Nội Dung
Bài 10.- TẠM NGƯNG LÝ THUYẾT (SGTVTB 2004, tr.336)
XUẤT XỨ:
Hôm ấy vào ngày 10 tháng 04
năm Canh Thìn. Lý do là sở mật thám Pháp ở Châu Đốc đến Tổ Đình (nhà Đức Ông)
dòm ngó theo dõi Đức Huỳnh Giáo Chủ, nên Ngài tạm ngưng sáng tác và thuyết giảng
giáo lý, chỉ viết có hai bài thi tứ cú (8 câu). Do đó bài được mang tựa đề là
“TẠM NGƯNG LÝ THUYẾT”.
VĂN THỂ:
Đức Thầy sáng tác bài “TẠM NGƯNG
LÝ THUYẾT” bằng thể thơ tứ cú Đường luật. Khởi đầu bằng câu: “Gặp buổi gian
truân tiếng nhộn nhàng”, và chấm dứt bởi câu: “Tớ Thầy sẽ gặp việc hay ho”.
CHÁNH VĂN:
1.- “Gặp buổi gian-truân tiếng
nhộn-nhàng,
Cảm-tình bổn-đạo sự riêng
than.
Thầy an nghỉ xác trong đôi bữa,
4.- Đây cũng trải qua hết nhộn-nhàng”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Bài thi thứ nhứt Đức Thầy cho
biết trên đường hoằng pháp lợi sanh của Ngài phải gặp nhiều cảnh gian nan sóng
gió.
Tình cảnh đó khiến Thầy trò phải
gặp cảnh gian truân khắc khổ. Lòng Đức Thầy rất cảm thông cho hoàn cảnh ấy và
Ngài cũng nói rõ đây là dịp may để cho Thầy yên nghỉ xác thân trong thời gian
ngắn. Rồi đây thời cơ cũng phải vượt qua hoàn cảnh khó khăn đó.
CHÚ THÍCH:
TRUÂN CHUYÊN: Rộn
ràng, rắc rối, nhiều công việc rắc rối.
“Đạo diệu mầu gặp lúc truân
chuyên,
Phận môn đệ phải lo vun quén”.
(Khuyến Thiện, Q.V)
CẢM TÌNH: Cũng
gọi là tình cảm. Có nghĩa cảm xúc, động lòng. Mọi công việc đối xử với nhau do
ngoại cảnh kích thích mà sanh ra tình cảm bên trong. Đức Thầy viết:
“Kỷ Mão hạ san mượn xác trần,
Cảm tình đồng loại Lão khuyên
dân”.
CHÁNH VĂN: (4 câu thi chót)
5.- “Nhộn-nhàng già trẻ có
lòng lo,
Mà ấy chẳng qua ngược gió đò.
Đậu lại ít ngày chờ lặng sóng,
8.- Tớ Thầy sẽ gặp việc
hay-ho”.
Hòa-Hảo, ngày 10-4 Canh-Thìn
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 8)
Bốn câu thi chót Đức Thầy nói
rõ cảnh bận rộn, truân chuyên hiện giờ khiến cho tín đồ phải lo lắng. Ấy chẳng
qua như chiếc đò bị ngược gió vậy thôi, cho nên Đức Thầy phải dừng thuyền chờ lặng
sóng trong đôi lúc. Sau đó Thầy tớ ắt sẽ gặp cuộc hay ho may mắn.
Bài 11.- ĐẾN LÀNG NHƠN NGHĨA (Cần Thơ) (THI VĂN GIÁO LÝ 1940)
XUẤT XỨ:
Trên đường lưu cư Đức Huỳnh
Giáo Chủ phải trải qua Châu Đốc, Sa Đéc rồi được đưa đến làng Nhơn Nghĩa (Cần
Thơ). Cũng nhờ bà Võ Mậu Thạnh hiệp cùng Cô Hai Gương đứng xin, nên người Pháp
cho Đức Thầy về xứ Xà No. Đây là quê hương của ông Võ Mậu Thạnh, bà Thạnh có lẽ
đã quy y lúc ở Tổ Đình Hòa Hảo nên có mặt trên chuyến đi Sa Đéc. Như ta được biết
vùng Cần Thơ cách Tổ Đình khoảng 100 km thuộc về sông Hậu. Thời Pháp thuộc gọi
là Tây Đô, thời Cộng Hòa là vùng 4 chiến thuật và thời cách mạng là Quân khu 9.
Từ Sa Đéc đến làng Nhơn Nghĩa, cách 14 ngày Đức Giáo Chủ sáng tác bài “ĐẾN LÀNG
NHƠN NGHĨA” vào ngày 29 tháng 04 năm Canh Thìn. Cũng như ở Sa Đéc, Ngài sáng
tác trong công cuộc truyền bá, kỷ niệm những ngày lưu cư ở xứ sở quê người thân
tặng ông bà Võ Mậu Thạnh và tín đồ trong những ngày xa vắng.
VĂN THỂ:
Đức Giáo Chủ viết bài này bằng
thể văn Song thất lục bát biến thể. Vô 2 câu đầu Ngài viết lối văn lục bát. Khoảng
giữa bài Ngài dành trọn vẹn 11 bài thất ngôn tứ cú Đường luật liên hoàn thi và
có xen bài khoán thủ đề tên Võ Mậu Thạnh. Đoạn sau và đến rốt bài Ngài viết lối
song thất lục bát và có xen vài câu lục bát. Khởi đầu bằng câu: “Vui mừng gặp
chốn hiền lương”, và chấm dứt bởi câu: “Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần”,
dài 86 câu.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ thấy lòng
người ly tán, trà trộn tà tâm nên Ngài đem đạo huyền thâm đến phổ độ. Kế đó
Ngài luận giải về nợ luân thường con người đã vay mang phải lo đền đáp, rồi
Ngài luận về bản tâm thanh tịnh của mình sẵn có từ đời vô thỉ. Sau rốt Ngài chỉ
rõ Bát Chánh Đạo và nguồn gốc phát sinh pháp môn này. Đồng thời diễn tả ngày tận
diệt hầu kề để khuyên người lo tu tỉnh.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ quyết tâm
đem nền Đạo Học Phật Tu Nhân lan tràn khắp chốn để phổ độ người lành. Kế đó
Ngài kêu gọi đoàn kết để cứu nguy dân nước và lo tu hành giải khổ, tìm kiếm bản
tâm thanh tịnh để thật thi đúng nền đạo vô vi của Phật Thích Ca.
CHÁNH VĂN:
1.- “Vui mừng gặp chốn hiền
lương,
Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ
dân.
Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn,
4.- Thấy dương-trần trà-trộn
tà tâm.
Oai Thần đem đạo huyền thâm,
Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai
hay”.
CHÚ THÍCH:
HIỀN LƯƠNG: Hiền
lành tốt đẹp. Đức Thầy có câu: “Phật từ bi độ tử độ sanh, Là độ kẻ hiền lương
nhơn ái”.
PHẬT ĐƯỜNG: Nhà
Phật hay Đạo Phật. Ngoài ra còn có nghĩa: Con đường về cõi Phật. Đức Thầy có
câu: “Chốn Phật đường rán trau đức hạnh”. Hoặc: “Tìm con lành dắt lại Phật đường”.
NHƠN NGHĨA: Địa
danh một xã ở thành phố Cần Thơ. Tiếng địa phương còn gọi là Xà No.
DƯƠNG TRẦN: (Xem
chú thích bài DPQM, Quyển Hạ, tập 1/2,...)
TRÀ TRỘN: Lẫn lộn
xen lẫn nhau.
OAI THẦN: Oai lực
Thần Thánh. Đức Thầy có câu “Ơn nhờ chư Phật oai thinh giáo truyền”.
HUYỀN THÂM: Huyền:
Mầu nhiệm kín đáo. Thâm: Sâu xa. Mầu nhiệm sâu xa.
NHIỆM MẦU: Còn gọi
là mầu nhiệm, huyền diệu sâu kín. Đức Thầy có câu: “Chừng ni mới thấy nhiệm mầu
của Ta”.
PHỔ ĐỘ: Phổ:
Khắp cả, tất cả. Độ: sang qua. Cứu độ và tế độ khắp cả chúng sanh thoát khỏi chốn
mê đồ. Đức Thầy có câu: “Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi phổ độ
chúng sanh A Di Đà Phật”.
ÂM THẦM: Lặng
lẽ, kín đáo. Đức Thầy có câu: “Tự giác âm thầm kiến Tiên bang”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 6)
Đức Tôn Sư PGHH tỏ sự hân hoan
khi bước đến làng Nhơn Nghĩa vì làng này có nhiều người hiền lương đức hạnh nên
Ngài dốc lòng khai mở mối Đạo mầu tại đây.
Song càng đi sâu vào lòng người,
Ngài thấy có số người không thật tâm trà trộn vào để quấy nhiễu nhưng Ngài cũng
quyết tâm dùng oai lực Thần Thánh đem mối Đạo lành ban rải khắp nơi bằng phương
pháp âm thầm kín đáo.
CHÁNH VĂN:
7.- “Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn,
Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng
nhau.
Lê-dân trăm họ xáo-xào,
10.- Rã-rời phụ tử, máu đào
nhuộm tuôn.
Thương quá sức bắt cuồng tâm
não,
Quyết cứu người dùng Đạo phổ
thông.
Ước-mơ cho được đại-đồng,
14.- Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng
thảnh-thơi.”
CHÚ THÍCH:
MẸO ĐÃ HẾT: Tức
năm Kỷ Mão (1939)
RỒNG: Năm
Canh Thìn (1940); năm Đức Thầy đến làng Nhơn Nghĩa.
VƠ VẨN: Bâng
quơ không nhất định. Đức Thầy có câu: “Mèo lui rồng tới bay vơ vẩn”.
HOÀN CẦU: Khắp
cả trái đất, các nước trên thế giới. Nghĩa rộng: Hành tinh đang quay xung quanh
hệ mặt trời. Bề mặt tính được 511.000.000 km, vòng tròn 140.000.000 km. Đường
trực kín 12.740 km. Riêng biển chiếm 3/4 diện tích mặt địa cầu. Đức Thầy có
câu: “Khắp hoàn cầu ó ré một nơi”.
LÊ DÂN: Dân
đen. Chỉ chung mọi người.
TRĂM HỌ: Chỉ
chung tất cả mọi người.
XÁO XÀO: Rầy
rà, xung đột. Nghĩa bóng: Cảnh tranh đua giành giựt gây ra xung đột, hay cảnh
chiến tranh giặc giã.
RÃ RỜI: (Xem
chú thích bài Nang Thơ Cẩm Tú…)
PHỔ THÔNG: Phổ:
khắp nơi. Thông: suốt khắp. Thông suốt tất cả mọi nơi. Đức Thầy có câu: “Chớ
cũng mừng được dịp phổ thông”.
ƯỚC MƠ: Mong
mỏi, hy vọng. Đức Thầy có câu: “Người đời lòng những ước mơ”.
ĐẠI ĐỒNG: Đại:
To lớn. Đồng: Cùng khắp. Rộng khắp mọi nơi. Nghĩa bóng: Không phân biệt giai cấp,
bình đẳng rộng khắp thế giới. Đức Thầy có câu: “Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng”.
TRÀN TRỀ: Ngập
đầy, tràn ngập tất cả. Đức Thầy có câu: “Dục dân tâm sôi nổi tràn trề”.
LẠC HỒNG: Còn gọi
là Hồng Lạc, tức họ Hồng Bàng sanh Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên nước Việt
Nam. Gọi chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là Hồng Lạc; tức Tổ tiên người Việt
Nam. Cổ thi có câu:
“Nhớ câu mộc bổn thủy nguyên,
Cháu con Hồng Lạc lưu truyền
ngàn xưa”.
Đức Thầy cũng bảo: “Quyết chí
nâng niu giống Lạc Hồng”.
THẢNH THƠI: rảnh
rang, thung dung, không bận lo nghĩ. Ca dao có câu:
“Bao giờ đồng ruộng thảnh
thơi,
Ngồi trâu thổi sáo vui đời Thuấn
Nghiêu”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 7 đến
câu 14)
Năm Mẹo đi qua năm rồng đã đến,
đó là năm Đức Huỳnh Giáo Chủ bị người Pháp lưu cư, cũng là năm thế giới nổi dậy
phong ba, hoàn cầu nghịch lẫn cùng nhau làm cho lê dân tan tác, cha con chồng vợ
chia ly, máu đào nhuộm đỏ khắp nơi.
Nhìn cảnh dầu sôi lửa bỏng,
lòng Đức Huỳnh Giáo Chủ đau đớn vô ngần, tâm não bắt cuồng loạn. Ngài quyết định
cứu người, đem đạo mầu ban rải khắp nơi nơi, Ngài ước mong toàn dân hiệp chí đồng
chung lo cho tình hòa hảo chan hòa trong vũ trụ. Mọi người đồng hưởng cảnh
thanh bình, khắp cả nước Việt Nam giống Hồng Lạc được thảnh thơi an lạc.
CHÁNH VĂN:
15.- “Nhìn vạn vật cuộc đời
ngao-ngán,
Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
18.- Vẽ tranh Thiên tạo Bồng-Lai
cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm,
Dắt hồn người hắc ám khỏi
mang.
Cầu cho cuối xóm cùng làng,
22.- Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng
yên thân”.
CHÚ THÍCH:
VẠN VẬT: Nói
chung muôn loài và vạn vật. Những gì ta thấy chung quanh, bao gồm: cây cỏ, sông
núi, các loài động vật và con người. Đức Thầy có câu: “Phá bức tường mây nhìn vạn
vật”.
NGAO NGÁN: Buồn
rầu, chán nản. Đức Thầy có câu: “Ngao ngán tình đời gẫm cuộc âu”.
THÙ OÁN: Cừu
thù oán hận. Cưu mang trong lòng chờ ngày phản công mới nguôi ngoai. Ca dao có
câu:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng
chẳng quên”.
THIÊN TẠO:
Thiên: Trời. Tạo: gầy dựng, tạo lập. Cảnh thiên nhiên tạo hóa đã sắp bày.
BỒNG LAI: Còn gọi
là Bồng Hồ. Một trong ba hòn đảo ở biển Bột Hải: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh
Châu. Ý chỉ cảnh Tiên, tiêu diêu thoát tục. Đức Thầy có câu: “Bồng Lai Điên dại
có ngôi”.
PHÙ SINH: Phù:
nổi. Sinh: sống. Kiếp sống nổi của con người. Nghĩa bóng: Kiếp sống con người
và vạn vật rất ngắn ngủi, như đám mây bay, như bọt nước nổi đầu ghềnh dễ bị tan
biến. Đức Thầy có câu: “Phù sinh nhược mộng đời lao khổ”.
HẮC ÁM: Nơi tối
tăm. Đức Thầy có câu: “Quyết chỉ nẻo lánh vòng hắc ám”. Hoặc:
“Khá chí tâm học hành kinh
sám,
Thoát nơi miền hắc ám phong
ba”.
PHẬT ĐÀNG: Đàng
về cảnh Phật, nhà Phật.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 15 đến
câu 22)
Đức Tôn Sư PGHH nhìn suốt cả vạn
vật thấy cuộc đời thật là ngao ngán vì trên thế giới ngày nay từ con người đến
thú cầm sanh vật sống chỉ biết gây nợ máu với nhau, ân oán giang hồ trả vay vay
trả.
Định luật thiên nhiên rất là
công lý không hề tư vị một ai. Hóa công hết vẽ hình rồi đến vẽ mây, có khi vẽ cả
bức tranh thủy mặc: trời đất, cỏ cây, sông núi, non bồng nước nhược, Tiên Phật
lâm phàm cứu thế độ dân.
Có lúc vẽ cả cuộc sống bấp
bênh, số phận con người sinh trong cõi tạm. Đức Tôn Sư PGHH nhận chân được cuộc
đời nên Ngài cương quyết dìu dẫn nhơn sanh thoát vòng mê khổ, đồng thời Ngài cầu
nguyện thế giới bình an, già trẻ gái trai tu hành tinh tấn và gặp được muôn điều
phúc lạc.
CHÁNH VĂN:
THI:
23.- “Luân-thường nặng nợ phải
vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng.
Cố-gắng tâm trì theo đến chốn,
26.- Một ngày vinh-diệu ắt bằng
an.
* * *
Bằng an bốn biển khỏi đua
tranh,
Bởi khắp bá gia được chí lành.
Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ,
30.- Về nơi Tiên cảnh mới nhàn
thanh”.
CHÚ THÍCH:
LUÂN THƯỜNG: Luân:
giềng mối, đạo lý. Thường: đạo thường hằng, phép tắc thông thường mà ai ai cũng
biết. Những phép tắc thường hợp đạo lý. Theo Nho giáo luân thường còn gọi Ngũ
luân (Đạo vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em và bè bạn). Ngũ thường: Nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Đức Thầy có câu: “Ấy chẳng qua là đạo luân thường”.
NHUẦN GỘI: Thuần
thục chan hòa, lan tỏa khắp mọi nơi. Đức Thầy có câu: “Nhuần gội ơn trên rải đạo
mầu”.
THỪA ÂN: Cũng gọi
là ân thừa, chịu ơn của người khác. Trong Cung Oán có câu: “Thừa ân một giấc
canh tài”.
PHẬT ĐƯỜNG: Đạo
Phật, nhà Phật.
CỐ GẮNG: rán sức
dù bị cản trở cũng rán lướt qua. Thí dụ: Cố gắng học hành, làm ăn phải cố gắng
mới khá. Đức Thầy có câu: “Cố gắng tâm trì theo đến chốn”.
TÂM TRÌ: Cũng
gọi là trì tâm. Tâm: lòng. Trì: gìn giữ. Gìn giữ tâm luôn được trong sạch.
VINH DIỆU: Vinh:
vẻ vang. Diệu: sáng, rực rỡ. Đức Thầy có câu: “Đất với nước hậu lai vinh diệu”.
BẰNG AN: Cũng
gọi bình an hoặc bường an. Mạnh giỏi không việc gì trắc trở.
BỐN BIỂN: Bốn
biển lớn ở chung quanh quả địa cầu gồm: Nam Băng Dương, Bắc Băng Dương, Đại Tây
Dương và Thái Bình Dương, chỉ chung thế giới.
CHÍ LÀNH: Đến
chỗ tột lành.
TIÊN CẢNH: Còn gọi
cảnh Tiên. Cảnh hoàn toàn thoát tục. Tương truyền nơi biển Bột Hải có mọc hòn đảo
để dành Tiên ở. Cảnh siêu thoát.
NHÀN THANH: Còn gọi
thanh nhàn. Thanh bạch, nhàn nhã, nơi tự tại an vui, thoát vòng sanh tử.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 23 đến
câu 30)
Làm thân con người nợ luân thường
luôn nặng gánh, với thời mạt pháp lại được nhuần gội thừa ân của chư Phật ban
cho nên ta phải cố gắng tu trì theo đến nơi đến chốn. Đến ngày hội thi nếu thân
ta còn, không có vinh diệu nào bằng “Chừng đó xe Tiên thế dép giày”, đất nước
khỏi còn tranh đua giành giựt. Mọi người đều biết tu hành đến chỗ tột lành. Hằng
ngày chỉ biết trau tâm sửa tánh, từ phàm tâm rèn đúc trở nên Phật Thánh, từ con
người chạy theo văn minh vật chất giờ đây lại biết quay về cội cũ “Gốc ông cha
ta cũng tu hành” nên được chư Phật rước về Bồng Lai tiên cảnh hưởng cuộc đời
nhàn lạc âu ca.
CHÁNH VĂN:
31.- “Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm
nơi tâm,
Phật cũ này xưa hãy rán tầm.
Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ,
34.- Non Thần biến đổi hết rừng
lâm.
* * *
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
38.- Tới thời thượng-cổ điểu
hòa mai”.
CHÚ THÍCH:
NHÀN THANH: (Xem
chú thích đoạn trước).
PHẬT CŨ: Phật
xưa. Ông Phật từ vô thỉ. Theo kinh Phật cho biết: “Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”.
Hoặc câu: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Đức Thầy bảo “Các chúng
sanh đều có như ta”. Căn cứ theo đó: mỗi chúng sanh đều có Phật tánh. Nhưng:“Phật
đi Phật biết đàng về, Mình đi mình lạc u mê tại mình” (TS). Ông Phật này vốn tại
tâm, ngoài tâm không có Phật. “Phật tại tâm chớ có đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên
non núi”. Vậy tâm ta ở đâu? – Tâm ở chỗ thức biết, cũng gọi là Giác. Nếu giác
là Phật, mê là chúng sanh. Các Phật ba đời đều tu từ chỗ tâm đó. Nếu ta tự biết
tâm chúng sanh tức là biết tâm Phật vì tâm Phật cũng chính từ đó mà sinh. Đó
chính là Phật cũ, Phật từ vô thỉ như ta bàn giải ở đoạn trước.
SUM SÊ: Như
tiếng sum xê: Rậm rạp, tươi tốt.
NON THẦN: Núi
có các sơn thần trấn giữ. Nghĩa bóng: núi linh thiêng.
RỪNG LÂM: Đồi
núi có nhiều cây cối rậm rạp, hoang vu vắng vẻ.
NĂM NON: Năm
cái chóp cao còn gọi là vồ trên núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn).
1/. VỒ BỒ HONG: Cao 716 m, khi
xưa ít người lai vãng, giống Bồ Hong sanh sản nhiều vô số nên gọi là vồ Bồ
Hong.
2/. VỒ ĐẦU: Cao 584 m, có thể
là cái vồ đầu tiên mà người ta nhìn thấy khi lên núi từ ngã Thum Chưng.
3/. VỒ BÀ: (Phnom Barech) cao
579 m. Ở đây vô số điện thờ bà Chúa Xứ.
4/. VỒ ÔNG BƯỚM: Ông Bướm và
ông Vôi là tướng của Cao Miên đã qui thuận với Đức Cố Quản (Trần văn Thành) sau
về núi tu hành đến ngày đắc quả.
5/. VỒ THIÊN TUẾ (Phnom
Prapeal) cao 514 m. Ngày xưa ở đây có bãi thiên tuế rộng lớn. Đức Thầy có câu:
“Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi, Miền Bảy Núi ngày sau báu quí”.
CÁC ĐÀI: Còn gọi
là đài các. Các: gác, lầu. Đài: cái đài rộng. Đức Thầy có câu: “Đặng xuê xang
đài các xe tàu”.
TỤC CỔ: Nề nếp
xưa kia, trước kia. Đức Thầy có câu: “Noi tục cổ xác Khùng để tóc”. Hoặc: “Huy
hoàng tục cổ của ông cha”.
THƯỢNG CỔ: Còn gọi
là Thượng Nguơn (thời xa xưa) trước thời Trung cổ. Đức Thầy có câu: “Huờn lai
Thượng cổ mới bình yên”.
ĐIỂU HÒA MAI: Điểu:
chim; Hòa: hòa hợp; Mai: là cây mai. Điểu hoà mai: chim đậu cành mai. Nghĩa bóng:
Ngày chúa tôi sum họp, thầy tớ gặp nhau.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 31 đến
câu 38)
Nhân lúc rảnh rang chúng ta cần
quay lại tìm kiếm bản tâm mình, Phật cũ ngày xưa còn lẩn khuất trong đó. Chúng
ta phải tri nguyên tận nguồn gốc để biết rõ: tâm này do đâu sanh, sanh ra để
làm gì? Và khi chết tâm nó đi về đâu? Một khi giải đáp được thắc mắc trên, hành
giả mới khổ công tu luyện để trở về bản tánh nguyên thỉ. Bản tánh đó và Phật
tâm chứng đắc ngày hôm nay nó chỉ là một. Thi dụ: thân này xưa lầm lỗi và thân
này ngày nay giác ngộ cũng một xác thân, chừng đó mới bật ngữa.
Khi hành giả tìm được Phật
xưa, tìm được tâm hằng hữu của mình, té ra chính mi là ông chủ ngàn đời của xác
thân ta; siêu hay đọa cũng do mi; Tiên, Phật, thánh, phàm, ma quỉ cũng tại mi
“Cái chữ tâm mà quỉ hay ma, Tiên hay Phật cũng là tại nó”.
Hôm nay, ta đã biết rồi, mi
không còn trốn chạy đi đâu được. Ta sẽ truy cứu, mổ xẻ mi từng mảnh vụn để cho
ta được thăng hóa về cõi an lành miên viễn.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết,
khi ta kiếm được Phật cũ, cũng là ngày thế giới hòa bình, toàn dân vui vẻ, họp
mặt tại vùng Sơn Cấm. Và non Thần sẽ biến đổi hết rừng lâm: cỏ cây, hoa lá sum
suê thạnh mậu.
Hiện giờ núi Cấm tuy thấy toàn
là cây đá, nhưng bên trong nó ẩn chứa tòa lâu đài bằng ngọc ngà châu báu của Đức
Thánh Quân trong tương lai. Tòa lâu đài đó đang chờ đợi con hiền noi theo cổ lệ
xưa, thân tuy ô trược, tâm tợ Thánh đức. Và chừng đó cuộc đời sẽ biến đổi cảnh
Thượng Nguơn an lạc, tôi chúa tương phùng, thầy trò hiệp mặt giống như chim đậu
được cành mai.
CHÁNH VĂN:
39.- “VÕ-võ đêm thanh nức giọng
vàng,
Kiểng cây sum MẬU đượm nùi
nhang.
Phù dung rã gánh thân yên nhã,
42.- THẠNH thới gia trung gặp
chữ nhàn.
* * *
Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên,
Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền.
Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
46.- Lánh đời tục lụy rứt tiền
khiên.
* * *
Tiền khiên kiếp tạo bởi trần
thân,
Đạo diệu giồi-trau lập chí cần.
Luyện tánh, trau tâm cho sạch-sẽ,
50.- Rứt rồi nợ thế khỏi
ưu-phiền.
* * *
Ưu-phiền thường sự chốn ta-bà,
Phật cảnh mau về ắt lánh xa.
Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
54.- Phủi trần tìm kiếm chữ
Ma-ha”.
CHÚ THÍCH:
VÕ VÕ: Còn gọi
là vò võ, buồn bã một mình. Truyện Kiều có câu: “Song sa vò võ phương trời”.
ĐÊM THANH: Đêm vắng
vẻ, không tiếng động. Ông Hoàng Xuân Hãng có câu:
“Đồn rằng núi Lục có thầy
Tiêu,
Ngồi nhìn đêm thanh lắng muỗi
kêu”.
Đức Thầy có câu: “Đêm thanh vắng
tiếng đờn khoan nhặt”.
NỨC GIỌNG VÀNG: Nức
tiếng kêu gọi lời lành. Nghĩa bóng: hằng đêm Đức Tôn Sư PGHH nức lời kêu gọi
ông Võ Mậu Thạnh.
SUM MẬU: Sum:
đoàn tụ. Mậu: thạnh vượng. Sum hợp một cách thạnh vượng.
ĐƯỢM MÙI NHANG: Đượm
mùi hương khói. Nghĩa bóng: đượm mùi đạo hạnh.
PHÙ DUNG: Tên một
loài hoa đẹp, hoặc đơn hoặc kép, nở vào mùa xuân. Bạch Cư Dị xưa dùng hoa phù
dung để ví với người đàn bà đẹp: “Phù dung như diện, liễu như my” (Diện mạo như
hoa phù dung, lông mày như liễu rũ). Trong Cung Oán có câu: “Vẻ phù dung một
đóa khoe tươi”.
Nhưng chữ phù dung ở đây Đức
Tôn Sư dùng tiếng lóng trong giang hồ. Nghĩa bóng: Hút á phiện.
PHÙ DUNG RÃ GÁNH: Ông
Võ Mậu Thạnh bỏ hẳn được nghề hút á phiện.
YÊN NHÃ: Yên:
Yên ổn. Nhã: Lịch sự, thanh tao, có lễ độ. Yên nhã: người lịch sự thanh bai và
có lễ độ.
THẠNH THỚI: Thạnh:
Lớn lao. Thới (thái): yên vui. Nghĩa bóng: Cảnh thanh bình thạnh trị. Đức Thầy
có câu: “Vận bĩ xa chờ câu thạnh thới”.
GIA TRUNG: Gia:
nhà. Trung: trong. Tại nhà. Đức Thầy có câu: “Chừng nào Thầy lại gia trung”.
CHỮ NHÀN VÔ SỰ MỚI NÊN
TIÊN: Do câu: “Vô sự vô lự tiểu Thần Tiên”, được
nhàn, biết nhàn mới là người biết đủ. Ông Nguyễn Công Trứ có câu: “Tri túc, tiện
túc, đãi túc, hà thời túc, Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn”. Nghĩa
là Người biết đủ dù sống hoàn cảnh nghèo cũng biết đủ; Kẻ biết nhàn dù sống
hoàn cảnh bận rộn cũng được nhàn. Qua ý trên ta nhận thấy: Sống hoàn cảnh nào
không để tâm lo nghĩ như người vô sự mới nên Tiên được.
BÁT NHÃ: Nói
cho đủ: Ma ha bát nhã ba la mật đa. Nghĩa là: Trí huệ rộng lớn qua được bờ bên
kia, là một trong lục độ vạn hạnh: Bố thí, nhẫn nhục, trì giới, tinh tấn, thiền
định, trí huệ.
BÁT NHÃ TỪ ĐÂY GẶP CỬA
THIỀN: Trí huệ của ông Võ Mậu Thạnh giờ đây gặp nền Đạo
chơn chánh đúng với đường lối chân truyền vô vi Phật Tổ.
BỂ GIÁC: Còn gọi
bến giác. Bờ giác ngạn đối với bờ mê.
BỜ MÊ: Bờ mê
khổ. Cõi tục phàm.
BỂ GIÁC BỜ MÊ NGÀY VƯỢT
KHỎI: Nếu ta bước thẳng qua bờ giác ngạn, có ngày ta
xa hẳn được bến mê.
TỤC LỤY: Tục:
chỉ cõi trần tục. Lụy: ràng buộc. Những việc ràng buộc cuộc đời tục lụy.
TIỀN KHIÊN: Tiền:
trước. Khiên: lỗi lầm. Những điều lỗi lầm trước kia. Đức Thầy có câu: “Nợ hồng
trần túc trái tiền khiên”.
ĐẠO DIỆU: Đạo:
con đường của tâm hồn; Đạo là bổn phận; Đạo là chơn lý tuyệt đối. Diệu: Tốt đẹp,
mầu nhiệm. Con đường đưa đến nơi tốt đẹp mầu nhiệm “Mùi đạo diệu gỏi nem khó
sánh”.
DỒI TRAU: Dồi:
Dồi mài. Trau: Trau chuốt. Sửa soạn cho hoàn hảo. Nghĩa rộng: Cố rèn luyện tu tập
cho thuần thục công việc trong chứng đắc. Đức Thầy có câu: “Thường trau dồi chí
hướng cao thanh”.
LẬP CHÍ: Nuôi
dưỡng ý chí để đạt mục đích.
LUYỆN TÁNH: Rèn
luyện tánh đức trở thành người tốt, gương tốt. Nhưng ở đây Đức Thầy dạy: Luyện
tánh mình hết ô nhiễm trở thành người thoát tục.
TRAU TÂM: Trau:
sửa. Tâm: lòng. Trau sửa lòng cho trong sạch để đạt mục đích giải thoát.
SẠCH SẼ: Không
dơ bẩn. Nghĩa bóng: Sự trong sạch thể xác lẫn tinh thần.
ƯU PHIỀN: Lo âu
phiền muộn. Đức Thầy có câu:
“Nào vợ đẹp hầu xinh là lụa,
Không được thì bực tức ưu phiền”.
TA BÀ: Còn gọi
là Sa bà. Phạn ngữ: Sa ha. Dịch nghĩa: Kham nhẫn. Cổ nhân có câu: “Ta bà khổ,
ta bà khổ, Ta bà chi khổ tùy năng sổ”. Tức là cõi chúng ta đang sống. Đức Thầy
có câu: “Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”.
PHẬT CẢNH: Cõi
Phật, nơi Phật ngự. Nói chung cảnh giới của chư Phật. Đức Thầy có câu: “Cả vạn
vật đồng về Phật cảnh”.
TỈNH NGỘ: Tỉnh:
không còn say, không còn mê man. Ngộ: biết. Hiểu rõ điều sai lầm để sửa đổi. Đức
Thầy có câu: “Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt”.
PHỦI TRẦN: Rứt bỏ
nợ trần. Nghĩa rộng: Con người thoát tục.
MA HA: Phạn
ngữ Ma ha. Dịch nghĩa: Rộng lớn. Sự rộng lớn ví như hư không, đồng bản thể với
đạo tâm. Nói đến Ma ha là nói đến đại đạo, cái gốc để hoàn nguyên phản bổn, trực
kiến chơn như tự tánh. Đức Thầy có câu:
“Biết khôn tìm kiếm ma ha”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 39 đến
câu 54)
Hằng đêm Đức Tôn Sư PGHH nức lời
kêu gọi ông Võ Thạnh Mậu. Hiện giờ gia đình ông được sum hợp đậm mùi đạo hạnh
và chứng nghiện á phiện lần lần rứt bỏ. Sau đó Đức Thầy cầu cho gia đạo ông an
khang thịnh vượng và hưởng sự an lành.
Làm thân người phải sống an
nhiên, bớt lo nghĩ việc đời mới được hưởng cảnh tiêu dao tự tại của cõi Thần
Tiên. Và từ đây ông Mậu sẽ gặp Ma ha bát nhã, đại đạo thiền na của Đức Phật Tổ
ngày xưa di truyền lại. Nếu ta quyết tầm bể giác thì bờ mê ngày kia sẽ vượt khổ,
và ta sẽ xa lánh xiềng xích ràng buộc từ lâu nó vay trả, trả vay.
Đức Tôn Sư cho biết nợ tiền
khiên nếu ta không buông bỏ, càng ngày làm khổ xác thân. Vậy ngày nay ta cương
quyết lánh xa, lo trau giồi đạo hạnh bằng cách phải lập thân nuôi chí cho cây bồ
đề sum suê nảy nở, trau tâm luyện tánh cho tinh minh để dứt xong nợ thế.
Những điều phiền muộn ưu tư vốn
là thường sự ở cõi Ta bà. Nếu ta quyết nương về Phật cảnh tức lần lần nhẹ bớt
nghiệp trần. Ông Mậu Thạnh ơi! Từ đây đã gặp minh sư rồi, hằng ngày ông hãy phủi
hết trần duyên tìm nguồn đại đạo để thông đạt chân lý siêu mầu của Phật giáo.
CHÁNH VĂN:
55.- “Ma-ha mùi ngọt mật cùng
đa!
Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà.
Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo,
58.- Nào khờn dạ ái của thiền-gia.
* * *
Thiền-gia chí cả dốc hành
thân,
Diệu diệu truyền thi cảm kích
thần.
Những tưởng thói đời ôi chát lạt!
62.- Đạo mầu siêu-việt của thiền
lâm.
* * *
Thiền lâm Phật Thích thuở xưa
kia,
Non tuyết rèn ra bát chánh
kìa.
Phổ hóa dân lành trong khắp
chúng,
66.- Hoàn-cầu bốn biển khắp
danh bia”.
CHÚ THÍCH:
MA HA MÙI NGỌT MẬT CÙNG
ĐA: Nền Đại Đạo là mùi vị ngọt ngon, giá trị cao
quí trên đời, không có cái gì sánh bằng, hơn các loại mật thiệt. Vì mật có giá
trị tương đối thế gian, vì nó hữu hình. Còn mùi đạo vị giá trị tuyệt đối xuất
thế gian bởi nó vốn vô hình. Đức Tôn Sư PGHH xác định như sau: “Trên dương thế
hữu hình tắc hoại”. Mật giá trị chỉ dùng làm thuốc trị thân bệnh. Nguồn Đại Đạo
siêu xuất suốt thời gian và cả không gian, muôn năm vẫn còn và đưa con người
siêu phàm nhập thánh, thoát đọa trầm luân.
LŨ CÁO XÀ: Bầy cáo
và rắn. Nghĩa bóng: Chỉ số đông giặc Pháp hung tợn.
MÚA GÚT NHĂN NANH: Chỉ
lơài thú dữ tợn. Nghĩa bóng: Giặc Pháp tung hoành khắp miền Nam Việt Nam.
THIỀN GIA: Nhà
thiền. Chỉ nền Đại Đạo.
CHÍ CẢ: Chí lớn
hơn người. “Chí giải thoát mới gọi là chí cả”. Đức Thầy có câu:
“Nam nhi mang chí cả,
Bao tấm lòng sắt đá”. (Bài Chí
Nam Nhi)
HÀNH THÂN: Hành
đạo. Trau sửa bản thân.
DIỆU DIỆU: Sâu
thật sâu. Ý nói: Nền Đạo thật thâm sâu không có gì sâu bằng.
TRUYỀN THI: Truyền:
trao cho. Thi: thơ văn. Truyền lại bằng thơ văn.
CẢM KÍCH THẦN: Cảm
kích: Gây cảm xúc làm cho người cảm động. Thí dụ: Giọng du dương não nuột kích
cảm cả tâm hồn. Thần: Tôi. Nghĩa rộng: Làm tín đồ xúc động mạnh.
NHỮNG TƯỞNG THÓI ĐỜI ÔI
CHÁT LẠT: Theo quan niệm nhân sinh của người đời nay cứ
tưởng thói đời thật ê chề chua chát. Nghĩ như vậy xét thấy còn khiếm diện, cục
bộ, không có lối thoát. Thật ra trên đời dù lắm khúc quanh, nhiều khi cũng có một
hai ngã tắt vì nó nằm trong vòng tương đối.
ĐẠO MẦU: Đạo:
Tôn giáo, vừa khế cơ khế lý. Mầu: Là cao sâu mầu nhiệm. Một con đường hay một nền
Đạo vừa cao sâu vừa đúng chơn lý, vừa hợp căn cơ của chúng sanh. Thí dụ: PGHH,
Cao Đài giáo…
SIÊU VIỆT: Siêu:
vượt lên trên. Việt: vượt qua. Siêu việt: Vượt lên trên tất cả mọi người. Đức
Thầy có câu: “Đạo mầu siêu việt tập đề là đây”.
THIỀN LÂM: Thiền:
Cửa chùa, cửa Phật. Lâm: rừng. Còn gọi là rừng thiền, nơi tu hành yên tĩnh. Đức
Thầy có câu: “Đuốc thiền lâm phương Đông chói ánh”.
PHẬT THÍCH: Nói đủ
Phật Thích Ca, Giáo chủ cõi Ta bà. Một vị trên thông thiên văn, dưới đạt địa
lý, trung quán nhân sự. Có đầy đủ tam giác: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn. Đức Thầy có câu:
“Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao
sâu, Hãy tìm kiếm cái không mới có. Ngôi Tam bảo phải thờ trần đỏ, Tạo làm chi
những cốt với hình. Khùng nói cho già trẻ làm tin, Theo Lục Tổ chớ theo Thần
Tú”. (Q. II)
BÁT CHÁNH: (Xem
STTĐ, trang 35….)
PHỔ HÓA: Phổ:
rộng rãi, khắp nơi. Hóa: dạy dỗ. Phổ hóa: Dạy dỗ khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Phổ
hóa hiền nhơn kiến Phật Tiên”.
HOÀN CẦU: Khắp cả
trái đất, các nước trên thế giới. Nghĩa rộng: Hành tinh đang quay xung quanh hệ
mặt trời. Bề mặt tính được 510 triệu km2, vòng tròn 140.000 km, đường trực kính
12.700 km. Riêng biển chiếm 3/4 diện tích mặt địa cầu. Đức Thầy có câu: “Hoàn cầu
đến đó ấm cùng no”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 55 đến
câu 66)
Nền Đạo Phật thật cao sâu huyền
diệu ví nó như mật ngọt. Xét ra hơn mật ngọt rất nhiều vì mật ngọt chỉ làm thuốc
thế gian, giải trừ thân bệnh. Trái lại nền đại đạo đưa hành giả thoát ly sinh tử,
siêu xuất cả không gian và thời gian.
Cuộc đời là trường tranh đấu,
mạnh được yếu thua. Tâm chúng sanh phần đông chứa ngầm độc ác. Hơn nữa lại áp
phe với loài giặc mạnh, cõng rắn cắn gà nhà, nhăn nanh múa gút ưa đồ thịt béo.
Nhìn cảnh bi đát trên lòng Đức Tôn Sư càng thêm cám chạnh, nên Ngài bày tỏ tấm
chân tình đạo đức, tình yêu nhân loại thật tràn trề lai láng: “Yêu để cứu chớ
không yêu để hại”, để nhơn sanh bớt hoài nghi, bớt hiểu lầm giá trị cao quí của
nền Đạo Phật.
Đạo Phật từ xưa đến nay luôn
mang chí cả. Một dòng máu bất khuất, nguyện độ tận chúng sanh thoát vòng sanh tử
và nguyện cởi mở xích xiềng dân tộc. Song song hai nhiệm vụ Đạo và Đời gắn liền
vào cuộc sống bản thân. Đức Huỳnh Giáo Chủ là chứng tích điển hình. Ngài đã từng
thể hiện hoài bão to tát: Chấn hưng đạo Phật và giải ách xích xiềng thế tục qua
bài “Chí Nam Nhi”:
“Nam nhi mang chí cả,
Bao tấm lòng sắt đá.
Thương giống nòi dẹp bã vinh
huê”.
Xu thế cuộc đời, người ta cứ
tưởng thói đời thật chua chát; ít ai hiểu rằng: “Ngoài cuộc phù du của trần thế,
có cái gì không di không dịch, vĩnh viễn trường tồn…”. Đó là đạo Phật.
Thật vậy, Đạo Phật rất thâm
thâm diệu diệu và hay dung hóa vào nếp sống nhân sinh. Dùng thi ca để cảm kích
lòng dân, để đưa vào những triết thuyết vô vi nhưng vô cùng thực tế, tùy thời đại
mà ứng dụng thích đương khắp mọi nơi mọi giới để chúng sanh nhận được chân giá
trị thực tiễn giáo lý siêu mầu của Phật Giáo. Ta có thể xác định: “Đời không Đạo
đời vô liêm sỉ, Đạo không đời Đạo biết dạy ai”.
Nguồn gốc đạo Phật phát tích từ
thời Thái tử Sĩ Đạt Ta giáng lâm tại Trung Ấn Độ (Nepal) đã cách nay trên 25 thế
kỷ qua. Ngài là một chúng sanh bằng da bằng thịt, dùng tâm bi, trí, dũng tầm ra
ánh Đạo vàng tại nơi non Tuyết, rừng Ưu Lâu Tần Loa, phía nam núi Tượng Đầu, gần
bờ sông Ni Liên Thuyền. Ngài tự rèn ra Bát Chánh Đạo và khi chứng đắc xong lần
đầu tiên, Ngài đi độ 5 anh em Kiều Trần Như cũng bằng pháp môn độc nhứt vô nhị
đó là “Tứ diệu đế và Bát Chánh Đạo”. Và từ độ ấy, Phật, Pháp, Tăng có đủ. Nền Đại
Đạo lưu hành toàn cõi Ấn Độ, lan rộng khắp các nước trên thế giới, thanh danh
Phật Thích Ca đời đời thế nhân ca tụng và tán dương “Công đức Phật từ bi vô lượng”.
CHÁNH VĂN:
67.- “Luồng thanh điển nhoáng
qua như chớp,
Chuyển căn tiền nhắc lớp người
xưa.
Phật, Tiên vận chuyển lọc-lừa,
70.- Kiếm con hữu phước mà đưa
trở về”.
CHÚ THÍCH:
THANH ĐIỂN:
Thanh: Tiếng. Điển (điện): chớp. Nguồn năng lượng do thiên nhiên hay con người
tạo ra. Thanh điển: Tiếng động do thiên nhiên tạo nên. Nghĩa bóng: Nền giáo
pháp có công năng giác ngộ chúng sanh một cách nhanh chóng.
CĂN TIỀN: Căn:
Gốc của mọi việc. Tiền: Trước kia. Nguyên nhân gốc rễ trước kia. Kinh Phật: Kim
sinh đoản mạng đa bịnh giả, Giai tùng sát nghiệp trùng lai (những người kiếp
này bị chết yểu, nhiều bệnh tật đều do nghiệp sát đi trước cả). Đức Thầy có câu:
“Rủi ốm đau bởi tại căn tiền”. (Q.V). Nhưng căn tiền ở đây ý Đức Thầy cho biết:
Ngài mượn xác tái sanh nối vai tuồng của Đức Phật Thầy xưa đã lưu lại.
VẬN CHUYỂN: Từ
nơi này đến nơi khác. Nghĩa rộng: xê dịch, xoay vần, không đứng yên một chỗ.
“Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển” (ĐT). LỌC LỪA: Lựa chọn.
HỮU PHƯỚC: Có phước.
Do tạo nhiều nhân lành. Thí dụ: Xả thân giúp đời. Hay làm những việc hữu ích
cho người và vạn vật.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 67 đến
câu 70)
Lời giáo pháp có công năng
giác ngộ chúng sanh nhanh chóng như lằng điện chớp. Đức Huỳnh Giáo Chủ xác minh
đã nhiều lần chuyển kiếp độ đời. Từ thế hệ BSKH đã qua, nay đến kiếp chót là
PGHH.
Mỗi lần tái sanh là mỗi lần chọn
lọc, tuyển chọn những bậc đại căn đại trí có nhiều phước đức đưa về ngôi vị sẵn
dành của từng cấp bực: Phật, Tiên, Thần, Thánh.
CHÁNH VĂN:
71.- “Ôi! khổ thảm bốn bề sóng
dậy,
Dòm lừng trời lửa cháy
liên-miên.
Tiêu-điều sản-vật điền viên,
74.- Thần-thông biến hóa dưới
miền Trung-Ương.
Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật
trừng.
Nhìn xa nước mắt rưng rưng,
78.- Thương đời mê muội trầm-luân
hoài hoài”.
CHÚ THÍCH:
LIÊN MIÊN: Liền
liền, luôn luôn, kéo dài tình trạng. Ca dao có câu: “Tỉnh ra lẳng lặng yên
nhiên, Tương tư bịnh phải liên miên cả ngày”. Nhưng ở đây ý nói: Lửa cháy kéo
dài không dứt. Nghĩa bóng: Chỉ cảnh giặc không phút nào yên.
TIÊU ĐIỀU: Lặng
lẽ, vắng vẻ (ngụ ý buồn rầu xơ xác). Trong Sở Từ có câu:“Sơn tiêu điều nhi vô
thú hề” (Núi tiêu điều mà không có thú vật hề). Đức Thầy có câu: “Thiền môn vẹn
vẻ quá tiêu điều”.
SẢN VẬT: Sản:
sinh ra. Vật: vật phẩm. Phẩm vật làm ra.
ĐIỀN VIÊN: Điền:
Ruộng. Viên: Vườn. Ruộng nương, vườn tược. Đức Thầy có câu: “Sơn hải điền viên
tất tảo nan”.
THẦN THÔNG: Phạn
ngữ : Rddi. Dịch: Linh diệu khôn lường, lưu thông tự tại vô ngại. Đức Thầy có
câu:
“Đạo gần đắc Ma Vương theo khuấy,
Dùng thần thông nghị lực dẹp
tan”. (Q.V)
TRUNG ƯƠNG: Chính
giữa, trung tâm quả địa cầu. Ngày xưa trái đất xoay cõi trung ương ở trung tâm
xứ Ấn Độ (Nepal) vào thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế. Sau đó cả ngàn năm đạo
Phật chuyển sang đất nước Trung Hoa thì trục địa cầu cũng xoay theo qua xứ
Trung Quốc, trung ương nhằm ở đất nước này. Sau 1.000 năm nữa trái đất xoay về
phương Nam thì cõi Việt Nam chúng ta nhằm trung tâm điểm của trục giao thông.
Nên hôm nay Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH xác định:
“Cõi Trung ương nhằm đất nước
Việt Nam,
Chọn một chàng tuổi trẻ tục
phàm.
Mượn tay gã tờ hoa thần hạ
bút”.
THẦN THÔNG BIẾN HÓA DƯỚI
MIỀN TRUNG ƯƠNG: Đất nước Việt Nam sau này các bậc Phật,
Thánh, Tiên đồng xuống thế. Bên Triệt giáo thì dùng thần thông, thiêu hủy quả địa
cầu, tiêu diệt loài người, biến hóa đủ thiên hình vạn trạng “Kêu trời giậm đất
cũng thì dạ rân”. Phía Xiển giáo thì ra tay cứu nàn bá tánh, dùng lộng phép
thâu phục bọn tà ma, quỉ quái. Cõi trần gian biến thành một tràng ác chiến dữ dội.
Người thật tu thì sống sót, kẻ gian tà dua nịnh phải một phen đền tội gớm ghê.
NGỤC MÔN ĐẦY QUỈ VÔ THƯỜNG,
DẮT HỒN KẺ BẠO DIÊM VƯƠNG LUẬT TRỪNG: Ám chỉ cảnh trần gian
đầy cảnh địa ngục. Quỉ vô thường luôn tìm kiếm bắt hồn người hung bạo để trừng
phạt, khảo tra, đày sắt. Ôi! Một thảm cảnh diễn ra chưa từng thấy ở quả địa cầu
này đã có trên 4.000 năm lịch sử của kiếp nhân sinh.
MÊ MUỘI: Mờ tối,
u mê. Đức Thầy có câu: “Yêu đời mê muội luống bầm gan”.
TRẦM LUÂN: Trầm:
chìm. Luân: trôi nổi. Lăn lộn trong cõi thế gian. Đức Thầy có câu: “Trầm luân
oan nghiệt càng gây thêm hoài”.
HOÀI HOÀI: Diễn
tiến liên tục, luôn luôn mãi mãi. Đức Thầy có câu: “Bệnh với tử từ kim chí cổ,
Sanh với già hai chữ hoài hoài”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 71 đến
câu 78)
Ôi! Cảnh khổ thảm của ngày tận
diệt nhơn loại trông vào thật là khiếp đảm. Dầu ta có lòng gan dạ sắt cũng phải
rùng mình: Chiến tranh giặc giã tứ bề bốn phía “Dòm lừng trời lửa cháy liên
miên” thiêu rụi tất cả con người và vạn vật. Thần thông của hai phe tà chánh
tranh nhau thi triển thật vô cùng hiểm ác. Một bên quyết lòng tiêu diệt nhơn loại.
Một bên ra tay cứu độ sanh linh, cả bầu trời đất địa rung rinh. Thật là cảnh
hãi hùng ác chiến chưa từng thấy ở lịch sử nhân loại. Hôm nay lại diễn ra tại
trung tâm điểm Việt Nam.
Địa ngục trần gian được diễn
ra trước mắt loài người, bao oan hồn uổng tử đến đòi nợ máu, quỉ vô thường đến
bắt hồn kẻ bạo khảo tra. Diêm Vương ra lịnh trừng phạt kẻ bất trung bất hiếu.
Nhìn cuộc đời gian truân khổ hải
mà hai hàng lệ của chư Phật Thánh rưng rưng chảy cũng vì quá thương đời mà ra cớ
sự này. Ôi! Đất nước đảo điên, lòng người ly tán, nhơn loại cứ trầm luân oan
nghiệt hoài hoài.
CHÁNH VĂN:
79.- “Tay hạ bút viết bài
chung cuộc,
Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu.
Thân khùng vận bĩ trớ-trêu,
82.- Phiêu-lưu trôi giạt danh
nêu khắp cùng.
Ai giàu có thung-dung thanh
nhã,
Ta lo đời sắt đá bền gan.
Âu sầu nức giọng riêng than,
86.- Trách dân chẳng sợ hùm
lang cứ gần”.
CHÚ THÍCH:
CHUNG CUỘC: Kết
thúc cuộc đời.
CON CUỐC: Con
quốc, cũng gọi là Đỗ Quyên. Còn gọi là Tử Qui hay Đỗ Vũ; chim miệng lớn đuôi
dài, lưng màu tro và bụng sắc trắng. Nó không tự làm lấy tổ, đẻ trứng vào tổ
chim oanh để chim oanh nuôi cho khôn lớn.
Tiếng chim Đỗ Quyên kêu nghe
réo rắt, khiến cho khách lữ hành động lòng nhớ nhà. Tương truyền vua nước Thục
là Đỗ Vũ thông dâm với vợ Biết Linh và truyền ngôi cho vợ Biết Linh để tránh họa
vào thân, rồi bỏ nước mà đi. Sau thác, Thục Đế hóa thành chim Đỗ Quyên, nhớ nước
ngày đêm kêu mãi không thôi. Truyện Kiều có câu: “Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ
Quyên”.
THÂN KHÙNG VẬN BĨ TRỚ
TRÊU, PHIÊU LƯU TRÔI GIẠT DANH NÊU KHẮP CÙNG: Tấm
thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ gặp phải cơn vận bĩ, trôi giạt long bong không biết
đâu là định hướng. Thật vậy, hết ở Tổ Đình (HH) kế đến Châu Đốc, rồi xuống Sa
Đéc, nay lại sang qua Nhơn Nghĩa (Cần Thơ), rồi phải còn đi đâu nữa, cảnh trạng
quá trớ trêu. Nhưng “Càng đi càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ
thông”. Ngài mượn cảnh đàm tình, vui với cảnh vật mà phô bày đạo đức. Ngài mượn
sự lưu đày làm phương tiện luân lưu hóa Đạo. Ôi! Thật là bi đát nhưng cũng thật
hữu tình. Ngài càng phiêu lưu trôi giạt, càng đem đạo mầu phổ hóa khắp nơi nơi,
càng làm con thuyền đại đạo tung hoành khắp chốn và danh thể Ngài chói rạng khắp
Nam Kỳ lục tỉnh nói riêng, năm châu bốn biển nói chung, tạo hóa sao sắp bày chi
cay nghiệt, nhưng cũng để bắt nhịp cầu giao lưu: “Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”.
THUNG DUNG THANH NHÃ: Thung
dung : Còn gọi là thong dong, rảnh rang thong thả. Đức Thầy có câu: “Nam Việt
dân tình mãi thung dung”. Thanh nhã: Trong sạch tao nhã. Thung dung thanh nhã:
Nhàn hạ thảnh thơi. Nghĩa bóng: Ám chỉ người chẳng biết lo xa, ai chết mặc kệ
ai, chỉ lấy cá nhân làm trọng.
AI GIÀU CÓ THUNG DUNG
THANH NHÃ, TA LO ĐỜI SẮT ĐÁ BỀN GAN: Qua hai câu trên mỹ ý
Đức Huỳnh Giáo Chủ bày tỏ quan niệm nhân sinh của xã hội kim tiền, chỉ chú trọng
vào sự nghiệp giàu sang “Lên quan xuống huyện ăn xài lả lê, Gặp ai đói rách cười
chê, Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân”. Tối ngày cứ ung dung nhàn hạ, ăn sung
mặc sướng, ai đói rách nghèo khổ mặc ai.
Trái lại, theo lòng từ bi của
Đức Phật vào thời đại nào đều luôn luôn lo cho đời, đem nguồn giáo pháp ban rải
khắp nơi nơi để mọi người đồng biết lo tu hành hầu vơi đi những điều đau khổ trong
hiện tại và tương lai, dầu trải bao thử thách cam go tù đày hay có hy sinh tánh
mạng, Ngài vẫn nhứt quyết thật hiện mục đích cứu đời, lòng Ngài cứng như sắt
đá.
ÂU SẦU: Lo lắng
buồn phiền.
ÂU SẦU NỨC GIỌNG RIÊNG
THAN, TRÁCH DÂN CHẲNG SỢ HÙM LANG CỨ GẦN: Lòng
Đức Giáo Chủ luôn lo nghĩ kiếp sống nhân sinh, phần đông không ý thức được cuộc
đời, đã mang thân ô trược, lại sống kiếp đọa đày, nô lệ của ngoại bang mà không
suy xét cho tường tận để vùng lên hầu giải ách xích xiềng cho thế tục. Trái lại,
lân la với giặc, học đòi theo cách sống xa hoa trụy lạc. Thật là điều đáng
trách.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 79 đến
câu 86)
Viết đến đây Đức Huỳnh Giáo Chủ
sắp dừng bút để kết thúc bài “ĐẾN LÀNG NHƠN NGHĨA”. Ngài đưa lên một sự kiện lịch
sử, có ai rõ thấu tấm lòng Ngài đau thương vì quốc biến suốt cả đêm trường như
hồn Thục Đế ngày xưa chăng? Nếu thấu rõ hãy cùng Ngài chia sẻ bầu tâm huyết.
Ngài vì ai mà phải giả dạng
Điên Khùng, lại gặp phải cơn vận bĩ, thật là trớ trêu. Ông Tạo ơi! Sao ông nỡ
đan tâm ban luôn hai điều (họa, phúc) cho đời Ngài. Thật đau quá nhỉ ! “Trời
già tay khéo khéo luôn, Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui”. Nhưng soạn giả còn
nhớ sách xưa có câu: “Khổ tận cam lai”.
Thật vậy, trên những đoạn đường
phiêu lưu trôi dạt, tôi đã học được những bài học khôn rất là ý nhị: “Càng đi
càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”. Trong chín cái rủi
lại có một cái may. Cái may đó có phải chăng là được truyền Đạo khắp bàng nhân
bá tánh: “Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”. Càng đi danh thể ta càng nêu cao giá
trị. Càng nghĩ ta càng cám ơn kiếp phiêu lưu trôi giạt.
Còn bản thân thế sự có giàu
sang, cứ mặc kệ đời. Con người ta có quyền thụ hưởng, mặc nhiên thụ hưởng.
Riêng phần ta cứ lo cho đời đến ngày chung cuộc, miễn bá tánh an vui hạnh phúc
là ta thỏa nguyện. Nhưng có một điều chúng dân nên tự hối, hãy lánh xa người bạn
ngoại xâm vì chúng là kẻ thù với hồn thiêng sông núi của con Hồng cháu Lạc. Nếu
ai còn đeo đuổi lân la với bọn chúng, ta vô cùng thống trách.
Bài 12.- CHO HƯƠNG BỘ THẠNH (SGTVTB 2004, tr. 361 – 363)
XUẤT XỨ:
Những ngày lưu cư nơi xứ Xà No
ghi những kỷ niệm khó quên. Hương Bộ Thạnh muốn qui y với Đức Thầy, nhưng bản
ngã chưa buông bỏ được nên ra điều kiện “Tu thì tu nhưng con không qui y”. Đức
Thầy bảo ông làm “Huấn Luyện Viên”. Buộc lòng ông phải lạy “mẫu” cho những người
mới vào Đạo coi theo. Sau đó Hương Bộ Thạnh mới thấy được dụng tâm của Đức Thầy.
Từ đó ông mới hết ray rứt cõi lòng và cúng lạy bình thường như bao tín đồ khác.
Bài “CHO HƯƠNG BỘ THẠNH” được
viết vào cảnh qui y đặc biệt của đời ông.
VĂN THỂ:
Bài này Đức Huỳnh Giáo Chủ viết
theo thể liên hoàn thi thất ngôn tứ cú Đường luật. Cũng gọi là lối biến thể.
Trong đó có bài khoán thủ lối tự sự có pha thuyết giáo. Dài 48 câu. Khởi đầu bằng
câu “Hương đăng thơm nức quá nhẹ nhàng” và chấm dứt bởi câu “Theo dõi Bồng lai
lánh cõi thiền”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ tả cảnh
“Hương Bộ mang soi bận áo dà”. Rồi Ngài so sánh tâm đức của ông cha xưa thật là
cao cả, ngày nay con cháu noi gương ấy lo tu để gặp lại người xưa.
Nhứt là Ngài khuyên ông Võ Mậu
Thạnh bỏ dứt bệnh nghiện ma túy, để tiến lên đường giải thoát, bền lòng chặt dạ
theo dõi cõi Bồng Lai Tiên cảnh.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ giác ngộ
cho ông Võ Mậu Thạnh nhận được cõi uế trược Ta bà, học đòi gương hạnh ông cha để
tiến thẳng về Phật đài Tiên cảnh.
CHÁNH VĂN:
1.- “HƯƠNG đăng thơm nức quá
nhẹ nhàng,
BỘ đời còn kẹt nỗi hùm lang.
THẠNH thay thời sự đưa Khùng đến,
4.- Đạo-đức bày ra bủa khắp
làng”.
CHÚ THÍCH:
HƯƠNG ĐĂNG:
Hương: Mùi thơm, còn gọi là nhang. Đăng: đèn. Nhang và đèn: hai vật dụng trong
lễ cúng bái. Đức Thầy có câu: “Hương đăng nghi ngút lễ vọng cầu”.
NHẸ NHÀNG: vừa
nhẹ, vừa dịu.
THỜI SỰ: Thời:
lúc, đang lúc. Sự việc đang lúc xảy ra.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Nhà ông Hương Bộ Thạnh từ khi
có Đức Huỳnh Giáo Chủ tạm trú, nhang đèn rực rỡ, mùi hương bay vừa nhẹ vừa
thơm. Nhưng cuộc đời của ông Thạnh còn ẩn chứa nỗi lòng khó tả, Đức Thầy khuyên
hãy chờ thời cơ cũng như có dịp đưa ta tới, chừng đó Đạo đức sẽ bày biện bủa ra
khắp làng xóm.
CHÁNH VĂN:
5.- “Hương-bộ mang soi bận áo
dà,
Đêm ngày tiếp rước khách gần
xa.
Nhơn dân bá tánh đều trông thấy,
8.- Hương-bộ mang soi bận áo
dà.
* * *
Áo dà Hương-bộ bận mang soi,
Ai có tức cười hãy đến coi.
Dòm riết chú chàng vùng mắc cỡ,
12.- Áo dà Hương-bộ bận mang
soi”.
CHÚ THÍCH:
HƯƠNG BỘ: Tức
Hương Bộ Thạnh. Ông họ Võ, lót Mậu Thạnh, ở làng Nhơn Nghĩa (Cần Thơ) là tín đồ
qui y với Đức Giáo Chủ PGHH. Ông có nhiệm vụ đặc biệt Đức Thầy đề cử hướng dẫn
nghi thức cúng lạy sớm chiều cho bổn đạo mới phát tâm. Đức Thầy có đề cập:
“Trễ chơn Thầy mắc đi xa,
Hỏi thăm Hương Bộ vậy mà cách
tu”.
ÁO DÀ: Áo
nhuộm bằng vỏ cây màu dà. Người ta xem sắc áo mà biết được người đó thuộc môn
phái nào, hay hạng người nào. Chẳng hạn như áo nâu dà thuộc Đại thừa Phật giáo,
áo choàng vàng thuộc Tiểu thừa Phật giáo…Riêng đạo phục bằng chiếc áo choàng
màu dà, chỉ mặc để cúng lạy tại gia, trong những ngày sóc vọng tại chùa, và các
ngày lễ Đạo.
NHƠN DÂN: Người
dân sống chung trong đất nước.
BÁ TÁNH: Bá:
trăm. Tánh: họ. Trăm họ.
MẮC CỠ: Hỗ
ngươi, thẹn thùng. E thẹn.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 12)
Đoạn này Đức Thầy diễn tả hình
ảnh và bộ tịch Hương Bộ Thạnh mặc áo choàng dà để làm “Huấn Luyện Viên”, cúng
bái mẫu cho những tín đồ mới vào Đạo học theo. Đức Huỳnh Giáo Chủ khéo dẫn dụ
đưa ông Bộ Thạnh thực hành nghi thức “mẫu” để ông vui dạ và khỏi từ nan.
Vì ông Thạnh theo tu học qui y
mà xin miễn cúng lạy. Đức Thầy đáp “Được”! Nhưng sau đó Ngài buộc ông phải cúng
lạy “mẫu” cho những tín đồ mới vào tập theo.
Mặc đạo phục choàng dà, mà cặp
mắt mang kiếng trông rất lạ, ai ai cũng phải dòm. Nhưng dòm riết chú chàng vùng
mắc cỡ. “Cảnh trạng trông thật ngộ nghĩnh”.
CHÁNH VĂN:
13.- “VÕ nghệ ngày xưa của nước
nhà,
MẬU truyền nên chẳng kiếm cho
ra.
Luyện tập để dành khi đến việc,
16.- THẠNH thời mới được hưởng
vinh-hoa.
* * *
Vinh-hoa cũng phải rán công
phu,
Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù.
Kiếp trước ông cha làm đức cả,
20.- Ngày sau con cháu rán lo
tu.
* * *
Võng dù sao chẳng rán mà tu,
Gặp đặng người xưa phước bổ
bù.
Bởi trước giữ-gìn nền đạo-đức,
24.- Bảng vàng chói rạng chẳng
hề lu”.
CHÚ THÍCH:
VÕ NGHỆ: Nghề
võ. Thông thạo binh đao, kiếm kích. Nói cho đủ “Thập bát võ bang”, nghĩa: “Mười
tám thứ binh khí đều lảu luyện”.
THẠNH THỜI: Thời
vận thịnh vượng.
VINH HOA: Vinh:
Cỏ đơm bông. Hoa (huê): Cây đơm bông. Kinh Lễ “Thảo mộc vinh hoa” (cây cỏ đơm
bông). Nghĩa bóng: Ngày hiển đạt. Đức Thầy có câu: “Vinh hoa phú quí chòm mây bạc”.
CÔNG PHU: Công:
kết quả của sự việc. Phu: một người. Một người đem hết sức ra để thành tựu công
việc (sự việc). Trong Tần Thao Ngọc Yến có câu: “Tử hồi phao khước tứ công phu”
(Mấy lần bỏ hẳn công phu thêu thùa). Nghĩa rộng: gắng sức kiên trì. Đức Thầy có
câu: “Vững vàng bất thối công phu vuông tròn”.
SẤU HÓA CÙ: Sấu:
loài bò sát, sống theo sông biển, thân hình rất to lớn và dài, có thể ăn thịt
người. Cù: con rồng. Sấu hóa thành rồng. Nghĩa bóng: Phàm nhơn tu tập đắc quả
trở nên Tiên Phật.
ĐỨC CẢ: Đức lớn,
có công to lớn với đời, được nhiều người ca tụng.
VÕNG DÙ: Nói
cho đủ là “Dù che võng lọng”, chỉ bậc quyền quí cao sang.
GIỮ GÌN: Không
để cho mất cho hư. Ví dụ: Giữ gìn sức khoẻ, giữ gìn của cải. Đức Thầy có câu:
“Giữ gìn biên cảnh bằng an đời đời”.
LƯỢC GIẢI:
Ngày xưa võ nghệ được các nước
nói chung, Việt Nam nói riêng, nung đúc cổ võ đào luyện thuần thục để giữ gìn bờ
cõi. Tinh thần thượng võ rất cao độ, từ Trung chí Bắc đều có lò luyện võ, tục
ngữ Trung phần ca tụng dân bản xứ: “Ai về Bình Định mà coi, Đàn bà cũng biết đánh
roi đi quyền”.
Ngày nay Ông Mậu Thạnh truyền
lại cho con cháu chỉ nhất thời, khó đạt được mục đích. Chỉ luyện tập chờ thời
hưng thịnh mới có dịp hưởng vinh hoa. Nhưng phải rán trì chí công phu, có thuở
sấu hóa cù. Kiếp trước ông cha ta người nhơn đức, vậy con cháu hiện giờ phải
rán nối chí tu hành.
Nếu ta rán cố chí trau thân
gìn Đạo sẽ gặp lại người xưa, phước báu dồi dào, bảng vàng chói rạng khắp mọi
nơi.
CHÁNH VĂN:
25.- “HƯƠNG đèn cầu nguyện với
ông cha,
BỘ đạo tìm ra nẻo chánh tà.
NHƠN ái giữ nền noi lối cũ,
28.- NGHĨA hòa huynh-đệ phụng
tông gia.
* * *
Rày mừng gặp đặng lúc ban ân,
Duyên trước ngày nay mới có phần,
Hãy rán dặn lòng lo trung hiếu,
32.- Đến chừng gặp hội có
Tiên, Thần.
* * *
Mùi hương phưởng-phất ghẹo
cùng đời,
Công-tử sang giàu tiếp cuộc
chơi.
Trải mặt phong-trần tìm món lạ,
36.- Nào dè thâm nhiễm tổn hao
hơi.
Bo-bo ngày tối lo nồi ống,
Chặt-chịa hằng đêm đổi tiếng lời.
Những mảng ham vui mang bịnh
nghiệt,
40.- Gầy mòn thân thể vội buồn
ngơi”.
CHÚ THÍCH:
HƯƠNG ĐÈN: Nghĩa
của chữ “Hương Đăng”. Hương: mùi thơm, còn gọi là nhang. Đăng: đèn. Nhang và
đèn là hai vật dụng cần dùng trong lễ cúng bái. Đức Thầy có câu: “Hương đăng
nghi ngút lễ vọng cầu”.
CẦU NGUYỆN: Cầu:
xin được trợ giúp. Nguyện: ước muốn. Cầu xin được hợp với ý muốn.
CHÁNH TÀ:
Chánh: ngay thẳng. Tà: cong, xiên xẹo. Nghĩa rộng: Kẻ tốt người xấu, ngay thẳng
hay xiêu vẹo. Thơ Lục Vân Tiên có câu: “Vân Tiên biết kẻ chánh tà”. Đức Thầy
cũng bảo: “Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi”.
NHƠN ÁI: Nhơn:
là lòng thương người mến vật. Ái: yêu. Lòng thương yêu vạn vật.
NGHĨA HÒA: Nghĩa:
hay làm việc phải giúp người bất vụ lợi. Hòa: thuận thảo. Vừa giúp đời vừa hòa
thuận với mọi người.
HUYNH ĐỆ:
Huynh: anh. Đệ: em. Tình anh em máu mủ, hay tình anh em bổn đạo, để phân biệt
giai thứ cùng xưng huynh đệ. Đức Thầy có câu: “Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé”.
TÔNG GIA: Tông:
người gầy dựng dòng họ. Gia: nhà. Người đứng đầu gầy dựng trong tông tộc. Đức
Thầy có câu: “Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông gia”.
BAN ÂN: Cho
ân huệ.
TRUNG HIẾU: Do
câu: “Trung quân vương, hiếu phụ mẫu”. (Trung với vua, hiếu thảo với cha mẹ). Đức
Thầy có câu: “Trung hiếu giữ gìn phận con tôi”.
TIÊN THẦN: Cũng
đọc là Thần Tiên. (Xem chú thích bài “SAY” chung tập).
PHƯỞNG PHẤT: Cũng
gọi là phảng phất. Nghĩa lờ mờ, lảng vảng, không rõ ràng. Đức Thầy có câu:
“Thánh Thần phưởng phất hồn
bay,
Ở đâu cũng đến độ rày chúng
sinh”.
CÔNG TỬ: Công:
ông. Tử: con. Bên Trung Quốc, con của các chư hầu thời phong kiến đều gọi là
công tử. Vào thời quân chủ không còn chư hầu thì con trai Hoàng Tử gọi là Công
Tử.
PHONG TRẦN:
Phong: gió. Trần: bụi. Nghĩa bóng: Cõi đời đầy bụi bặm, nhơ nhớp, đau khổ. Truyện
Kiều có câu: “Đã đày vào kiếp phong trần”. Đức Thầy cũng bảo: “Gây ra lắm nợ
phong trần, Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
THÂM NHIỄM: Thâm:
sâu, nhiều. Nhiễm: nhuốm, lây phải. Nhiễm lây, vương lấy một cách sâu xa.
BO BO: Giữ
chặt.
CHẶT CHỊA: Cũng
gọi là chặt chẽ. Có quan hệ khắng khít, gắn liền với nhau. Ý nói đêm đêm gắn bó
trong việc vui chơi, trau đổi tâm tình qua lời ăn tiếng nói trong băng nhóm.
BỊNH NGHIỆT: Còn gọi
là bịnh hiểm nghèo. Bệnh làm nghiệt ngã mạng sống.
GẦY MÒN THÂN THỂ VỘI BUỒN
NGƠI: Do cơn bịnh làm thân thể gầy mòn, ngày một yếu
dần đến lúc kiệt lực, nên vội buồn không còn ham muốn gì nữa.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 25 đến
câu 40)
Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên Ông
Hương Bộ, muốn thay đổi cuộc đời phải dùng nhang đèn cầu nguyện trước bàn thờ Cửu
Huyền: Ngày này, tháng nầy nhờ Ông Bà Cha Mẹ chứng giám cho mình tìm được chánh
Đạo, bỏ lối xa hoa trụy lạc, gìn tâm nhơn ái, giữ nếp gia phong, trước lấy
nghĩa hòa cùng huynh đệ, sau thờ phụng tông đường.
Hôm nay rất mừng gặp lúc Trời
Phật ban ân, cũng do duyên trước có phần như vậy. Nên rán dặn lòng lo tròn hai
điều trung hiếu để chờ cơ hội sẽ gặp Phật, Thần, Thánh, Tiên nơi đại hội Long
Hoa.
Mùi hương của chất ma túy khi
đốt huơng bay phưởng phất trêu ghẹo tốp người ăn chơi cứ tiếp tục làm những việc
ngông cuồng vô ý thức. Càng trải mặt phong trần càng đắm nhiễm và tìm những món
ngon vật lạ để cung phụng cho thân xác, nào dè càng lúc càng thâm nhiễm hao hơi
tổn tướng. Ngày tối cứ bo bo ngồi đối diện trước mâm đèn, nồi ống hơi á phiện,
và càng lúc càng bảo thủ giữ gìn chặt chịa, có khi thâu đêm suốt sáng, lời qua
tiếng lại với bọn sì ke.
Những tưởng vui chơi giải niềm
tâm sự nào ngờ phải vương mang bịnh nghiệt, khó mà điều trị, càng ngày càng gầy
mòn thân thể và nỗi buồn càng len nhẹ vào tim.
CHÁNH VĂN:
41.- “Chán bịnh hiểm nghèo cậy
Phật Tiên,
Tâm thành phù hộ hết nạn ghiền.
Dưỡng thân đạo-đức giồi linh
trí,
44.- An thể hiền tu ắt được
nguyên.
Chặt dạ tinh-thần thêm mập
khá,
Bền lòng khí-lực tráng nguơn
nhiên.
Dẹp mâm, dẹp chiếu cho tiêu
tán,
48.- Theo dõi Bồng-Lai lánh
cõi thiềng”.
Xà-No, tháng 5, năm Canh-Thìn.
CHÚ THÍCH:
PHẬT TIÊN: (Xem
chú thích từ Phật Tiên trong bài “Nang Thơ Cẩm Tú”, Quyển hạ, tập 1/2, trang
377).
PHÙ HỘ: Phù:
giúp đỡ. Hộ: cứu giúp, tương trợ. Cứu trợ lẫn nhau. Đức Thầy có câu:“May Trời
phù hộ phước cho thầm”.
NẠN GHIỀN: Nạn
ghiền á phiện rất nặng. Sau khi qui y, Hương Bộ nhờ Đức Thầy dùng huyền diệu
làm ông bỏ được bịnh nầy.
DƯỠNG THẦN: Tu dưỡng
xác thân, giải điều tai ách.
LINH TRÍ: Linh:
thiêng liêng, ứng nhiệm. Trí: thông minh hiểu biết rộng rãi.
AN THỂ: Thể
xác an ổn.
HIỀN TU: Còn gọi
tu hiền, tu sửa hiền lành, trau dồi đạo đức.
ẮT ĐƯỢC NGUYÊN: Tất
được nguyên vẹn. từ tinh thần lẫn thể xác.
TINH THẦN: Phần
khôn biết thiêng liêng sáng suốt của con người. Đức Thầy có câu: “Lấy tinh thần
hiệp vén ngút mây”.
KHÍ LỰC: Khí:
chí khí. Lực: sức mạnh. Sức mạnh của ý chí.
NGUƠN NHIÊN: Nguơn
(nguyên): nguồn gốc. Nhiên: nhen, thắp sáng. Nguồn gốc phát sinh. Sức mạnh sẽ
cường tráng, trở lại thuở ban đầu.
TIÊU TÁN: Tiêu:
làm cho mất đi. Tán: làm cho tan ra. Tan biến đi.
BỒNG LAI: (Xem
chú thích từ “Bồng Lai” bài Đến Làng Nhơn Nghĩa, chung tập).
CÕI THIỀNG: Còn gọi
là cõi thành. Chỉ chỗ đô hội chợ búa, ăn chơi xa xí.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 40 đến câu 48)
Bấy giờ Hương Bộ Thạnh đã thấm
mùi Đạo, nên chán chê bịnh hiểm nghèo, nhờ Phật, Tiên trị giúp cho qua cơn ngặt.
Đức Thầy bảo ông rán thành tâm hối cải, Trời Phật sẽ phù hộ hết cơn nghiện ngập.
Nhứt là phải dưỡng thân lo giồi mài linh trí sẽ hồi nguyên sinh lực, chặt dạ
tinh thần và thể xác sẽ khoẻ mạnh như xưa.
Đồ nghề mâm chiếu dẹp đi, gìn
tâm theo dõi tu sửa theo gương Tiên Phật.
Bài 13.- TỪ GIÃ LÀNG NHƠN NGHĨA (SGTVTB 2004, tr. 376 – 380)
XUẤT XỨ:
Sau mấy tháng lưu cư ở làng
Nhơn Nghĩa, dưới sức ép của nhà cầm quyền Pháp, Đức Thầy gởi đơn xin về Bạc
Liêu. Bài nầy viết ngày rằm, tháng sáu năm Canh Thìn (1940) tại nhà Ông Hương Bộ
Võ Mậu Thạnh, ở Rạch So Đũa (còn gọi là Kinh Xáng Xà No), thuộc làng Nhơn
Nghĩa, tỉnh Cần Thơ, để từ giã bổn đạo ở đây trước lúc lên đường.
VĂN THỂ:
Bài “TỪ GIÃ LÀNG NHƠN NGHĨA”
được Đức Thầy viết theo thể thơ lục bát, thuộc loại tự sự, trần tình, xen lẫn với
thuyết giáo, dài 144 câu. Khởi đầu bằng câu: “Kể từ mười tám tháng tư”, và chấm
dứt bởi câu: “Chúc cầu lạc nghiệp nhà nhà ấm no”.
NỘI DUNG:
Tiên đoán sắp phải rời xa nơi
nương ngụ, Đức Thầy bày tỏ tình cảm cao thượng của Ngài đối với người dân địa
phương nói riêng, và cả nhân sinh nói chung. Đức Thầy cũng đau lòng trước cảnh
đảo huyền, con người hung ác. Ngài dặn dò bổn đạo ở lại, hãy an lòng giữ vẹn đức
tin, nghiêm trì công phu, qui giới sẽ thấy được ngày thành công vinh diệu.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Thầy viết bài nầy nhằm mục
đích nung nấu tinh thần đạo đức cho bổn đạo tại làng Nhơn Nghĩa trước lúc Ngài
phải xa rời họ.
CHÁNH VĂN:
1.- “Kể từ mười tám tháng tư,
Canh-Thìn lưu chữ thiện-từ tới
đây.
Cho làng Nhơn-Nghĩa biết Thầy,
Đem truyền mối đạo thang mây
chỉ chừng.
Nay vì thời vận chuyển luân,
6.- Ở trong cõi tạm đã từng đổi
thay”.
CHÚ THÍCH:
KỂ TỪ MƯỜI TÁM THÁNG
TƯ: Kể từ ngày, giờ, năm, tháng nói trên Đức Thầy
đặt chân đến làng Nhơn Nghĩa, còn gọi là Kinh Xáng Xà No.
CANH THÌN: 1940.
LƯU CHỮ THIỆN TỪ: Thiện:
lành. Từ: lời nói hoặc văn chương. Vì lưu chữ hiền lành mà Đức Thầy đến đây
chung ngụ với Ông Hương Bộ Thạnh để đánh dấu trang sử Đạo trong những ngày xa xứ.
NHƠN NGHĨA: Địa
danh một thôn trong tỉnh Cần Thơ, còn gọi là Kinh Xáng Xà No, nơi quê hương của
Ông Hương Bộ Thạnh.
THANG MÂY: Do chữ
“Vân Thê”. Vân: mây. Thê: Thang. Một cái thang rất cao để quân Sở leo vào thành
nước Tống. Cái thang ấy tên Vân Thê (Thang Mây). Dùng để nói về việc leo cao.
Nghĩa bóng: Nói về việc thi đỗ. Thơ Lục Vân Tiên có câu: “Con dầu bước đặng
thang mây”.
CHUYỂN LUÂN: Chuyển:
Quay, lay động. Luân: Bánh xe. Bánh xe quay. Nghĩa bóng: Tiếp nối không ngừng
như bánh xe quay. Đức Thầy có câu: “Chuyển luân trong nhơn vật các loài”.
LƯỢC GIẢI:
Kể từ ngày 18 tháng tư năm
Canh Thìn làng Nhơn Nghĩa có cơ duyên gặp gỡ Đức Thầy và được Thầy truyền Đạo
lý siêu thượng. Tuy nhiên theo luật vô thường hằng chuyển, cơ duyên hy hữu ấy rồi
cũng trôi qua.
CHÁNH VĂN:
7.- “Cầu cho già trẻ gái trai,
Rủ nhau niệm Phật liên-đài ắt
lên.
Thế-gian ngay thảo đáp đền,
10.- Ngày sau sẽ được chăn mền
thơm-tho”.
CHÚ THÍCH:
LIÊN ĐÀI: Đài
sen, nơi các hàng Bồ Tát và chư Phật phu tọa. Đức Thầy có câu:
“Ở trần cho trọn nghĩa nhân,
Quyết làm tôi Phật gởi thân
liên đài”.
THẾ GIAN: Thế:
đời. Gian: khoảng. Khoảng đời sống của nhơn loại. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu:
“Thế gian biến cải vũng nên đồi”. Đức Thầy cũng bảo: “Tầm đấng hiền từ cứu thế
gian”.
NGAY THẢO: Nói
cho đủ: ngay cha thảo chúa, do câu: “Trung quân vương, hiếu phụ mẫu”. (trung
thành với vua, hiếu đạo với cha mẹ). Đức Thầy có câu: “Ngay cha thảo chúa Phật
Trời cứu cho”.
CHĂN MỀN THƠM THO: Tấm để
đắp cho ấm, được may bằng vải, bông hoặc len, da…Nghĩa bóng: Được Phật Trời che
chở và cứu giúp thành công tốt đẹp.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 7 đến
câu 10)
Ra đi, Đức Thầy mong tất cả mọi
người ở lại hãy cùng nhau niệm Phật để cầu vãng sanh về cõi Phật. Nhưng song
song đó mọi người cũng nên nỗ lực đáp đền ân nợ thế gian, giữ tròn câu ngay thảo
về sau sẽ hưởng những phần thưởng xứng đáng.
CHÁNH VĂN:
11.- “Tục kêu là rạch Xà-No,
Vàm kinh ông Bổn eo-co khúc đường.
Ngày Thầy lìa cách quê-hương,
Về đây nương ngụ bởi thương
dân lành.
Phủi trần xóa bỏ lợi danh,
16.- Quyết lòng lánh trược tầm
thanh mai chiều”.
CHÚ THÍCH:
TỤC KÊU LÀ RẠCH XÀ NO,
VÀM KINH ÔNG BỔN EO CO KHÚC ĐƯỜNG: Địa danh quê hương của
Ông Võ Mậu Thạnh. Kinh Xáng Xà No và Vàm Kinh Ông
Bổn, có nhiều khúc đường eo
co. Do đó ghi lại bao kỷ niệm trìu mến, luyến lưu của khách lữ hành khi xa xứ.
QUÊ HƯƠNG: Nơi
chôn nhau cắt rốn, chỗ sanh thành thời còn thơ ấu.
DÂN LÀNH: Còn gọi
là dân hiền. Người dân biết kính thờ Trời Phật, và ăn ở thảo cha ngay chúa.
PHỦI TRẦN XÓA BỎ LỢI
DANH, QUYẾT LÒNG LÁNH TRƯỢC TẦM THANH MAI CHIỀU: Từ
ngày về tạm ngụ quê hương Ông Võ Mậu Thạnh, Đức Tôn Sư không quên nhắc nhở
chúng dân: chớ nên say đắm lợi danh trần trược khổ lụy, mà phải cố gắng tìm kiếm
con đường thanh cao Phật Pháp hầu có ảnh hưởng an vui hạnh phúc sau nầy.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 11 đến
câu 16)
Địa danh phong cảnh nơi Rạch
Xà No đã từng ghi dấu những tháng ngày Đức Thầy nương náu. Ngài yêu thương người
dân bản xứ và một lòng muốn xa lánh chốn thế trần nhiễm ô danh lợi, mong được sớm
chiều vui với cuộc sống thanh bạch thoát phàm.
CHÁNH VĂN:
17.- “Thuở xưa thời buổi Thuấn-Nghiêu,
Thái-bình thạnh-trị mến yêu khắn
tình.
Chớ đâu đồ-thán sanh-linh,
20.- Bởi nay lỗi đạo kệ kinh
ngạo cười.
Lo cho mình được đẹp tươi,
Phụ-phàng nghĩa cả lại cười Phật
Tiên.
Luật Trời báo ứng nhãn tiền,
24.- Khắp trong thiên-hạ đảo
huyền từ nay”.
CHÚ THÍCH:
THUẤN NGHIÊU: Thuấn:
Tức Đế Thuấn (2256-2195 trước Tây lịch). Họ Diêu, tục danh Trùng Hoa, nổi tiếng
hiếu tử, được vua Nghiêu gả con và truyền ngôi, đóng đô ở Đồ Bản. Trị vì được
61 năm, thọ 101 tuổi.
Nghiêu: Một ông vua Trung Hoa
thời xưa nổi tiếng có hiếu và thương dân, họ là Đào Đường, tại vị được 72 năm.
Đức Thầy có câu: “Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn Nghiêu”.
THÁI BÌNH THẠNH TRỊ: Thái:
rất. Bình: yên ổn. Thạnh: dồi dào. Trị: là công cuộc được sửa sang, dân chúng sống
trong cảnh yên ổn. Đời sống yên vui sung túc đầy lạc quan. Đức Thầy có câu:
“Chúc cầu thạnh trị thới lai xóm làng”.
ĐỒ THÁN: Đồ:
bùn. Thán: than nóng. Trong cảnh bùn lầy và than nóng. Nghĩa bóng hết sức cực
khổ “Nhơn dân bốn phía đương đồ thán”.
SANH LINH: Sanh:
sống. Linh: thiêng liêng. Nói chung mạng sống thuộc giới hữu tình. Đức Thầy có
câu: “Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh”.
KỆ KINH: (Xem
chú thích từ Kệ Kinh, bài “Tối Mùng Một”, chung tập).
PHỤ PHÀNG: Bạc
đãi khinh khi, không nhìn đến. Đức Thầy có câu: “Lo trang sức kim thời huê mỹ,
Rồi phụ phàng tục cổ nước nhà”.
NGHĨA CẢ: Nghĩa
lớn. Nghĩa bóng: Thâm ân cha mẹ ví như trời biển.
PHẬT TIÊN: (Xem
chú thích từ Phật Tiên, Quyển Hạ, tập 1/2, trang…)
LUẬT TRỜI: Cũng
gọi là luật Thiên đình, luật Tạo hóa, luật Thiên nhiên hay luật thiên công. Là
luật công bình chánh đáng, không hề tư vị một ai. tội trừng công thưởng. Còn gọi
là luật thưởng phạt. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn tuyệt đối, cũng có thể thay đổi
đôi chút, tùy theo tội nhơn biết phục thiện hối cải.
BÁO ỨNG: Báo:
trả lại. Ứng: đáp lại. Được trả lại bằng những gì mình đã làm ra. Đức Thầy có
câu: “Cơ trời sẽ báo ứng đến những hành vi đen tối”.
NHÃN TIỀN: Nhãn:
con mắt. Tiền: trước. Việc xảy ra trước mắt.
THIÊN HẠ: Chỉ
chung những người sống trong cõi hạ giới. Đức Thầy có câu: “Gẫm trong thiên hạ
nhiều nhà thiếu cơm”.
ĐẢO HUYỀN: Treo
ngược đầu xuống. Nghĩa bóng: khổ sở đến cực điểm không thể nghĩ bàn.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 17 đến
câu 24)
Đức Thầy nhắc lại thời Thuấn
Nghiêu xưa rất thái bình thạnh trị. Còn trong hiện tại Đạo lý suy đồi, lòng người
tham lam hiểm ác nên luật nhân quả sẽ báo ứng nhãn tiền, đưa nhân loại vào thảm
cảnh đảo điên, ly loạn.
CHÁNH VĂN:
25.- “Ra đi để lại một bài,
Cho trong bổn-đạo hôm mai rèn
lòng.
Băng chừng tách dặm xa trông,
28.- Dân-sanh gặp trận trời
long hầu kề”.
CHÚ THÍCH:
DÂN SANH: Người
dân sanh sống trong một đất nước.
TRỜI LONG: Nói đủ
“Trời long đất lở”. Cảnh hãi hùng của cuộc biến thiên. Nghĩa bóng: Chỉ nạn binh
đao khói lửa và tai trời ách nước do cơ Thiên định.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 25 đến
câu 28)
Trước khi ra đi, Đức Thầy để lại
cho bổn đạo một bài thi đạo đức. Ngài ra đi mà mắt vẫn đau đáu nhìn lại chốn
xưa, vì biết nơi đây sắp ngập chìm trong khổ nạn.
CHÁNH VĂN:
29.- “Tới lui bùa thuốc bộn-bề,
Chơn dời khỏi cửa ra về phủi
ơn.
Thấy đời tu dối khuyên lơn,
32.- Từ đây sửa lại gặp cơn
thái-bình.
Phật Trời đâu dụng phép linh,
Chỉ dùng đạo-đức mặc tình ghét
ưa.
Nghinh-ngang làm thiếu lấy thừa,
36.- Mẹ cha chẳng kể dối lừa
ngỗ-ngang.
Ngày nay mới đến Phật-đàng,
Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh
liền.
Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
40.- Rồi sau tội nghiệp liên-miên
tới mình”.
CHÚ THÍCH:
BÙA THUỐC BỘN BỀ: Thời
Đức Huỳnh Giáo Chủ mới khai Đạo, lấy việc trị bịnh làm phương tiện cứu giúp kẻ
ít căn lành. Cho nên Ngài dùng dây chuối làm bùa và giấy vàng xé nhỏ cho bịnh
nhân uống, hoặc nước lã chẳng hạn. Ở đây Đức Thầy diễn lại cảnh trạng nói trên,
nhiều người tới lui xin thuốc, xin bùa, thật là bề bộn. Nhưng tâm địa của chúng
sanh rất tráo trở, chỉ dụng việc điều trị cho hết bịnh, chớ không thực chất ăn
năn hối cải.
TU DỐI: Tu giả
dối. Mượn hình thức hoặc chiếc áo Đạo để loè đời.
KHUYÊN LƠN: Vừa
khuyên vừa dạy.
PHÉP LINH: Tài
trí linh thiêng…do công năng tu tập mà được. Song phép linh có chánh có tà. Tà
thì thạnh hành được một lúc. Còn chánh không bao giờ mất “Chánh luôn luôn thắng
tà”.
PHẬT TRỜI ĐÂU DỤNG PHÉP
LINH, CHỈ DÙNG ĐẠO ĐỨC MẶC TÌNH GHÉT ƯA: Trong
bài Sứ Mạng, Đức Thầy có viết: “…Ta không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa
chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên…” Theo định luật nhân quả: Hễ
gieo giống chi hưởng trái nấy: “Chủng qua hoàn đắc qua, chủng đậu hoàn đắc đậu”.
Đức Thầy chỉ đem đạo đức giác ngộ con người, rồi tự chúng ta cải thiện cuộc đời,
chớ không sửa luật nhơn quả được, vì định luật ấy suốt cổ kim chẳng lọt một ai:
“Luật nhơn quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”. Mình tu để giải
nghiệp cá nhân của mình. Nên các Ngài không dùng phép linh mà chỉ dùng đạo đức
mặc tình ai ưa ghét.
NGHINH NGANG: Ngang
tàng bướng bỉnh, không phục tùng một ai. Đức Thầy có câu: “Nghinh ngang hỗn ẩu
phải chừa”.
LÀM THIẾU LẤY THỪA: Làm
công việc tính toán, làm thì thiếu lấy thì dư.
NGỖ NGANG: Ngược
ngạo không xem ai ra gì. Đức Thầy có câu: “Dân ta dòng giống Tiên bang, chớ đâu
có giống ngỗ ngang hung sùng”.
PHẬT ĐÀNG: Còn gọi
Phật đường. Nhà Phật hay Đạo Phật, ngoài ra còn có nghĩa: Con đường về cảnh Phật.
Đức Thầy có câu: “Chốn Phật đường rán trau đức hạnh” hay “Tìm con lành dắt lại
Phật Đường”. Và:
“Ngày nay mới đến Phật đàng,
Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh
liền.
Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
Rồi sau tội nghiệp liên miên đến
mình”.
Hành giả mới vào cửa Đạo, chỉ
niệm một tiếng Phật trông mau hết bịnh, nếu bịnh chưa thuyên lại chê bai Phật
Tiên. Xét thật tội nghiệp cho hành giả đó quá!
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 29 đến
câu 40)
Suốt thời gian qua, nơi đây
Ngài đã phát phù trị bịnh cốt để gây tạo lòng tín ngưỡng cho mọi người. Đáng tiếc
lòng tín ngưỡng đã bị một số người hiểu sai thành ra mê tín. Sử dụng phép mầu
chỉ là phương tiện mà việc phổ truyền giáo lý mới là mục đích chính của Phật Trời.
Lắm người không hiểu điều ấy cứ làm việc xấu xa vô Đạo rồi đến cầu Phật hoặc niệm
Phật để mong hết bịnh, không thấy kết quả như ý muốn thì trở lại phỉ báng Phật
Tiên. Đó là hành động sai lầm, sẽ kết thành tội nghiệp oan khổ.
CHÁNH VĂN:
41.- “Dương-trần phú trọng bần
khinh,
Mảng lo bươi móc cầu vinh thân
phàm.
Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm
không kiêng.
Mỉa-mai đến kẻ tu hiền,
Làm cho thỏa chí mới yên giấc
nồng.
Gẫm đời bụng dạ gai chông,
48.- Nên còn khổ sở trời đông
túng nghèo”.
CHÚ THÍCH:
DƯƠNG TRẦN:
Dương: dương gian. Trần: bụi. Cõi chúng ta đang ở đầy gian nan và bụi bặm.
PHÚ TRỌNG BẦN KHINH: Trọng
giàu, khinh nghèo.
BIẾT SAO ĐẦY ĐƯỢC TÚI
THAM, KHÔNG NGĂN, KHÔNG ĐÁY, CÀNG LÀM, KHÔNG KIÊNG: Túi
tham con người không đáy. Làm suốt kiếp không đầy, nên càng làm thẳng tay chớ
không còn kiêng nể ai.
MỈA MAI: Nói
chế nhạo một cách kín đáo.
GẪM ĐỜI BỤNG DẠ GAI
CHÔNG, NÊN CÒN KHỔ SỞ TRỜI ĐÔNG TÚNG NGHÈO: Xét
thấy lòng con người đầy dẫy ác độc, nên phải còn khổ sở nghèo túng. Đó là lẽ tất
nhiên.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 40 đến
câu 48)
Con người hiện tại lại quá xấu
xa, chỉ biết sống ích kỷ tham lam, lòng dạ chất chứa điều gian tà sâu hiểm lại
còn xúc phạm đến cả bậc tu hành. Chính đó là nguyên nhân đưa đến cảnh khổ sở bần
cùng trên cả phạm vi rộng lớn.
CHÁNH VĂN:
49.- “Nhìn dân ruột thắt gan
teo,
Rán tầm gậy cũ mà leo qua bờ.
Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ,
52.- Thuyền ghe chẳng có bến bờ
cũng không.
Một mai thấy được non Bồng,
Cảnh Tiên rực-rỡ mây rồng đẹp
thay.
Lại thêm thấy chốn Phật-đài,
56.- Không già không bịnh chẳng
ngày nào lo”.
CHÚ THÍCH:
RUỘT THẮT GAN TEO: Ruột
bị thắt lại, gan bị teo đi. Nghĩa bóng: Đau xót não nề.
GẬY CŨ: Gậy
xưa. Nghĩa bóng: Chỉ giáo lý vô vi chân truyền của Đạo Phật. Giáo lý Thích Ca
Mâu Ni và giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương.
BƠ VƠ: Nổi
trôi không nơi nương tựa. Đức Thầy có câu: “Đớn đau sắp đến bơ vơ một mình”.
MỘT MAY: Một
ngày kia, một việc tốt hiếm có.
NON BỒNG: Nói đủ:“Non
bồng nước nhược”. Chỉ cảnh siêu thoát. Tương truyền nơi biển Bột Hải có ba hòn
đảo: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu để sẵn dành cho Tiên ở.
MỘT MAI THẤY ĐƯỢC NON BỒNG,
CẢNH TIÊN RỰC RỠ MÂY RỒNG ĐẸP THAY. LẠI THÊM THẤY CHỐN PHẬT ĐÀI, KHÔNG GIÀ
KHÔNG BỊNH CHẲNG NGÀY NÀO LO: Đoạn nầy chỉ cảnh Bồng lai của
Tiên ở, đêm có Hạc múa, ngày mây che, vừa rực rỡ vừa thanh nhàn trông thật tuyệt.
Còn cảnh Phật lại huy hoàng hơn nữa, có đài sen báu hoàn toàn tịch tịnh an vui.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 49 đến
câu 56)
Nhìn cảnh khổ đau, Đức Thầy rất
đau lòng. Ngài đã dùng những đạo lý truyền thống để làm phương tiện cứu vớt
sanh linh. Nếu ai không chịu nương tựa vào đó chắc sẽ bị đắm chìm nơi khổ ải.
Trái lại, nếu ai biết nương vào giáo pháp của Ngài để tu hành, chẳng những sau
nầy sẽ thấy được cảnh đời tân đẹp đẽ mà còn được sanh về cõi Phật thoát kiếp
luân hồi.
CHÁNH VĂN:
57.- “Bây giờ Lão lại thúc đò,
Đưa qua bến giác dông to tới
nhà.
Vậy mà còn ghét kệ ca,
60. Không gây tình cảm để Già
nhọc khuyên.
Thương đời ta phải
truân-chuyên,
Bạc-Liêu xứ ấy ta liền đến
nơi.
Giã từ bổn-đạo ít lời,
64.- Gìn câu nguyện vái chớ
lơi nghĩa Thầy.
Bớt lòng thương nhớ từ đây,
Chẳng nên bịn-rịn để Thầy an
tâm.
Nhớ lời dạy dỗ ca ngâm,
68.- Di-Đà sáu chữ trì tâm chớ
sờn”.
CHÚ THÍCH:
LÃO: Già.
Chỉ người lớn tuổi.
THÚC ĐÒ: Giục
thúc con thuyền. Nghĩa bóng: Hối thúc lữ hành sớm bước đường tu.
BẾN GIÁC: Bờ
giác ngạn, bờ giải thoát.
DÔNG TO TỚI NHÀ: Gặp
gió lớn thuyền sẽ kíp mau tới cảnh Phật.
KỆ CA: Kệ là
thể văn trong kinh Phật, thường một thiên kinh có một bài Kệ. Để táng tụng, hoặc
dịch ý nghĩa đoạn kinh đó ra. Như bài Kệ của Sư Thần Tú, bài Kệ của Đức Lục Tổ
Huệ Năng, hoặc bài Kệ “Đêm Thanh”, hay bài “Tiếng Kệ Từ Bi”. Ca: Còn gọi là
hát, giọng ngâm nga cao thấp. Kệ ca ở đây: Ý nói lời Kinh Giảng được Đức Thầy
xướng ngâm giọng du dương để mọi người cảm động thức tỉnh. Đức Thầy có câu: “Kệ
cùng ca lựa tuyển con lành”.
GIÀ: Ám chỉ
Đức Phật Thầy Tây An thuở xưa trở lại. Đức Thầy có câu: “Nay Khùng đã hết già
hóa trẻ, Nên giữa đồng bỗng lại có sông”.
TRUÂN CHUYÊN: Gian
nan, vất vả. Đức Thầy có câu: “Đạo diệu mầu gặp lúc truân chuyên, Phận môn đệ phải
lo vun quén”.
BẠC LIÊU:
Nguyên trước kia là trấn Trần Di của trấn Hà Tiên, do Mạc Thiên Tứ lập năm Ất
Mão (1735). Thời Pháp thuộc là tỉnh thứ 20 của Nam Kỳ. Đến năm 1956 sát nhập với
tỉnh Sóc Trăng trở thành tỉnh Ba Xuyên. “Lá phép xin về tỉnh Bạc Liêu”. (ĐT)
BỊN RỊN: Quấn
quít, khó rứt đi. Đức Thầy có câu: “Bịn rịn đời cực khổ tang thương”.
DẠY DỖ: Chỉ dạy,
dỗ dành. Đức Thầy có câu: “Thương dân dạy dỗ biết bao nhọc nhằn”.
DI ĐÀ SÁU CHỮ: Nghĩa
của lục tự Di Đà. (Sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật) danh hiệu của Đức Phật A Di Đà
có công năng đưa mình từ bờ mê sang bến giác.
TRÌ TÂM: Trì:
gìn giữ. Tâm: lòng. Gìn gữ luôn trong lòng, bất chấp thời gian, không gian, hoặc
“…đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc” (Bài Niệm Phật).
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 57 đến
câu 68)
Đức Thầy ví mình như người lái
đò vượt dông gió hiểm nguy đưa khách trần mê về bến giác. Thế mà có kẻ không hiểu,
còn mang nặng ác cảm với Ngài. Mặc dù vậy, Đức Thầy vẫn tiếp bước hành trình độ
thế. Trước mắt, Ngài sẽ giã từ chốn cũ để xuống Bạc Liêu. Ngài nhắn nhủ bổn đạo
ở lại đừng quá nhớ thương Thầy mà nên giữ gìn công phu nguyện vái và trì tâm niệm
Phật.
CHÁNH VĂN:
69.- “Cuộc trần Thầy tỏ thiệt
hơn,
Mấy người bê-trễ chậm chơn tới
Thầy.
Nghe theo lời chỉ sau đây,
72.- Lãnh bài cầu nguyện về
rày mà tu.
Dạy dân đầu tóc rối bù,
Mà trong bá-tánh hiềm-thù chi
ta.
Trễ chơn Thầy mắc đi xa,
76.- Hỏi thăm Hương-Bộ vậy mà
cách tu”.
CHÚ THÍCH:
BÊ TRỄ: Bê
tha, trễ nảy.
LÃNH BÀI CẦU NGUYỆN: Lãnh
bài cầu nguyện cúng hằng đêm. Tức bài “Cúi kính dưng hương, Bài qui y và năm
câu nguyện…”
ĐẦU TÓC RỐI BÙ: Còn gọi
đầu bù tóc rối. Chỉ cảnh bộn bề, đa đoan nhiều việc. Nghĩa bóng: Sự gian lao cực
khổ không thể nghĩ lường.
HIỀM THÙ: Thù
hiềm khiêu khích. Thù ghét chống đối lẫn nhau.
HƯƠNG BỘ: Ông
tên VÕ MẬU THẠNH. Thời gian tạm ngụ nhà ông, Đức Thầy có trao cách thức tu và dạy
ông làm “Huấn luyên viên” (lạy mẫu) để hướng dẫn cách cúng lạy cho đồng bào mới
phát tâm.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 69 đến
câu 76)
Về cách thức tu những chỗ yếu
lý Đức Thầy sẵn sàng chỉ rõ. Riêng những người có lòng mộ đạo nhưng tới đây trễ
nảy. Không gặp được Thầy, cứ lãnh lấy bài cầu nguyện hỏi thăm ông Hương Bộ Thạnh
về cách thức tu hành, về nhà tự lo tu niệm. Cuộc dạy đời Ngài sẽ chịu nhiều
gian lao như vậy, thật là điều đáng chua xót.
CHÁNH VĂN:
77.- “Trăng còn khi tỏ khi lu,
Cho nên phận Lão viễn du đổi dời.
Càng đi càng biết nhiều nơi,
80.- Càng đem chơn-lý tuyệt-vời
phổ thông.
Người Khùng trí lại cuồng-ngông,
Cớ sao thế-cuộc lảu thông cũng
kỳ,
Xả thân tầm Đạo vô-vi,
84.- Nhiệm-mầu thâm-diệu
nan-tri Lão bày”.
CHÚ THÍCH:
VIỄN DU: Viễn:
xa. Du: ngao du, đi xa. Mắc chuyện đi xa.
ĐỔI DỜI: còn gọi
là dời đổi. Thay đổi cục diện, hay thay đổi chỗ ở.
CHƠN LÝ: Lý
chân thật, còn gọi là chơn lý tuyệt đối. Nghĩa là bất di bất dịch. Nó vốn không
dời đổi, dù bao thời gian và bao thời đại, nó vẫn vĩnh hằng. Nó thật không tên
tuổi, tùy cơ ứng dụng, tùy lúc hành tàng. Xưa Tổ Phụ Đà Mật Đa có làm bài kệ:
“Chơn lý vốn không tên,
Nhơn tên rõ chơn lý.
Thọ được lý chơn thật,
Chẳng chơn cũng chẳng ngại”.
Trong bài Cho Ông Cò Tàu Hảo,
Đức Huỳnh Giáo Chủ có xác định:
“Làm cho chúng phục tùng chơn
lý,
Trong sắc thân giám thị lục
căn”.
Tạm đặt cho nó là “Bản lai
thanh tịnh”, hằng hữu của tất cả chúng sanh. Các Phật ba đời xưa cũng tu từ bản
lai đó. Và chúng ta hôm nay cũng tu luyện tâm chơn như ấy mà chứng đắc Đạo quả.
Nó vốn không do đâu sanh và cũng không do đâu diệt.
TUYỆT VỜI: Cực kỳ
hết mức, cao xa rất mực. Nghĩa rộng: Sự thành công như ý muốn. Đức Thầy có câu:
“Hồng Lạc giống xưa rất tuyệt vời”.
PHỔ THÔNG: Phổ:
khắp nơi. Thông: suốt khắp. Thông suốt tất cả mọi nơi. Đức Thầy có câu: “Chớ
cũng mừng được dịp phổ thông”.
CUỒNG NGÔNG: Cuồng:
ngây dại. Ngông: ngông nghênh. Ngây dại, ngông nghênh như người mất trí.
THẾ CUỘC: Còn gọi
là thời cuộc. Cục diện trời đất đều rõ thấu.
LẢU THÔNG: Biết
suốt cả. Đức Thầy có câu:
“Nhiều người kinh sử lảu
thông,
Mà không sửa tánh bởi lòng còn
mê”.
XẢ THÂN: Không
kể tấm thân. Hi sinh bản thân cho chính nghĩa, chánh pháp. Tiền thân của Đức Phật
xưa kia đã từng xả thân: Thí thân nuôi cọp đói, móc mắt làm thuốc, lóc thịt
nuôi cha mẹ đói (La Đề Xà). Đức Thầy cho biết trong bài Sứ Mạng: “…Nhưng mà ta
nghĩ nhiều tiền kiếp ta cũng hy sinh vì Đạo, nào quản xác thân. Kiếp chót này
đây há lại tiếc chi thân phàm tục…”.
TẦM ĐẠO: Còn gọi
là tìm Đạo. Tìm con đường đưa mình có đủ tam giác: Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên mãn và có đủ bốn đức: Từ, Bi, Hỷ , Xả. Đức Thầy có câu:
“Đạo là vốn thiệt cái đàng,
Ta ra sức dọn cho toàn chúng
sanh”.
VÔ VI: Vô:
không. Vi: làm. Ngài Lão Tử có nói: “Vô vi, nhi vô bất vi”. (không làm mà làm tất
cả). Có nghĩa: Không có tướng người, tướng ta, tướng chúng, tướng thọ giả. Vả lại,
trong sách tướng có câu: “Hữu tâm vô tướng, tương tự tâm sanh. Hữu tướng vô
tâm, tướng tùng tâm diệt”. Theo chơn lý PGHH, Đức Thầy có xác nhận như sau:
“Làm vô vi chánh đạo mới mầu,
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao
sâu.
Hãy tìm kiếm cái không mới
có”.
Và câu:
“Đạo vô vi của Phật ân cần,
Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.
Do đó Ngài chủ trương không thờ
hình tướng chỉ chú trọng vào tâm hồn, thờ chỉ tượng trưng. Mục đích là lấy hình
tướng để chuyển nội tâm.
“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan hình bất chấp kỳ
hình”.
NHIỆM MẦU: Còn gọi
mầu nhiệm. Huyền diệu sâu kín. Đức Thầy có câu: “Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của
Ta”. Hoặc giả: “Đặng sau xem Phật pháp nhiệm mầu”.
THÂM DIỆU: Thâm:
sâu, nhiều. Diệu: khéo léo. Càng tốt đẹp khéo léo, càng thâm sâu vi diệu. Đức
Thầy có câu: “Chuyển miền Nam địa càng thâm diệu”.
NAN TRI: Nan:
khó. Tri: biết. Khó biết.
NAN TRI LÃO BÀY: Những
chỗ cao sâu khó biết, khó nhận thức, nay Đức Thầy sẵn sàng bày tỏ.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 77 đến
câu 84)
Như trăng trên trời, có khi mờ
khi tỏ, cuộc đời có khi đổi khi dời. Thân phận Đức Thầy có khi chịu truân chuyên
xa xứ. Tuy nhiên, Ngài càng đi nhiều, càng biết nhiều và càng có dịp để truyền
bá Đạo pháp rộng rãi thêm hơn. Đức Thầy tự cho mình là người Khùng của bậc siêu
phàm, lảu thông thế sự. Từ lâu, Ngài đã quên bỏ thân mình để tầm Đạo lý siêu
thượng và chỉ bày đạo lý ấy cho nhơn sanh tu tập.
CHÁNH VĂN:
85.- “Cầm hương chắp lại hai
tay,
Đưa lên trên trán nguyện bài
qui y.
Nguyện rồi xá xuống tức thì,
88.- Cắm hương rồi cũng đứng
thì thẳng ngay.
Đọc qua lời nguyện một bài,
Lạy luôn bốn lạy tạ rày
tông-gia.
Bàn tay lật ngửa vậy mà,
92.- Chớ đừng lật sấp vì Thầy
tái sanh.
Đi xa thì phải dặn rành,
Bàn thông-thiên cũng thiệt
hành như y.
Bốn phương đều đọc vậy thì,
96.- Cúi đầu bái tạ từ-bi Phật
Trời.
Sớm chiều bình-đẳng chớ lơi,
98.- Thường hành như vậy nhớ lời
đừng sai”.
CHÚ THÍCH:
BÀI QUI Y: Bài
nguyện trước ngôi Tam Bảo, tín đồ hằng ngày khẩn nguyện: “…Qui y theo mấy Ngài,
tu hiền theo Phật đạo”.
ĐỌC QUA LỜI NGUYỆN MỘT
BÀI, LẠY LUÔN BỐN LẠY TẠ RÀY TÔNG GIA: Bài
nguyện thứ ba là bài ngũ nguyện. Nguyện xong lạy bốn lạy, tạ từ dòng họ nội ngoại.
Hứa nguyện: “Rán tu đắc đạo cứu Cửu huyền”.
BÀN TAY LẬT NGỬA VẬY
MÀ, CHỚ ĐỪNG LẬT SẤP VÌ THẦY TÁI SANH: Xưa Đức
Phật Thầy Tây An dạy lạy lật sấp. Nhưng tùy phong hóa Đức Thầy hiện nay dạy môn
đệ lạy lật ngửa, vì Ngài đã tái sanh trở lại:
“Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc
trẻ,
Chờ thời thiên định thiết hùng
ca”.
BÀN THÔNG THIÊN: Bàn
thông lên trời, bàn thờ tam giáo đồng nguyên, được đặt chính giữa trước sân nhà
của mỗi tín đồ PGHH. Bàn này cũng đọc bài qui y rồi bài ngũ nguyện.
BỐN PHƯƠNG: Gồm
có: Đông, Tây, Nam, Bắc, lấy bàn thông thiên làm hướng chánh, bốn phía đều đọc
bài ngũ nguyện rồi bốn lạy để bái tạ Trời Phật.
BÌNH ĐẲNG: Bình:
bằng nhau, ngang nhau. Đẳng: thứ bậc. Ngang hàng không hơn, không kém. Bình đẳng
còn ví cho con thuyền Đại Đạo, tức là Đạo Phật. Đạo Phật siêu việt hơn các tôn
giáo khác là ở chỗ chơn thật bình đẳng. Đức Thích Ca xưa, bỏ cuộc đời vương giả
đi tu là chọn con đường bình đẳng, không phân biệt giai cấp, trí ngu, già trẻ,
nghèo giàu. Ngài quan niệm: “Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”. Đức Huỳnh Giáo Chủ
ngày nay cũng xác định theo chủ thuyết bình đẳng của Đức Phật:
“Các chúng sanh đều có như Ta.
Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
Nên quay lộn Ta bà cõi khổ”.
Nếu hành giả giữ được tâm bình
đẳng là đã điêu luyện dứt được bản ngã, thoát ngoài vòng tứ tướng (Nhơn tướng,
ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng). Nếu bốn tướng không còn, khỏi cần
giữ giới. Kinh Pháp Bửu Đàn, Đức Lục Tổ có giải:
“Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới,
Làm việc ngay há đợi tu thiền”.
Bình đẳng là tâm rốt ráo của đạo
Phật. Nhưng chữ bình đẳng ở đây dụng ý Đức Thầy bảo chúng ta không dư không thiếu
thường hành mãi mãi.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 85 đến
câu 98)
Ở làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy huớng
dẫn tỉ mỉ về cách cúng lạy của người bổn đạo, trước khi Ngài xa cách họ. Ngài
căn dặn mọi người phải thực hành công phu đều đặn sớm chiều không nên bê trễ.
CHÁNH VĂN:
99.- “Có đau xem thuốc ba bài,
Tâm thành cầu nguyện ắt nay bịnh
lành.
Giấy vàng xé nhỏ đành rành,
Để trên bàn Phật chí thành uống
ngay.
Thánh Thần phưởng-phất hồn
bay,
104.- Ở đâu cũng đến độ rày
chúng-sanh”.
CHÚ THÍCH:
THUỐC BA BÀI: Ba
bài thuốc nam ở phía sau quyển SGTVGL Toàn Bộ mà Ban Biên Tập đã liệt kê, gồm
có trị bịnh ho, bịnh ban, bịnh thường. Đây là ba bài thuốc tượng trưng. Công dụng
tốt ở chỗ thành lòng. Tục ngữ có câu: “Nước lã mà vã nên hồ”. Đức Thầy có dạy:
“Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam lồ Phật
ban”.
GIẤY VÀNG: Giấy
có mạ màu vàng. Lúc mới khai đạo Đức Huỳnh Giáo Chủ có tạm dùng huyền diệu của
Tiên gia, nên Ngài có cho uống nước lã giấy vàng trị bịnh cho bá tánh. Nhờ thế
mà thời đó thu hút tín đồ rất đông. Nhưng đó chỉ phương tiện nhất thời, nó
không phải phương pháp cứu cánh, nên Đức Thầy không dụng lâu.
ĐÀNH RÀNH: Đành:
cố nhiên. Rành: rõ ràng. Rất rõ ràng minh bạch. Đức Thầy có câu: “Miễu son tạc
để đành rành chẳng sai”.
THÁNH THẦN: (Xem
chú thích bài “Hai Mươi Chín Tháng Chạp”, chung tập).
PHƯỞNG PHẤT: Còn gọi
phảng phất. Lờ mờ lảng vảng không rõ ràng. Đức Thầy có câu: “Mùi hương phưởng
phất ghẹo cùng đời”. Ở đây ý nói: các bậc Thần Thánh du hành khắp mọi nơi đặng
tìm kiếm những người hiền đức. Hồn thiêng các Ngài còn phảng phất đâu đây.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 99 đến
câu 104)
Khi ta đau ốm, tuy không có Thầy
bên cạnh nhưng nếu mọi người thành tâm cầu nguyện chắc chắn kết quả lành bịnh.
Cứ theo phương pháp độ bịnh của Ngài: Dùng giấy vàng xé nhỏ, cầu Phật rồi uống,
tâm thành sẽ cảm ứng. Thánh Thần ra tay cứu độ.
CHÁNH VĂN:
105.- “Con rồng mới nửa gút
nanh,
Mà trong bá-tánh thất thanh
hãi-hùng.
Chừng nào Thầy lại gia trung,
108.- Thì trong bổn-đạo bóng
tùng phủ che.
Trách dân còn tiếc lụa the,
Chẳng làm phước-thiện họa e đến
mình.
Hết nhục rồi lại đến vinh,
Nghe không thì cũng mặc tình
thế-gian.
Để cho dân-sự luận bàn,
114.- Nếu tu thì phải chọn
vàng lừa thau”.
CHÚ THÍCH:
CON RỒNG: Nghĩa
của chữ Canh Thìn, tức năm 1940.
MỚI NỬA GÚT NANH: Mới
có nửa năm rồng mà nạn điêu linh rất dữ tợn.
THẤT THANH HÃI HÙNG: Thất:
mất. Thanh: tiếng. Khóc nhiều quá đến nỗi không còn ra tiếng. Nghĩa bóng: Sự sợ
hãi khiếp đảm.
HÃI HÙNG: Sự sợ
hãi khiếp đảm.
GIA TRUNG: Gia:
nhà. Trung: trong. Tại nhà.
BÓNG TÙNG PHỦ CHE: Bóng
của cây tùng rất lớn. Có thể che mát một khoảng rộng. Nghĩa rộng: sự che chở
phù hộ.
Theo khẩu truyền: Xưa thầy Trần
Huyền Trang trước khi rời Đông Độ qua Tây Thiên thỉnh kinh, Ngài có vỗ vào cây
tùng trồng trước sân chùa tiên báo rằng: “Khi Ta qua Tây Thiên, nhà ngươi cũng
xoay mình qua hướng Tây. Chừng nào Ta về ngươi cũng xoay trở lại như cũ”. Cây
Tùng làm y theo lời Thầy dặn. Qua 13 năm sau Tam Tạng sắp về nước. Cây Tùng
cũng xoay mình trở lại Đông độ như cũ. Các đệ tử của ông reo lên ầm ỉ: Thầy ta
sắp trở về. Nghĩa bóng: Ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ sắp trở về, nền Đạo Phật được
phục hưng rực rỡ. Công năng của Đạo pháp sẽ bao trùm khắp chốn, người tu được
Ngài chở che và dìu dắt về nơi Tiên Phật.
LỤA THE: Lụa:
hàng dệt bằng tơ, mỏng, mịn. The: hàng dệt bằng tơ nhỏ sợi, mặt thưa, mỏng và
không bóng mịn. Lụa the: lụa là gấm vóc, sự chưng diện của nhà giàu có. Nghĩa
bóng: chỉ sự ăn chơi xa xí.
PHƯỚC THIỆN: Phước:
Sự may mắn tốt đẹp. Thiện: Lành. Phước đức lương thiện.
HỌA E ĐẾN MÌNH: Họa đến
thình lình. Sách Thánh có câu: “Chung thân hành thiện, thiện du bất túc. Nhất
nhật hành ác, ác tự hữu dư”. (Trọn đời làm lành, sự lành còn chẳng đủ. Một ngày
làm ác, ác tự có dư). Cho nên ta phải luôn làm thiện để chở che cho cái bất thiện
không đến bên ta.
HẾT NHỤC RỒI LẠI ĐẾN
VINH: Sự vinh nhục nó vốn không tồn tại, tức nó
không trung thành cho đối tượng nào. Đức Thầy có câu: “Đường vinh nhục rủi may
một lát”. Hay: “Chữ vinh chữ nhục mấy hồi”. Ý nói: Cuộc đời tự nó luôn thay đổi.
CHỌN VÀNG LỪA THAU: Vàng
là kim khí quí hiếm. Thau: kim loại rẻ tiền. Nghĩa bóng: Chọn bậc quân tử, Đạo
giáo mà học đòi theo, xa lánh những người tiểu nhơn ích kỷ hay tà giáo.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 105
đến câu 114)
Chiến tranh thế giới đang diễn
ra ác liệt, chỉ mới giữa năm 1940 mà chiến cuộc đã gây bao tang tóc cho nhơn loại.
Chỉ đến khi nào Thầy hoàn thành xong sứ mạng, trở lại quê hương thì bổn đạo của
Ngài mới thật sự được che chở bình an. Hiện tại, nếu mọi người cứ sống vô Đạo,
ích kỷ, không tạo tác phước điền thì chắc chắn sẽ lâm vòng tai họa, Đức Thầy
đưa ra cái triết lý: vinh, hư, tiêu, trưởng ở đời để con người giữ vững niềm
tin vào chánh Đạo, nhưng con người có nghe hay không Ngài cũng chẳng ép nài. Sự
tu hành là do con người tự suy gẫm, phát tâm và lừa lọc chánh tà.
CHÁNH VĂN:
115.- “Cá to mà phải ở ao,
Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm
sông.
Một mai dạo được Tây, Đông.
118.- Khắp trong thế-giái thỏa
lòng ước-mơ.
Nuôi tằm ắt được nên tơ,
120.- Nếu ta làm phải phước hờ
bên lưng”.
CHÚ THÍCH:
AO: Chỗ
đào sâu dưới nước, thường hay cạnh nhà, vườn ở nông thôn để giặt rửa, thả cá,
nuôi bèo…
BIỂN: Vùng
nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Rộng như biển. Nó trùm cả năm châu thế
giới.
SÔNG: Dòng
nước tự nhiên tương đối lớn, chảy thường xuyên trên mặt đất, thuyền bè đi lại
được. Thí dụ: Sông Hồng, sông Đà, sông Tiền, sông Hậu…
MỘT MAI: Một:
số đầu tiên của dãy số tự nhiên, duy nhất một đơn vị. Thí dụ: một người, một
con gà. Mai: mang máng mai mái. Một mai: Một dịp hiếm có, một việc bất ngờ đưa
đến.
THẾ GIÁI: (Xem
chú thích bài “Viếng Làng Phú An”.)
NUÔI TẰM ẮT ĐƯỢC NÊN
TƠ, NẾU TA LÀM PHẢI PHƯỚC HỜ BÊN LƯNG: Tằm:
một loại sâu được người nuôi bằng lá dâu xanh để lấy tơ dệt lụa. Người ta có
công nuôi tằm chắc chắn được nên tơ. Cũng như người làm các việc giúp ích cho đời
sẽ kết quả hiện tại và phúc báo trong tương lai 100% không sai chạy.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 115
đến câu 120)
Đức Thầy ví mình và tất cả mọi
người như loài cá kình ngư mà phải sống trong ao cạn, tức là mang một chí lớn
mà hiện tại phải chịu khống chế trong cảnh ngộ kềm kẹp, nên chỉ còn cách noi dấu
đường lành, từng bước tiến đến tương lai xán lạn. Ngài tin ở luật nhân quả
nghiêm minh, nhân toàn thiện thì quả sẽ do đó mà toàn thiện vậy.
CHÁNH VĂN:
121.- “Núi non rừng thẳm cũng
từng.
Bây giờ phiêu lạc ta mừng khắp
nơi.
Cho dân đều hiểu cuộc đời,
124.- Thiên-cơ để dạ Lão thời
yên thân.
Đại-đồng chuông Đạo bon ngân,
Cho người say ngủ tỉnh lần giấc
mê.
Biết lo sửa kiểng trồng huê,
Thơm-tho gia-trụ danh đề Tổ-Tông.
Bấy lâu lòng những ước-mong,
130.- Cha con hội hiệp thì
lòng mới nguôi”.
CHÚ THÍCH:
NÚI NON RỪNG THẲM CŨNG
TỪNG, BÂY GIỜ PHIÊU LẠC TA MỪNG KHẮP NƠI: Sau ngày
khai Đạo, Đức Giáo Chủ PGHH đã đăng sơn 4 lần, mỗi lần đều có dắt tín đồ, và
ông Cả. Hơn nữa, “Kể từ Tiên cảnh Ta về, Non Bồng ta ở dựa kề mấy năm”. Do đó cảnh
quan miền Bảy Núi Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tường. Hôm nay bị quân Pháp bắt buộc
Ngài phải sống cuộc đời phiêu lạc, đối với người dương thế cho đó là kiếp đày đọa
tấm thân, nhưng đối với bản thân, Ngài xem đó như dịp may hiếm có. Vì nhờ đó
làm phương tiện “Để cho Thầy đi dạo Ta bà, Đặng dạy kẻ đàng xa chưa rõ”, Ngài lấy
làm mừng và vui nhận: “Miễn sanh chúng thông đường giải thoát”. Như trong bài
“Sa Đéc”, Ngài đã xác nhận: “Ta còn thương thương trò liệu điệu, Chớ cũng mừng
được dịp phổ thông”.
THIÊN CƠ:
Thiên: trời. Cơ: máy. Máy trời. Trời sắp đặt mọi việc như có cả guồng máy,
nhưng lại là guồng máy bí mật, người ta sẽ không biết được việc gì sẽ xảy ra.
LÃO: già.
Chỉ tiền thân của Ngài, tức Đức Phật Thầy Tây An (Núi Sam).
ĐẠI ĐỒNG: Đại:
to lớn. Đồng: cùng khắp, rộng khắp thế giới. Đức Thầy có câu: “Dựng cuộc hòa
minh khắp đại đồng”.
CHUÔNG ĐẠO BON NGÂN: Tiếng
chuông của nền Đại Đạo bon ngân giục thúc. Ở đây Đức Tôn Sư PGHH dụng sự để bày
lý. Ngài dùng tiếng chuông chùa để đánh lên vang dội, trầm hùng giữa đêm u tịch
để khêu gợi những ai có thiện căn sớm trở về chánh Đạo vô vi của Đức Phật Tổ từ
ngàn xưa đã dày công hoằng hóa. Đại Đạo PGHH là hiện sinh của “Chánh pháp nhãn
tàng, niết bàn diệu tâm” của Đức Phật đã truyền lưu từ Ấn sang Hoa suốt “Tam thập
tam tổ” xưa kia. Nền Đại Đạo này siêu việt ở chỗ “Bất tùy phân biệt”, không
biên cương ranh giới, vượt cả không gian và thời gian, trụ vào chỗ vô trụ, vô
tướng, vô tâm. Chính Đức Lục Tổ Huệ Năng đã đắc truyền với Tổ Hoằng Nhẫn: “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
Ngài xác định: Chuông Đạo chớ
không phải chuông mõ. Chuông là tướng, đạo là tâm. Chuông Đạo là chánh pháp vô
vi, chớ không phải hữu vi. Như Ngài xác nhận:
“Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao
sâu,
Hãy tim kiếm cái không mới
có”.
Bởi “Vạn vật duy tâm tạo”…Đạo
từ tâm sanh và cũng từ tâm diệt: “Tâm sanh chủng chủng pháp sanh, Tâm diệt chủng
chủng pháp diệt”. Nền Đạo cũng từ tâm sanh. Chúng sanh ngộ cũng từ tâm giác.
Tóm lại, PGHH là nền Đạo đại đồng,
trùm cả thế giới, không vướng mắc một pháp nào trong thế gian và xuất thế gian.
Bổn nguyện vừa chấn hưng Đạo Phật Thích Ca, vừa “Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng”.
Tức vừa cứu khổ, vừa ban vui, vừa đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc của thời
đại 21 này. Đức Huỳnh Giáo Chủ có sứ mạng không tiền khoáng hậu. Cho nên Ngài
không dùng chuông chùa mà dùng chuông Đạo, và đã đánh lên suốt 69 năm qua.
BIẾT LO SỬA KIỂNG TRỒNG
HUÊ, THƠM THO GIA TRỤ DANH ĐỀ TỔ TÔNG: Hai
câu này cũng dùng hai nghĩa: đen, bóng. Trước nhứt Ngài đem việc chơi kiểng lồng
vào giáo pháp: Vừa săn sóc, vừa uốn nắn, vừa vun phân tưới nước, vừa chiết
cành, tỉa lá…cho miếng vườn được đơm hoa tươi tốt, cho mọi người đều yêu chuộng
và tán thán tài nghệ của chủ nhân.
Kế đó, Ngài đem những người có
tâm hồn hướng thượng hăng hái tỉnh giấc mê lầm, lo vun trồng miếng ruộng tâm sẵn
có bằng cách trau sửa bản thân, giồi mài trí tuệ cho tinh minh. Chừng tâm bừng
sáng danh lưu muôn thuở, đời đời hiển vang Tông tổ.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 121
đến câu 130)
Trong tiền kiếp Đức Huỳnh Giáo
Chủ đã từng ẩn tu khắp vùng linh địa nay lại có dịp dạo khắp thế gian, đem những
điều Ngài đã chứng ngộ thức tỉnh người đời. Đó là thỏa nguyện vọng, nên Ngài lấy
làm mừng vui. Ngài ước mong tất cả mọi người quyết tâm nỗ lực vun bồi Đạo đức để
làm đẹp mặt giống dân Hồng Lạc, và sau được trở về nguồn cội gặp Phật, gặp Thầy.
CHÁNH VĂN:
131.- “Từ nay ai có tới lui,
Cúi đầu bái Phật lòng vui tu
hành.
Xin đừng đeo-đắm lợi-danh,
134.- Bỏ trôi đạo-đức hư danh
dạy truyền.
Mai sau được gặp cõi Tiên,
136.- Phỉ tình nguyện ước khỏi
phiền lòng ta”.
CHÚ THÍCH:
TỪ NAY AI CÓ TỚI LUI,
CÚI ĐẦU BÁI PHẬT LÒNG VUI TU HÀNH: Kể từ ngày 12 tháng 4
năm Canh Thìn (1940), Đức Huỳnh Giáo Chủ bị nhà cầm quyền Pháp dời đi Châu Đốc
rồi xuống Sa Đéc, kế đến Xa No. Ngài ý thức môn đồ biết: Những ai có thiện
duyên còn lui tới viếng thăm Thầy, xin vui lòng bái Phật lo tu hành tinh tấn mới
không phụ công trình dạy khuyên của Ngài.
ĐEO ĐẮM LỢI DANH: Đeo
níu, đắm nhiễm theo danh, lợi, tình, là người say mê con đường trụy lạc, đua
đòi vật chất phù hoa. Hạng người nầy xem xác thân là trọng, tối ngày cung phụng,
trưởng dưỡng và chiều chuộng nó; còn gọi bon chen theo vật dục kim tiền. Đức Thầy
bảo chúng ta đừng đeo đắm nó.
CÕI TIÊN: Còn gọi
là cảnh Tiên. Cõi của Tiên ở. Tương truyền biển Bột Hải có ba hòn đảo dành cho
Tiên ở: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Cõi Tiên ở đây Đức Thầy ám chỉ miền
Thất Sơn, hay Tà Lơn. Đức Thầy có câu:
“Kể từ Tiên cảnh Ta về,
Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm”.
PHỈ TÌNH NGUYỆN ƯỚC: Thỏa
lòng mong ước của Đức Thầy, và được sống đời huy hoàng tốt đẹp gặp Phật gặp
Tiên.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 131
đến câu 136)
Đức Thầy lại kỹ lưỡng dặn dò:
Dù ai kia không còn gặp Thầy, cũng cứ tự mình lạy Phật qui y. Người đã tu rồi
thì cứ giữ tròn đạo hạnh đừng sa ngã theo đường danh lợi và làm hoen ố danh Thầy.
Được vậy mai sau sẽ được thấy cảnh giới siêu phàm, phỉ tình nguyện ước, đẹp dạ
Tổ Thầy.
CHÁNH VĂN:
137.- “Vài lời để lại khuyến
ca,
Truy phong tách gót đường xa xứ
người.
Trò buồn Thầy lại tức cười,
140.- Đâu đâu bá tánh cũng người
Trời sanh.
Gần xa Thầy chỉ đành-rành,
Quyết tuyển con lành đem lại
Phật-gia.
Cáo từ làng xóm trẻ già,
144.- Chúc cầu lạc nghiệp nhà
nhà ấm no”.
Nhơn-Nghĩa (Xà-No), ngày 15/6/
Canh-Thìn
CHÚ THÍCH:
KHUYẾN CA: Khuyến:
khuyên, dạy dỗ. Ca: hát. Vừa đờn vừa hát. Điệu hát dân tộc cổ truyền ở một số địa
phương miền Trung, Nam bộ. Thí dụ: Ca Huế…Ca: Bài văn vần rất ngắn dùng để
ngâm. Thí dụ: Sáng tác thơ ca, hò, vè. Thi ca, tình ca, trường ca. Ở đây Đức Thầy
sử dụng bài nầy nhằm mục đích vừa khuyên dạy, vừa khuyên nhủ, vừa ca hát cho quần
chúng ý thức cuộc đời ly loạn để giác tỉnh tu hành.
TRUY PHONG: Truy:
đuổi theo. Phong: phong hóa, tập quán. Theo dõi phong cách cuộc sống của nhiều
nơi sắp đến.
ĐÂU ĐÂU BÁ TÁNH CŨNG
NGƯỜI TRỜI SANH: Khắp cả toàn dân trong quả địa cầu chúng
ta đang sống đều do đấng Ngọc Hoàng sanh ra. Ở đây Đức Thầy luận thuyết theo
triết học: Lão giáo. Tục ngữ có câu: “Trời sanh, Trời dưỡng”. Hoặc giả: “Trời
sanh Trời chẳng phụ nào”.
Vì Đức Huỳnh Giáo Chủ là tôn
giáo (?) dung hòa tinh hoa Tam giáo nên ở đây Ngài luận theo triết thuyết Trời
sanh.
ĐÀNH RÀNH: Tách
bạch, rõ ràng, chính xác.
PHẬT GIA: Nhà
Phật, Đạo Phật, con đường về cảnh Phật.
CÁO TỪ: Cáo
biệt, từ giã.
LẠC NGHIỆP: Lạc:
vui vẻ. Nghiệp: nghề, việc làm. Vui vẻ làm ăn. Đức Phật Thầy Tây An có câu: “An
cư lạc nghiệp phước vô biên”. Đức Thầy cũng mong mỏi: “Khắp thần dân lạc nghiệp
an cư”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 137
đến câu 144)
Để kết thúc bài giảng nầy Đức
Thầy nói lời chia tay với tất cả mọi người. Thầy không buồn mà lại mừng được đi
khắp nơi giảng dạy. Vì ở đâu cũng là đồng loại cả. Chí nguyện của Ngài là tìm
kiếm người lành đem về nhà Phật. Thầy chào hết thảy mọi người làng Nhơn Nghĩa
chúc họ ấm no, lạc nghiệp.
Bài 14.- AI NGƯỜI TRI KỶ (SGTVTB 2004, tr. 381-383)
XUẤT XỨ:
Trên đường lưu cư phải trải
qua bao chặng đường gian khổ: từ Thánh Địa Hòa Hảo, đến Châu Đốc, xuống Sa Đéc,
sang Cần Thơ, rồi lên an trí tại Nhà Thương Chợ Quán (Sài Gòn). Lúc ở Sa Đéc Đức
Huỳnh Giáo Chủ sáng tác ngay trước mặt đông đảo quần chúng, nhứt là khi đối diện
với Cò Bazin (Chánh sở Mật Thám), Ngài bộc lộ sự trạng uẩn khúc dòng đời của đấng
hoạt Phật:
“Muốn lập đạo có câu thành bại,
Sự truân chuyên của khách thiền
môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người
đồn,
Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.
Thật thế, hơn một năm giáo Đạo,
Thầy đã vì mọi người, mọi giới mà trang trải lòng từ, thử hỏi khách trần gian
có hiểu cùng chăng? Nếu ai chợt hiểu, đó là bạn tri âm tri kỷ cùng Ngài. Nhược
bằng chưa hiểu tới thì cơ duyên còn cạn.
Tri kỷ ngày xưa thật vô cùng
tâm đắc, suốt cả cuộc đời chỉ dành cho bạn, vì bạn quên thân mình. Thời nay có
mấy ai sánh được như thời xưa chăng nhỉ!
Để rõ nỗi lòng bậc chân tu có
sứ mệnh giáo truyền Đại Đạo của thế kỷ 20 và 21 nầy như thế nào, ta hãy bình
tâm mà đón nhận. Bài nầy Đức Thầy sáng tác vào đêm 18/7 năm Canh Thìn (1940) tại
nhà Thương Chợ Quán với tâm sự đắn đo trắc ẩn.
VĂN THỂ:
Bài “AI NGƯỜI TRI KỶ” được viết
theo loại văn vần, thể thất ngôn tứ cú Đường luật, khoán thủ, thập thủ liên
hoàn thi. Lối thuyết giáo, dài 40 câu. Khởi đầu bằng câu: “Nghĩ việc đời xưa gẫm
việc nay” và chấm dứt bởi câu: “Dưới đầy cơm áo Lão về ngôi”.
NỘI DUNG:
Đức Tôn Sư PGHH đặt câu nghi vấn:
“AI LÀ NGƯỜI TRI KỶ” cùng Ngài. Kế đó Ngài nói lên thực trạng đau buồn của dòng
đời xuôi ngược, có miệng phải dường câm. Rồi Ngài diễn tả cảnh hãi hùng cơ tận
diệt của buổi Hạ Nguơn, khắp Âu Á đều nhuộm máu đào. Sau rốt Ngài khuyên toàn
dân tích đức chờ Ngài đúng thời cơ sẽ sum hợp chốn non Bồng.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ mong mỏi
tín đồ đều là bạn tri âm cùng Ngài. Và Ngài hứa sẽ dìu dẫn mọi người thoát qua
cơn khổ hải, mặc dầu cho trời long đất lỡ.
CHÁNH VĂN:
1.- “Nghĩ việc đời xưa gẫm việc
nay,
Ai người tri kỷ ai là ai?
Tái sanh chọn lựa trang hiền
thảo,
Thức tình tâm trung sẽ vẹn
mày”.
CHÚ THÍCH:
TRI KỶ: Là
người bạn thân tốt, biết rõ lòng nhau, những tâm tình trắc ẩn không thể nói với
ai mà chỉ người bạn đó biết cho mình. Tình bạn tri kỷ thật hiếm có. Do điển
tích: “Bảo Thúc Nha và Quản Trọng” (xem chú thích bài “Cho Ông Tham Tá Ngà” từ
“Tri Kỷ” trang…Chú Giải Thi Văn, Q. Hạ, tập 1).
TÁI SANH: Tái:
trở lại một lần nữa. Sinh: ra đời. Sanh lại một lần nữa, hoặc nói kiếp sau.
Truyện Kiều có câu: “Tái sinh chưa dứt hương thề”. Đức Thầy cũng viết: “Thương
hồng trần mượn xác tái sanh”.
TRANG HIỀN THẢO:
Trang: bậc, hạng người có tài đức. Hiền thảo: Hiền lành thảo hiếu. Hết mực hiếu
đạo và tận trung báo quốc.
THỨC TỈNH: Thức:
biết. Tỉnh: thật hiểu. Bỗng nhiên tỉnh ngộ hiểu biết. Nghĩa bóng: Khi người được
giác ngộ. Đức Thầy có câu: “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ”.
TÂM TRUNG: Tâm:
lòng. Trung: trong. Trong lòng. Đức Thầy có câu: “Nhằm năm lưng túc não nề tâm
trung”.
VẸN MÀY: Do chữ
tu my. Râu và lông mày. Chỉ bậc nam tử (đàn ông). Tròn phận nam nhân. Đức Thầy
có câu: “Muốn thấy người xưa hãy vẹn mày”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến
câu 4)
Đức Huỳnh Giáo Chủ than: Nghĩ
chuyện đời xưa chí đời nay, ít có người đúng bậc tri kỷ cùng Ngài. Ngài tái
sanh kiếp chót này đây để chọn lựa trang hiền thảo, vẹn tấm lòng trung, vừa rạng
danh Thầy, đẹp mặt nòi giống.
CHÁNH VĂN:
5.- “Vẹn mày mới đẹp, đẹp
Tiên-gia,
Tông-Tổ thơm-tho phước hải hà.
Tịch mịch huyền sâu ai hiểu đặng,
Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca.
* * *
9.- Cuồng ca nẻo Đạo chốn huyền
thâm,
Nghĩ việc xa xa ruột tím bầm.
Đau-đớn cho đời ôi thảm họa,
Mạch sầu có miệng lại dường
câm”.
CHÚ THÍCH:
TIÊN GIA: Tiên:
Bậc thoát tục. Gia: nhà. Các bậc chơn Tiên đã đắc Đạo.
TÔNG TỔ: Tông:
dòng họ. Tổ: ông bà. Chỉ chung cho ông bà nội, ngoại cùng dòng họ. Ngoài ra còn
gọi Tổ Tiên. Chỉ chung cho những bậc khai quốc gầy dựng nòi giống dân tộc.
THƠM THO: Mùi
hương dễ chịu bay lan tỏa khắp nơi. Nghĩa bóng: Việc hợp với đạo lý, khiến mọi
người ưa thích làm theo. Đức Thầy có câu: “Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho”. Hoặc
giả: “Thơm tho gia trụ danh đề Tổ Tông”.
HẢI HÀ: Hải:
biển. Hà: sông. Sông biển. Nghĩa rộng: Lòng dạ rộng rãi. Đức Thầy có câu: “Ông
nào lòng dạ hải hà”. Ở đây ý nói: Phước đức của dòng họ rộng lớn như sông biển,
tiếng tăm lan truyền khắp nơi.
TỊCH MỊCH: Tĩnh
lặng không có tiếng động. Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu: “Chiều tịch mịch
đã gầy bóng thỏ”.
HUYỀN SÂU: Huyền
diệu kín đáo. Sâu: thông suốt ngọn ngành.
SĨ CUỒNG CA: Sĩ: Bậc
trí thức, người học thức giỏi, có danh vọng trong đời. Cuồng ca: Cuồng: bấn loạn
tâm trí. Ca: hát. Là bậc trí thức giả điên, giả khùng để qua thời buổi. Sĩ Cuồng
còn là biệt hiệu của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài ra đời vì gặp thời Pháp thuộc nên
giả dại, giả ngu; xưng nhiều danh hiệu như kẻ cuồng trí hoặc vô danh.v.v…như Sĩ
Cuồng, Hồng Vân Cư Sĩ, Vô Danh Cư Sĩ…
TỊCH MỊCH HUYỀN SÂU AI
HIỂU ĐẶNG, ẮT LÀ THẤU TÍCH SĨ CUỒNG CA: Cái
chơn lý của Đạo Phật rất thâm sâu huyền diệu, nó ẩn tàng trong tâm thức: Có khi
biến, có lúc thường rồi huyền, thiệt, đốn, tiệm…Hành giả phải nương theo thời
thế để hành tàng cho khế cơ, khế lý bất kể Điên, Khùng. Trường hợp Tế Điên Tăng
xưa cũng thế, hoặc thời chiến quốc Tôn Tẩn cũng giả điên để tránh nanh vuốt của
Bàng Quyên. Đức Huỳnh Giáo Chủ há không thố lộ:
“Ta Điên thuở tam hoàng Thượng
cổ,
Khùng thế thời, khùng lộ ngoài
da”.
Tóm lại, ai rõ được huyền sâu
của Đạo pháp tất thấu đạt sứ mạng, và danh xưng Khùng Điên của Đức Huỳnh Giáo
Chủ.
HUYỀN THÂM: Huyền:
mầu nhiệm kín đáo. Thâm: sâu xa. Mầu nhiệm sâu xa, Đức Thầy có câu:
“Oai thần đem đạo huyền thâm,
Nhiệm mầu phổ độ âm thầm ai hay”.
TÍM BẦM: Ruột
thịt đau đớn vì thương tích. Nghĩa bóng: chỉ hoàn cảnh trái ngang làm tâm can bầm
dập, nhưng không diễn tả bằng hành động, hoặc lời nói, chỉ âm thầm chịu đựng.
ĐAU ĐỚN: Rất
đau trên cơ thể, hoặc trong tình cảm tâm hồn. Thí dụ: những vết thương làm anh
tê dại. Hoặc: Càng nghĩ chị càng đau đớn trong lòng. Truyện Kiều có câu: “Đau đớn
thay phận đàn bà!”.
THẢM HỌA: Thảm:
đau xót. Họa: tai ương. Đau xót vì gặp phải tai nạn. Đức Thầy có câu: “Cuộc
nguy cơ thảm họa sắp tràn lan…” (Thay Lời Tựa).
MẠCH SẦU: Nỗi
buồn lai láng. Đức Thầy có câu: “Mượn chước huyền cơ giải mạch sầu”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 12)
Hành giả giác ngộ từ bản tâm
thanh tịnh sẽ được vẹn mày và làm đẹp mặt Tổ Tiên nòi giống.
Nếu những ai hiểu đặng máy nhiệm
mầu, cơ diệu pháp sẽ thấu cái giả dạng Điên Khùng của Đức Tôn Sư PGHH. Bằng
không sẽ hiểu ngược lại…
Đức Thầy Điên vì diệu pháp gặp
đời hỗn độn. Nhưng cũng nhờ Điên mới dám bày tỏ hết mối Đạo huyền thâm. Càng nhớ
cuộc đời càng đau đớn cho thế sự. Mối sầu này có miệng cũng không bày tỏ được.
CHÁNH VĂN:
13.- “Dường câm khó nói, nói
còn e,
Thiện tín thờ-ơ nỗi rụt-rè.
Tiếng động bên tường nghe vẳng
vẳng.
16.- Sức hèn như chấu chống
ngàn xe.
* * *
Ngàn xe muốn nghiến chấu còn
bay,
Nước túng tìm phương chống kẻ tài.
Rốt cuộc tương-lai do quyết định,
20.- Phương trời xa thẳm nắm
quyền oai.
* * *
Quyền oai thế-hệ cực ta mang,
Luân chuyển nhơn-sanh lắm cuộc
nàn.
Ai hỡi dân lành ta sẽ đợi,
24.- Đạo người sửa trọn dứt lầm
than”.
CHÚ THÍCH:
THIỆN TÍN: Nói đủ
thiện nam, tín nữ. Chỉ những vị tu tại gia, một lòng gìn đạo và lần bước lên đường
giải thoát. Nhà Phật còn gọi: Ưu bà tắc (thiện nam), Ưu bà di (tín nữ). Đức Thầy
có câu: “Thấy thiện tín chan hòa giọt lụy”. Hoặc: “Tín nữ thiện nam gìn mối Đạo”.
THỜ Ơ: Lãnh
đạm, lạt lẽo, không quan tâm đến. Đức Thầy có câu: “Truân chuyên tạo hóa thờ
ơ”.
RỤT RÈ: Nhút
nhát, luôn sợ sệt.
VẲNG VẲNG: xa
xa. Tiếng dội của bức tường nghe nho nhỏ như sâu lắng. Nguyên câu này Đức Thầy
dùng lối tượng thanh. Đọc lên ta thấy hình ảnh sống động như có thật trước mắt
của chư độc giả.
CHẤU CHỐNG NGÀN XE: Đức
Huỳnh Giáo Chủ dùng văn dụng điển. Do câu ca dao cổ nước ta: “Nực cười châu chấu
chống xe, Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”.
Phát xuất từ đời Tống Thần
Tông bên Trung Quốc và vua nhà Hậu Lý nước ta. Do điển Lý Thường Kiệt làm chức
Thái Úy kiêm Đại Nguyên Soái hơn một lần Bắc phạt quân Tống, đời vua Càn Đức.
Theo chính sử: Quân ta so lực
lượng quân địch chỉ bằng 10%, thế mà Thái Úy Lý Nguyên Soái nghe tin vua tôi
nhà Tống định mở cuộc Nam chinh, ông lại quyết định đánh phủ đầu (dằn mặt) chiếm
được ba thành trì của giặc: Khâm Châu, Liêm Châu và Ung châu. Làm chúng phải chậm
bước tiến suốt một năm sau mới mở cuộc tiến công nước ta được. Nhưng với tài
thao lược và cách dùng binh thần tốc của Thái Úy nhà họ Lý, ông cho đắp sông
Như Nguyệt suốt dặm dài biên giới từ Trung ra Bắc, chặn được bước tấn công của
quân thù, làm vẻ vang nòi giống và rạng rỡ sử xanh vàng son trong một thuở.
Ở đây dụng ý Đức Huỳnh Giáo Chủ
dẫn chuyện xưa để làm nổi bậc chuyện ngày nay. Tuy quân Pháp hùng mạnh chiếm khắp
Nam Kỳ lục tỉnh Việt Nam, nhưng với sức kháng cự mãnh liệt của quân dân ta nhất
định sẽ thắng. Mà thực tế đã an bày vào cuộc đệ nhị thế chiến vào năm 1945 (Ất
Dậu). Đức Thầy tiên tri: “Nhật không ăn hết con gà”.
NGÀN XE MUỐN NGHIẾN CHẤU
CÒN BAY, NƯỚC TÚNG TÌM PHƯƠNG CHỐNG KẺ TÀI: Nước
Tàu là nước hùng mạnh nhứt trên thế giới xưa, dùng danh xưng là Thiên Triều
(Triều đình trên Trời). Chúng thường hay lấn chiếm các nước nhỏ như nước Việt
ta chẳng hạn. Nhưng ông bà ta xưa anh dũng và quyết chống xâm lăng, qua các triều
đại: Đinh, Lê, Lý, Trần…đã làm chứng tích điển hình cho thế hệ hậu sinh noi dấu.
Dầu cho có ngàn xe muốn nghiến cho tan xác châu chấu. Nhưng chúng không cưỡng lại
mệnh Trời. Châu chấu vẫn còn và bọn Thiên Triều đã bị đánh phủ đầu. Sau đó bị
thua và tự động rút quân ra khỏi vòng chiến.
Pháp quốc và bọn tay sai cũng
như những phe đối lập đường lối yêu nước, vì dân, vì độc lập, vì sự tự do hạnh
phúc của đồng bào, vì miếng mồi chung đỉnh mà họ lại nhẫn tâm tìm mưu thâm độc
tiêu diệt lần mòn kẻ tài trí, đó là những kẻ thật tâm yêu nước. Thật đau đớn
thay!
RỐT CUỘC TƯƠNG LAI DO
QUYẾT ĐỊNH, PHƯƠNG TRỜI XA THẲM NẮM QUYỀN OAI: Tất cả
sự việc hưng vong thành bại trên đời tuy do con người toan tính, mưu mẹo đủ
cách để đạt mục đích của lòng tham. Nhưng vì ta sống trong vòng tạo hóa nên phải
chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên. Định luật này nó sẽ quyết định
tương lai và việc làm của chúng ta. Và nó sẽ nắm quyền oai tất cả sự việc. Hay
nói một cách khác: Tạo hóa sẽ sắp đặt, an bày định mệnh từng cá thể của con người
và vạn vật. Câu nói của Ngài Gia Cát Lượng xưa đến nay còn giá trị: “Nhơn nguyện
như thử, như thử. Thiên lý dị nhiên, dị nhiên”.
Nhưng chúng ta nên hiểu thêm rằng:
Vạn pháp đều nằm trong lẽ tương đối. Người tu có thể giải nghiệp và chuyển nghiệp
được. Như câu chuyện ông Khưu Trường Xuân trong truyện “Thất Chơn Nhơn Quả”.
Nhưng căn cứ theo đây ta phải
hiểu sát nghĩa theo câu giảng trên.
QUYỀN OAI: Quyền:
oai quyền. Oai: uy. Có thế lực khiến kẻ khác phải sợ. Tức quyền uy và thế lực.
THẾ HỆ: Thời
đại có nhũng mối quan hệ ràng buộc với nhau. Đức Thầy có câu: “Kim với cổ nhìn
xem thế hệ”.
LUÂN CHUYỂN: Luân:
bánh xe. Chuyển: xê dịch, quay. Nghĩa bóng: Luân hồi chuyển kiếp, còn trong
vòng sanh tử. Đức Thầy có câu: “Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp”.
NHƠN SANH: Nhơn:
người. Sanh: ra đời. Chỉ chung mọi người cùng sống chung trên quả địa cầu,
không phân biệt màu da, tiếng nói. Nghĩa rộng: đời sống con người. Đức Thầy có
câu: “Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà”.
LẦM THAN: Cơ cực
vất vả. Nghĩa bóng: do thiên tai, dịch họa, hoặc chiến tranh gây ra khiến cho
dân chúng sống cơ cực vất vả. Đức Thầy có câu: “Thương đời nói rõ việc lầm
than”.
LƯỢC GIẢI: (từ câu 13 đến
câu 24)
Vì thời thế mà con người có miệng
lại dường câm. Càng câm thì thân bớt khổ, vì “cái miệng nó kiện cái thân”. Thế
nên, người biết Đạo phải cẩn trọng khi thốt lời. Đức Khổng Thánh xưa kia chẳng
bảo môn đệ:“Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”. Cho nên kẻ thức thời đứng trước
nghịch cảnh phải thờ ơ rụt rè là phải! Đúng vậy.
Ngàn xưa lịch sử đã chứng minh
trên đàng tranh đấu của toàn dân Việt:
“Nước Nam Việt ở ven bờ Nam Hải,
Ngàn xưa từng chống lại họa xâm lăng. Bạch Đằng Giang công nghiệp ấy ai bằng,
Quân Việt ít đánh tan Mông Cổ mạnh…”
Đó cũng là sức hèn“Châu chấu
chống ngàn xe”. Ngàn xe muốn nghiến nhưng châu chấu vẫn còn. Đó là chứng tích
điển hình, cũng là lịch sử của dân tộc Việt.
Nhưng cái nhục nhã trong khi
nước loạn mà có kẻ chủ mưu tiêu diệt kẻ tài. Đó là bọn tiểu nhân, chỉ biết quyền
lợi cá nhân. Nhưng có điều là tất cả việc thành bại là do Thiên định, cõi vô
hình chủ động tất cả, toàn bộ thẩm quyền cả muôn loài vạn vật. Thế nhưng tại
sao thế hệ của Đức Huỳnh Giáo Chủ phải gánh chịu cả đôi vai, chỉ để một mình
Ngài mang nặng. Âu cũng là định mệnh! Nói rõ là chí nguyện của Ngài: “Ta chịu
khổ, khổ cho bá tánh”. Ngài lăn xả vào đời hết kiếp này, rồi đến kiếp khác, rồi
kiếp khác nữa. Ngài lúc nào cũng đang mong đợi: Ai là bạn tri âm cùng Ngài hãy
sửa trọn vẹn kiếp sống, sẽ chấm dứt cuộc lầm than!
CHÁNH VĂN:
25.- “Lầm than khói lửa với
binh đao,
Âu Á lung-tung nhuộm máu đào.
Bá tanh say sưa mùi phú-quí,
28.- Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ
lao.
* * *
Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
Phật Đạo trau dồi tâm tánh lại,
32.- Giác thuyền chuyên chở
lúc can qua”.
CHÚ THÍCH:
BINH ĐAO: Binh
lính và gươm đao. Nghĩa bóng: Chỉ cảnh giặc giã chiến tranh.
ÂU, Á: Nói đủ
là: Châu Âu và Châu Á. Hai trong năm châu. Gồm gần phân nửa trái đất.
LUNG TUNG: Loạn
xạ, không có thứ tự. Khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Cuộc lung tung rối rắm trời Âu”.
MÁU ĐÀO: Cũng
đọc là máu điều. Máu đỏ. Nghĩa bóng: Cảnh chết chóc giặc giã. Đức Thầy có câu:
“Chiến trận giao phong rưới máu đào”.
BÁ TÁNH: Trăm
họ. Nghĩa rộng: Chỉ tất cả mọi người. Đức Thầy có câu: “Khắp trong bá tánh kề cảnh
khổ”.
SAY SƯA: Say đắm
triền miên. Đức Thầy có câu: “Cớ sao đời còn mãi say sưa”. Hoặc: “Say sưa chuyện
cổ nhắc chừng đời”.
PHÚ QUÍ: Phú:
Giàu có. Quí (quới): Sang trọng. Sang trọng giàu có. Đức Thầy có câu: “Ham công
danh quên chữ sanh thành, Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.
ĐỒ LAO: Đồ:
khốn khổ, khổ sở. Lao: nhà ngục. Nơi giam cầm tội phạm rất khốn khổ.
BỐ THÍ: Phạn
ngữ: DÂNA. Phiên âm: Đàn na. Dịch: Bố thí. Theo kinh Phật có ba cách bố thí:
1/. Tài thí: Đem vật sở hữu của
mình như: tiền, của cải để giúp đỡ người nghèo.
2/. Pháp thí: Dùng lời lẽ trí
tuệ để giảng dạy, hoặc in kinh sách ấn tống.
3/. Vô úy thí: Quên mình để cứu
người qua cơn sợ hãi, nguy khốn. Đức Thầy có câu:
“Những người có của tiền dư,
Hãy nên bố thí dành tư làm
gì”.
TRÌ CHAY: Trì:
giữ. Chay: (trai): ăn chay, chay lạt. Dùng chay để tránh sát sanh, tăng trưởng
lòng bi.
GIỮ GIỚI: Giữ:
gìn giữ. Giới: tiếng Phạn Sila, những điều giới luật đặt ra ngăn cấm các thầy
tu (tín đồ) không được vi phạm. Theo PGHH, người tín đồ phải giữ 8 điều răn cấm
và Thập giới (diệt 10 điều ác). Đức Thầy có câu: “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.
PHẬT ĐẠO: Còn gọi
là Đạo Phật, hay Phật Giáo. Giáo chủ là Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Mở Đạo tại xứ Ấn
Độ. Một tôn giáo có số tín đồ (phật tử) đông nhứt thế giới và truyền bá lan rộng
khắp các nước. Đã có trên 20 thế kỷ qua. Và hiện nay ban hành (?) mạnh mẽ nhứt
“Thờ Phật Đạo tỉnh cơn ác mộng”. (ĐT)
TRAU DỒI: Trau
sửa, dồi mài cho được hoàn toàn tốt đẹp. Nghĩa rộng: Cố rèn tập và tu sửa công
việc cho thuần thục đến chỗ chứng đắc. Đức Thầy có câu: “Thường trau dồi chí hướng
cao thanh”. Hay: “Trau dồi đúng bực thanh liêm”.
TÂM TÁNH: Tâm:
lòng. Tánh: bản chất. Dụng của tâm. Trời phú cho con người bản chất như vậy. Đức
Thầy có câu: “Tâm tánh ngày nay muốn việc lành”.
GIÁC THUYỀN: Còn gọi
là thuyền giác. Ý nói chánh pháp giống như chiếc thuyền (hay trí huệ), có công
năng chuyên chở hoặc đưa người từ bờ mê sang qua bến giác. Là một trong sáu chiếc
đò của hạnh Bồ Tát. Người tu nào cũng nhờ nó để đạt chí nguyện. Đức Thầy có
câu: “Tịnh độ giác thuyền trị dục tâm”.
CAN QUA: Can:
cái mộc (thứ binh khí dùng để đỡ gươm, giáo, tên…). Qua: Cái mác, giáo. Gồm các
loại binh khí. Nghĩa bóng: Nói đến chiến tranh. Đức Thầy có câu: “Vọng cầu thế
giới dứt can qua”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 22 đến
câu 32)
Cuộc cờ thế giới đã diễn đúng
màn lớp chiến tranh khắp Âu Á, cảnh máu đào thật ghê gớm thế mà con người còn
chưa kịp tỉnh, cứ mãi say sưa theo mùi phú quí đỉnh chung, chắc chắn sẽ gặp cảnh
lao khổ.
Muốn tránh nạn binh đao sắp đến
phải sớm giác ngộ tu hành, thật hành các đức tánh: bố thí, trì chay, giữ giới từ
hình tướng đến nội tâm cho được hoàn hảo, từ đó ta tự tạo con thuyền đưa ta đến
bờ giác ngạn.
CHÁNH VĂN:
33.- “Can qua dân chúng chớ buồn
lo,
Tích đức chờ ta chốn hẹn-hò.
Tiên cảnh Phật đài xem rực-rỡ,
36.- Hoàn-cầu đến đó ấm cùng
no.
* * *
Cùng no bốn biển một cha thôi,
Bỏ dứt thói hư với tật tồi.
Trên có Phật Trời soi việc thế,
40.- Dưới đầy cơm áo Lão về
ngôi”.
Nhà thương Chợ-quán, đêm
18/7/1940 Canh-Thìn
CHÚ THÍCH:
DÂN CHÚNG: Dân:
người ở trong làng, trong nước. Chúng: đông người. Toàn thể hay một số lớn nhân
dân. Đức Thầy có câu: “Khải hoàn dân chúng mới nhàn an”.
TÍCH ĐỨC: Tích:
chứa. Đức: tâm lành. Giữ điều lành.
HẸN HÒ: Hẹn gặp
nhau. Ca dao có câu: “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò”. Đức Thầy cũng bảo: “Tiên cảnh
chúa tôi vẫn hẹn hò”.
TIÊN CẢNH: Tiên:
tiếng Phạn Richi. Bậc tu trên núi đã chứng đắc, có phép thuật và trường sanh bất
lão. Cảnh: cõi, chỗ ở. Chỗ của Tiên ở.
PHẬT ĐÀI: Đài
Phật ngự. Nghĩa rộng: Cõi Phật hay cõi Cực lạc. Đức Thầy có câu: “Tu cầu Tông tổ
siêu thăng Phật đài”.
RỰC RỠ: Lộng
lẫy. Đức Thầy có câu: “Cảnh Tiên rực rỡ mây rồng đẹp thay”.
HOÀN CẦU: Khắp
cả trái đất, các nước trên thế giới. Nghĩa rộng: Hành tinh đang quay hệ mặt trời.
Bề mặt tính được 510 triệu km2. Vòng tròn 140.000 km. Đường trục kính 12.740
km. Riêng biển chiếm 3/4 mặt địa cầu.
ẤM CÙNG NO: Áo mặc
và cơm ăn đầy đủ. Nghĩa bóng: Thảnh thơi nhàn hạ, hoàn toàn sung sướng, chỉ cảnh
đời thượng nguơn sắp đến, không có cánh đi được trên mây; lúa tự lăn vào nhà và
kiếp sống thọ trên ngàn tuổi.
BỐN BIỂN: (Xem
chú thích bài Sa Đéc, Quyển Hạ, tập 1/2 , trang …)
THÓI HƯ TẬT XẤU: Thói,
tật lạc hậu, đồi bại. Ông Chu Văn xưa có nói: “Các thói hư tật xấu, phong tục đồi
bại hay bị lẫn với tình cảm đạo đức”. Đức Thầy có câu: “Lúc rảnh việc nên thường
coi kệ giảng mà giữ gìn phong hóa nước nhà, giữ những tục lệ chơn chánh, bỏ tất
cả những sự dị đoan mê tín thái quá mà làm cho Đạo đức suy đồi”.
PHẬT TRỜI: Phật:
tiếng Phạn: Bouda. Tàu dịch: Giác giả, giác giả là tỉnh giả, là bậc hoàn toàn
giác ngộ, trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, trung quán nhân sự. Và đầy đủ
tâm hồn tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Hơn nữa gồm đủ 4 đức: Từ, Bi,
Hỷ. Xả. Trời: Bậc siêu nhân, cai quản toàn cõi nhơn thiên, bậc tương đối như vị
Phật. Nhưng vì có bổn nguyện làm vua trung giới: cõi vô hình và hữu hình nên đến
cõi nhân thiên mà lãnh đạo.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 32 đến
câu 40)
Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dân
chúng chớ lo buồn cảnh khổ đau, hãy lo tích đức chờ đón Phật, Tiên, Thần, Thánh
ở cảnh thái bình thời Thượng Nguơn sắp đến.
Chừng ấy “Bốn biển một nhà Cha
Phật Thánh”. Muốn được thế, hiện giờ bỏ dứt nhũng thói hư tật xấu. Vì ở bên ta:
“Trên có Phật Trời soi việc thế”. Chừng đó chúng dân dư ăn dư để. Dưới có Đức
Tôn Sư PGHH sẽ trở về ngôi vị xưa.
Bài 15.- BÓNG HỒNG (SGTVTB 2004, tr. 384-386)
XUẤT XỨ:
Cũng tại nhà thương Chợ Quán,
vào những năm (?) Canh Thìn (1940) nhà đương cuộc Pháp an trí Đức Thầy tại đây
và gán cho Ngài mắc bịnh thần kinh. Nhưng trên thực tế là họ chận đứng sự truyền
giáo và sức bành trướng một nền tôn giáo bản địa vị nhân sinh của thế kỷ 20 nầy.
Mặc dù dưới sự kềm kẹp và sức
ép của bọn thực dân, Đức Giáo Chủ PGHH vẫn an nhiên như không có chuyện gì xảy
ra. Ngài đi đến đâu cũng mang hoài bão giúp đời đến hơi thở cuối cùng. Do đó
trước tiên Ngài trị bệnh đau mắt cho mẹ anh gác cửa được lành, và cho y sĩ Tâm
thấy sự mầu nhiệm của Phật Pháp, khiến ông Tâm từ sự ngạc nhiên đến kính phục.
Và cũng chính nơi đây Đức Huỳnh Giáo Chủ lại có dịp sáng tác qua nhiều bài thơ
ngắn gởi về cho bổn đạo xem để tìm hiểu tiến tu.
Bài “Bóng Hồng” (trước và sau)
được Đức Tôn Sư phân trần qua ý niệm của thời đại nhiễu nhương, của xã hội kim
tiền “Xâu nhau đặng có tranh ăn”. Chẳng những người trong nước, đến các nước
lân bang cũng mang tâm trạng biếng cười, biếng khóc.
VĂN THỂ:
Bài nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ viết
theo điệu văn vần, thể lục bát biến thể. Một thể văn phát xuất từ lòng dân tộc
tính Việt Nam, lối thuyết giáo. Dài 58 câu, khởi đầu bằng câu: “Bóng hồng vừa mới
thoáng qua” và chấm dứt bởi câu: “Nhìn ông tận mặt hùng cường làm chi”.
NỘI DUNG:
Đức Huỳnh Giáo Chủ diễn tả tâm
trạng từ bi của một đấng Hoạt Phật đang lo cho thế sự, đất nước ngửa nghiêng, nền
Đạo bị lấp vùi, cốt cách Rồng Tiên của ông cha ta xưa bị vùi lấp. Ngài muốn
vùng lên chuyển lại thế cờ, nhưng vì còn mang thân phàm phải “Ẩn nhẫn hoài chờ
đợi vận hanh thông”.
Hiện tại Ngài rất “Nực cười
cho lũ sói muông” dám “Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn Nghiêu”, nhưng không
thể được, bọn họ sẽ bị thất bại, kẻ hung tàn phải đền tội, và người chân tu sẽ
bình an vô sự, được trở về quê xưa cảnh cũ.
CHỦ ĐÍCH:
Đức Huỳnh Giáo Chủ thống trách
bọn thực dân và đám tay sai dùng sức mạnh đàn áp, lừa bịp người dân vô tội.
Ngài kêu gọi bọn họ trở lại con đường chính nghĩa để khỏi bị quả báo ở ngày
mai.
CHÁNH VĂN:
1.- “Bóng hồng vừa mới thoáng
qua,
Nhơn-sanh tỉnh giấc tìm nhà
Thánh Tiên.
Thánh chúa phán ra miền Nam-địa,
4.- Mặc cho đời mai-mỉa cười
chê”.
CHÚ THÍCH:
BÓNG HỒNG: Ánh
sáng mặt trời màu đỏ. Nghĩa bóng: Tin vui, niềm hy vọng.
NHƠN SANH: Người
đang sanh sống trên quả địa cầu.
TỈNH GIẤC: Tỉnh:
thức, giác ngộ. Nhận điều phải và lập tâm làm theo con đường tỉnh ngộ. Giấc: giấc
ngủ. Tỉnh giấc: vừa qua cơn mê ngủ. Nghĩa bóng: Giác ngộ tu hành, làm theo con
đường Phật dạy.
THÁNH TIÊN: (Xem
chú thích từ Phật, Thần, Thánh, Tiên; bài “Hai Mươi Chín Tháng Chạp” trong tập
này).
NAM ĐỊA: Nam:
miền Nam Việt Nam, tức 6 tỉnh Miền Tây. Địa: đất. Đất địa phương Nam.
MAI MỈA: Châm
biếm, chế nhạo. Đức Thầy có câu: “Theo học Đạo mặc ai mai mỉa”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 1 đến câu 4)
Dân chúng miền Nam Việt Nam được
một tin vui, Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời dạy Đạo và mọi người tỉnh giấc tìm về
Thánh Địa qui y tu tỉnh.
Đây là sứ mạng, là cơ trời sắp
đặt, dù cho ai chế nhạo Ngài cũng mặc nhiên lo làm tròn bổn phận cứu đời, lập Đạo…
CHÁNH VĂN:
5.- “Nhìn dân châu lụy ủ-ê,
Biết sao trút hết gánh về ta
mang.
Mang cho hết tai nàn thế-giới,
Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông.
Cốt xưa thiệt giống Lạc-Hồng,
10.- Trên hòa dưới thuận một
lòng mến yêu”.
CHÚ THÍCH:
CHÂU LỤY Ủ Ê: Châu
lụy: giọt nước mắt rơi lả tả. Ủ ê: buồn rầu áo não. Châu lụy ủ ê: Cảnh buồn rầu
vô số. Nghĩa bóng: Cảnh giặc giã, đói đau làm người dân khốn khổ cùng cực quá sức
chịu đựng.
TAI NÀN: Còn gọi
nàn tai. Tai trời ách nước. Những mối họa (tai nạn) dồn dập. Đức Thầy có câu:
“Đến nay là buổi tai nàn”. Hoặc: “Cảm thương bá tánh tai nàn”.
THẾ GIỚI: Thế:
đời. Giới: đất đai nằm trong khu vực. Đồng nghĩa với vũ trụ. Đức Thầy có câu:
“Ước mơ thế giới lân Hòa Hảo”.
LẠC HỒNG: Còn gọi
Hồng Lạc. Hồng Bàng sanh ra Lạc Long Quân. Vị vua đầu tiên nước Việt Nam. Gọi
chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là Hồng Lạc, tức Tổ Tiên người Việt Nam. Cổ
thi có câu:
“Nhớ câu mộc bổn thủy nguyên,
Cháu con Hồng Lạc lưu truyền
ngàn xưa”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng bảo:
“Quyết chí nâng niu giống Lạc Hồng”.
TRÊN HÒA DƯỚI THUẬN: Cũng
đọc dưới trên hòa thuận: Tinh thần đoàn kết của mái ấm gia đình. Nghĩa rộng:
Chung lưng đâu cật bảo vệ giang san Tổ Quốc.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 5 đến
câu 10)
Nhìn cảnh chiến tranh thực tại
lòng Đức Huỳnh Giáo Chủ đau xót cho dân chúng, Ngài không biết làm sao trút hết
gánh nặng về bản thân để giải sầu cho nhân thế. Xét ra toàn dân tộc Việt Nam đều
là con Hồng cháu Lạc, một lòng mến yêu, hòa thuận đùm bọc lẫn nhau như con một
cha.
CHÁNH VĂN:
11.- “Nay hiếm kẻ ỷ nhiều tiền
của,
Vội làm trò hát múa lăng-xăng.
Xâu nhau đặng có tranh ăn,
14.- Cùng là giành mặc cho bằng
ngoại-bang.
Người sao lại bỉ-bàng tôm cá.
Thức ăn thừa khiếp nỗi ném
quăng.
Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng.
18.- Lại không đủ bữa rối
nhăng đời người”.
CHÚ THÍCH:
HÁT MÚA: Vừa
hát, vừa múa. Nghĩa bóng: Chỉ sự khoe khoang tiền của danh vọng bằng lời nói, bằng
điệu bộ ra mặt.
LĂNG XĂNG: Nhiều
việc bề bộn, tất tả chạy ngược chạy xuôi. Đức Thầy có câu: “Chủ nhà quét tước
lượm lăng xăng”.
XÂU NHAU: Tranh
giành xung đột lẫn nhau. Đức Thầy có câu: “Quyết tranh giành quyền lợi xé xâu
nhau”.
GIÀNH MẶC: Giành
sự ăn mặc. Nghĩa bóng: Se sua chưng dọn giành giựt tất cả mọi nhu cầu trong lẽ
sống, chen lấn trên thiên hạ.
BỈ BÀNG: Xem
thường. Ngoài ra còn có nghĩa: vật quá dư thừa.
NGÀY HẰNG: Còn gọi
hằng ngày. Nghĩa bóng: Chỉ sự vất vả, chạy ngược chạy xuôi mà không đủ miệng
ăn. Chỉ sự nghèo túng.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 11 đến
câu 18)
Xã hội kim tiền phần đông chạy
theo sự xa hoa phung phí, bắt chước theo văn vật Âu Tây, ỷ nhiều tiền của tranh
giành giựt dọc rồi bỉ bàng tục cổ nước nhà, đồ ăn dư thừa bỏ vãi ném quăng.
Trái lại kẻ nghèo thiếu ăn thiếu mặc lo chạy từ đồng xu cắc bạc mà không ra tiền.
Ôi! Cuộc đời sao lắm oái oăm quá nhỉ!
CHÁNH VĂN:
19.- “Xem thế sự biếng cười biếng
khóc,
Chẳng rung-rinh quèo móc chi
ta.
Cười là cười thói ranh ma,
22.- Khóc là khóc kẻ chưa ta dỗ-dành”.
CHÚ THÍCH:
THẾ SỰ: Thế:
đời. Sự: việc. Việc đời. Mọi việc trong đời. Truyện Kiều có câu: “Vui vì thế sự
mà mong nhân tình”.
BIẾNG CƯỜI BIẾNG KHÓC: Do
thành ngữ “Lỡ khóc, lỡ cười”. Còn gọi cười ra nước mắt. Nghĩa bóng: Chỉ sự oái
oăm của tuồng đời. Kẻ quá nghèo, người lại quá giàu, xã hội nhiều phức tạp.
RUNG RINH: Lay
qua, lay lại. Nghĩa rộng: Lung lay muốn đổ, công việc sắp bị thất bại, hay tiếng
tăm địa vị sắp lung lay.
RANH MA: Nói
cho đủ là ranh ma, ranh mảnh, tráo trở, lận lường.
DỖ DÀNH: Vỗ về,
dành riêng để cho ai. Vỗ về an ủi một người nào đó. Đức Thầy có câu: “Nằm lăn
ca hát sớm trưa dỗ dành”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 19 đến
câu 22)
Nhìn cuộc đời hiện tại Đức Tôn
Sư PGHH lỡ khóc, lỡ cười: “Cười là cười thói ranh ma” của người đời. Khóc là
khóc kẻ chưa quy đầu Phật Pháp. Sao người đời chẳng lấy đó tỉnh tâm? Lại còn
đâm thọc, quèo móc ngược lại Đức Huỳnh Giáo Chủ.
CHÁNH VĂN:
23.- “Cơn lỡ-dở buồn tanh chuyện
quái,
Tim non đời kinh hãi bao phen.
Từ xưa ông cống xù quèn,
26.- Ngày nay ông bịnh ông
ghen việc nhà.
Bởi mắc việc đi xa đánh chén,
Bà ở nhà sẽ lén cải trang.
Sét tin ruột nọ bàng-hoàng.
30.- Gượng say làm tỉnh rỗi
nhàn cụng ly”.
CHÚ THÍCH:
LỠ DỞ: Tan
biến mất đi.
BUỒN TANH: Còn gọi
buồn tênh. Buồn cảm thấy cái gì hụt hẩn, thiếu vắng cái gì không rõ rệt. Thí dụ:
Buồn tênh như cảnh chợ chiều.
CHUYỆN QUÁI: Chuyện
quái lạ. Chuyện bất ngờ xảy ra rất lạ lùng. Chuyện ít có.
TIM NON: Lòng
còn trẻ dại. Nghĩa bóng: Người chưa đầy đủ kinh nghiệm sự đời.
KINH HÃI: Sợ
hãi tới mức mất hết tinh thần.
ÔNG CỐNG XÙ QUÈN: Một
chức quan (từ Sĩ Quan trở xuống) của Pháp. Được thực dân Pháp tin cậy cho làm
việc trong bộ máy hành chánh của họ. Do chữ Cống Nghè, là các quan thời xưa
nghênh ngang được thăng chức, dưới thời Pháp thuộc những tay sai của chúng còn
ngang ngược hơn thời xưa, nên người ta thêm chữ “Xù” (chuột cống).
GHEN: Tức tối,
bực dọc. Vì thấy người khác hơn mình, hoặc vì vợ hay chồng người yêu thiếu
chung thủy. Thí dụ: Thấy nó làm ăn khá giả đâm phát ghen. Ghen bóng ghen gió.
CẢI TRANG: Thay
đổi cách ăn mặc, làm khác về hình thể, dáng điệu làm người khác không nhận ra.
Nghĩa bóng: Phụ bạc ân tình. Ở đây Đức Thầy muốn nói chính quyền Pháp thay đổi
chánh sách, nhường bộ máy lãnh đạo cho quốc tế dàn xếp…
SÉT TIN: Tin
sét đánh. Tin đột ngột bất ngờ như Trời đánh.
BÀNG HOÀNG: Như
chữ bồi hồi. Sách Sử Ký có câu: “Bàng hoàng bất năng khứ”. Nghĩa: Bàng hoàng
không đi được. Không được tỉnh táo.
GƯỢNG SAY: Còn gọi
say gượng. Đã say còn làm bộ tỉnh. Nghĩa bóng: Tơ lòng đã nát biến vì tin nước
nhà (Pháp quốc) đã thay đổi cuộc cờ.
RỖI NHÀN: Còn gọi
nhàn rỗi. Rỗi rãi không vướng bận làm một việc gì cả. Thí dụ: Thì giờ nhàn rỗi,
lúc nào cũng thảnh thơi thong thả.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 23 đến
câu 30)
Hung tin bất ngờ đem đến bọn
thực dân và đám tay sai bất ngờ kinh hãi, nhà nước Lang sa đã thay đổi cuộc cờ
chính trị, khiến đồng bọn phải bị lỡ dở và không biết tính sao, phải gượng say
làm bộ tỉnh, tiếp tục chè chén, nhưng đầu óc đã rối toanh.
CHÁNH VĂN:
31.- “Thấy hiếm kẻ vô nghì lạc
Đạo,
Đua một lòng làm bạo làm xằng.
Ai mà xét đến ăn-năn,
34.- Quày đầu hướng thiện bần
tăng dắt giùm”.
CHÚ THÍCH:
VÔ NGHÌ: Không
có tình nghĩa. Đức Thầy có câu: “Hãy tu thân chừa thói vô nghì”.
LẠC ĐẠO: Lạc:
sai. Đạo: con đường. Làm sai với con đường Đạo đức. Nghĩa bóng: ám chỉ những
người chạy theo danh lợi, làm tay sai cho giặc, trở lại phỉ báng Tổ Tiên nòi giống.
LÀM BẠO LÀM XẰNG: Làm
việc điên cuồng hung bạo. Nghĩa bóng: hạng người mất gốc lai căn. Cõng rắn cắn gà
nhà.
ĂN NĂN: sám hối,
sửa đổi. Tránh lỗi trước và chừa bỏ lỗi sau, không cho tái phạm. Đức Thầy có
câu:
“Chữ tự hối nào đâu có lạ,
Là ăn năn cải sửa làm lành”.
HƯỚNG THIỆN: Hướng
về điều lành. Nghĩa bóng: lo tu hành trở lại tìm con đường giải thoát cho mình
và vạn loại chúng sanh.
BẦN TĂNG: Thầy
tu nghèo. Đối với hạng phú tăng. Nghĩa bóng: Bậc giải thoát xem thường danh, lợi,
tình “Cư trần bất nhiễm, lẫn tục không mê”. Thường xả phú cầu bần, xả thân tu tỉnh.
Ám chỉ: Tế Điên Tăng, Đức Huỳnh Giáo Chủ…
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 31 đến
câu 34)
Cặp mắt Phật nhận chân cuộc đời
hiện tại, phần đông là hạng người tu sai lạc chân lý, bất nghĩa bất nhơn, chỉ
ham làm việc xằng bậy theo thời thế.
Vậy ai là người biết ăn năn cải
hối lo tu sẽ được gặp Thầy tận tâm dẫn dắt.
CHÁNH VĂN:
35.- “Mắt thấy đứa vô nghì
phát giận,
Ngặt nỗi mình còn bận
pháp-thân.
Chờ con đầy-đủ nghĩa-nhân,
38.- Ra tay tế-độ dắt lần về
ngôi.
Có ngày mở rộng qui-khôi,
Non thần vang chuyển Khùng ngồi
xử phân.
Huyền cơ máy tạo xoay vần,
42.- Đồng về Phật-cảnh mười phần
xinh tươi.
Thánh Tiên vừa nhích miệng cười,
44.- Chúc mừng trần-thế có người
chơn tu”.
CHÚ THÍCH:
PHÁP THÂN: chơn
thân của vạn pháp. Trong kinh Niết Bàn có giải: “Pháp thân là bản thể của chư
Phật, dùng cái pháp tánh thường trụ, chẳng biến đổi để làm thân”. Lại có câu:
“Phật chơn pháp thân do như hư không, ứng vật hiện hình như thủy trung nguyệt”.
(Chơn pháp thân của Phật ví như hư không, tùy vật hiện hình như trăng dưới nước).
Đức Lục Tổ luận giải như sau:“Phải dòm ngó Phật ba thân trong tánh mình, người
trong thế gian đều có Phật ba thân (Pháp thân, báo thân và hóa thân). Bởi tâm
còn mê muội nên không thấy sáng suốt trong tánh mình, người cứ tìm Phật ba thân
ở ngoài mà không thấy Phật ba thân ở trong tâm”. Đức Thầy có câu:
“Bực mình đeo đắm pháp thân,
Chờ cơn gió tạnh sẽ lần bước
ra”.
Pháp thân ở đây chỉ cho ba
thân phàm tục, còn vướng mắc trong nghiệp lực của thiên nhiên. Thật ra là chưa
hợp thời cơ nên phải chịu vậy. Nếu vận thời đưa đến sẽ tuông mây một cách dễ
dàng.
NGHĨA NHÂN: Hai
trong ngũ thường. Là hai đức tánh cao quí trong nền Nho giáo của Đức Khổng
Thánh đã nêu từ xưa. Bổn phận làm con người phải có đủ hai đức đó. Nếu thiếu nó
giống như loài thú. Ca dao có câu: “Thương người như thể thương thân”. Đức Thầy
bảo: “Nếu thiệt người thì biết thương người”. Con người ngày nay vì thiếu nhân
nghĩa, Đức Thầy mới:
“Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
Ra tay tế độ dắt lần về ngôi”.
TẾ ĐỘ: Dẫn dắt
đưa qua. Dùng pháp mầu cứu độ, hoặc dạy chỉ phương thoát khổ. Đức Thầy có câu:
“Tế độ dân nghèo trong lúc túng”.
QUI KHÔI: Qui:
trở lại. Khôi: đứng đầu to lớn. Làm cho trở lại to lớn đứng đầu.
NON THẦN : Núi
phương Nam có Thần Thánh ở. Nghĩa bóng: Chỉ ngày Đại hội ở năm non có đủ Phật,
Tiên, Thần, Thánh hiện hình dự thi và chờ Đức Thầy phân xử. Như Ngài cho biết:
“Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,
Thưởng những người trung nghĩa
vẹn toàn”.
Hay là: “Phạt với thưởng hai
đường tỏ rõ”.
HUYỀN CƠ: Cũng
gọi là cơ huyền. Huyền: mầu nhiệm. Cơ: máy trời. Sự vận hành của tạo hóa rất mầu
nhiệm cơ mật. Đức Thầy có câu: “Đạo hạnh huyền cơ khuyên đó kiếm”.
XOAY VẦN: Cũng
viết vần xoay. Nghĩa bóng: Cuộc đời nó biến chuyển luôn. Đức Thầy hằng xác định:
“Hết vinh tới nhục lẽ này thường xưa”.
PHẬT CẢNH: Cũng
viết cảnh Phật, xứ Phật. Chỗ Đức Phật Thích Ca cu hội đại chúng thuyết pháp,
hay chỗ Đức Phật A Di Đà ngự.
THÁNH TIÊN: (Xem
chú thích trongn bài “Hai Mươi Chín Tháng Chạp” trong tập này).
TRẦN THẾ: Cũng
viết là thế trần. Trần: là bụi bặm. Thế: đời. Cõi đời đầy bụi bặm mà chúng ta
đang ở. Đức Thầy có câu: “Cuộc thế trần nhiều đoạn khó khăn”. Hay: “Trần thế lợi
danh giấc mộng tràng”.
CHƠN TU: Chơn:
thật. Tu: sửa. Một lòng lo đạo, giúp đời và nêu gương hạnh tốt đẹp cho mọi người
noi dấu “Chơn tu thì quá ít oi”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 35 đến
câu 44)
Cặp mắt của Đấng từ bi nhìn thấy
số người bỏ căn gốc Tổ Tiên, chạy làm tay sai cho ngoại quốc, trở lại đàn áp giống
nòi, lòng Ngài vô cùng đau đớn. Nhưng cố gắng nhẫn nại vì chưa đúng thời cơ, vì
còn mang xác thân phàm. Hơn nữa còn phải chờ số tín đồ đền đáp nghĩa nhân trọn
vẹn để tế độ lần về ngôi vị.
Một ngày gần đây nền Đạo PGHH
sẽ bành trướng khắp mọi nơi và đồng chung về một mối. Chừng đó “Non Thần vang
chuyển Khùng ngồi xử phân”. Mọi người đồng về Phật cảnh, Thánh Tiên đều họp mặt
chúc mừng người hữu phước chơn tu.
CHÁNH VĂN:
45.- “Ngày nay vừa lúc trăng
thu,
Tiết trời ảm đạm mịt-mù gió
mây.
Mưa phùn lác-đác đượm bay,
48.- Canh tràng thơ-thẩn thân
Thầy bơ-vơ.
Truân-chuyên Tạo-hóa thờ-ơ,
Đưa người lương-thiện lỡ bờ xa
quê”.
CHÚ THÍCH:
ẢM ĐẠM: Ảm:
là sắc đen sậm. Đạm: nhạt. Một sắc đen lờ mờ không đậm hẳn (nói về cảnh vật hay
nói về người). Cảnh tối tăm. Đức Thầy có câu: “Xuân sang ảm đạm ánh dương mờ”.
MỊT MÙ: Xa
xôi mù mịt không thấy gì. Đức Thầy có câu: “Cơn dông tố mịt mù bụi cát”. Nghĩa
bóng: Chỉ cảnh giặc giã làm cuộc đời đen tối.
LÁC ĐÁC: Thưa
thớt, rải rác. Bà Huyện Thanh Quan có câu: “Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.
CANH TRÀNG: Đêm
dài. Nghĩa bóng: cuộc thử thách còn lâu.
THƠ THẨN: không
làm chủ được hành động bản thân. Đức Thầy có câu: “Khi Ba Tàu xách gói hồi
hương, Vàng bạc tóm bỏ cô thơ thẩn”. Ám chỉ tấm thân của Đức Thầy bị thực dân
Pháp đày đọa.
BƠ VƠ: Nổi
trôi không nơi nương dựa. Đức Thầy có câu: “Đớn đau sắp đến bơ vơ một mình”.
TRUÂN CHUYÊN: Gian
nan vất vả. Đức Thầy có câu: “Đạo diệu mầu gặp lúc truân chuyên”.
TẠO HÓA: Tạo:
làm ra. Hóa: thay đổi. Thường dùng chỉ cho ông Trời lập ra cõi đời và biến hóa
vạn vật. Đức Thầy có câu: “Tuần huờn tạo hóa cầm cân”.
THỜ Ơ: Lãnh
đạm, lạt lẽo. Không quan tâm đến.
LƯƠNG THIỆN: Hiền
lành tốt đẹp. Đức Thầy có câu: “Người lương thiện hưởng muôn điều hạnh phúc”.
LỠ BỜ XA QUÊ: Xa
cách quê hương, lưng chưng nơi đất khách, lỡ cả bến bờ. Đức Thầy có câu: “Người
quê quán chợ như thoàn linh đinh”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 45 đến
câu 50)
Đức Huỳnh Giáo Chủ viết bài
này vào lúc giữa thu, đáng lẽ trăng thanh gió mát. Trái lại “Tiết trời ảm đạm mịt
mù gió mây”, thêm lại có mưa phùn, cảnh vật thê lương làm tăng vẻ đìu hiu, thổn
thức lòng người lữ thứ. Suốt canh tràng Ngài trằn trọc khó an giấc điệp. Vì đâu
mà tạo hóa nỡ nhẫn tâm đưa đẩy Ngài vào cảnh ngộ trớ trêu? Làm thân Ngài phải
bơ vơ nơi đất khách!
CHÁNH VĂN:
51.- “Ru con buồn ngủ chưa mê,
Tằm đòi lên kén sợ dê phá chuồng.
Nực cười cho lũ sói muông.
54.- Đem điều cay nghiệt phá
tuồng Thuấn-Nghiêu.
Đến sau phách lạc hồn xiêu,
Rã-rời thân thể mang nhiều họa-ương.
Ai ôi! hãy ngắm cho tường,
58.- Nhìn ông tận mặt hùng cường
làm chi?”
(Viết tại nhà thương Chơ-quán,
ngày 25-8 Canh-Thìn)
CHÚ THÍCH:
RU CON BUỒN NGỦ CHƯA
MÊ, TẰM ĐÒI LÊN KÉN SỢ DÊ PHÁ CHUỒNG: Một thành ngữ ám chỉ
công việc tất bật. Ba công việc dồn về một lúc: ru con chưa ngủ, tằm đòi lên
kén, đê đói muốn phá chuồng. Nghĩa bóng: Đức Huỳnh Giáo chủ dạy Đạo chưa xong,
giặc Pháp đòi quản thúc Ngài và chiến tranh đang bùng nổ. Còn có nghĩa: Thời cơ
chưa thuận tiện, nên sứ mạng của Ngài chưa thành đạt.
SÓI MUÔNG: Chó
sói và chim muông: Thú vật hung ác thường sát hại con người. Nghĩa bóng: Chỉ
lòng hung bạo của Đế quốc Pháp và bọn tay sai.
CAY NGHIỆT: Đắng
cay nghiệt ngã. Nghĩa bóng: Chỉ việc tàn bạo dã man, áp bức cùng cực.
THUẤN NGHIÊU: Thuấn:
Đế Thuấn (vua Thuấn 2256-2195 trước TL). Ông họ Diêu, tên Trùng Hoa, cháu 8 đời
của vua Huỳnh Đế. Ông vốn là trang hiếu tử, đứng đầu trong “Nhị Thập Tứ Hiếu” của
Trung Hoa. Nhờ hiếu thảo mà được vua Nghiêu gã con gái và truyền ngôi, đóng đô ở
Đồ Bản (Ngũ hương, huyện Hà Đông, tỉnh Sơn Tây). Đổi quốc hiệu là Hữu Ngu. Đế
Thuấn trị vì được 61 năm, thọ 101 tuổi. Nghiêu: Tên một ông vua ở Trung Hoa thời
xưa, nổi tiếng có hiếu và thương dân, họ là Đào Đường, tại vị được 72 năm, sau
truyền ngôi cho Đế Thuấn: “Truyền hiền bất truyền tử”. Đức Thầy có câu:
“Thuở xưa thời buổi Thuấn
Nghiêu,
Thái bình thạnh trị mến yêu khắn
tình”.
NỰC CƯỜI CHO LŨ SÓI
MUÔNG, ĐEM ĐIỀU CAY NGHIỆT PHÁ TUỒNG THUẤN NGHIÊU: Đức
Huỳnh Giáo Chủ cười bọn Pháp quốc và đám tay sai dám đặt điều độc ác hãm hại
Ngài, nhưng không thể được. Ngài vẫn an nhiên và nền Đạo PGHH ngày càng rạng rỡ.
Thật vậy, qua thời “Đệ nhị thế
chiến” Đức Thầy và nền Đạo của Ngài vẫn đứng vững với thời gian và không gian
cho đến ngày nay (1945-2008) và còn chói rạng hơn xưa nữa.
PHÁCH LẠC HỒN XIÊU: Còn gọi
xiêu hồn lạc phách. Một thành ngữ chỉ cho trạng thái tiêu hồn mất xác, bị đọa lạc
không còn mang dấu vết.
Theo định luật nhân quả: Những
người bị phạm tội ngũ nghịch hoặc quá nặng, phải bị đọa tam đồ: Chết dở sống dở,
tiêu hồn lạc phách, vất vơ vất vưởng không còn nơi nương tựa. Đọc truyện Phong
Thần ta thấy: Sau khi Na Tra lóc thịt đền ơn cha mẹ, ba hồn chín phách nương tựa
về miễu của bà Lý Tịnh lập tại đầu làng. Sau bị Lý Tịnh phá miễu, đập cột hình,
khiến linh hồn Na Tra vất vưởng bay về núi nương với Thầy Thái Ất Chơn Nhơn.
Ông Thanh Sĩ có diễn cảnh trạng ấy:
“Làm bùn, làm đất, làm cây đá,
Trơ trọi giữa Trời vạn kiếp
thu”.
HÙNG CƯỜNG: Hùng:
mạnh mẽ. Cường: cứng cỏi. Nghĩa bóng: Sức mạnh, thế lực mạnh mẽ. Đức Thầy có
câu:
“Tuy ngày nay chúng nó hùng cường,
Chừng phân định thì Ta cao
quí”.
LƯỢC GIẢI: (Từ câu 51 đến
câu 58)
Vì chưa đúng thời cơ, nên Đức
Thầy phải chịu lao đao lận đận: Nền Đạo mới khai mở thì giặc Pháp đày ải Ngài,
rồi nạn giặc giã lan tràn trên non sông đất Việt. Chẳng qua là ông tạo muốn thử
lòng bậc chân tu có thối chí cùng chăng? Ngài nực cười cho giặc Pháp dám dở những
trò ký quái phá hoại sự nghiệp của vị Thánh Vương nước Việt ở ngày mai.
Hỡi bọn thực dân, nữa sau phải
chịu tiêu tan hồn phách. Đức Thầy khuyên dân chúng hãy tin tưởng vào sự nghiệp
cứu đời lập Đạo của Ngài, chắc chắn sẽ thành công. Hiện thời chúng bây đừng lên
mặt, hãy nhìn Ngài cho thật kỹ rồi sẽ thấy Trời Phật sắp đặt cuộc chiến trong
tương lai, ai còn ai mất?
- HẾT -
Đăng nhận xét