯỢC THAO: Thao: cách dụng binh, gồm có: văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao và khuyển thao; Lược: mưu kế, gồm: thượng lược, trung lược và hạ lược. Lược thao hay thao lược: chỉ người có mưu trí đảm đang, giỏi xoay sở. Ví dụ: Hắn là một tay thao lược.
THẦN TIÊN: Thần: là bậc trung cang nghĩa khí, đầy lòng yêu nước thương dân, sau khi chết thường hiển linh. Đức Thầy có câu: “Dầu không siêu cũng đặng về Thần, Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”. Tiên: là bậc thoát tục, sống an nhàn tự tại, thường “ngao du tứ hải, dạo khắp Tiên bang, cảnh an nhàn của người liễu đạo”. Thần Tiên là các vị thường trợ giúp những người mắc nạn và nhiều lúc phò trợ Thánh Vương.
TAO NHÃ: Phong lưu tao nhã, lịch sự. Thí dụ: Văn chương tao nhã. Người phong lưu tao nhã.
BÚT THẦN: Cũng gọi là thần bút. Bút của các vị thần, cây bút siêu hình có sức mầu nhiệm trên các bậc văn nhân thi sĩ.
MIỆNG NHÍCH MÔI ĐẦY VĂN TAO NHÃ, HẠ BÚT THẦN THƠ ĐÃ ĐỀ KHAI: Miệng của Đức Thầy nói ra đầy văn chương tao nhã của nhà khoa bảng. Ngài có khả năng thuyết pháp thao thao bất tuyệt. Với 107 vị trí trong vòng 2 tháng khuyến nông khắp Nam kỳ Lục tỉnh, Ngài thuyết không nơi nào giống nơi nào, đề tài đều khác nhau và Ngài không cần luận trước. Một nhà viết báo Nam Kỳ lúc đó phê bình tài diễn thuyết của Ngài: “Vô địch giải quán quân về môn diễn thuyết”. Đến tài viết lách chỉ trong vòng 2 tháng Ngài viết bốn quyển Giảng dài, mỗi quyển trung bình 700 câu. Điểm đặc biệt là viết một mạch, không bôi xóa. Thử hỏi có ai viết được như vậy chăng ? Đây chẳng phải bút thần là gì ?
HIỀN THÁNH: Hiền: Người có tài đức phẩm hạnh cao; Thánh: Bậc tài đức phẩm hạnh cao quí, được thế nhân ca tụng tôn thờ khi sống cũng như lúc đã chết. Đức Thầy có câu:
“Chữ xúc pháp treo gương Hiền Thánh,
Tránh sáu đường cũng đặng về Thần”.
LƯỢC GIẢI :
Đức Huỳnh Giáo Chủ là bậc đệ tử cao cả của Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni. Ngài luôn luôn nuôi chí và lập chí, tài kiêm văn võ, thao lược vẹn hai: Chẳng những Ngài có công phục hưng nền đạo Phật, mà còn có sứ mạng phò tá Đức Thánh Vương trong ngày Thượng nguơn lập Hội.
Đây là công việc sắp bày của các đấng Phật Tiên. Các Ngài nung nấu chí khí thêm cho Đức Huỳnh Giáo Chủ. Thế nên, Ngài dùng tài biện luận thao thao bất tuyệt để thuyết giảng hoằng khai chánh pháp. Và dùng ngọn bút thần sáng tác kệ giảng thơ văn bằng ngôn ngữ Việt, lưu truyền hậu thế.
Người Pháp lưu đày Đức Tôn Sư PGHH đến bao lâu đi nữa cũng không làm nao núng chí quyết tâm cao cả của bậc Hiền Thánh. Trái lại, càng vun quén cho cây Bồ đề đạo hạnh của Ngài thêm sung túc.
CHÁNH VĂN
188. Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị,
Cận Thầy xưa định việc an dân.
Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần,
188. Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt.
Luận sơ-sơ cho dân rõ tích,
Để chờ ngày hoán võ hô phong.
Ban cho đời thoát chữ cay-nồng,
188. Nay giục thúc câu quân tu ký.
CHÚ THÍCH :

NHẠC NGHỊ: Người thời Chiến quốc, làm tôi nước Triệu, thuở nhỏ ông luyện tập tinh thông binh pháp. Ở Triệu ông bị gièm pha, bèn sang Ngụy, cũng chẳng được tin dùng nên phải sang nước Yên. Lúc Tề Mân Vương bạo hành dâm ác, ông đi du thuyết các nước Tần, Hàn, Triệu, Ngụy và Yên, được năm nước nầy phong làm Thượng Tướng Quân, kéo quân sang đánh nước Tề. Vào đến Lâm Tri (kinh đô nước Tề) tịch thu rất nhiều vàng bạc châu báu đem về Yên. Liên tục trong 6 tháng, Nhạc Nghị chiếm 72 thành của Tề Vương. Vì được Yên Chiêu Vương rất mực tin dùng nên ông bị kẻ khác ganh tị. Sau khi Yên Chiêu Vương băng hà, thái tử Nhạc Tư lên kế vị xưng là Yên Huệ Vương. Nhạc Tư nghe lời bọn dua nịnh gièm siểm, nghi ngờ Nhạc Nghị có mưu tạo phản bèn tước hết binh quyền, khiến ông phải đào tị về nướcTriệu. Vua Triệu biết Nhạc Nghị là người hiền tài nên trọng dụng, cho Nhạc Nghị ở Quan Tân gọi là Vọng Chư Quân. Nhạc Nghị đứng ra liên kết giữa Yên và Triệu, tạo sự hòa hiếu lẫn nhau nên về sau Nhạc Nghị được Yên và Triệu phong làm Khách Khanh. Cuối đời, ông mất ở Triệu quốc.
THÊM MẮC PHẢI TAY CHÀNG NHẠC NGHỊ, CẬN THẦY XƯA ĐỊNH VIỆC AN DÂN: Ý nói chánh sách của quân Pháp mắc phải tay ĐHGC nên không sao tiến triển được. Ngài ví mình như Nhạc Nghị thuở xưa, học đủ binh thơ đồ trận, tiến thoái dễ dàng và biết liên hiệp Nhựt để tạo thanh thế, xoay chuyển nước cờ chiếu bí, Ngài có đủ tài thao lược, định việc an dân cho dân tộc Việt.
TRUNG LƯƠNG: Tôi trung lương chánh trực. Trung: ngay thẳng chơn chánh. Lương: lành, thiện.. Đức Thầy có câu: “Chữ anh tài của đấng trung lương”.
HIẾU NGHĨA: Hiếu hạnh và tiết nghĩa. Hiếu: bảo dưỡng và tôn kính cha mẹ. Kinh Minh Thánh dạy: “Hiếu từ chi phụ thân: Cư tắc chí kỳ kính, Dưỡng tắc chí kỳ lạc. Bịnh tắc chí kỳ ưu, Tang tắc chí kỳ ai, Tế tắc chí kỳ nghiêm, Cố bất ái kỳ thân, Như ái tha nhân giả, vị chi bội đức”.(Người con hiếu thờ cha mẹ, lúc ở tôn kính rất mực, khi nuôi hết lòng vui, khi bệnh phải lo lắng hết lòng, khi để tang phải hết lòng buồn, khi tế thì rất mực nghiêm trang, cho nên không yêu cha mẹ mà yêu người khác là trái đức vậy). Nghĩa: việc làm hợp với lẽ phải..
BÀN CỬ: Bí danh là Nhạc Phi, ông sinh vào đời Tống Vi Tông, quê ở huyện Thang Âm, phủ Tương Châu, tỉnh Hà Nam (Trung Hoa).
Thuở nhỏ ông mồ côi cha, mẹ là bà An Nhơn cho theo thụ giáo với ông Châu Đồng, học nghề văn nghiệp võ. Bấy giờ Tống Vi Tông mở khoa thi chọn hiền tài, Nhạc phi và bằng hữu đi thi. Quan giám khảo là Trương Ban Xương, Trương Tuấn và Vương Đạt, trước đó đã ăn hối lộ của Sài Quế. Nhạc Phi ở giữa đấu trường hạ được Sài Quế nên bọn họ tìm cách đuổi Nhạc Phi về quê.
Trong lúc chưa gặp vận, gia trạch hàn vi, có lần bạn là Vương Tá tự động giới thiệu mua chức cho Nhạc Phi với lũ giặc Động Đình Hồ. Khi nghe biết câu chuyện đó, Nhạc Phi giận tím môi, nhưng đã nhận Vương Tá làm em nuôi, ông đành lặng thinh im tiếng. Do cớ sự xảy ra như thế nên mẹ là bà An Nhơn biểu Nhạc Phi nằm dài, rồi bà vạch lưng lấy mũi nhọn xâm vào lưng khắc bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc”. Do đó, sử sách và Đức Tôn Sư PGHH có ghi lưu : “Ông Bàn Cử mẹ ghi chạm thịt”.
Sau đó, giặc Kim Phiên xâm loạn bắt vua Tống Khâm Tôn làm tù binh ở dưới giếng lạn. Khương Vương Triệu Cấu trốn thoát được, về tức vị lên ngôi là Tống Cao Tôn. Nhạc Phi được triệu về Kinh dẹp giặc. Lúc đầu được vua phong Thống Chế, sau có công được thăng chức phó Nguyên Soái, rồi đặc cách Ngũ Tinh Đại Nguyên Soái, và Võ Xương Khai Quốc Công Binh Bộ Thượng Thư Đại Nguyên Soái. Ông là người tận trung với Tống trào, lập nhiều công trận, sau bị gian thần Tần Cối mạo chiếu Vua, triệu ông về Kinh giam vào ngục, rồi lén giết ông tại Phong Ba Đình, lúc Nhạc Phi mới 39 tuổi. Bàn Cử (Nhạc Phi) là một tấm gương trung lương hiếu nghĩa hiếm có trong lịch sử Trung Quốc.
LUẬN SƠ SƠ: Luận sơ qua một lượt. Thí dụ: Sáng ra điểm tâm sơ sơ hết mấy chục bạc.
HOÁN VÕ HÔ PHONG: Hoán: gọi mời; Võ: mưa.
Một pháp thuật để gọi mưa hú gió.
CAY NỒNG: Cay: đắng cay. Nồng: hơi nóng xông lên, tỏa lan ra. Sự cay đắng sâu đậm. Đức Thầy có câu: “Buồn ai châm chít chữ cay nồng”.
GIỤC THÚC: Giục giã thúc hối làm việc gì cho mau xong.
TU KÝ: Ở nhờ, tạm nhờ nơi khác. Đức Thầy có câu: “Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký”.
LƯỢC GIẢI :
Chống chánh sách cai trị của người pháp, Đức Huỳnh Giáo Chủ ví mình như tướng Nhạc Nghị thuở xưa, đủ tài thao lược, an bang tế thế để định quốc an dân. Hơn nữa, cũng như Nhạc Phi (Bàn Cử)- người được mẹ khắc vào lưng 4 chữ “Tận Trung Báo Quốc”- Ngài luôn luôn nêu cao bản lãnh trung lương chánh trực.
Tích xưa truyện cũ được Ngài luận sơ cho dân biết rõ rằng Ngài hiện giờ ẩn nhẫn để chờ dịp lành đưa đến hầu hoán võ hô phong (gọi mưa hú gió), đem tài trai ra phụng sự tổ quốc.
Chung cuộc, Ngài muốn ban tặng cho đời thoát cảnh đắng cay gian khổ, mọi người được hưởng một mùa xuân an lạc. Hiện giờ, Ngài phải nương nhờ tạm ẩn nơi quân Nhựt để chờ thời vận hanh thông ra tay cứu nước.
CHÁNH VĂN
189. Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị,
Ấy thời lai bình trị muôn dân.
Khắp các nơi chư quốc xưng thần,
192. Trong bốn biển chúng dân lạc-nghiệp.
Theo dõi gót người xưa mới kịp,
Vừng mây lành ngũ sắc hào-quang.
Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang,
196. Miền Nam-địa phân chia đẳng cấp.
CHÚ THÍCH :

TỌA VỊ: Toạ: ngồi; Vị: thứ, hạng. Ngôi thứ địa vị được giành sẵn cho.
BÌNH TRỊ: Cai quản ở trong vùng, trong nước được yên ổn. Đức Thầy có câu: “Dậu Thân bình trị trong ngoài âu ca”.
MUÔN DÂN: Người sống chung trong đất nước.
CHƯ QUỐC XƯNG THẦN: Nhiều nước láng giềng xưng là bầy tôi, đồng tôn trọng nước Việt Nam làm minh chủ.
BỐN BIỂN: Xem lại CT tr. 411 Tập nầy.
LẠC NGHIỆP: Lạc: vui; Nghiệp: nghề. Việc làm vui vẻ, làm ăn thạnh vượng. Đức Phật Thầy có câu: “An cư lạc nghiệp phước vô biên”.
NGƯỜI XƯA: Bậc tiền nhân. Nghĩa bóng: Bậc đã nhiều lần chuyển kiếp độ đời, như trường hợp của Đức Phật Thầy Tây An (1849-1856), Giáo Tổ hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Đức Thầy nhắc lại:
“Chim ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót mấy lần ai hay”.
Hoặc:
“Đời này chưa vẹn thảo ngay,
Thì là khó thấy mặt mày người xưa”.

NGŨ SẮC: Năm sắc: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen.
HÀO QUANG: Hào: lông mày; Quang: sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông màu trắng, phóng ra ánh sáng nên gọi là hào quang, một trong 32 tướng hảo của Phật. Đức Thầy có câu:
“Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
Đức Di Đà hiện chóa hào quang”. Hoặc:
“Hào quang chư Phật rọi mười phương”.
PHẬT THÁNH TIÊN: Phật: Bậc đã hoàn toàn giác ngộ; Thánh: Bậc “sinh nhi tri” (không học mà biết), có học thức uyên bác, ăn ở hợp với đạo lý, được người đời kính trọng; Tiên: người tu trên núi có chứng đắc pháp thuật. Phật, Thánh, Tiên: Ba quả vị cao cả của Phật giáo, Nho giáo và Tiên giáo, thường được nhắc trong sách sử.
ĐÔNG ĐỘ: Chỉ các nước ở Phương Đông (Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bổn,…), đối với Tây Độ (Ấn, Hồi,…)
NAM ĐỊA: Địa phận miền Nam Việt Nam (ám chỉ sáu tỉnh miền Tây thời Pháp thuộc).
ĐẲNG CẤP: Thứ bậc, các hạng người trong xã hội.
LƯỢC GIẢI :
Đức Tôn Sư PGHH xác định: Ngày nào các đấng Phật Tiên đều qui hồi cựu vị là đến lúc chúng dân các nước được thái bình an lạc. Đó cũng chính là ngày khắp các nơi đều xưng thần, đồng tôn nước Việt Nam làm minh chủ. Trong bốn biển không còn cảnh tàn khốc vì chiến tranh bom đạn, giống như thời Nghiêu Thuấn trở lại.
Muốn được hưởng cảnh thái bình như trên, toàn dân phải theo dõi gót người xưa, nghĩa là hiện giờ phải lo thức tỉnh tu hành mới mong kịp chuyến đò chiều. Chư Phật Thánh Tiên sẽ hiện hào quang lướt sang vùng Đông Độ và đất nước Việt Nam sẽ là nơi có cuộc Hội phân chia đẳng cấp, lập lại đời Thượng nguơn Thánh đức.
CHÁNH VĂN
197. Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
Trổ tài hay biển lấp non dời.
Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời,
200. Cả thế-giới mưa hòa gió thuận.
Tạo nền móng Thánh-quân đặt vững,
Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền.
Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,
204. Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.
CHÚ THÍCH :

ẢM ĐẠM KHÍ TRỜI: Ảm: Sắc đen sậm; Đạm: nhạt. Ảm đạm: một màu sắc lờ mờ tối, buồn thảm.. Khí trời: không khí, nơi cần thiết cho sự sống còn. Đức Thầy có câu: “Tiết trời ảm đạm mịt mù gió mây”. Hoặc:
“Xuân sang ảm đạm ánh dương mờ”.
THẾ GIỚI: Thế: đời; Giới: Đất đai. Tiếng gọi chung ám chỉ các nước trên toàn cầu, nơi chúng sanh đang sống.
MƯA HÒA GIÓ THUẬN: Mưa gió thuận chiều. Nghĩa bóng: Cảnh đời an lạc, trên dưới thuận hòa, đất nước âu ca.
THÁNH QUÂN: Vua Thánh. Chỉ vị Thánh Vương thời Thượng nguơn Thánh đức.
ĐẶT VỮNG: Đặt: sắp đặt có nền nếp; Vững: chắc chắn. Đặt vững: Sắp đặt qui củ chắc chắn.
TRIỀU CA: Triều: triều đình, nơi vua tôi hội hợp; Ca: khúc hát. Nơi chúa tôi họp mặt để bàn việc triều chính.
GẦY DỰNG: Xây dựng lập thành, dạy dỗ giúp đỡ hoàn thành công việc.
TÔI HIỀN: Nghĩa của chữ hiền thần, bầy tôi hiền đức, dám sống chết với vua với nước. Như Tiết Nhơn Quí đời Đường, Phạm Lãi đời Việt Vương Câu Tiễn…Đức Thầy có câu:
“Hiền thần sách sử nêu ghi,
Miễu son tạc để tu mi trung thần”.

THIÊN LÝ VỊ NHIÊN: Lẽ tự nhiên của trời đất là như vậy.
CÒN ĐÃI: Còn chờ đợi.
THIÊN OAI NẤY LỊNH: Thiên oai: Uy linh của Thượng đế. Nghĩa bóng: Uy quyền của nhà vua. Đức Thầy có câu: “Vi lộ thiên oai bảo giác dân”; Nấy lịnh: Xuống lịnh. Chờ đợi oai trời xuống lịnh.
LƯỢC GIẢI :
Ngày Phật Tiên phân định cho cuộc đời tân sắp đến là do cơ tạo hóa sắp đặt, ví như bàn cờ được sắp nước mới. Nước cờ mới hiện nay đang khởi sắp, tức là cuộc đời Thượng nguơn Thánh đức đang vén màn. Chư Phật, Tiên, Thần, Thánh dùng thần thông dời non lấp biển, cảnh trí thiên nhiên đều theo định luật của hóa công mà xoay chuyển thời thế. Chừng đó, dưới cùng trên đồng tiết ra màu trời ảm đạm do không khí vận hành, và pháp thuật của Tiên Phật hóa hiện. Và qua giờ phút thê lương đó, cả thế giới bắt đầu mưa hòa gió thuận. Số người sống sót đồng một lòng, một ý chí như nhau: Phò trợ Thánh Vương và tu hành tinh tấn đến ngày công viên quả mãn.
Bực Thánh Vương lo kiến thiết cơ đồ và đặt nền móng vững chắc tại triều ca, gây dựng bầy tôi hiền đức để củng cố đất nước thành một đất Thánh.
Vả lại hiện giờ còn chờ oai lực của Trời đất phân định đúng ngày giờ năm tháng mới thi hành mạng lịnh thiên cơ. Vậy chúng dân nên ẩn nhẫn đợi thời.
CHÁNH VĂN
205. Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh,
Mong khán-quan vào cửa xem tuồng.
Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông,
208. Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh.
Đó mới biết ai là Phật Thánh,
Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà.
Đồng hát câu phụ-tử khải-ca,
212. Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới.

CHÚ THÍCH :
CUNG THỈNH: Mời một cách kính cẩn.
KHÁN QUAN: Xem coi.
XEM TUỒNG: Xem coi tuồng tích. Nghĩa bóng: Xem ngày lập Hội giống như xem tuồng hát. Nhưng nó thật tế và cụ thể hơn.
ĐIỂU THÚ: Chim và thú . Đức Thầy có câu: “Nào phải giống chim muông điểu thú”.
CHIM MUÔNG: Nói chung các giống chim.
HUỜN LAI BỔN TÁNH: Trở về tánh bản lai, tức tánh nguyên thỉ của mình thuở trước. Theo kinh điển cho biết: Mỗi người đều có tánh bản lai, vốn thanh tịnh hằng hữu. Bản tánh của chúng sanh đang bị vô minh che mờ. Nếu nay chúng ta phá được mây vô minh, ánh sáng trí huệ của tánh nầy sẽ hiển bày tức khắc.
THẢO HIỀN: Hiếu thảo và hiền lành.
LỖI ĐẠO NHÀ: Lỗi đạo ông bà cha mẹ của mình.
Nghĩa bóng: Chỉ những kẻ ninh hót a dua theo giặc Pháp, bỏ hết luân thường đạo nghĩa nước nhà.
PHỤ TỬ: Đạo cha con.
KHẢI CA: Bài hát thắng trận, khúc ca khải hoàn.
TRĂM HỌ: Nghĩa của chữ bá tánh. Ý chỉ tất cả mọi người.
MUÔN NHÀ: Khắp mọi nhà.
THẠNH THỚI: Thới lai thịnh vượng. Chỉ thời buổi hưng thịnh hay cái thế đang hưng, đang mạnh, làm ăn phát đạt dễ dàng.
LƯỢC GIẢI :
Để kết thúc bài “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Tôn Sư PGHH cung thỉnh mọi người, mọi giới nên chuẩn bị các yếu tố cần thiết (tu tâm sửa tánh) để vào cửa xem tuồng. Tấn tuồng đó chính là cuộc diện thế giới sẽ diễn ra tới đây để lập lại thời Thượng nguơn thánh đức.
Đạo Phật chỉ dạy tất cả chúng sanh không phân biệt người hay vật đều có cùng chung thể tánh như nhau. Nhưng ai trở thành hiền nhơn, Phật thánh, ai phải sa đọa thành chim muông cầm thú là đều do chính mình gây tạo mà thôi.
Lời chúc cuối cùng mà Đức Tôn Sư PGHH gởi đến mọi người là mong sao tất cả đều bình an thạnh vượng và nhà nhà trên dưới cùng ca khúc ca vui mừng an lạc.
CHÁNH VĂN
NGÂM:
Bồ-đào rượu thánh trà tiên,
Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.
Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn.
CHÚ THÍCH :

BỒ ĐÀO:
Rượu được chế biến từ trái nho. Tương truyền: Các vị tu Tiên thường nấu rượu bồ đào để đãi khách quí. Rượu bồ đào có đặc tánh: uống không say, uống nhiều càng bổ, không phải độc hại như các loại rượu ở thế gian làm. Nói đến bồ đào mỹ tửu là nói đến cuộc sống ở cảnh Tiên.
RƯỢU THÁNH TRÀ TIÊN: Rượu trà của các bậc Thánh Tiên dùng. Các Tiên ông thường hay tụ họp nhau đánh cờ, ngâm nga thi phú, tiêu khiển bằng rượu trà. Ngụ ý: Con người thoát tục, không mến công danh phú quí. Rượu Thánh trà Tiên còn có ý nghĩa chỉ tình bạn đậm đà, bình đẳng gắn bó, không phân biệt thân sơ, sang hèn.
CHÚA HIỀN TÔI TRUNG: Chúa hiền: Nhà vua nhơn đức, biết chiêu hiền đãi sĩ, trọng vọng người có công, tận tâm giúp kẻ nguy nàn; Tôi trung: Bầy tôi một dạ trung thành với vua, với nước, hết lòng phò tá, chẳng ngại gian nguy. Tục ngữ có câu: “Trung thần bất sự nhị quân” (người tôi trung không phò hai chúa). Chúa hiền tôi trung: Chúa Thánh, tôi hiền hết lòng gắn bó bảo vệ dân lành và che chở non sông bờ cõi.
LƯỢC GIẢI :
Hai câu chót diễn tả cảnh thanh bình nhàn hạ của đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Thầy tớ, chúa tôi họp nhau đàm luận đạo mầu, ngâm nga thi phú, thưởng thức trà Tiên rượu Thánh.
Đó là cảnh thái bình an lạc chưa từng thấy ở cõi thế gian. Muôn năm mới có một lần chúa hiền tôi trung cùng nhau vui thú.
Vậy ai là kẻ lanh trí thức thời, hãy cố gắng tu hành, làm tròn đạo nghĩa để sau nầy được có mặt trong cảnh giới đó.

HẾT QUYỂN HẠ TẬP 1/2

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget