DownLoad Hiển Đạo Phần 1 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 2 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 3 PDF
TẢI QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ
****
Từ
phương xa tiếng gà gáy rộ,
Dội
vào tai liền mở mắt ra;
Xem giờ
vừa đúng canh ba,
Phật dạy
phải cất chơn ra thế,
Cứu
nhơn-gian khỏi bể ái-hà;
Đường
trần đèo ải thẳm xa,
Nạn
tai chồng chất quỉ ma dẫy đầy.
Con mạnh
tiến đừng phai trí đạo,
Giúp
được đời quí báu hơn châu;
Thảng
như lâm phải nạn sầu.
12.
Khuyên con mật niệm thường câu Di-Đà,
Chẳng
những được trừ tà diệt quái,
Còn
thoát qua khỏi ải gai chông,
Con đừng
hèn nhát nơi lòng,
Tây-Phương
có Phật hộ tùng ngày đêm;
Nguyện
độ con gieo thêm giống thiện,
Quả Bồ
Ðề được tiến đến nơi;
Phật
khuyên con nhớ thêm lời,
Bởi cơ
tận diệt người đời quá lanh.
Các thế
giới chung quanh trái đất
Vì quả
mùi duyên nghiệp đã thâm
Đồng
sanh trong cõi tục phàm,
Tranh
lấn nhau tự cường tự bạo,
Đủ
phương châm trở tráo khó đo;
“Dò
sông dò biển dễ dò,
Mấy ai
lấy thước mà đo lòng người”.
Câu nầy
rất đúng đời mạt hạ,
Quá hiểm
sâu lòng dạ thế gian.
Giết
người bằng mọi kế ngoan,
Nghĩa
nhơn lánh mặt đạo đàng ngơ tai.
Khắp
Âu Á tranh tài đấu sức,
Tạo
khí binh ác độc vô ngằn.
Khí
hùng càng lúc càng tăng;
36.
Tăng cho đến tột đầu săn mới dừng
Trên
con đường tách chơn giáo đạo,
Sẽ gặp
nhiều gió bão hãi hùng.
Yêu
tinh chận đón khắp cùng,
Vậy
con lấy kiếm Thư Hùng bảo thân.
Lưỡi
kiếm nầy biến phân đủ phép
Con
khéo dùng để dẹp tà tông;
Gặp
khi yêu dụng hỏa công,
Nhẫn Bồ
Đề chú khá hòng niệm ngay.
Hỏa-Vô-Yên-Tinh
hay đột xuất
Động
nó đều có khắp mọi nơi
Nó hay
khêu tức người đời,
48. Bằng
câu danh vọng hoặc lời gác cao
Gia trụ
con nó vào ra dễ,
Cửa huệ
môn nhớ bế cho cần.
Đầu
tiên chưa vẹn trí thần;
Đôi
khi hờ hỏng nó lần chen vô,
Đạo
tâm khá qui mô cẩn mật,
Vững cứng
như muôn vách núi đồng;
Sẽ là
khỏi phải lo phòng,
Hỏa-Vô-Yên-Quái
khó xông phá vào.
Tuy
nhiên cũng không sao hết việc.
Còn có
nhiều yêu nghiệt khác hơn,
Khắp
trong thành thị thôn lân,
60.
Tham-Vô-Tận-Quái chúng từng tới lui.
Từ hạng
tuổi nên mười nên bảy,
Đến cấp
người thành đại thành gia;
Nó thường
dùng lấy phép tà,
Làm
cho phút chốc mắt lòa như sương.
Nó lừa
phỉnh vào đường uế trược,
Mê hồn
như bị thuật thôi miên;
Tay
luôn ham nắm lấy tiền,
Sát
nhơn bội ước không kiêng món gì.
Hạng bần
tiện thường khi đạo tặc,
Kẻ phú
hào chẳng ngớt tham lam.
Tham-Vô-Tận-Quái
khéo làm
72.
Người đời như kẻ tục phàm đăng tiên
Từ tim
não đến bên tai mắt
Nó thường
hay biến các cuộc vui;
Kẻ buồn
nó muốn cho nguôi,
Bày
trường đổ bát với mùi tửu hoa.
Câu thắng
bại khi lòa mắt tục
Tự tay
mình khuấy đục giá danh;
Gái
không còn trọng tiết trinh,
Ném
xuân đổi bạc, gieo tình lấy ngân.
Kể gì
lẽ vạn ân nhứt nhựt,
Chỉ biết
câu bán tịch thiên kim;
Nó xui
những kẻ hữu quyền,
84. Đoạt
ngôi cướp nước mưu riêng cho mình.
Khiến
cho cả sanh linh đồ thán,
Làm thần
sầu người oán khắp nơi;
Nó xui
người nỡ giết người,
Để mưu
lấy của hoặc lời tặng khen.
Xúi
nghèo khó lòng ghen phú hiển,
Mưu hại
lừa để chiếm cao sang;
Gớm
ghê tên quái Tham Tàn,
Khéo
dùng lắm thuật mù loàn nhơn sanh.
Xui vợ
nỡ phụ tình chồng khó,
Khiến
chồng đem dạ bỏ vợ nghèo;
Xui
con đạo hiếu không theo,
96. Riêng
thân no ấm rẻ bèo mẹ cha.
Nó lại
xúi nồi da xáo thịt,
Giữa
gia đình cốt nhục đệ huynh;
Dẫn
nhau kiện cáo tù hình,
Bởi
tranh ruộng đất vì ganh của tiền.
Con
ơi! Nhớ lời khuyên của Phật,
Thứ
yêu nầy ác nghiệt vô cùng;
Cổ kim
nào bá nào hùng,
Nó đều
nắm chắc trong lòng bàn tay.
Cõi thế
gian các-đài hoa-lệ,
Nội
dung đầy hương quế ướp xông,
Từ
ngoài cho đến bên trong,
108.
Nó đều giăng bủa lưới chông dẫy đầy.
Con
chú ý chớ say đừng nhiễm,
Máng
đeo vào mất điểm linh quang,
Khó
mong trở lại Niết-Bàn;
Đường
về Cực-Lạc nẻo đàng lấp ngăn,
Con
nên nhớ cửa tăng thanh đạm,
Thường
ăn thô mặc tạm qua thời;
Cho
nên dễ móng sự đời,
Tham-Vô-Tận-Quái
đợi nơi ngày này.
Nó lần
tới thuyết bày đủ lẽ,
Khiến
vọng Tăng bác bẻ không ra;
Lần lần
tâm loạn mắt lòa,
120. Tấm
lòng phán đoán chánh tà mất đi.
Lớp vô
minh ngu si phủ tới,
Xô đẩy
vào đường lối nhuốc nhơ;
Lạc
sai chỉ một đường tơ,
Muôn
năm khó phục như xưa được nào.
Vậy
con rán gìn sao cho vẹn,
Phật
đang trông thời hạn con về
Tuy rằng
nhiệm vụ nặng nề,
Rán
thành đạt chớ bỏ bê nửa chừng.
Nghe đến
đây ta rưng nước mắt,
Liền
chắp tay cúi mặt vâng lời;
Phật rằng:
nầy hỡi con ơi,
132.
Cõi trần nhằm buổi rốt đời Hạ Nguơn.
Cũng
là ngày tạo nhân phải trả,
Như hạn
kỳ vay tá đến nơi;
Không
phương trì huỡn đổi dời,
Thế
nào cũng phải vốn lời trả xong.
Vay một
phải trả chồng năm bảy,
Càng
dài lâu lời lãi càng to;
Khác
gì sạ lúa trồng mơ;
Gieo
ra có một hái vô gấp mười.
Thiện
ác cả đôi nơi như thế,
Không
lầm sai nghiêng trệ mảy nào.
Khắp
trong hạ giới trần lao,
144.
Ác tâm đã thạnh khí hào đang sung.
Hung
thần cũng sanh trong ngũ địa,
Cậy
thông minh hội khế ngũ hành;
Vui
đùa trong cuộc sát sanh,
Mạng
dân như thể chỉ mành treo chuông.
Các
La-Hán thập phương thế giới,
Cũng
hóa thân vào cõi thế gian;
Không
ngừng lời lẽ khuyên can,
Chủ
trương đoàn kết khai đàng tồn sanh.
Khuyên
vũ khí chiến tranh ác độc,
Đem đổi
làm lợi lộc cho người;
Riêng
mình riêng nước riêng ngôi,
156.
Vung gươm nhả đạn giết người đành ư,
Mạng
như tử hình tù một loại;
Sống tợ
ngòi pháo cháy mỏng manh,
Chỉ
riêng tật bịnh hoành hành,
Đủ làm
khổ não nhơn sanh lắm rồi.
Cuộc
giết hại nên thôi chớ tạo,
Thương
lẫn nhau cơm áo sớt chia;
Đừng
đem cửa miệng làm bia,
Ngôn
hành phải được nhứt tề mới nên.
Chư La
Hán tuy khuyên lắm lẽ
Nhưng
đời thường bác bẻ nhiều hơn;
Mây sầu
luôn ngút cõi trần,
168. Mắt
từ-bi ngắm trăm phần xót xa.
Quả đất
như rắn già sắp lột,
Mạng số
đời dường bọt nước sông,
Nay
mai sẽ hóa thành không.
Vậy
con nên sớm lập công buổi này.
Khi
con lướt chông gai khuyến thiện,
Hột
sen nầy Phật điểm tên con,
Nếu
con đạo hạnh vuông tròn;
Hột
sen nầy sẽ nở lần thêm ra.
Công đức
con ấy là phân nhựa,
Giúp
sen nầy được trổ thêm hoa;
Nhược
bằng con ngả đường tà,
180.
Hoa nầy tức héo như là đốt thiêu.
Sen với
con có nhiều quan hệ,
Sức cảm
thông đáo để phi thường;
Phật
dù ở cõi Tây-Phương,
Ngắm
sen tức biết rõ đường con đi.
Phật
khuyên con nhớ ghi chặt dạ,
Cành
sen nầy đợi quả con nên;
Khi về
con sẽ ngồi lên,
Mười
phương thường gọi rằng tên Liên-đài.
Vậy
con nhớ từ đây sấn bước,
Phí
phàm thân cứu vớt gái trai,
Quên
khi mưa gió dạn dày;
192.
Đem kỳ khắc tạm đổi ngày vĩnh miên.
Kiếm
Thư Hùng Phật khuyên thêm nữa,
Con nhớ
đeo chớ bữa nào thôi;
Ngoài
hai thứ quái kể rồi,
Còn
nhiều giống quỉ vô hồi độc sâu.
Thứ gọi
Sắc-Vô-Đầu-Thượng-Quỉ,
Nó
không phân ngôi vị cấp giai;
Nơi
nào nó cũng vãng lai,
Xúi
người dâm ái không ngày nào thôi.
Nó biến
hóa đủ người đủ dạng,
Ẩn náu
trong các hạng gái trai;
Trẻ
già chẳng luận một ai,
204. Dễ
nằm dưới sự khiến sai quỉ nầy.
Nó thường
xúi tôi gây phản chúa,
Vì
thông dâm ở giữa cung phi;
Chúa
ăn ở lỗi đạo nghì,
Cướp
con vợ kẻ hạ ty của mình.
Mê sắc
đẹp sát sinh hại mạng,
Khởi
đao binh gieo nạn cho dân;
Như
người Trụ Kiệt chẳng ngần,
Toàn
là lầm kế biến phân quỉ nầy.
Nó luyện
được sợi dây phép lạ,
Bực Thần
Tiên khó phá chóng mau;
Nếu
tâm vọng động trần lao,
216.
Nó dùng dây ấy trói nhào như chơi.
Còn đối
với hạng người thường tục,
Chúng
quỉ nầy trói buộc dễ dàng;
Nó làm
tâm trí mê man,
Hết
còn phân biệt được đàng giả chân.
Nó bắt
phải lo tần lo tảo,
Mưu nọ
kia xây tạo các đài,
Sắm
sanh quần áo guốc giầy,
Phấn son
tô điểm giồi mài khắp thân.
Gây tội
ác không ngần không ngại,
Miễn
được tiền trang trải nọ kia;
Não đầu
đến cực độ mê,
228.
Ngày đêm đều chẳng ngớt bề ưu tư.
Vợ lo
chồng bị người cướp đoạt,
Phu ngờ
thê kẻ khác vãn ve;
Gái
trai lòng vẫn ngại e,
Sợ người
yêu đổi sang bè khác đi.
Bị
chia rẽ hoặc khi bội bạc,
Phát
điên cuồng thần sắc kém hao;
Quên
ăn mất ngủ tâm bào,
Thuốc
men trăm thứ uống vào chẳng tiêu.
Nỗi khổ
nầy kể sao cho xiết,
Đều do
con nghiệt quỉ đó gây;
Nào ai
chẳng biết khổ nầy,
240.
Nhưng đâu mấy kẻ đủ tài thắng qua.
Con
ơi! Phật xưa đà lắm kiếp,
Bị nó
dùng dây phép trói trăng;
Song
nhờ Phật sớm hồi quang,
Gươm
hùng cắt đứt khổ nàn vượt qua.
Nếu khắp
cõi người ta như Phật,
Sắc-Vô-Đầu-Quỉ
dắt được nào;
Chơn
chơn chánh chánh một màu,
Đời
cao luân lý, đạo cao hạnh lành.
Cõi khổ
não biến thành Cực-Lạc,
Khắp
năm châu chung cuộc thanh bình,
Hết lo
đến họa đao binh;
252.
Những điều thất tiết phá trinh chẳng còn.
Tuy bảo
thế nhưng con khá hiểu,
Nghiệp
duyên đời chằng níu từ lâu;
Lo đền
có mấy ai đâu,
Cứ gây
thêm mãi đậm sâu nhiều người.
Vì lẽ ấy
sự đời cứ rối,
Nào
oán ân nào mối ghét thương,
Trừ
qua cấn lại lắm đường,
Luật
nhân quả cứ phán đương mỗi ngày.
Đến
khi nào ai ai cũng tỉnh,
Sóng dục
làm bình tịnh như nhiên;
Ngày nầy
thiên hạ mới yên,
264.
Hòa bình không gọi cũng liền hiện ra,
Điều nầy
nếu người ta đồng muốn,
Trong
khắc thời sẽ hưởng được ngay,
Đoạn nầy
ta bỗng thở dài;
Khó
làm cho cả nhân loài nhứt tâm,
Phật bảo:
chớ lấy làm kinh hãi,
Lòng
háo sanh cứ dạy chúng sanh;
Dù
không được hết người lành,
Chỉ
dìu một kẻ tu hành cũng nên.
Kẻ hữu
duyên đã quên căn bổn,
Lo nhắc
cho người sớm nhớ ra;
Một
người qui hướng Phật gia,
276. Sẽ
dìu hết kẻ trong nhà đều tu.
Con
rán lập công phu kỳ chót,
Chớ
sanh lòng hoảng hốt đắn đo,
Gặp đường
sông biển gay go;
Phật
luôn chực sẵn chiếc đò từ-bi,
Con
ơi! Đúng ngay kỳ mạt pháp;
Yêu
tinh hay lấn áp hiền tăng,
Ít người
tùng thiện qui căn;
Phần
đông theo thuyết vô thần nhiều hơn.
Xưa tả
đạo bàng môn phá Phật,
Nay vô
thần mưu dứt giáo tông;
Chấu
không chống nổi xe đồng,
288.
Phật khuyên con nhớ vững lòng độ dân,
Trời
hôn ám dùng thần huệ-chúc (1),
Buổi rối
loàn mượn khúc tư-duy;
Phàm
nhơn bất luận món gì,
Họ đều
lấn cướp không chi răn chừa.
Ra đời
khá muối dưa đạm bạc,
Thường
tâm vô nhứt vật không tăng,
Tất là
khỏi việc lấn ngăn;
Đứng,
đi, ngủ, thức, nói, làm tự-do.
Sách
kinh dẫu muôn pho chép để,
Cũng
không ngoài nơi lẽ ấy đâu;
Vậy
con chớ nhọc xa cầu,
300.
Muôn điều sẵn có trong bầu tâm linh.
Suốt
thâu đêm tự mình soi lấy,
Chí
công tìm sẽ thấy mối manh;
Chỉ
trong một phút cựa mình,
Bao
nhiêu cảnh mộng tan tành còn chi.
Giác với
mê chung qui có một,
Khác
nào như sóng nước không hai;
Chớ
nên vọng chấp bên ngoài,
Hãy
dùng trí quán lại ngay trong lòng.
Ngược
điều nầy tất không thấy đạo,
Chỉ luống
công giúp giáo kẻ thù;
Người
đời thường một bữa tu,
312.
Năm mười ngày bỏ công phu chẳng cần.
Cũng tự
cho là chơn Phật tử,
Đạo cứ
tìm trong sử trong kinh,
Không
soi lại bổn tánh mình;
Cứ
quen như thế mà hành sớm trưa,
Rồi lại
trách sao chưa phát huệ;
Đăm
nghi ngờ kinh kệ sai ngoa,
Kệ Kinh
chỉ hướng cho ta,
Cứ ngồi
một chỗ dễ mà tới đâu.
Có giống
sẵn không âu trồng tỉa,
Ước mơ
suông há dễ được ăn;
Nhìn
tay không chịu ngó trăng,
324. Lại
đem ý trách cho rằng tối đen.
Đọa trần
bởi theo quen lối tục,
Siêu
phàm nhờ đi ngược đường duyên;
Đừng màng
chúng gọi khùng điên,
Quày đầu
tất quả Phật Tiên đắc thành.
Tuy phải
dùng thiên kinh vạn pháp,
Vì muốn
cho phù hạp tánh căn;
Chung
qui có thể nói rằng,
Cũng đồng
nghĩa bước ngược đàng trần duyên.
Nghe đến
đây, ta liền cúi lạy,
Xin Phật
thương chỉ dạy nguồn cơn;
Lành
thay con hữu thiện duơn!
336.
Phật bèn nói tiếp như nguồn nước trôi.
Con
ơi! hiện giữa đời mạt hạ,
Có thứ
yêu tên Phá-Thần-Minh;
Nó làm
cho kẻ tu hành,
Trong
khi thiền tịnh hay sanh tản thần,
Rồi từ
đó mê dần đến ngủ;
Tâm hết
còn tự chủ được thân,
Sẽ là
bị nó dắt lần,
Vào
trong cảnh mộng chưa từng thấy ra.
Nào lầu
gác treo hoa kết tụi,
Nhiều
gái xinh vừa tuổi giắt trâm;
Đứa
thì mặc lối khiêu dâm,
348. Đứa
thì lõa thể dễ làm say mê.
Chúng
áp lại vỗ về quyến rũ,
Lời bướm
ong chọc đủ dục tình;
Bất ngờ
chỉ một khắc canh,
Tự tay
nấu cạn thuốc linh trong lò.
Kẻ tu
niệm bị xô vào đấy,
Như bướm
sa vào lưới nhện giăng;
Chỉ
làm mồi chúng nó ăn,
Nẻo tồn
sanh hẹp lại bằng đường tơ.
Thứ
yêu nầy từ xưa đã có,
Biết
bao người vì nó thối tâm;
Từ
Tiên rớt lại cõi phàm,
360.
Nhà Tăng hoàn tục không làm chi xong.
Con
ơi! Nó vô cùng ác nghiệt,
Trong
khi mình chưa được tự do;
Không
nên khinh suất hẫng hờ,
Khá
phòng như kẻ giữ kho của tiền.
Ấy là
bước đầu tiên hành đạo,
Tỏ ngộ
rồi tung tháo tự nhiên;
Khi
què chân bước chưa yên,
Tự
dưng bỏ gậy ngã nghiêng tức thời.
Luật
giới vốn là nơi tá túc,
Khá
nương theo chớ phút nào rời;
Dù cho
mưa nghiệp khắp trời,
372. Không
làm ướt át được người trong hiên.
Lời bảo
nầy con nên ghi nhớ,
Để ra
đời nhắc nhở người ta;
Phá-Thần-Minh
thứ yêu ma,
Mỗi
khi thấy kẻ tăng già trì trai.
Nó thường
xúi nhớ ngay cá thịt,
Bắt
thèm thuồng kích thích muốn ăn,
Một
khi kém sức nhẫn dằn,
Tự tay
trở đũa, luật răn bất cần.
Giờ tịnh
niệm hoặc cơn bái sám,
Khiến
trong người hôn ám mỏi mê;
Dần-dà
đến khắc trễ bê;
384.
Hoặc là tụng niệm hơ hê lấy chừng,
Nó có
phép hôn thần ám nhãn,
Ai lâm
vào cuồng loạn cả tâm;
Mắt
xem chẳng biết xiển thâm,
Tai
nghe không hiểu đâu lầm đâu không.
Nói cứ
nói rắn rồng chẳng hản,
Ý thức
mờ như khoảng lê-minh;
Nó là
mẹ đẻ tội tình,
Chúng
sanh vì nó xuống lên Ta-bà.
Từ
muôn kiếp lâu xa trở lại,
Cứ chết
rồi liền tái sanh ra;
Trôi
lăn trong khúc ái-hà
396.
Sình lên xọp xuống kể ra sao cùng.
Việc
khổ nạn chất chồng khắp đất,
Không
lúc nào người được thảnh thơi,
Bốn
mùa không lúc nào rời;
Đông
thời lạnh lẽo, Hạ thời nóng oi.
Xuân
mưa tạt, Thu trời dông tố,
Giàu
nghèo đều thọ khổ như nhau;
Trong
khi đói phải ăn vào,
Ăn rồi
lại bắt lo nào tiêu ra.
Bao
nhiêu đó cũng là thấy khổ,
Huống
chi còn tật nọ tật kia;
Xác
thân đòi phải trau-tria,
408.
Qua cơn ăn uống tới bề mặc mang.
Giàu
muốn được cao sang hơn nữa,
Nào
các lầu xe ngựa ngọc ngà;
Nghèo
thời tần tảo bôn ba,
Lo cơm
hai bữa, lo nhà để nương.
Quên hết
lúc dầm sương phản mại,
Lấn
chen sao cho lại với người;
Đêm
ngày nào được rảnh ngơi,
Cứ lo
cho đến thở hơi cuối cùng.
Cái khổ
nầy há không đáng chán,
Ngoài
ra còn nhiều nạn khác hơn;
Cháy
nhà hoặc bị nước dâng,
420.
Chết thiêu trong lửa bỏ thân dưới triều.
Kẻ đã
bị nhà thiêu nước cuốn,
Phủi sạch
tay chén muỗng không còn;
Bào
hao nào vợ nào con,
Ôm
nhau mà khóc chớ còn biết chi.
Khổ nầy
há không suy nghĩ tới,
Để lâu
rồi mới hối kịp đâu;
Vậy
con nhớ rõ từ câu,
Ra đời
kể rõ đuôi đầu người nghe.
Kẻ thế-gian
thường khoe sung sướng,
Đó là
người lầm tưởng đấy thôi;
Một
khi thẩm xét cạn rồi,
432.
Thấy đời khổ não như ngồi tù lao.
Khổ bịnh
hoạn ai nào tránh khỏi,
Đau chỗ
nào cũng gọi xốn xang;
Ngày
qua là một ngày tàn,
Trẻ rồi
già kế bước sang tử kỳ.
Đẹp
cho mấy cũng qui lại thổ,
Sang đến
đâu chỉ số bá niên;
Ngày
đêm tối sáng liền liền,
Mạng
như than lửa khó yên trong lò.
Khổ
não nói sao cho cùng được,
Người
luống công mưu chước trường miên;
Chỉ
làm một việc cuồng điên,
444.
Có chi tồn tại cho riêng mình dùng.
Vì
thân sống người trong hạ giới,
Phí
công lao dùng mọi kế ngoan;
Nỡ gây
ra lắm tội oan,
Nhưng
thân sống chẳng bảo toàn dài lâu.
Chi bằng
tạo lấy câu bác ái,
Giúp đỡ
nhau bớt cái khổ nàn;
Không
làm kẻ trách người than,
Sống
trong hành động xóm làng kính yêu.
Lúc
bình sanh tiêu diêu vô lự,
Khi tạ
trần được ngự cõi thanh;
Được
như thế tất an lành,
456.
Đông Tây các cuộc tranh giành liền ngưng.
Các Hiền
Thánh không cần giảng dạy,
Đời tự
nhiên trở lại thiện lương;
Con
ơi! Thiệt giả đôi đường,
Ít ai
chịu khó suy lường cho ra.
Bị lậm
phép của ma ngu độn,
Tự
quên đi căn bổn của mình;
Bao
nhiêu tâm trí quang-minh,
Trở
nên đen tối tợ nhìn hang sâu.
Trong
nhà đạo chấp câu vô hữu,
Ngoài
trường đời bám sự ngã nhơn;
Nay nhằm
thời buổi Hạ Nguơn,
468.
Lòng câu nệ gấp mấy lần hơn xưa.
Chỗ
nào cũng ghét ưa hai thứ,
Khiến
người đời đa sự ưu tư;
Ghét
thời tìm cách xa trừ,
Ưa thì
lo liệu cho như ý mình.
Nó là
gốc để sanh các cuộc,
Bình
nó rồi sẽ được an cư;
Con
ơi! Nhưng nó khó trừ,
Bởi vì
đối cảnh thì người vọng tâm.
Trong
lúc ấy đã làm duyên cớ,
Cho thứ
nầy xen mó vào trong;
Tự
chia ranh giới nơi lòng,
480. Từ
đây dẫn đến tụ tòng nghiệp duyên.
Lắm kẻ
rõ căn nguyên sự khổ,
Nhưng
không lo hối ngộ tu thân;
Ấy vì
nghiêng nặng bên trần,
Trong
lòng không rảnh để gần Phật gia.
Hạng
người ấy khó mà giáo độ,
Bởi kệ
cơ với họ xem thường;
Từ bi
vẫn sẵn lòng thương,
Nghe
không cũng cứ một đường giáo khuyên.
Phật
xưa đã tiếp liên nhiều kiếp,
Gánh
biết bao tai nghiệp cho người
Thượng
căn Phật thí bằng lời,
492. Hạ
căn thí của cho người ấm no.
Nhiều
lúc tự đem cho con vợ,
Giúp
những người cô quả lẻ loi;
Thí
thân cho cọp làm mồi,
Thí
luôn cả máu cho loài quỉ ma.
Đem
não óc để hòa với thuốc,
Cứu
cha già trong lúc bịnh nguy;
Nói
chung bất luận món gì,
Phật đều
không chút tiếc chi với đời.
Việc
làm ấy kể thôi vô số,
Gây
duyên lành khắp chỗ mọi nơi;
Vua
quan dân thứ lắm người,
504. Lánh
xa tục lụy đạt ngôi Bồ-Đề.
Cũng lắm
kẻ còn mê chưa tỉnh,
Phật
không ngừng dùng ánh từ-quang;
Chiếu
soi khắp các nẻo đàng,
Phá
cơn tăm tối cứu hàng thiện duyên.
Chính
con đây đang yên giấc ngủ,
Hóa mộng
lành Phật phủ lấy con;
Đem về
cho biết Kim-Sơn,
Một
phương trong cả muôn phương Phật dùng.
Hơn nữa
hiện ở trong thế giới,
Các
loài yêu dấy khởi mọi nơi;
Đồng
mưu sát hại người đời,
516. Bằng
muôn vật quái kể thôi sao cùng.
Có một
việc con không nên trễ,
Hãy
nói mau cho kẻ trần hay;
Sớm
Đông chiều lội về Tây,
Hai
con rắn độc ở ngay trong trần.
Nó đã
sống lâu hơn Bàn-Cổ,
Sức lớn
không so đọ chi bằng;
Ngày
đêm bò lội xung-xăng,
Gặp
người gian ác bắt ăn không chừa.
Nay
cõi thế gặp cơ tận diệt,
Con
quái nầy thêm dịp hành hung;
Dù đem
bom lửa súng đồng,
528.
Chỉ là chọc giận nơi lòng nó thôi.
Dùng
khí giới thêm hơi cho nó,
Hại
nhiều người chớ có ích chi;
Bánh
xe nhật nguyệt lăn đi,
Tránh
sao cho khỏi thời kỳ nầy đâu.
Phật
biết rõ đuôi đầu tự sự,
Muốn
cho người bỏ dữ về lành,
Rắn dù
có lắm gút nanh,
Cũng
không sát hại mạng sanh được nào.
Người
nghe qua tưởng đâu lời phỉnh,
Gặp nó
rồi mới tính sao đây;
Kêu Trời,
Trời cũng khoanh tay,
540.
Réo Thần, Thần cũng đứng ngoài mà trông.
Hãy liệu
trước kẻo không tính kịp,
Đến nước
rồi mọi việc giai hưu;
Chuyện
nầy ta rất lo ưu,
Đê đầu
lạy Phật xin mưu cứu đời.
Phật
liền vỗ vào vai nhè nhẹ,
Rồi
ung-dung tiếp kể thêm lên;
Nầy
con, để dạ đừng quên,
Sau
khi thức giấc đem khuyên người đời.
Trước
khi cuộc non dời biển đổi,
Chúng
sanh trong khắp cõi trần dương;
Đông
Tây Nam Bắc bốn phương,
552.
Hướng nào cũng nhớ niệm luôn Di-Đà.
Lòng
ngày đêm không xa sáu chữ,
Tất sẽ
trừ rắn dữ được ngay,
Pháp
môn tuy có nhiều thay,
Hạ
Nguơn niệm Phật mỗi ngày cũng nên.
Niệm
Di-Đà đừng quên hướng thiện,
Thì
tai ương tất viễn ly thân;
Chớ
nên chờ họa đến gần,
Mới ra
công niệm mất phần ứng linh.
Con nhớ
khuyên người gìn đức tín,
Lòng
thỉ chung nhất định không quên;
Đường
xa càng bước càng bền,
564.
Như người tìm mẹ lâu niên lạc loài.
Không
quản lúc chông gai mưa nắng,
Mẹ khi
nào tìm đặng mới thôi;
Tu
hành cũng thế con ôi!
Quyết
về gặp Phật cùng ngồi tòa sen,
Chẳng
để phút nào quên tưởng Phật,
Dù xác
thân lắm lúc gian lao;
Phật
xưa khổ hạnh ngần nào,
Không
xiêu ngã mới đứng vào Như Lai.
Xưa Phật
cũng mang đai phàm xác,
Như
chúng sanh nào khác chi đâu;
Thế mà
Phật đạt đạo mầu,
576.
Chúng sanh há chẳng tu cầu cho nên.
Trước
Phật có vô biên sanh chúng,
Đã
chân tu được chứng Niết-Bàn;
Phật
không riêng ở Tây-phang,
Mười
phương đâu cũng có hàng Như-Lai.
Không
khác chi Đông Tây Âu Á,
Nơi
nào mà chẳng có người ta;
Nước
thì nghèo khổ xấu xa,
Nước
thì giàu có lầu tòa vinh vang.
Lấy việc
nầy hiểu sang việc khác,
Có
chúng sanh thì Phật nào không;
Hãy
tin tưởng mạnh nơi lòng,
588. Để
cùng chư Phật ngồi chung Liên-đài.
Kể từ
đây đến ngày tận thế,
Nơi
Liên trì Phật để nhiều hoa;
Chờ
người nơi cõi Ta-bà,
Khi
sang đây có dùng mà làm chân.
Sự mầu
nhiệm vô ngần tột bực,
Toàn
là do công đức tương ưng;
Trong
hoa tức có thức thần,
Thức
thần an trụ chín từng Liên hoa.
Thân
sen vàng trong tòa hoa báu,
Cõi thế
gian khó tạo cho ra;
Có
muôn ánh sáng chói lòa,
600.
Càng trông càng bắt sanh ra kính vì.
Trong
ánh sáng ẩn vi hương quí,
Rất
thơm tho khác dị hơn phàm;
Cõi nầy
sao chẳng thích ham,
Lại
đem lòng mến thế gian mới kỳ.
Người
cõi sen mỗi khi khởi niệm,
Tức ứng
ngay theo điểm của mình;
Việc
nào cũng rất mầu linh,
Những
điều gọi trái ý mình là không.
Muốn
nghe nhạc tất trong luồng gió,
Thổi
vào cây liền có nhạc nghe;
Thân
cây màu sắc trong ve,
612.
Phật nào mình muốn tức là hiện ngay.
Kệ cho
nghe những bài vô thượng,
Thật
ngoài điều tưởng tượng của mình;
Cõi nầy
do Phật tạo nên,
Bằng
muôn công đức xây trên tu hành.
Những
người được thân sanh vào đấy,
Trong
lòng không hề thấy chán chê;
Đạo mầu
càng lúc say mê,
Như
dân nghèo khó được kề nhà vua.
Kẻ
dương thế thích ưa châu ngọc,
Giết hại
nhau bóc lột liền tay;
Cõi
sen châu ngọc làm cây,
624. Bạc
vàng làm đất lót đầy khắp nơi.
Giá
tuy quí không người giành giựt,
Chẳng
một ai thiếu hụt món chi;
Lại
thêm tất cả việc gì,
Hễ
lòng nếu muốn tức thì có ngay.
Chúng
sanh hiện sống ngày lao khổ,
Há
không mau đến chỗ báu nầy,
Từ xưa
cho đến những nay;
Phật hằng
chờ đón không ngày nào ngơ.
Bao
lâu Phật cũng chờ đón mãi,
Nhưng
người đời ít thấy ai sang;
Vì mang
nợ thế đa đoan,
636.
Không giờ phút rảnh để sang bên này.
Lắm kẻ
tính đi ngay cho tới,
Song nửa
chừng rẽ lối bỏ đi;
Đã bao
nhiêu kiếp diên trì,
Đến
nay cũng chửa thấy gì quyết tâm.
Lẽ đạo
pháp đành rằng mắc-mỏ,
Nhưng
cố tìm tất rõ mối manh;
Quyết
tu thì ắt sẽ thành,
Có trồng
có hưởng há rằng không ngơ,
Chúng
sanh biết bao giờ nhứt niệm;
Cứ để
lòng lui tiến liền khi,
Càng
làm xót dạ từ bi,
648.
Thương đời còn mãi mê ly biển trần.
Tranh
lợi danh chia phân thượng hạ,
Không
ngày nào trong dạ được yên;
Ít ai
sống được bá niên,
Mà lo
những việc lâu bền ngàn năm.
Nào
khác chi giống tằm làm ổ,
Tự
trói mình không chỗ chui ra;
Trong
khi chưa chín chưa già,
Bị người
đem nấu trong lò nước sôi.
Phật đứng
ngoài xem đời mộng mị,
Không
cười chê vẫn ý xót thương;
Khi
xưa Phật ở trần dương,
660.
Lúc chưa ngộ đạo cũng dường thế ni,
Đường
của Phật đã đi đã hiểu,
Thương
người còn lịu địu chưa xong;
Cứu
cho được mới vừa lòng,
Chúng
sanh còn khổ vẫn không ưng tình.
Nghe
đoạn nầy ta sanh cảm động,
Rồi tự
dưng khóc rống to lên;
Nghĩ rằng
tâm Phật rộng thênh,
Giúp
ngừơi chẳng đợi ai đền trả ân.
Đã nhiều
kiếp bỏ thân vì đạo,
Vẫn một
lòng chỉ bảo chúng sanh;
Ghét
ưa gì cũng mặc tình,
672. Cứ
lo tiếp dẫn cứ gìn lòng thương,
Lo như
mẹ lo đường con trẻ,
Quên
nhọc nhằn chẳng kể nắng sương;
Chúng
sanh hữu phước không lường,
Nhờ lời
của Phật mở đường mới thông.
Nghĩ đến
đâu động lòng đến đó,
Nước mắt
càng lụy nhỏ như mưa;
Cúi đầu
ta mới liền thưa,
Biết
làm sao trả cho vừa Phật ân.
Con
xin Phật chỉ phân ráo rốt,
Những
điều con quê dốt chưa thông;
Hay
thay! Con khéo phát lòng.
684. Dạy
con mọi lẽ Phật không tiếc gì,
Hiện
giờ con trong khi đang ngủ,
Chơn
linh con về trụ Kim-Sơn,
Xác
con đang ngọa tại trần,
Nằm
như khúc củi thức thần đều không.
Vậy
con hãy thử trông lại xác,
Như chết
rồi nào khác chi đâu;
Những
nào của cải đài lầu,
Những
nào trăm thứ sắc màu nọ kia.
Phủi tất
cả không hề ngó tới,
Hết
còn lo tấn thối sự chi,
Chúng
sanh lấy đó mà suy;
696.
Chết rồi cũng thế có gì khác đâu.
Muôn
việc đến quan khâu là hết,
Nghèo
giàu đều chung kết như nhau,
Uổng
công lúc sống quơ quào;
Mạng
chung tay chẳng nắm vào món chi,
Gây tội
chẳng vật gì trường hưởng,
Ấy là
người lầm tưởng lớn lao,
Thay
vì nghiệp ác chuốc vào;
Nên
làm nhơn thiện cho nhiều quí hơn.
Danh
được tốt mà ơn cũng có,
Hữu sự
ai đành bỏ được mình;
Sống
trong cuộc sống an ninh,
708.
Không ai đối địch chống kình mà lo.
Được
như thế của kho đâu sánh,
Cũng
hơn người quyền bính ác gian;
Tử
sanh mà có Niết-Bàn.
Khổ
lao mà có thanh nhàn là đây.
Đời cứ
mãi sống say chết ngủ,
Lên xuống
hoài chịu đủ đắng cay;
Mỗi lần
người bị bào thai,
Mỗi lần
bỏ một xác thây tại trần.
Thây
xác ấy nếu dồn chất lại,
Sẽ lấp
đầy cả Thái Bình Dương,
Chúng
sanh nào biết nào tường;
720. Cứ
say đắm mãi trên đường mê ly.
Từ đây
còn lần đi tới nữa,
Đến
khi nào lò lửa năm châu;
Bùng
lên cháy phủ cả đầu,
Chừng
ni mới biết việc đâu đã rồi.
Chúng
sanh đã nhiều hồi loạn lạc,
Tay bồng
con lưng vác hành trang;
Trước
đầu lửa cháy đa đoan,
Sau
lưng tiếng súng giặc tràn đuổi theo.
Pha lẫn
tiếng con kêu khóc mẹ,
Bên đường
còn nhiều kẻ thác oan;
Trông
vào phách lạc hồn tan,
732.
Thấy người rồi bắt nghĩ sang đến mình.
Lúc ấy
chỉ mong sanh cho được,
Hết
còn lo đến cuộc lợi danh;
Vật
chi đổi mạng cũng đành,
Lòng
không còn biết tiếc dành món chi.
Cảnh nầy
sẽ nhiều khi hơn nữa,
Cuộc
thái bình lần lựa chưa xong;
Rộng
tâm chớ có hẹp lòng,
Trước
sau rồi cũng tay không chớ gì.
Nên
làm phải trước khi hữu sự,
Đến nạn
rồi bố thí ai khen;
Rèn
lòng thanh đạm cho quen,
744. Vật
khi phải bỏ, bỏ liền như không.
Con há
chẳng biết trong lúc giặc,
Có nhiều
người vì tiếc cửa nhà,
Ở lỳ
không chịu trốn ra;
Bị người
bắt giết biết là bao nhiêu.
Mến của
tất chết theo vì của,
Vật
không còn thân nọ ra ma;
Người
đời chịu khó suy ra,
Tự
nhiên thấy rõ đâu là bèo mây.
Trôi
theo nước cuốn quây theo gió,
Cứ rày
đây mai đó không yên;
Có quyền
chẳng giữ đặng quyền,
756.
Có tiền không nắm được tiền dài lâu.
Tiền
là bạc nó đâu chung thỉ,
Quyền
là hành nó cứ đổi thay;
Từ
ngàn xưa đến ngày nay,
Tánhngọa
hai việc ấy cứ hoài vậy thôi.
Thế mà
người cứ xuôi theo nó,
Không
chịu tìm đường ngỏ cao hơn;
Món
chi ăn mãi cũng lờn,
Ở trần
lâu phải chán trần chớ không!
Nay nhằm
dịp Tây Đông hữu nạn,
Tất có
nhiều người chán đao binh;
Con
nên lấy lẽ tu hành,
768.
Khuyên người bỏ dữ theo lành từ đây.
Buổi
ban sơ chưa khuây việc thế,
Không
nên dùng kinh kệ khó khăn;
Chỉ
khuyên một ít điều răn,
Gồm
thêm trai giới mỗi trăng bốn ngày.
Đem giảng
kệ của Thầy con dạy,
Thường
đến lui nhắc lại người nghe,
Những
điều nào họ còn mê,
Dùng lời
dịu ngọt vỗ về khuyên lơn.
Họ
chưa hiểu con cần giảng mãi,
Quên mỏi
mê đừng ngại công lao;
Nên
làm cho họ khát khao,
780.
Không nên làm họ ngán ngao nơi lòng.
Phải cẩn
thận từ trong lời nói,
Khiến
cho người được khởi tâm lành,
Giúp
người thêm mạnh đức tin,
Đừng
làm cho họ lòng sanhngọa nghi ngờ.
Đến
đâu cũng tùy cơ phổ hóa,
Rung
chuông lành thức dạ người mê;
Tai
không màng tiếng khen chê,
Miễn
là dắt được người về nhà tu.
Độ một
người quày đầu hướng thiện,
Công đức
to sông biển há bì;
Con
nên noi chí từ bi,
792.
Ra tay độ thế quản gì riêng thân.
Quí đạo
đức nhiều hơn quí của,
Cứu
người nguy vui bỏ mạng căn.
Lòng
nhân ấy có chi bằng,
Muôn đời
ai lại chẳng hằng noi theo.
Ai
cũng vẫn biết điều nhân đức,
Không
làm vì chưa dứt ngã tâm;
Tự
nhiên trong dạ u thâm,
Nhận
nhìn những kẻ đã lầm phước duyên.
Kẻ bảo
cho mùi thiền thuốc nhựa,
Vì đứng
ngoài bệ cửa trông vào;
Những
lời xác đáng thâm cao,
804.
Không từng đọc tới làm sao được tường.
Hơn nữa
chỉ nhắm phường giả đạo,
Mượn
ca-sa lừa đảo thế gian;
Tạo ra
chùa lớn Phật vàng,
Để cho
bá tánh thập phang cúng tiền.
Kệ
kinh vẫn tụng liền nơi miệng,
Hỏi
nghĩa mầu một biến không thông;
Cứ
tranh đồ chúng cho đông,
Hầu
nhiều của cải để dùng cho sang.
Ngồi một
chỗ lo ăn sung-sướng,
Không
hề đem lòng tưởng đến ai;
Chỉ
làm giống Phật bề ngoài,
816.
Bên trong chẳng một mảy may tương đồng.
Chỉ
làm bại hoại trong Phật pháp,
Đâu phải
người thiền giác chơn tu;
Hạng nầy
như kẻ đui mù,
Tự mình
chưa độ còn đâu độ người.
Họ
không thể thay lời của Phật,
Phật
cũng không nhận việc họ làm;
Nếu ai
muốn rõ huyền thâm,
Ngó
vào họ ắt sai lầm rất to.
Cửa Phật
vốn thơm tho sáng tỏ,
Họ
đang tay bôi lọ cho đen;
Khiến
cho lắm kẻ xemngọa hèn,
828. Lầm
cho đạo Phật làm phiền người ta.
Đạo Phật
có đâu là như thế,
Hãy lật
xem kinh kệ mà tri;
Phật
là vốn tánh từ bi,
Việc
lành bất luận điều chi cũng làm.
Từ xã
hội bước sang nhân loại,
Chuyện
gia đình đến gọi quốc dân;
Nếu là
việc hợp nghĩa nhân,
Tự
nhiên sốt sắng xuất thân ra làm.
Trước
độ mình sau toan độ chúng,
Câu ấy
là rất đúng Phật gia;
Đừng lầm
ngồi niệm Di-Đà,
840. Mặc
ai sống chết không ra giúp vùa.
Ngồi
niệm mãi niệm cho đến chết,
Cũng
không thành chi hết mà mong.
Phật
là tả đột hữu xông;
Sang
Tây cứu thế, qua Đông độ đời.
Chớ
đâu có cứ ngồi một chỗ,
Giữ
chùa chiền chuông mõ kệ cơ,
Không
làm cho kẻ nào nhờ,
Tu
hành như thế bao giờ cho nên.
Giúp
người chẳng khoe tên ai biết,
Như mẹ
cha lo việc cho con,
Chỉ
làm bổn nguyện cho tròn;
852.
Đâu cần ai đáp đền ơn làm gì.
Nếu ai
được hành y như thế,
Tức là
người thừa kế Phật ngôi;
Câu nầy
ta bắt hỡi ôi!
Biết
bao giờ được mỗi người y theo,
Xin Phật
hãy cho nhiều Bồ-Tát,
Xuống
thế trần ở khắp mọi nơi,
Hóa ra
đủ cả hạng người;
Tùy
duyên giáo độ cho đời biết tu.
Trước
hết phá sạch câu ngã chấp,
Trong
Tăng đồ đã tập từ lâu;
Sau lần
đến cả năm châu,
864.
Khiến người quyền thế quày đầu ăn năn.
Bớt được
tánh hung hăng táo bạo,
Cứu
dân lành xương máu bớt rơi;
Hiện
giờ khắp chốn cùng nơi,
Liệt
cường nào cũng chuyên ngòi súng bom.
Xưa giặc
giã dùng gươm với nỏ,
Nay
chiến tranh cậy có súng bom;
Một lần
giết được hằng muôn,
Dữ dằn
gấp mấy ngàn lần hơn xưa.
Phật rằng:
ấy là cơ tận thế,
Khiến
loài người tạo chế thứ hung;
Ấy là
tại cái nghiệp chung,
876. Từ
lâu nay đã tích tồn lại đây.
Vật tạo
lấy sau nầy tự chịu,
Nó sẽ
làm kết liễu người đời,
Nó như
là loại chim dơi,
Còn
người ví tợ trái mùingọa trên cây.
Đã thế
còn gặp khi giông gió,
Mạng số
đâu hưởng thọ dài lâu;
Với
câu thiện ác đáo đầu,
Rồi
đây bá tánh đâu đâu sẽ tường.
Không riêng
con ưu buồn việc ấy,
Phật
khắp nơi cũng lấy làm đau;
Thế
gian bất luận chỗ nào,
888.
Có chư Bồ-Tát kêu gào khuyên răn.
Nhưng
ít kẻ qui căn mộ đạo,
Trái lại
còn kiêu ngạo nhiều lời;
Làm
cho Phật bắt thương ôi!
Cứu
căn ngọa không thể cứu rồi số duyên.
Thuốc
không uống bịnh thuyên sao được,
Lành
chẳng theo cội phước há sanh,
Đến
khi quả đất tan tành,
Cũng
chưa mấy kẻ giựt mình đâu ư!
Việc
nghiệp biết không chờ phải thốt,
Kẻ thế
gian ngu dốt làm sao!
Không
phân biệt được vàng thau,
900.
Trần ai lại mến, đạo mầu thì ngơ.
Trẻ bảo
tu hẹn chờ có tuổi,
Già
cho rằng chưa rỗi để tu;
Hết
Xuân rồi lại đến Thu,
Cứ lần
lựa đến khi vào quách quan.
Kẻ làm
con ngỗ ngang hung bạo,
Khiến
mẹ cha phiền não phát sanh.
Kẻ làm
cha mẹ bất lành,
Khiến
con bắt chước tạo tành bất lương.
Tội lỗi
cứ chằng vương như thế,
Hết đời
nầy thừa kế đời sau;
Nghiệp
sầu cứ mãi chuyền lao,
912.
Chúng sanh biết đến chừng nào rảnh rang.
Nghiệp
hoặc (2) cứ tạo mang đầy dẫy,
Sự khổ
lao vương lấy đa đoan;
Thấy vầy
Phật chẳng ngồi an,
Dời
con đến để truyền ban đạo mầu.
Sự thế
chẳng còn lâu xa nữa,
Nào
thiên tai nào lũ yêu tinh;
Đầy đường
chật nẻo đáng kinh,
Chúng
sanh vì nó bỏ mình làng khang.
Chúng
cậy phép tà làn mắt tục,
Con
dùng huyền cơ dẹp tà tông,
Luôn
đem lấy ngọn hùng phong,
924.
Thổi vừng mây ác phủ trong trần đời.
Làm
sáng tỏ nơi ngôi Phật pháp,
Hầu cứu
người còn chút thiện căn;
Ngày
nào mây ác còn giăng,
Là còn
mờ mịt ánh trăng cửa thiền.
Ngoài
các quái đã khuyên đoạn trước,
Còn
nhiều ma lần lượt kể sau;
Não
tim con khá ghi vào,
Để mà
tỏ lại người nào chưa hay,
Con
ơi! Chính ở ngay hạ giới,
Thứ gọi
tên là Ngoại-Nhân-Ma,
Vốn
không có cửa có nhà,
936.
Thường hay lưu lạc ở mà khắp nơi.
Nó có
tánh móc moi tọc mạch,
Hết
người nầy đến lượt kẻ kia;
Quê
nhà lâu chẳng trở về,
Nó
không hề biết đến bề cố hương.
Nó có
thuật không nhường ai cả,
Dù thần
tiên chưa há thắng qua;
Chúng
sanh nơi cõi Ta-bà,
Thường
hay bị nó cướp mà tâm linh.
Mắt của
nó rất nhanh như chớp,
Liếc
xem người ở khắp gần xa;
Người
nào đức trọng tài ba,
948.
Nó sanh ghen tức sẽ là hại đi.
Hoặc
biếm nhẻ khinh khi chỉ trích,
Xúi
người đồng công kích không thôi,
Chừng
nào hạ được xong rồi,
Lấy
làm khoái chí mới nguôi lòng phiền.
Nó có
tánh ganh hiền ghét ngõ,
Gặp
người tu hay xỏ hay xiên;
Bốn
mùa nó chẳng ngồi yên,
Mắt
luôn xéo xắt láo liên không ngừng
Ngựơc
lại nó cũng từng biếng nhác,
Ỷ lại
vào kẻ khác đỡ nâng;
Như mù
chỉ động hai chân,
960. Mặc
cho người dắt xa gần cũng thây.
Người
nào bị nó lây tánh ấy,
Lòng tự
tin một mảy không còn;
Trở
nên như cái hình nhơn,
Mặc
người sai khiến còn phân biệt gì!
Nó lại
còn mỗi khi thấy của,
Thì
lăm le mưu nọ kế kia;
Làm
sao lấy được đem về,
Để
riêng thọ hưởng mới hê hả lòng.
Hại mạng
người vẫn không ngần ngại,
Miễn
góp thâu mò đãy nhiều tiền;
Nó làm
nhiều kẻ phát điên,
972.
Quên đi sự sống tự quyên thân mình.
Nó gặp
người lịch xinh son trẻ
Khởi
lòng dâm như kẻ đói cơm;
Không
màng trong lúc đêm hôm,
Hiện
ra ghẹo chọc bắt nhờm đi thôi.
Khi
thì nó dùng lời cám dỗ,
Khi ra
oai khủng bố dẫn đi;
Bức cường
là việc thường khi,
Nó
không biết trọng cái gì là trinh.
Trong
chùa miếu đến dinh đến thự,
Vẫn
ngang nhiên dở sự dâm ô;
Thường
nhơn đến giới tăng đồ,
984.
Nó đều đến phá không chừa một ai.
Nó vốn
là thính tai thính mắt,
Tiếng
thì thầm đến vật dấu che;
Nó đều
dòm dõi lóng nghe,
Việc
không can cũng tò vè săm soi.
Lời
khen tặng nó vui nó thích,
Tiếng
chê bai nó ghét nó phiền;
Trong
tai nó chẳng hề yên,
Thường
hay sạo sự như phiên chợ chiều.
Lúc
say sưa nghe điều không rõ,
Nó giận
lên như hổ trong rừng;
Việc
nghe thấp thố chưa phân,
996.
Nó sanh nghi kỵ xa gần đa đoan.
Vì thế
đã vu oan lắm kẻ,
Hoặc hại
lầm vô số hiền nhơn;
Nó
không hề biết xét thân,
Cứ lo
hết việc người gần đến xa.
Ngày lẫn
đêm vẫn là phóng ý,
Không
lúc nào chẳng nghĩ nọ kia;
Hiện
giờ nơi cõi trần mê,
Nơi
nào cũng có nó kề cận bên.
Thân
người tục từ trên tới dưới,
Cả mắt
tai mũi lưỡi đâu đâu;
Chỉ
trong nháy mắt không lâu,
1008.
Thường hay bị nó cướp thâu bất ngờ.
Khi
hóa nhỏ mó rờ không gặp,
Lúc biến
to trùm khắp trời xanh;
Thế
nên tất cả hài hình,
Chỗ
nào nó cũng ẩn mình được luôn.
Với những
hạng đã suông vào nó,
Chính
họ không biết họ đã lầm;
Thành
người có miệng như câm,
Có tai
như điếc, mắt làm như đui.
Lúc nó
vui cũng thời khó chịu,
Khi nó
buồn càng nhiễu loạn hơn,
Hình
hài nó giống phàm nhân,
1020.
Khó đem màu sắc biệt phân được nào.
Vậy
con khá khuyên mau bá tánh,
Rán
tìm phương để tránh nó đi;
Lâm
vào thì ắt khốn nguy,
Đường
về Tịnh độ còn gì mà trông.
Kẻ đã
vướng khi lòng được biết,
Hãy
mau tay tự diệt cho xong;
Niệm
câu chú Định Tâm không,
Đuổi
ra khỏi xác cho lòng an nhiên.
Trừ nó
được chớ riêng tự hưởng,
Hãy mở
tâm niệm tưởng đến người,
Khuyên
ai chưa được tỉnh hồi;
1032.
Để cùng qui ngưỡng nơi ngôi Phật- Đài.
Đừng để
lạc vào loài yêu quái,
Hiệp sức
nhau đánh bại quỉ ma;
Rán
làm cho cõi Ta-bà,
Không
còn thấy bóng tinh tà vãng lai.
Xây đắp
cõi trần ai mới mẻ,
Có kỷ
cương không kẻ lăng loàn;
Từ
trên các hạng vua quan,
Đến
hàng dân dã biết đàng nghĩa nhân.
Ngoài
xã hội xử phân hòa nhã,
Trong
gia đình thượng hạ phân minh,
Khắp
trong nước chẳng ngục hình,
1044.
Chợ quê đâu cũng dân tình hiền lương.
Của
rơi chẳng ai màng lượm rớ,
Nhà ngủ
không đóng cửa khỏi lo;
Không
phường đạo tặc rình mò,
Chẳng
ai kiện cáo đôi co rầy-rà.
Khắp
nơi được bình hòa thạnh thái,
Như
Thuấn-Nghiêu thời đại thuở xưa;
Cơm no
áo ấm thãi thừa,
Cõi Tiên
đem sánh cũng vừa đi cho.
Trở lại
mùi thơm tho thượng cổ,
Ai
cũng đều biết tổ biết tông;
Tuy là
sống cõi trần hồng,
1056.
Mà tâm trong sạch sánh cùng giá gương.
Chúng
sanh sống trên giường đau khổ,
Sao
lòng không chán bỏ cứ mê,
Chờ
khi quỉ bắt hồn về,
Diêm
vương phán tội khó bề thở than.
Huống
chi cảnh bồng tan sắp tới,
Họa lớn
lao thế giới năm châu;
Loài
người khắp cả đâu đâu,
Phải
qua một cuộc thảm sầu kinh thiên.
Đất động
cả trời nghiêng khắp chỗ,
Núi vỡ
tan biển nọ thành rừng;
Nơi nầy
chịu nạn nước dưng,
1068.
Chỗ kia gặp cảnh xa gần lửa phun.
Có nơi
gặp thú hung nhiễu hại,
Nhiều
tà tinh kỳ quái hiện ra;
Chúng
sanh như cội lá già,
Gặp
cơn giông tố thật là đáng thương.
Khi
yêu quái cang cường đại nộ,
E nhơn
sanh không chỗ ẩn nương;
Nó bay
nó độn đủ phương,
Lợp trời
chật lộ không đường nào đi.
Nó
thăng thiên hoặc khi độn thổ,
Hóa
mưa dầu nắng lửa hại người;
Nó làm
nghiêng đất chói trời,
1080.
Hóa nhiều ác thú xé người từ manh.
Nó phi
đao rất nhanh như chớp,
Muôn
người trong nháy mắt giết xong;
Ngày nầy
sẽ có chẳng không,
Chúng
sanh chớ có đem lòng dễ ngươi.
Hãy
liên kết khắp nơi như một,
Làm hiền
nhân chưởng hột phước duyên;
Nắm
tay mở rộng cửa thiền,
A-Di-ĐÀ-Phật
niệm liền trong tâm.
Lão ấu
thảy đồng làm việc Phật,
Dẹp tà
tâm chứa đức từ bi;
Đến
ngày biến đổi Nguơn kỳ,
1092.
Yêu ma sẽ chẳng làm gì được đâu.
Phép
tà đem đối đầu với Phật,
Như lửa
kia đem nước tát vào;
Càng
làm cho lửa tắt mau,
Hại
chi được Phật hùng hào luống công.
Vậy
con nhớ khuyên trong sanh chúng,
Đừng để
cho ngày lụn tháng qua;
Mau tu
chớ hẹn tuổi già,
Đến
khi mãn cuộc thì là hết trông.
Chim
sa lưới khó mong vùng vẫy,
Cá mắc
câu cựa quậy sao ra;
Chớ rằng
thế cuộc còn xa,
1104.
Thình lình việc tới liệu mà sao kham.
Phật
cũng chẳng luận đàm xa xắc,
Nói
ngay điều trước mắt mà nghe;
Thân người
như sắt trên đe,
Búa Trời
nhật nguyệt đánh đè ngày đêm.
Qua một
phút chết thêm một phút,
Cứ đi
lần đến lúc tắt hơi;
Đâu
ngày nào được nghỉ ngơi,
Nếu
người hẹn mốt hẹn mơi là lầm.
Chết bất
đắc đâu kham niệm Phật,
Già lảng
tâm đạo đức sao xong;
Chi bằng
trong lúc sự không,
1116.
Trì tâm niệm Phật gia công tu hiền.
Không
gây cuộc oan khiên mai hậu,
Tránh
xa câu nghiệp báo bất lành;
Sớm
hôm ăn ở sạch thanh,
Cho
lòng giữa Phật cùng mình không xa.
Đời hễ
giàu ở nhà cao quí,
Nghèo
sống nơi dơ dáy thấp thoi;
Tu
hành cũng giống thế thôi,
Huệ
sâu đức lớn được ngồi phẩm cao.
Việc
tu niệm càng lâu càng quí,
Trải
nhiều năm cây cội càng to;
Đừng sờn
những lúc gây go,
1128.
Không người uốn nắn sao cho nên hình.
Huống
lại kẻ làm lành thì ít,
Đứa
hung hăng gian ác thì nhiều;
Cố
nhiên phải bị ghẹo trêu,
Nếu
không chịu nổi phải xiêu theo người
Thiếu
đại lực ắt trôi việc lớn.
Không
đại hùng khó thắng nguy nan,
Tu như
lọc cát tìm vàng;
Việc
đâu phải dễ chớ toan ngã lòng.
Trên đồi
cao sen không thể mọc,
Sống
an nhàn khó học chữ tu.
Sự đời
tập nhiễm từ lâu,
1140.
Chỉ trong tức khắc dễ đâu bỏ liền.
Việc
đã nhớ muốn quên rất khó,
Tập
thì mau từ bỏ phải lâu,
Rừng
già cây cối lợp đầu,
Chỉ
trong một bữa dễ đâu phá rồi.
Những
kẻ đã trau giồi đạo đức,
Thảng
như chưa sáng được cõi lòng;
Nghĩ rằng
còn thiếu đức công,
Rán bồi
cho đến huệ thông mới vừa.
Hết sớm
lại kế trưa rồi tối,
Ngày
giờ luôn thúc hối quần linh,
Mau
toan về cõi bất sinh;
1152.
Kẻo thần chết đến bên mình hết trông.
Tiếc
thì giờ đến không muốn ngủ,
Mê tu
hành đến bữa quên ăn;
Chỉ
trong một xác làm Tăng,
Đủ
siêu tam giới được thăng Liên-đài.
Nếu có
kẻ nhanh tay hơn nữa,
Trong
nhứt thời bụi rửa sạch không;
Tức là
sen được trổ bông,
Tên đề
rõ rệt Phật đồng ngợi khen.
Chúng
cõi hạ như đèn tim lụn,
Tu như
vầy sẽ đúng cách hơn;
Cần
nên nhẹ bước nhanh chơn,
1164.
Mới mong kịp chuyến đò cơn cuối cùng.
Lần nầy
nếu người không hành đạo,
Muôn
kiếp sau khổ não vô cùng;
Sanh
vào trong cõi mông-lung,
Ngu mê
như thú ở rừng hoang-vu.
Không
gặp Phật không nghe được pháp,
Đạo
không thông việc phước càng mê;
Nạn
tai hứng chịu trăm bề,
Biết
ngày nào được dựa kề Lạc-bang.
Nay
sanh chúng tuy mang thống khổ,
Được
nghe lời dạy dỗ kệ kinh;
Khác
nào bịnh gặp thuốc linh,
1176.
Trong tai-họa có phước lành ẩn nương.
Không
nhận đó là đường tồn tại,
Thì Phật
đây còn phải nói sao?
Con
nên khuyên chúng tu mau;
Đừng
chờ nổi cuộc ba đào mới lo.
Muốn
qua sông gặp đò đến rước,
Chớ chần
chờ hãy bước xuống đi;
Xưa
kia đã lắm diên-trì,
Mới
trôi lần đến thời kỳ nầy đây.
Từng
chịu cuộc tà tây khảo thí,
Bận lắm
trò huê mỹ mê hồn;
Há
không lấy đó làm khôn,
1188.
Muốn cho giải thoát hãy nôn tu hành.
Chốn dạ
đài hồn linh tông tổ;
Trông
cháu con lớn nhỏ làm hiền,
Hầu
lây hưởng chút phước duyên,
Khỏi
vòng lao lý thoát miền trầm luân.
Hơn nữa
cũng sắp gần Long-Hội,
Các Phật
Tiên khắp cõi lập thành;
Ban ơn
cho kẻ hiền lành,
Muốn
mình cũng được nên danh trong hàng.
Phận
con cháu nên toan cho vẹn,
Rán độ
mình độ đến tổ tông;
Tu cho
đắc quả thành công,
1200.
Để làm tông tổ nơi lòng được vui
. . .
. . .
. . .
. . .
Nầy
con khi thức dậy rồi,
Nhớ
đem lời ấy khuyên người đừng quên;
Người
đã biết ơn đền nghĩa trả,
Làm việc
nào lại há không nên;
Nuôi
trong lòng một chữ bền,
Mọi điều
chi cũng làm nên như thường.
Việc
chi nếu nửa đường lại bỏ,
Dù là
điều rất nhỏ cũng hư;
Tu
hành cũng giống thế ư,
1210.
Không đi đến cuối thì người ra ma.
Lỗi tại
người há là tại đạo,
Đừng
trách than chớ nhạo không linh;
Linh
không thì cũng tại mình,
Gương
lau sạch bụi tức hình soi ra.
Biển cứ
động thì là nước đục,
Tâm
không bình huệ tức không sanh;
Đường
bên tay phải Phật hành,
Ngõ nằm
phía trái chúng sanh đi hoài.
Đi đến
chết mấy thây cũng vậy,
Không
bao giờ được thấy Phật đâu;
Hiền
lành Phật dạy từ câu
1222.
Chúng sanh không chịu lo âu nửa lời.
Khác
tư tưởng khác nơi hành động,
Người
Niết - Bàn kẻ móng thế gian;
Càng
đau đớn khúc đoạn tràng,
Biết
chừng nào được hiệp đàng với nhau.
Đoạn nầy
khiến ta nhào ra khóc
Cảm Phật
ân rồi trách người đời,
Cứ say
đắm việc ăn chơi;
Không
lòng tin tưởng theo lời từ bi.
Bị tất
cả lưới nghi ám ảnh,
Làm
tinh thần đạo hạnh nhược suy;
Chẳng
gìn ngũ giới tam qui,
1234.
Cang thường luân lý bỏ đi không cần,
Chôn
thiện tánh trong rừng mê muội,
Lấp đạo
căn dưới bụi trần ai;
Riêng
thân đã bị đọa đầy,
Còn
làm Đức Phật nhiều ngày thương lo.
Nghiệp
mê chúng đã to như núi,
Đức huệ
con kém cỏi ít oi;
E
khuyên họ chẳng nghe lời,
Nhờ ơn
Phật lực khiến đời phát tâm.
Phật
chận lời liền ngâm bài kệ :
Nước
thấm qua các vật.
Trời
soi khắp vạn loài.
Giống
gặp mưa liền phát.
Đời loạn
đạo nên khai.
Định
châu trong được nước.
Sức
gió thổi tan mây.
Sắt cứng
không đương lửa.
Thú
khiếp sư tử oai.
Thuyền
không đi trên lộ.
Nên gạo
chịu người xây.
Thuốc
dùng cho kẻ bịnh.
Đuốc
không rọi ban ngày.
Chớ e
trời không mọc.
Trong
hột có lá cây.
Kệ
nghe qua lòng nầy hớn hở,
Như kẻ
mù được mở mắt ra;
Thế là
trong Phật có ta,
1261.
Trong ta có Phật thế mà không hay.
Nghĩ rồi
ta chắp tay lạy Phật,
Lòng
vô cùng cảm đức của Ngài;
Nguyện
đem cái xác mọn nầy,
Gánh
đau sầu cứu mê say cho đời.
Đến
khi nào hết người khổ não,
Ta mới
vui lòng đáo Tây-phang;
Ngày
nào còn kẻ khốn nàn,
Ta còn
ở thế mở đàng từ bi,
Lời
nguyện nầy bỏ đi muôn xác;
Cũng
không quên xin Phật chứng miêng,
Hay
thay ! Con khéo phát nguyền,
1273.
Con cùng sanh chúng lành duyên từ nầy.
Họ nhờ
con dứt dây oan nghiệt,
Con do
người công đức rộng sâu;
Nhiều
người khao khát từ lâu,
Con
đem nước tịnh trong bầu nầy đây.
Mau
cho họ kẻo dày công đợi,
Sớm chừng
nào ích lợi chừng ni;
Cơ
duyên nay đã đến kỳ,
Càng
không nên để diên trì phút nao.
Huống
lại khắp trần lao hiện tại,
Thứ gọi
tên là Nội-Ngã-Ma;
Khắp
trong thế giới Ta-bà,
1285.
Nơi nào nó cũng cửa nhà dựng lên.
Nó rất
thích sống trên người thế,
Chỉ biết
mình không kể tới ai;
Nó hay
bắt vật các loài,
Dù
thân thích cũng không hay ân cần.
Tự tạo
lấy cho thân riêng hưởng,
Không
biết màng tư tưởng lợi tha;
Nó
dùng đủ phép yêu ma,
Xây
thành đắp lũy gần xa khắp cùng.
Nó ham
muốn vốn không bờ bến,
Nghĩ
cho thân nghĩ đến vợ con;
Nó
không giờ phút ngừng chơn.
1297.
Bào hao lo liệu tảo tần ngày đêm,
Nó thường
muốn sống êm trên gấm,
Dùng đủ
phương xâm chiếm của người,
Kẻ đau
khóc, nó vui cười,
Ăn
xương uống máu của người rất ưa.
Nó yêu
mến không chừa một việc,
Thường
mưu mô cướp giết loài người;
Chúng
sanh thế kỷ hai mươi,
Cũng
vì tại nó chịu đời đắng cay.
Hóa đủ
hạng gái trai già trẻ,
Giả
vua quan giả kẻ thường dân;
Nhà giàu
nó cũng ẩn thân,
1309.
Kẻ nghèo nó cũng đến gần không chê.
Thấy của
cải nó mê nó đắm,
Mưu lấy
đi cho đặng mới thôi;
Ma nào
có chút vị ngôi,
Lòng
tham ác lại gấp mười thường ma.
Người
bị nó trầy da phỏng trán,
Nó khiến
sai bất hạng người nào;
Một
khi bị nó nhập vào,
Điều
chi nó bảo cũng nhào ra đi.
Nó muốn
được kẻ quì người bái,
Thường
bày mưu tạo lấy oai danh;
Nó ưa
thích việc sát sanh,
1321.
Thường đi chiếm lũy phá thành đối phương.
Nó muốn
ai cũng nhường nhịn nó,
Hay
thét gầm như hổ rừng hoang;
Nó khi
được sự giàu sang,
Bắt
người nghèo khó làm hàng tớ tôi.
Kẻ trên
nó nó soi nó bói,
Hạng
dưới tay đánh chửi lung-lăng;
Nhỏ
nhoi hơn lũ ruồi lằng,
Món
chi nó cũng uống ăn không chừa.
Thấy
ai tạm muối dưa nó nhạo,
Bảo rằng
không có đạo Phật Tiên.
Dại gì
lại phải làm hiền,
1333.
Bị người hiếp đáp quí quyền không ngơ.
Nó
khuyên hãy theo phò bên nó,
Chẳng
những là giàu có cao sang;
Nào là
nhiều bạc nhiều vàng,
Còn
thêm nhiều thiếp nhiều nàng giúp vui.
Có ca
nhạc làm nguôi cơn thảm,
Sẵn rượu
ngon rửa đặng lòng sầu;
Hơi
nào móng việc đâu đâu,
Nên lo
ngay cuộc sang giàu là hơn.
Lũ nó
cứ khuyên lơn như thế,
Còn
bày ra đủ kế gạt người,
Nó làm
cho khắp cõi đời;
1345.
Không còn ai biết tu thời mới ưng.
Nó có
tánh chê Thần ghét Phật,
Nó thường
hay phá phách Tăng đồ;
Giả làm
trai đẹp gái tơ,
Khiến
cho Tăng chúng ni cô mê hồn.
Khi đã
bị thần hôn quỉ ám,
Bỗng
trở nên trí loạn tâm mê;
Từ bi
lộn ngỏ quên về,
Nghiêng
đàng tục lụy theo bề thế gian.
Tự rút
nhịp cầu sang Tịnh-độ,
Giong
ruổi theo ác lộ tinh ma;
Đạo mầu
càng lúc càng xa,
Hết
mong cứu vớt như là trứng ung.
Hạng
Tăng đồ còn không tránh nổi,
Người
thường nhơn chống chọi sao ra;
Dễ làm
con cháu quỉ ma,
1357.
Càng suy nghĩ tới thì là càng thương.
Kẻ
quan quyền lạc đường chúng nó,
Sẽ gây
nên tai khổ muôn dân;
Người
thường bị nó vấn chân,
Tự làm
con vật thiêu thân của mình.
Nó vốn
là không hình không bóng,
Lấy
xác thân người sống làm thân;
Nếu
không dùng chú Hội Thần,
Thì là
không thể biệt phân được nào.
Xác
người bị nó vào làm chủ,
Sẽ trở
nên làm đủ tội mê;
Hết
còn biết sự khen chê,
1369.
Cứ làm sao được ngỏa nguê ý mình.
Không
còn biết đến tình bác ái,
Chẳng
cần nghe đạo ngãi ai phân;
Tội
nào cũng buộc vào thân,
Càng
làm càng bắt tinh thần say sưa.
Rán ngừa
nó như ngừa kẻ địch,
Ngày
những đêm thường xét trong tâm;
Nếu
như thấy bóng sai lầm,
Mau
ngăn lại chớ cho thâm nhập vào.
Lòng
tinh tấn giồi trau đạo hạnh,
Cách ở
ăn đúng đắn luật nghi;
Việc
làm nào cũng nghĩ suy,
1381.
Tránh cho khỏi phạm những gì xấu xa;
Trong
tâm niệm Di-Đà không dứt,
Miệng
nói lời đạo đức thẳng ngay;
Thuyết
tà không để vào tai,
Sự mê
dù nhỏ cũng hay ngăn trừ
Tập
lòng biết thương người hơn của,
Lo ích
chung vui bỏ lợi riêng,
Dùng
tiền không bị mê tiền;
Cảnh
giàu sang chẳng làm điên tâm hồn.
Hữu
tình chẳng bị chôn trong sắc,
Có
danh không tự đắc lấy danh;
Áo đời
tạm mặc vào mình,
1393.
Để làm lợi ích nhơn sanh xa gần.
Xác
phàm tục tinh thần Bồ-Tát,
Đò
luôn đưa bến giác không ngưng;
Sống
cho khắp cả chúng dân,
Mỗi điều
là mỗi vị nhân mà làm,
Tham
nhưng chẳng giống tham thường tục,
Dục mà
không phải dục phàm tình;
Tham
nhiều của giúp nhơn sanh,
Tham
cho ai cũng ấm lành áo cơm.
Tham đến
đỗi điều nhân dù nhỏ,
Cũng
vui làm không bỏ trôi qua;
Dục
sao cho cõi Ta-bà,
1405.
Trở nên Cực-Lạc nhà nhà an cư.
Dục
cho mọi người trừ nghiệp dữ,
Lấp
xong đường sanh tử luân hồi;
Chừng
nào việc ấy thành rồi,
Thì
tham dục mới chịu thôi trong lòng.
Được ý
niệm sạch trong như thế,
Không
bao giờ lầm kế quỉ ma;
Con
dùng đạo huệ cao xa,
Độ cho
chúng trở nên nhà thiện lương.
Kẻ hiểu
đạo soi gương tiến đạo,
Người
còn mê được tháo lưới mê;
Mùi
thiền thơm nực dường huê,
1417.
Trên vui tánh Phật dưới xuê lòng người.
Yêu
quái hết dể ngươi khuấy rối,
Tinh
tà không cơ hội phá phanh;
Chỉ
đem công đức hiền lành,
Đủ làm
tà phép tan tành liền khi.
Tà
không thể hại gì được chánh,
Như nước
càng đập mạnh càng văng;
Khi
người hữu đức hữu căn,
Luôn
luôn có ánh hào quang khắp mình.
Làm
cho mắt tà tinh bị chóa,
Không
thể gì xông phá lại gần;
Lúc
nào cũng bảo vẹn thân,
1429.
Được an thể xác tinh thần cũng an.
Ngược
lại kẻ lòng gian tánh xấu,
Dễ làm
nơi cơ cấu cho ma;
Khác
nào trộm muốn vào nhà
Được
người hở cửa tức là vào ngay.
Lộ
không kẻ vãng lai dòm ngó,
Tức
nhiên là cây cỏ mọc lên;
Trong
lòng cứ mãi bỏ quên,
Các điều
ác dục nó liền sanh ra.
Rễ
chưa mọc diệt đà dễ diệt,
Châm gốc
rồi muốn tiệt khó khăn;
Làm
sao đừng để ăn năn,
1441.
Khỏi đường sanh tử sánh bằng Thần Tiên.
Người
thường hay lãng quên ý thức,
Lầm lỗi
rồi mới sực nhớ ra;
Chừng
ni đã muộn thay là,
Chi bằng
xét trước rồi mà làm sau.
Việc
nào phải thì mau bước tới,
Điều
quấy thì lo thối cho nhanh;
Lo cho
thân tộc được lành,
Cũng
không quên giúp dân tình hiền lương.
Mở cho
mình rộng đường sanh sống,
Lại
cũng lo giúp vốn người nghèo;
Gặp ai
mắc phải nạn eo,
1453.
Ra tay giúp đỡ tùy theo sức mình.
Kẻ lỗi
phạm mở tình tha thứ,
Người
dốt thời dạy chữ cho thông;
Xử
phân rất mực bình công,
Từ
ngoài việc chúng đến trong nhà mình.
Trọng
lễ phép biết gìn phong hóa,
Không
chửi thề không cả rầy la;
Mỗi lời
mỗi tiếng nói ra,
Vừa là
êm dịu vừa là thẳng ngay.
Giàu
sang cũng chẳng hay nịnh bợ,
Nghèo
hèn không ruồng bỏ khinh khi;
Ai
khen cũng chẳng vui gì,
1465.
Ai chê cũng chẳng lấy chi làm phiền.
Gặp
người có đức hiền thì học,
Thấy
ai còn hung ác thì khuyên;
Tuy là
sống chốn đảo điên,
Mà
lòng vẫn được lặng yên như thường.
Chẳng
bị kẻ buộc vương tội ác,
Thường
được làm chủ các việc đời,
Vào ra
trong chốn ăn chơi;
Như
trăng thu nọ lội bơi trong hồ.
Trăng
không bị nhiễm-ô trong nước,
Nước
chẳng cầm giữ được bóng trăng;
Tự do
đi lại ngày hằng,
1477.
Không phiền ai đón ai ngăn được mình.
Sắc
chi cũng không chinh được mắt,
Mắt tự
do ngắm vật trong ngoài;
Đẹp
không vọng niệm mê say,
Xấu
không khởi ý chê bai gớm nhờm.
Tiếng
chi cũng không làm tai mến,
Tai tự
do nghe tiếng dở hay;
Dở
không buồn ghét nơi tai,
Hay
không buộc phải chuyển lay trong lòng,
Mùi
chi cũng chẳng lung được mũi,
Mũi tự
do để ngửi các mùi;
Thơm
không làm nảy ý vui,
1489.
Hôi không thể khiến cho khơi lòng buồn.
Vị chi
cũng chẳng sờn được lưỡi,
Lưỡi tự
do nếm thử các vì;
Ngon
không làm mến ưa chi,
Dở
không sanh khởi ý gì chán chê.
Cọ đụng
chẳng làm mê thân xác,
Thân tự
do đụng các lạnh nồng;
Lạnh nồng
không nhiễm được lòng,
Cứng mềm
cũng chẳng trói tròng nơi tâm.
Vật
chi cũng không làm động ý,
Ý tự
do xử trí vật danh;
Giàu
nghèo ưa ghét chẳng sanh,
1501.
Có không cũng chẳng khiến tình chấp nê.
Cảnh
không thể làm mê tâm ý,
Ý tự-do
tự trị lấy mình;
Trong
sanh tử, vượt tử sanh,
Tuy
mang xác tục mà tình Thần Tiên.
Đoạn nầy
rất diệu huyền vô tận,
Người
Hạ Nguơn nếu đặng dịp nghe,
Sẽ là
tỉnh được giấc mê;
Bỏ điều
hung ác theo bề thiện lương.
Ta
nghĩ thế không lường mừng rỡ,
Như
chim lồìng được mở cho ra;
Tay liền
chắp trước Phật- Đà,
1513.
Vừa nghiêng mình lạy vừa là cám ơn.
Nếu Phật
chẳng hóa thân dạy dỗ,
Đời
khó mong giác ngộ đạo mầu;
Cứ vui
theo việc đâu đâu,
Càng
đào hố tội lỗi sâu thêm nhiều
Núi dù
có bao nhiêu sức nặng,
Cũng
không so kịp đặng Phật ơn,
Con
nguyền giữ dạ keo sơn,
Đem lời
Phật thuyết tỏ phân cho đời.
Bày đạo
lý giữa thời hỗn loạn,
Cố
nhiên là nhiều đoạn gay-go;
Cúi
xin Phật trợ giúp cho,
1525.
Khiến an được khách mà đò cũng an.
Phật
chận lời bảo rằng chớ ngại,
Phật
ban thêm cho gậy Kim-Cang;
Gặp
khi yêu quái đón đàng,
Hãy
mau lấy gậy đánh tan tức thì.
Gậy chẳng
những trị vì yêu quái,
Còn
ngăn luôn được loại thú rừng;
Huống
là kẻ bạo thường nhân,
Gậy nầy
có sức đương ngăn dễ dàng.
Vậy
trong lúc lên đàng giảng kệ,
Con nhớ
mang chớ để rời xa;
Từ gần
cho đến chỗ xa,
1537.
Gậy nầy có thể phi ra như thường.
Sắt đá
chẳng hề đương kịp nó,
Nó vào
trong lửa đỏ như không;
Đập
tan núi hóa thành đồng,
Cứng
không chi sánh dẻo không gì bằng.
Thảng
gặp vật trở ngăn nguy biến,
Dùng gậy
nầy linh hiển phi thường;
Yêu
tinh chẳng những không đương,
Đến
như tà giáo cũng luôn khuất tùng.
Lúc ngủ
thức cũng không rời nó,
Quỉ ma
không dám mó lại gần;
Đây là
gậy phép hộ thân,
1549.
Con nên gìn lấy cho cần đừng quên.
Gậy nầy
chẳng những riêng con hưởng,
Khi phổ-thông
tư tưởng Phật- Đà;
Thảng
như gặp kẻ mù lòa,
Gậy nầy
con khá đem ra dắt người.
Kẻ già
yếu đứng ngồi khó mỏi,
Dùng gậy
nầy chống chỏi đỡ nâng;
Hoặc
là gặp kẻ què chân,
Con
mau dùng lấy gậy thần dẫn đi.
Lúc ăn
uống hay khi tiểu tiện,
Hữu sự
là dùng đến tự nhiên;
Nơi
nào cũng khỏi cữ kiêng,
1561.
Như là nước rửa không phiền sạch dơ.
Nhà đạo
sĩ không nhờ có gậy,
Chẳng
bao giờ tự tại được đâu;
Vậy
con chớ dạ lo âu,
Luôn luôn
có gậy theo hầu bên con.
Nhận lấy
gậy lòng son hớn hở,
Hơn
người nghèo được số bạc to;
Thế là
ta bớt nỗi lo,
Sớm
hôm được có gậy phò bên ta.
Giữa
cõi thế nhiều ma với quỉ,
Có gậy
nầy ắt trị được ngay,
Ta liền
cúi lạy Phật Ngài,
1573.
Ơn nầy muôn kiếp không phai được nào.
Từ mặt
Phật có hào quang sáng,
Chiếu
vào ta rồi phán lời rằng :
Trong
đời có lắm ác tăng,
Thấy
con có gậy lòng hằng sanh ghen;
Đợi gặp
lúc tối đèn tắt lửa,
Hoặc
trong khi hớ cửa trống chưn,
Nó vào
trộm mất không chừng,
Con
nên cẩn thận chớ đừng lãng lơ.
Kẻ ác
tăng đang cơ hưng thạnh,
Mượn cửa
thiền làm cảnh giàu sang;
Tục
lòng chẳng kém thế gian,
1585.
Cũng ưa rượu thịt cũng đàng bướm ong.
Mượn
chuỗi hột lòe trong bá tánh,
Đắp cà
sa khoé mánh thập phương;
Tùng
phe tụ phái lắm đường,
Chúng
làm ngược cả kỷ cương nhà thiền.
Tội của
chúng ghi đen cả sách,
Ngày rốt
đời đủ cách phạt răn;
Chuỗi
kia hóa lại xích thằng,
Ngày
đêm không ngớt trói trăng nơi mình.
Cà sa
nọ đổi thành áo sắt.
Giờ
phút nào cũng mặc vào thân,
Thịt
xương đau nhức không ngần;
1597.
Chịu cho đến lúc tiêu lần đi thôi,
Mang lốt
Phật nói lời tà ác,
Miệng
trở nên lửa khạc phun ra,
Mắt
thì đỏ tợ huyết dà,
Hình
hài xấu xí hơn là quỉ yêu.
Thống
khổ biết bao nhiêu mà kể,
Thêm uống
ăn nhơ uế tanh hôi;
Thấp
hèn hơn loại lằng ruồi,
Ai
trông cũng bắt trề môi gớm nhờm.
Kẻ dối
tu cứ ôm lòng ác,
Con
khuyên cho họ giác điều nầy,
Xin đừng
mượn tiếng Phương Tây;
1609.
Gạt lừa thiên hạ để xây mộng đời.
Hãy ăn
ở đúng lời Phật dạy,
Cần trọng
tôn luật giái nhà thiền;
Xét
chưa dứt đặng trần duyên,
Nên ra
ngoài thế chớ nên ở chùa.
Điều nầy
khiến ta ngờ liền hỏi?
Ví có
người đã lỗi ăn năn,
Sẽ còn
được phép làm tăng;
Hay là
vẫn loại khỏi hàng thiền gia.
Phật rằng
nếu ai mà phạm tội,
Nếu thật
lòng cải hối bỏ đi,
Thì là
tội nọ còn chi,
1621.
Ví như gió lặng tức thì sóng yên.
Từ
trong tâm khởi lên hung dữ,
Cũng
do tâm sanh sự hiền lành;
Bổn
tâm vốn thật không hình,
Bởi
duyên theo cảnh sanh tình nọ kia.
Duyên
theo ác chịu bề lao khổ,
Duyên
theo lành được có phước ân;
Dữ
lành nếu chẳng biết phân,
Khác
nào cây cỏ thức thần đều không.
Vậy
con nhớ khuyên trong sanh chúng,
Lỡ phạm
rồi thì cũng ăn năn;
Làm
cho bên thiện càng tăng,
1633.
Còn bên hung ác ngày càng giảm đi.
Phật
ngóng đợi ai qui cửa đạo,
Để ghi
tên nơi bảo Liên-Trì;
Để
ngày Long-Hội mở thi,
Sẽ
cùng các Phật đồng qui một đường.
Dụng
phép nhiệm âm dương biến hóa,
Quyết
làm sao cho quả địa cầu;
Trở
nên một cõi báu châu,
Không
người lao khổ thảm sầu mới ưng.
Ai
cũng được hiền nhân đạo đức,
Không
có loài quái vật độc trùng;
Hạng
người tội lỗi ác hung,
1645.
Cho sanh vào cõi bần cùng khác xa.
Con nhớ
gọi trẻ già khắp chỗ,
Nếu muốn
không bị khổ lâu dài;
Thì là
hãy khá tu ngay,
Chớ đừng
lần lựa nay mai không rồi.
Bom đạn
vẫn chưa thôi chế tạo,
Dân
sanh còn điên đảo hết đâu;
Do
nhân duyên tạo địa cầu,
Cũng
nhân duyên khiến đài lầu tan hoang.
Thế giới
đã muôn ngàn lần biến,
Nào phải
đâu là chuyến đầu tiên;
Cứ xem
cồn vực hiểu liền,
1657.
Nổi lên chìm xuống có yên bao giờ.
Cồn vực
nhỏ mau cơ biến đổi,
Quả đất
to lâu mới thay hình;
Xét ra
há chẳng giựt mình,
Đang
ngồi trên đám lục bình giữa song.
Người
sao chẳng để lòng suy nghiệm,
Tìm hiểu
cho được điểm cao thanh;
Biết
bao nhiêu cõi hiền lành,
Lâu bền
hơn cõi nhơn sanh hiện giờ.
Không
đau khổ chẳng cơ giặc giã,
Sống
lâu dài không kẻ nghèo hèn;
Nhân
lành nhờ đã tạo nên,
1669.
Cho nên mới được sanh lên cõi nầy.
Người
cũng khá sang ngay bên đó,
Được
an nhàn và có phước dư;
Cõi trần
ai cũng sầu tư,
Giàu
nghèo chẳng có mấy người không lo;
Đời sắp
rốt tu cho gấp gấp,
Trễ thời
kỳ khó lập công phu,
Một giờ
đem đổi muôn thu,
Há
không chịu khó lo tu cho thành.
Nghe lời
nầy động tình rơi lệ,
Phật
thương đời như thế là cùng;
Thật
là hữu thỉ hữu chung,
1681.
Xưa sao nay vậy không lòng đổi thay.
Cứ
thương mãi dù ai có ghét,
Vẫn nhớ
hoài cũng mặc người quên;
Nghĩ rồi
ta lại khóc lên,
Ơn nầy
biết thuở nào đền cho xong.
Phật
liền mới ôn tồn khuyên bảo,
Con chớ
nên áo não trong lòng;
Con
luôn ăn ở sạch trong,
Ấy là
con đã đáp xong ân tình.
Phật dụng
lành đem lành đáp lại,
Tức
nhiên là đạo ngãi tròn vuông;
Khó
chi mà phải ưu buồn,
1693.
Hãy nên hoan hỷ lo suôn phận mình.
Con rán
tập được tình như Phật,
Lòng
biết thương vạn vật sanh linh;
Dù ai
cay đắng mặc tình,
Cứ lo
khuyên dỗ lời lành cho nghe.
Khuyên
được kẻ không khoe rằng giỏi,
Người
không nghe chẳng khởi lòng hờn;
Không
chờ ai đáp đền ơn,
Cứ đem
lòng thí không cần phải thâu.
Dạy đến
hiểu mau lâu không nệ,
Miễn
người tu không kể lao thân;
Dù người
gạn hỏi bao lần,
1705.
Cũng vui đáp lại không hờn điều chi.
Cứ biện
giải đến khi rõ lý,
Nghe
cũng vui, khinh bỉ không buồn;
Kệ mầu
như suối cứ tuôn,
Chẳng
buồn rêu cản, không buồn cỏ ngăn,
Lòng
thương chúng không ngằn bờ mé;
Thương
người như lòng mẹ thương con,
Cứ lo
phận sự cho tròn;
Khổ
lao chẳng nệ, mất còn không nao.
Giữ sự
lành hơn giàu giữ của,
Cứ săm
soi không bữa nào rời;
Lo tu
hơn kẻ lo đời,
1717.
Ngày đêm chẳng ngớt vun bồi phước duyên.
Đời lo
được nhiều tiền nhiều của,
Đạo
mong sao nên quả nên công,
Phật
không ngớt niệm trong lòng,
Phước
không quên tạo khắp trong xóm làng.
Khổ
thay đời không than không trách,
Vui
trên đường đạo đức sớm khuya;
Xác
thân có thể vui lìa,
Nhân
lành lòng quyết không hề rời ra.
Thà bỏ
mạng không xa chánh đạo,
Trừ tà
tâm hơn tảo trừ thù;
Lòng
tham của đổi tham tu,
1729.
Được như vậy chẳng bao lâu tất thành.
Không
thành tại chẳng hành chánh đạo.
Đâu phải
do Phật giáo không linh,
Nghề
chuyên học tất nghề tinh;
Tâm
chuyên niệm Phật tâm linh không lầm.
Câu vạn
sự do tâm rất đúng,
Khéo
do tâm vụng cũng do tâm;
Thành
cù sấu phải chịu nằm,
Muốn
soi trăng huệ sóng tâm phải bình.
Cứ như
thế mà hành chín-chắn,
Dù quả
chi cũng đặng chứng thành.
Con
nên khuyên nhủ nhơn sanh,
1741.
Nếu người nhận phải thì hành mau đi;
Chờ gặp
cuộc biến di thương hải,
E cho
người hối cải muộn màng;
Rán lo
làm phước làm doan,
Để mà
được dự hội hàng Phật Tiên.
Có vị
từ hoa sen hiện tới,
Có vị
từ trong khối mây ra;
Trên
hư không bỗng có nhà
Rồi từ
trong ấy đi ra nhiều Ngài.
Có vị
từ trong cây mà xuất,
Có vị
từ dưới đất chun lên;
Núi
non lại hóa lầu đền,
1753.
Nơi lung trấp bỗng biến nên thị thành.
Trên
trời hiện mây lành ngũ sắc,
Lại có
luôn ca nhạc Thần Tiên;
Mưa hoa
rơi xuống khắp miền,
Cúng
dường các bực Thánh Hiền mười phương.
Hào
quang chiếu các đường các nẻo,
Có mây
lành phủ kéo khắp nơi;
Phật
Tiên lộ vẻ vui cười,
Dung
nhan đẹp đẽ gấp mười bông hoa.
Do
công đức hiện ra nhiều phép,
Sức biến
thâu quỉ khiếp thần kinh;
Linh
ngoài sức tưởng tượng linh,
1765.
Oai không ai dám địch kình nổi oai.
Núi
vàng hóa phương Tây hực hỡ,
Lầu ngọc
bày chói rỡ hướng Đông;
Lắm
người đắc phép lục thông,
Nhiều
bà về Phật, lắm ông qui Thần.
Cõi
sen hiện chín tầng chín cấp,
Do
công tu có thấp có cao;
Có hào
quang đủ các màu,
Người
già hóa trẻ cùng nhau tươi cười.
Các Phật
thuyết nhiều lời bí thẳm,
Khiến
nhiều người nghe đặng khai thông;
Lấy
làm hoan hỷ nơi lòng,
1777.
Nào lời tán thán nào bông cúng dường.
Đâu
đâu cũng mùi hương thơm ngát,
Cảm lấy
duyên chim hót thanh thao;
Đông
Tây bất luận chỗ nào,
Các
hoa đều trổ để chào Phật Tiên.
Ngày
trời kế đêm liền trăng mọc,
Bốn
mùa không lạnh nực tiết thời;
Nhà
nhà đều được thảnh thơi,
Không
ai đui điếc chẳng người què câm.
Đường
không bụi đâu nằm cũng được,
Cây
không gai cỏ mướt lại êm;
Ngày hằng
chí những về đêm,
1789.
Luôn luôn có gió thổi lên nhẹ nhàng.
Nhiều
người biết phi đằng rất chóng,
Thường
ngao du khắp bốn phương trời;
Cảnh nầy
đáng cảnh vui chơi,
Thiệt
tân thế giới, thiệt người Thượng-Nguơn.
Ai muốn
được để chơn đến đó,
Phải
lương hiền đừng có hung hăng;
Quan
dân cư xử công bằng,
Việc
nhà việc nước ở ăn dung hòa.
Kẻ nhận
lỗi thứ tha khoản đãi,
Người
đói nghèo cơm vải cấp ban,
Giúp
người bịnh những thuốc thang;
1801.
Lòng nhân bủa khắp xóm làng gần xa,
Được
thế sẽ truông qua cõi trược.
Cảnh
Thần Tiên sẽ được sống qua,
Lời nầy
của Phật nói ra;
Con
đem truyền lại trẻ già được hay,
Ta liền
chắp hai tay kính bái,
Xin
vâng lời truyền lại nhân gian;
Trên
đường phổ biến đạo tràng,
Mong
ơn Phật độ cho đàng được xuôi.
Đức đã
kém gặp hồi điên bái,
Như
thuyền con đem lái biển to;
Nếu
không nhờ Phật giúp cho,
1813.
Việc ngưng trước cảnh gay go không chừng.
Phật rằng:
việc dù ngưng đi nữa,
Cũng
nhứt thời rồi sửa lại suôn;
Khuyên
con chớ khởi lòng buồn,
Lớp
không gay cấn thì tuồng chẳng hay.
Con chớ
ngại đức tài non kém,
Độ một
người hướng thiện quày đầu;
Đức
kia lớn sánh địa cầu,
Giá
cao hơn giá bảo châu ngàn lần.
Vậy
con hãy tinh thần cứng mạnh,
Xông
thuyền ra trước cảnh phong ba;
Cứu
người khỏi đắm ái hà,
1825.
Trên đầu luôn có Phật- Đà chiếu soi.
Ta vừa
được nghe lời Phật thuyết,
Mừng
hơn tù được dịp thả ra;
Nguyện
từ gần đến chỗ xa,
Nơi
nào cũng đến để mà giáo dân.
Nghe
cũng tốt không cần cũng mặc,
Vẫn
thương yêu lo nhắc nhở thường;
Tiện
thì nói trước công đường,
Không
thì mượn mực tỏ tường gần xa.
Từ đáy
lòng phát ra lời nguyện,
Xin Phật
Ngài chứng kiến cho đây;
Phật rằng:
duyên ấy lành thay,
1837.
Con mau tinh tấn hành ngay ý mình.
Trời còn
rọi đạo lành còn tỏ,
Nay nhằm
thời Tịnh độ trùng hưng;
Tự
nhiên khắp cả chúng dân,
Biết
câu lục tự không cần dạy cho.
Họ biết
chớ không lo trì niệm,
Vậy
con nên khéo khuyến cho người;
Đứng,
đi hoặc lúc nằm ngồi,
Di-Đà
sáu chữ đừng rời trong tâm.
Thành
lòng niệm khỏi lâm tai họa,
Cũng
năng trừ được cả yêu tinh;
Đừng
ngờ niệm Phật không linh,
1849.
Niệm cho đến niệm chí thành thử coi.
Xé được
vỏ thì ngòi mới lộ,
Trừ được
mê tất ngộ đạo mầu;
Tu
hành đừng nệ mau lâu,
Trước
sau cũng đắc có đâu sai lầm.
Kế đó
Phật liền ngâm bài kệ :
Từ thạch
năng hút sắt.
Ngại vật
khó giao bôi.
Phật
cùng tâm vốn một
Vọng
niệm cắt làm đôi.
Khi trừ
xong ngại vật.
Từ thạch
liền hút sắt.
Vọng
niệm dứt đi rồi.
Phật
cùng tâm thống nhứt.
Lời Phật
kệ tai nghe vừa dứt,
Bỗng
nhiên lòng sáng rực thêm ra;
Thế là
giữa Phật cùng ta,
1866.
Cách nhau vì vọng, gần là vì chơn.
Vọng ấy
tức là trần-tâm vọng,
Chơn
kia là tức bổn lai chơn;
Thế
thì trong xác tạm trần,
Há
không vi ẩn Phật thân chăng là.
Liền
cúi mặt thưa qua cùng Phật,
Thể
theo lời kệ mật vừa qua;
Chúng
sanh trong cõi Ta-bà,
Trí,
ngu gì có thể là Phật ư?
Phật rằng:
vẫn đúng như thế ấy,
Khắp
ba ngàn thế giới chúng sanh;
Vọng
tâm khi được tịnh thanh,
1878.
Trí, ngu đều có thể thành Phật ngay.
Nhưng
tâm vọng ít ai dứt được,
Bởi từ
lâu nhiễm cuộc hồng trần;
Quen
theo mọi vật quanh thân,
Nên
khi dứt bỏ trăm phần khó khăn.
Ví như
kẻ nhiều năm ghiền nhựa,
Trễ một
ngày phát mửa phát đau;
Biết rằng
tại hút mà lao,
Có người
muốn bỏ không sao bỏ rồi.
Tập
thì dễ bỏ thôi rất khó,
Tục
thường phân nào có sai đâu;
Tuy là
khó bỏ mặc dầu,
1890.
Nếu lòng nhứt quyết bỏ sao không rồi.
Hễ tập
được bỏ thời cũng được,
Nhẹ
thì mau nặng tất hơi lâu;
Miễn
người được có một câu:
Việc
nào hễ muốn thì âu thật hành.
Được
như thế tất thành diệu quả,
Trong
nhứt thời đạo cả ắt nên;
Chớ đừng
trước thệ sau quên,
Nói vầy
làm khác vạn niên không rồi.
Việc đạo
lý nói chơi sao được,
Đừng dể
ngươi Trời Phật không nên;
Một
khi người đã phát nguyền,
1902.
Dù sanh dù tử cũng chuyên một lòng.
Con há
chẳng hiểu trong dương thế,
Khi có
người lập thệ tu hiền;
Thì
trong tất cả Phật Tiên,
Đều mừng
hơn kẻ được tiền bỏ rơi.
Trái lại
cũng vô hồi đau xót,
Khi có
người phai lợt đạo mầu;
Lòng nầy
sanh chúng biết đâu,
Khi
vui nguyện lấy, lúc sầu lại buông.
Nghe lời
nầy bắt tuôn nước mắt,
Ta liền
quì tay chắp thưa qua:
Lòng từ
bi rất sâu xa,
1914.
Chúng tu chúng hưởng cũng là mừng cho;
Chúng
phụ vẫn thương lo không giận,
Đáng
kính thay các đấng từ bi.
Gương
nầy muôn kiếp soi ghi,
Cúi
xin Đức Phật chứng tri cho lòng.
Phật rằng:
lượng khoan hồng nếu có,
Thì tự
nhiên tâm nọ được an;
Mối
thù oán chẳng buộc ràng,
Việc hờn
ghét cũng không mang nơi lòng.
Các Phật
lượng khoan hồng thường chứa,
Cứ độ
tha không mựa ghét thương;
Nếu
con lấy đó làm gương,
1926.
Tất là đáng được nối đường Phật gia.
Đối cảnh
trần cứ tha không buộc,
Thì
nghiệp oan giải được liền khi;
Mắt
tha mắt huệ tức thì,
Tai
tha tai tỏ lời gì cũng thông.
Thân ý
cũng tha không hề buộc,
Thân
nhẹ nhàng ý được tịnh minh;
Thứ
tha được quả rất lành,
Con
nên khuyên thế mở tình biết tha.
Riêng
phần con khi ra dắt chúng,
Đối mọi
điều thường dụng lòng tha;
Tất là
sự chẳng sanh ra,
1938.
Đi không ai cản về mà ai ngăn.
Trong
lúc phải lóc lăn đây đó,
Gặp đủ
người dễ khó tánh tình;
Lòng
tha thứ lại cần gìn,
Qua
cơn vấn nạn nhạo khinh của người.
Đạo ố
đạo trong đời đang thạnh,
Không
thứ tha khó tránh đôi co;
Vậy
con khá liệu xong lo,
Đừng
sai lời Phật dặn dò thiệt hơn.
Ta cúi
đầu xin vâng lời giáo,
Miễn
sao cho Phật Đạo chấn hưng;
Dù đời
thử thách bao lần,
1950.
Không làm cho khối tinh thần núng nao.
Khi
ngược gió cắm sào đậu lại,
Lúc
thuận buồm thuyền chạy đi ngay;
Thân nầy
xin hiến Phật Ngài,
Nắng
mưa chẳng quản đắng cay đâu sờn.
Phật
liền bảo: sau cơn đã thức,
Lời
con nguyền với Phật khá ghi;
Cũng
như Phật bảo những gì,
Ôm
lòng chớ để quên đi lời nào.
Đời
đang lúc mưa rào sóng vỗ,
Bát
nhã thoàn khá đổ mau ra;
Miễn là
cứu được người ta,
1962.
Hiểm nguy dẫu mấy cũng là kiên gan,
Khi
nghe tiếng rên than của chúng;
Động
lòng thương họ cũng như mình,
Điều
chi cũng vẫn hy sinh,
Giúp
người lâm nạn thỏa tình ước mong.
Chúng
sanh hiện sống trong nhà lửa,
Cảnh
hãi hùng càng bữa càng tăng;
Nhưng
vì tử phược thê thằng,
Vẫn
còn say đắm bảo rằng chưa sao.
Muốn cứu
họ phải giàu gan mật,
Quyết
xông vào kéo dắt họ ra;
Cho
hay rằng có ngôi nhà,
1974.
Đã xây cất sẵn thật là tốt tươi.
Cố
khuyên họ nên rời nhà lửa,
Ngôi
nhà kia về ở tự do;
Ngày hằng
công việc toan lo,
Muốn
chi có nấy ấm no đời đời.
Nhược
bằng chẳng chịu rời cho chóng,
Xác hồn
kia hóa đống tro tàn;
Riêng
thân chẳng được cứu an,
Còn
lôi con vợ chung đàng lửa thiêu.
Một
người mê khiến nhiều kẻ dốt,
Tội
càng lây không ngớt lúc nào;
Gương
lành muốn được nêu cao,
1986.
Con nên nỗ lực kêu gào bá gia.
Hãy tỉnh
giấc Nam Kha cho chóng,
Cải
thiện ngay kiếp sống bất bình;
Làm
theo lời lẽ trong kinh,
Lúc
nào cũng nhớ xét mình không quên.
Nếu tư
tưởng khởi lên việc quấy,
Muốn
lường ai hoặc lấy của ai;
Tức
thì định ý trừ ngay,
Chớ
không để lộ ra ngoài hành vi.
Lời
nào hễ trước khi muốn nói,
Nếu
xét rằng vô lối bất công;
Cũng
là ngăn lại cho xong,
1998.
Không chờ đã lỡ mới hòng ăn năn.
Còn đối
với việc làm cũng vậy,
Trước
khi làm phải quấy xét rành;
Sau rồi
mới khởi thi hành,
Ngõ hầu
tránh việc bất lành xảy ra.
Tưởng,
nói, làm cả ba phần việc,
Giờ
phút nào cũng xét đến luôn;
Tưởng
thanh, nói chánh, làm nhân,
Tuy
mang phàm xác nhưng Thần Thánh tâm.
Phật
lúc nào cũng thầm mong ước,
Cả
chúng sanh ở được như vầy;
Thì là
Nam Bắc Đông Tây,
2010.
Hết còn lo ngại ai gây oán thù.
Dù kẻ
chẳng biết tu theo Phật,
Cũng
khá gìn nhân cách loài người;
Giữ
cho nề nếp tốt tươi,
Không
nên bạ nói bạ cười vô duyên.
Nên giữ
đạo Thánh Hiền đã dạy,
Đối xử
nhau cho phải nghĩa nhân;
Làm
con phải biết hiếu thân,
Quạt nồng
đấp lạnh đền ơn sanh thành.
Không
trộm cướp chẳng tình gian lận,
Thà sạch
trong chịu phận nghèo nàn;
Không
lòng phụ khó tham sang,
2022. Ở
cho phải đạo tào khang chí tình.
Lúc
nào cũng biết gìn chữ tín,
Lời hứa
rồi nhứt định không sai;
Mỗi
khi chịu nghĩa của ai,
Quyết
làm sao đáp được rày mới ưng.
Thi ân
chẳng mong ân đáp lại,
Thọ
nghĩa thì nghĩa phải lo đền;
Làm
dân nợ nước đừng quên,
Gặp
cơn nguy biến ra đền đáp ngay.
Nhớ đừng
cậy lấy oai thế mạnh,
Hiếp đồng
bào trong cảnh lầm than;
Cũng đừng
bán chức mua quan,
2034.
Xoi hang mạch nước mưu toan bất lành.
Việc
mãi quốc cầu vinh phải tránh,
Cần
gìn lòng trung tín quốc gia;
Trong
khi cầm cán nước nhà,
Hai điều
liêm chánh phải là nhớ luôn.
Nên
tìm cách giải buồn dân chúng,
Chẩn bần
cho kẻ túng cơm tiền;
Lấy
nhân trị loạn cho yên
Chủ
hòa để có kết liên khắp cùng.
Phải
trí thức hóa trong dân chúng,
Mở nhiều
trường thông dụng ngữ ngôn;
Nên
làm cho chúng dân khôn,
2046.
Đừng làm cho chúng cả phồn đều ngu.
Dân
khôn tất biết câu quốc thủy,
Dân
ngu thì luân lý không màng;
Dễ
nghe theo kẻ phiến loàn,
Nổi
lên phá cuộc trị an nước nhà.
Chừng ấy
mới tính ra sao kịp,
Chi bằng
lo trước dịp là hơn;
Còn
như bổn phận nữ nhơn,
Chữ
trinh là báu của thân khá gìn;
Bên
trong của gia đình khéo xử,
Phải
rành bề kim chỉ nấu nêm.
Dung
nghi cần được đoan nghiêm,
2058.
Nằm ngồi đi đứng càng thêm chỉnh tề.
Đừng tập
tánh ngồi lê đôi mách,
Đem
chuyện người kẻ vạch cho ghen;
Tập lời
dịu ngọt cho quen,
Những
lời mắng chửi rủa nguyền phải xa.
Làm
cha mẹ phải là khuôn mẫu,
Cần
tránh xa tật xấu cho con;
Việc
mình phải giữ cho tròn,
Tất là
sẽ khiến cháu con theo mình.
Con lỡ
phạm kêu lên dạy dỗ,
Lẽ nên
hư phân tỏ rạch ròi;
Chớ lời
thô lỗ khó coi,
2070.
Nhứt là tránh việc đòn roi dữ dằn.
Ở cho
phải công bằng thẳng thét,
Đừng đứa
thương đứa ghét bất công;
Làm
cha mẹ ở hai lòng,
Nguyên
nhân chia rẽ giữa trong gia đình.
Chừng
khi chết xác mình nằm đó,
Con
cái lo chia của cắt rui;
Sẽ làm
miệng thế chê cười,
Rằng
là vô phước cho người mẹ cha.
Việc
nào cũng phải là cẩn thận,
Chớ vô
tình để hận cháu con;
Phải
làm tên khắc bảng son,
2082.
Đừng đem danh thể vùi chôn dưới bùn.
Đem
hai chữ anh hùng cái thế,
Hoặc
là câu trời bể đức ân;
Lấy
làm tài sản của thân,
Để cho
con cháu hay hơn bạc tiền.
Khắp
thành thị đến miền thôn dã,
Lớn nhỏ
đều giữ dạ theo đây;
Tất là
êm ấm trong ngoài,
Ai
tròn phận nấy không ai lỗi nghì.
Nhà an
được tất thì nước trị,
Cá
nhân hòa tất xã hội minh;
Ví như
bức lụa đã thành,
2094.
Là do nhiều sợi tơ mành làm nên.
Đạo
trung hiếu lo đền xong phận,
Khi mạng
chung cũng đặng hiển Thần;
Nếu
còn sanh lại cõi trần,
Được
con thảo thuận và thân an nhàn.
Điều nầy
khá truyền sang khắp chúng,
Nếu nhận
cho rằng đúng đạo nhân;
Cũng
nên mạnh mẽ tinh thần,
Làm
theo chớ có ngại ngần bỏ qua.
Ngày
tháng chẳng chờ ta nên nhớ,
Nay chẳng
làm mai xở không trôi;
Ta liền
khế thủ vâng lời,
2106.
Đem điều Phật thuyết lưu dời năm châu.
Người
thượng căn khuyên câu Phật pháp,
Kẻ hạ
cơ chỉ nết Thánh hiền;
Tùy thời
tùy cảnh tùy duyên,
Quyết
lòng mở rộng cửa thiền mới ưng.
Thể lời
Phật đã phân đoạn trước,
Đời nầy
không còn được bao lâu;
Sẽ là
biển hóa cồn dâu,
Dân
gian khắp chốn thảm sầu như nhau.
Nạn
nhân tạo binh đao độc chất,
Nạn
yêu tinh bắt vật loài người;
Nạn
nhiều ác thú ra đời,
2118.
Nạn do thời tiết đổi dời gây nên.
Nạn dưới
nước nạn trên mặt đất,
Nửa
lưng trời cũng rớt nạn tai,
Trong
nhà cho đến chí ngoài;
Nơi
nào cũng có nạn tai chực hờ.
Để cho
kẻ có cơ hối quá,
Con
xin đem đạo cả nhủ khuyên;
Mong
nhờ Đức Phật giúp duyên,
Khắp
trong hạ giới lòng nguyền tu theo.
Phật rằng:
Đời khi eo khi ngặt,
Thì
luôn mồm niệm Phật vái Trời;
Nạn
tai khi được qua rồi,
2130.
Thì mồm niệm Phật vái Trời cũng qua.
Câu hết
xôi thì là rồi việc,
Nóng bắt
tai nguội biết đâu rờ;
Thật
không sai chạy bao giờ,
Lòng
người thay đổi bất ngờ lắm con.
Khi
con đến gọi nôn đạo đức,
Sẽ nhiều
người nô nức chạy theo;
Vì rằng
sợ nạn hùm beo,
Vì rằng
sợ nạn tinh yêu bắt hồn.
Sợ cả
việc trời long đất lở,
Sợ lâm
vào bom phá chết oan;
Sợ
thân ban trái vương mang,
2142.
Sợ lâm ói mửa không an xác trần.
Sợ bị
lửa bạo Tần thiêu hủy,
Sợ lâm
cơn hồng thủy đại nàn,
Sợ
không được gặp hội hàng;
Sợ
không được thấy núi vàng Phương Tây.
Sợ chẳng
được sống ngày Thượng cổ,
Sợ
không còn dịp ngộ Thánh Vương;
Vì rằng
lo sợ trăm đường,
Mới là
chịu khó dựa nương cửa thiền.
Nếu cuộc
thế còn nguyên chưa đổi,
Nạn nọ
kia chưa tới đó đây;
Đường
tu của họ lần phai,
2154.
Lòng hăng hái bỏ trôi dài thời gian.
Họ tự
tay bứng ngang gốc thiện,
Xuôi
theo loài ong kiến càng lung
Đoàn
người hữu thỉ vô chung,
Sẽ làm
cửa đạo lạnh lùng chẳng không.
Trên
đường con ruổi rong thuyết-pháp,
Phải
bình tâm khi gặp cảnh nầy;
Hạng
người tỉnh lại rồi say,
Chẳng
qua đã lọt vào tay quỉ tà.
Con niệm
chú Ma-ha Bát-nhã,
Cứu nạn
tai cho kẻ thiếu căn;
Cứ đem
đạo pháp thâm hoằng,
2166.
Vừa thông nẻo chánh vừa ngăn đường tà.
Chớ thấy
kẻ lần xa mối đạo,
Rồi
đem lòng áo não ngưng chèo;
Nên
nhìn vào hạng khắn keo,
Chớ
trông đến kẻ để meo Phật- Đài.
Trong
khi lắm kẻ thay đổi chí,
Có nhiều
người đạo lý gắng công;
Trước
sau ôm chặt một lòng,
Dù lâm
nạn khổ cũng không lỗi nguyền.
Hạng
người nầy căn duyên sâu thẳm,
Giống
từ bi đã rấm nhiều đời;
Tánh
kia gần tánh Phật Trời,
2178.
Rán thêm chút nữa đạt nơi diệu mầu.
Họ vốn
thật lòng cầu đạo pháp,
Con cần
nên giải đáp cho tường;
Ngày
sau đạo mở rộng đường,
Sẽ nhờ
nơi họ tuyên dương phần nhiều.
Đời hiểu
lý cao siêu Phật pháp,
Cũng sẽ
do họ lập luận ra;
Đáng
tôn đáng kính sâu xa,
Đương
tiền đáng gọi họ là Phật nhi.
Đạo
thường có lúc suy lúc thạnh,
Do
lòng người khi tỉnh khi mê;
Gặp thời
chánh đạo bỏ bê,
2190.
Tức nhiên tà giáo nhứt tề nổi lên.
Gây rối
loạn từ trên chí dưới,
Khiến
nước nguy, vua tối, dân nghèo;
Khắp
nơi nghi ngút khói yêu,
Lòng
dân không biết mấy chiều mà đo.
Tà
giáo mạnh khổ cho chánh đạo,
Kẻ tu
hiền bị khảo mềm xương;
Trung
cang thường mắc tai ương,
Nịnh
hùa lại được hưởng đường vinh vang.
Kẻ hiền
tài bị gàn bị trở,
Đứa
gian thần được bợ được bưng;
Nạn
tai thường đổ cho dân,
2202.
Nào sưu thuế nặng nào thân giày bừa
Tạo ra
tiền quên mưa quên nắng,
Thường
bị người tay chấn lấy đi;
Con
ơi! Đạo gặp lúc suy,
Kể sao
hết việc quái kỳ xảy ra.
Đời
nay cũng giống là như thế,
Đang
thời kỳ chánh phế tà hưng;
Phần
nhiều trong khắp nhân dân,
Hay
tin ma quỉ nhiều hơn Phật Trời
Người
chẳng những riêng vời lấy họa,
Còn giục
cho nhiều kẻ mang tai;
Có tài
lợi dụng tiền tài,
2214.
Có oai thì cậy lấy oai hiếp người.
Con
cái mê theo lời tà thuyết,
Nỡ xuống
tay bắt giết mẹ cha;
Khắp
trong châu quận gần xa,
Nơi
nào cũng có yêu ma lộng hành.
Có thứ
ma tên Khinh-Chúng-Tướng,
Nó rẻ
khi phẩm lượng loài người;
Nó
mong đạp đổ cõi đời,
Chỉ
còn dòng dõi của người nó thôi.
Bất luận
ai đang vui hoặc khổ,
Nó
cũng đều tật đố ghét vơ;
Xúi
làm những việc nhuốc nhơ,
2226.
Cho người bắt giết hoặc xô vào tù.
Nó xúi
bạn gây thù với bạn,
Nó xúi
người đâm chán loài người;
Lấy điều
sát hại làm vui,
Nó bày
đủ cách cho đời hại nhau.
Kẻ thất
tình xúi mau tự tử,
Người
sa cơ cứ bảo sát thân;
Nhà tu
nó xúi yếm trần,
Bảo
nên bỏ xác để hồn lên mây.
Nó
khinh dễ mạng loài nhân vật,
Chẳng
hề ra tay giúp một ai;
Bảo rằng
cái xác thúi khai,
2238.
Nên đem giết bỏ hơn hay giúp giùm;
Kẻ rơi
vào gông cùm của nó,
Sẽ tự
tay giết bỏ thân danh;
Không
còn trọng mạng chúng sanh,
Cho
nên việc phải việc lành ngó lơ.
Ưa sát
hại hơn ưa dung dưỡng,
Độc ác
ngoài ý tưởng loài người;
Hiện
nay khắp chốn cùng nơi,
Chỗ
nào nó cũng thả người nó ra.
Khắp
trong cõi Ta-bà thế giới,
Bị ma
nầy dứt lối từ bi;
Không
thông luân lý đạo nghì,
2250.
Chẳng nhường kẻ dưới không vì người trên.
Chẳng
biết tạo thiện duyên mai hậu,
Không
rành câu vô lậu tận thông,.
Gần
bùn mà chẳng hôi bùn,
Ở nơi
ô trược mà lòng thanh bai.
Không
biết dụng xác thây tạm giả,
Để lập
nên đạo quả lâu dài;
Uổng
sanh ra kiếp nhơn loài,
Không
lưu sách sử những bài hay ho.
Vậy
con khéo khuyên cho đời biết,
Rán trừ
ma ác nghiệt ấy đi;
Đừng
làm những việc ngu si,
2262.
Xúi người hại lẫn hoặc đi giết mình.
Gặp kẻ
nào bị tình phụ rảy,
Nên dạy
câu ân ái ba đời;
Xưa
mình ở bạc với người,
Cho
nên nay mới chịu đời vô duyên.
Cũng
chẳng nên ưu phiền sầu não,
Để
tránh nhân bất hảo về sau;
Hoặc
là quán kiếp trần lao,
Thân
không tồn tại tình nào còn chi.
Trong
cái đẹp phương phi mỹ nữ,
Chứa
biết bao nhiêu thứ tanh hôi;
Chừng
khi thân ấy già rồi,
2274.
Da nhăn má cóp vô hồi xấu xa.
Rồi lần
đến tiêu ra phân cỏ,
Vẻ yêu
kiều kia có còn đâu;
Nay
người phụ rảy mặc dầu,
Không
nên ưu ái lo rầu làm chi.
Trong
lòng biết nghĩ suy như thế,
Tất
không rơi vào kế yêu tinh;
Niệm
câu huyễn chất hư tình,
Tất
không bị cảnh làm mình núng nao.
Nếu có
chúng sanh nào chưa ngộ,
Con
khéo lời để độ người ta,
Nếu sa
vào bẫy yêu ma;
2286.
Thảm sầu không thể nói ra cho cùng.
Ma có
hình ma không bóng dáng,
Hai loại
ma lãng vãng trong trần;
Không
hình ma ẩn vào thân,
Có
hình ma ở bên chân người đời.
Thứ ma
xúi ra lời ra lẽ,
Thứ ma
dùng mánh khóe trong tâm;
Người
lầm chẳng biết rằng lầm,
Kế mưu
yêu quỉ thâm sâu vô cùng.
Nhà đạo
sĩ chưa thông sáu phép,
Thường
bị yêu kềm kẹp giữa chừng;
Nếu
không tâm khảm thần ngưng,
2298.
Bị ma dẫn lộ uổng thân tu hành.
Phật
thương sót chúng sanh thọ nạn,
Dùng
thần cơ bày cạn cho con;
Khéo
gìn chặt lấy tâm son,
Noi
gương chư Phật chiều lòn khuyên dân.
Rán bồi
bổ đức ân dày dặn,
Cùng
Phật Tiên dựng bảng Phong Thần;
Ta liền
cúi lạy xin vâng,
Lời
chi của Phật cũng khuân vào lòng.
Đem
tâm lực lập công bồi đức,
Kêu
cho người đến thức mới thôi;
Bụi trần
chừng được sạch trôi,
2310.
Sẽ cùng chư Phật chung ngồi tòa sen.
Ta
xong lời Phật bèn nói tiếp,
Lời
con phân rất hiệp đạo cơ,
Kẻ
lành duyên hiện còn chờ;
Khéo
làm cho họ được nhờ lối đi,
Giúp họ
tu trước khi biến thế,
Chưởng
phước điền dành để qua truông;
Dân
tâm đang lúc rối cuồng,
Khéo lời
giúp họ gỡ suông tơ lòng.
Mau gạn
đục tầm trong cho kỹ,
Lánh
mùi đời tầm lý siêu nhiên;
Xưa vì
chưa rõ tục Tiên,
2322.
Đến nay còn vấn trong miền trần ai.
Giờ đã
hiểu đâu dài đâu ngắn,
Cũng
nên lo cho đặng siêu phàm;
Của trần
chớ bận lòng tham,
Từ lâu
tham nó đâu làm chi nên.
Tham vốn
là căn nguyên sự khổ,
Tham
là mồ vô số sanh linh;
Tham
danh, tham lợi, tham tình.
Càng
tham càng thấy lòng mình không an.
Tham
khi được rồi toan lo giữ,
Rủi mất
đi sanh sự rầu buồn,
Trong
lòng cứ rạo rực luôn;
2334.
Phải là tham vốn cội nguồn khổ chăng?
Tham
thì gian kế sang đến tội,
Tội vốn
là nguồn cội tử sanh;
Bao
nhiêu khổ ách hoành hành,
Do
lòng tham đắm nảy sanh phần nhiều.
Vậy
rán bỏ đừng chiều nó nữa,
Để cho
lòng thường bữa được yên;
Những
nào túc trái tiền khiên,
Chỉ là
lo trả lòng nguyền không gây.
Chịu
cay đắng giồi mài chánh đạo,
Hẹn một
đời trực đáo Tây-Phương
Vua
lòng tay tự cầm cương,
2346.
Thắng con ngựa ý trên đường xa xôi;
Không
mỏi dạ trước ngôi Phật điện,
Chẳng
lảng tâm khi niệm Di-Đà;
Huệ
lòng ắt được trổ hoa,
Đạo mầu
sẽ đắc Phật tòa được lên.
Vật
báu quí giá tiền phải mắc,
Đạo
cao siêu công đức cho dày;
Chớ
nên tu niệm sơ sài,
Lòng
mong đạt được phép tài Thần Tiên.
Bị khảo
đảo không phiền không chán,
Gặp
chông gai chẳng ngán chẳng ngao,
Sòng
nâu cứ vẹn một màu,
2358.
Gương lòng thường được chùi lau không rời.
Đem lợi
ích cho người chẳng tiếc,
Ngồi
tham thiền mỏi mệt đừng quên;
Như vầy
đạo cả ắt nên,
Con ôn
trong trí để khuyên người đời.
Ta liền
xin vâng lời chỉ phán,
Đem lời
vàng rao dán khắp châu;
Cúi
xin Phật dụng phép mầu,
Khiến
cho ai cũng qui đầu Phật môn.
Phật
ngăn lời ôn tồn dạy bảo,
Lời Phật
như cơm cháo trân hào;
Chúng
sanh tợ kẻ đói đau,
2370.
Bảo ăn không chịu làm sao no lòng.
Chúng
sanh phải tự trong tâm ý,
Phát
nguyện tu mới thị chơn tu;
Nếu tu
vì bị phép mầu,
Việc
tu kia có khác nào thôi miên.
Còn lậm
phép còn chiêng còn trống,
Hết
phép rồi mối đóng nhện giăng;
Dụng
phù lên xác nhà tăng,
Không
làm thành đạt chỉ năng mê hồn.
Liền
khi bị từ ngôn Phật quở,
Khiến
lòng ta vừa sợ vừa mừng;
Sợ là
sợ nét nghiêm thân,
2382.
Mừng là mừng lẽ chưa từng khi nghe.
Ta cúi
đầu tay che lấy mặt,
Vừa
khóc vừa xin Phật thứ tha;
Vì
lòng thương xót bá gia,
Nên con
xin Phật dụng ra phép mầu.
Chẳng
rõ lý cao sâu hơn nữa,
Được
Phật thương dạy sửa cho đây;
Ơn nào
sánh kịp ơn nầy,
Ngậm
vành kết cỏ lòng đây chưa vừa.
Ta vừa
dứt lời thưa Phật tiếp,
Lòng
thương người tất hiệp Phật tâm;
Lời
xin ấy dẫu sai lầm,
2394.
Cũng không gọi lỗi chớ dầm dề châu.
Nên mừng
được nghe câu chơn lý,
Khá
vui đem tâm chí giúp người;
Tu hiền
như đóa hoa tươi,
Hụng
hăng tựa lá úa rơi bên lề.
Hoa
tươi lắm người mê kẻ hái,
Lá rơi
đâu ai lại ngó ngàng;
Cạn lời
khuyên kẻ thế gian,
Hoa
tươi nên chọn chớ màng lá rơi.
Sắp đến
lúc đất Trời gầm chuyển,
Nhơn vật
thay, non biển cũng dời;
Thây
người chết tợ bèo trôi,
2406.
Trong nhà quỉ khóc, ngoài trời ma rên.
Yêu ma
chúng kêu tên kêu họ,
Kẻ lâm
vào tất bỏ thân ngay;
Cọp
vào nhà cõng lấy thây,
Sấu
trườn lên lộ gắp nhai người đời.
Khắp
Nam Bắc khí trời mù mịt,
Lộ
không người nhà bít ngõ ra;
Người
chưa từng thấy được ma,
Gặp ma
hiện đến sẽ là hồn kinh.
Mặt
mày cả gút nanh có đủ,
Thân
giống người hình thú xấu xa;
Người
thường bị vớ vào da,
2418.
Phù mình nhức nhối đến mà tắt hơi;
Kẻ bị
nó bóp nơi hầu họng,
Chết
liền khi không đặng trối trăn.
Những
người bị nó nhe răng,
Hồn
phi phách tán nổi cơn điên cuồng.
Giết
cha mẹ hại luôn con cháu,
Tánh
hung hăng táo bạo phi thường;
Ăn dơ ở
dáy không lường,
Đến
ngày bỏ xác ngoài đường mới thôi.
Có thứ
ma dùng hơi gió độc,
Thổi cả
làng cảm sốt chết ngay;
Hiện
hình đi khắp đó đây,
2430.
Đến đâu chết đó phép tài kinh thiên.
Chúng
sanh khắp cả miền Âu Á,
Gặp cảnh
nầy mới tá hỏa lên;
Sớm lo
phước đức xây nền,
Để làm
thành lũy vững bền đuổi yêu.
Gần đến
lúc tàn tiêu thế giái,
Bị gai
quào cũng hại chết thân;
Đến
như cỏ cắt tay chân,
Cũng
làm độc đến lần lần bỏ thây.
Từ
trong cỏ trong cây trong nước,
Trong
khí trời có chất độc luôn;
Người
nào khi đã bị xuông,
2442.
Mạng căn nào khác như dường tơ treo.
Chúng
sanh gặp nạn eo khắp chỗ,
Dù
khôn ngoan không ngõ trốn ra;
Lòng
tà tất gặp lũ tà,
Loại
nào theo nấy hẳn là không sai.
Lòng
Phật có Phật Ngài đến độ,
Tà hại
người,Phật có hại ai;
Chúng
sanh xét cạn lời nầy,
Khá tu
chớ để tháng ngày trôi qua.
Một kiếp
bị tà ma nhiễu hại,
Muôn
thu chìm dưới đáy bể trần;
Không
riêng lao khổ xác thân,
2454.
Còn làm luôn cả chơn thần mờ lu.
Bây giờ
chẳng chịu tu cho gấp,
Chừng
đáo đầu lặp bặp sao xong;
Sấu
còn biết muốn thành rồng,
Người
sao không dạ ước mong siêu phàm.
Mang
xác thúi không làm thẹn tủi,
Còn
đem tâm đắm đuối say sưa;
Chẳng
lo hành đạo sớm trưa,
Đổi
thân sen báu thơm tho lâu dài.
Sao lại
chịu sống ngày thống khổ,
Không
lo tìm kiếm chỗ thanh nhàn;
Xuống
lên trên cõi thế gian,
2466.
Ăn cay uống đắng muôn ngàn kiếp qua.
Sao chẳng
chịu xét ra cho kỹ,
Chán
thói đời dối mị gạt mình;
Nào
danh nào lợi nào tình,
Làm mồi
để nhử cho mình mắc câu.
Cũng tại
nó mà sầu mà khổ,
Nó làm
tuồng bưng bợ thân yêu;
Tử thần
khi đến gọi kêu,
Thì là
nó cũng trốn tiêu hồi nào.
Nào những
cái sang giàu oai vệ,
Nó
không hề chết thế cho mình;
Lại là
nó rất bạc tình,
2478.
Khi mình chết, nó bỏ mình ra đi.
Thân
trơ trọi nằm lỳ trong quách,
Cho đến
tiêu ra đất ra bùn;
Thật
loài hữu thỉ vô chung,
Càng
xa sớm được càng không ưu sầu.
Lợi dụng
nó làm câu phước thiện,
Đừng để
cho nó khiến sai mình;
Rán mà
vẹt ngút vô minh,
Chớ
cho vật tạm làm mình phải ngu.
Giàu
nghèo cũng cần tu mau chóng,
Đừng vội
quên bỏ trống nhà xưa;
Cõi trần
vì quá thích ưa,
2490.
Từ lâu nước cũ nhà xưa không về.
Mẹ mỏi
gối đợi kề bên cửa,
Cha
đau lòng nhớ trẻ xa đường;
Con
lành hãy sớm bải bươn,
Mau về
lo việc lửa hương sớm chiều.
Nhà
xưa ấy thường kêu An-lạc,
Cha mẹ
là vốn Đức Như-Lai;
Nguyên
do xưa có một ngày,
Đang
ngồi con bỗng nhớ ngay cảnh đời;
Khi ấy
mới dạo chơi đây đó,
Sanh
lòng mê tiếng gió tiếng chim.
Vật
chi cũng muốn kiếm tìm,
2502.
Đi lần đến vật cứng mềm biệt phân;
Từ ấm
lạnh đến phần trơn nhám,
Sờ mó
vào rồi cảm động tâm;
Chỉ
trong phút chốc mê lầm,
Chơn
linh mờ mịt quên tầm đường ra.
Hết vật
nọ sang qua vật khác,
Cứ say
mê tạo tác liền tay;
Hằng
đêm cho chí những ngày,
Cứ mê
đi đến lạc loài trần gian.
Bị mọi
cảnh buộc ràng không hở,
Nên
lòng không hề nhớ quê nhà,
Đôi
khi cũng sực nhớ ra,
2514.
Đồng thời việc khác cũng là xen vô,
Rồi lại
bắt nghĩ lo túi bụi,
Đến
quên luôn căn cội xưa kia;
Tạo ra
vật bị vật mê,
Mê cho
đến tạo ra bề chiến tranh.
Thây
chết chất như thành như núi,
Nước mắt
tuôn tợ suối tợ nguồn;
Ghét
thương mừng giận vui buồn,
Lúc
nào cũng thấy quây cuồng trong tâm.
Sự khổ
não hằng trăm hằng vạn,
Mà
cũng chưa biết chán nơi lòng,
Như-Lai
chẳng ngớt ngóng trông,
2526.
Cho con sớm được tỉnh lòng hồi qui.
Vừa
nghe Đức Từ Bi nhắc tới,
Việc
chúng sanh lạc lối trần gian;
Tự
dưng ta cất tiếng than:
Vọng
tâm một phút gian nan muôn đời.
Thế
thì vẫn từ hồi vô thỉ,
Cả
chúng sanh đã bị mê lầm;
Trải
qua nhiều kiếp càng thâm.
Cho
nên ít kẻ thức tâm hồi đầu,
Chẳng
nhờ Phật dài lâu chỉ bảo;
Chúng
sanh mong gì tháo cho ra,
Nghiệt
cay thay cõi Ta-bà!
2538.
Khi vào thì dễ khi ra dễ gì!
Phật
ngăn lời tức thì tiếp nói :
Con chớ
nên trách cõi Ta bà,
Ta-bà
chẳng nhiễm lòng ta;
Lòng
ta tự nhiễm mới ra khổ hình.
Cảnh
vô tình tại mình hữu ý,
Sự
sanh ra thì lý mới sanh;
Khá
nên tự trách lấy mình,
Chớ
nên trách cảnh vô tình là sai.
Danh lợi
vốn chẳng hay mê chúng,
Tại
chúng sanh mê dụng lợi danh;
Lợi
danh vốn loại vô tình,
2550.
Tự mình tạo nó rồi mình lại mê.
Nếu đi
dễ thì về cũng dễ,
Làm
hay không tại lẽ ấy thôi;
Ta-bà
chẳng trói buộc người,
Tại
người tự trói vào nơi Ta-bà.
Nghe
Phật quở lòng ta phát điếng,
Thế là
ta hai chuyện hiểu lầm;
Nếu
không Phật chỉ khai tâm,
Chính
mình chưa thoát được mầm vô minh.
Nghĩ
xong rồi cúi mình lạy Phật,
Xin thứ
cho lời trách đã lầm;
Dạy
thêm những lẽ diệu thâm,
2562.
Giúp con được mở rộng tầm mắt ra.
Và khiến
kẻ gần xa chưa rõ,
Nhờ lời
lành đường ngõ được thông;
Cúi
xin Phật nhỏ phước hồng,
Cứu
thân cá chậu chim lồng được ra.
Phật
nhích miệng như hoa tươi nở,
Lành
thay! Con khéo mở tâm linh;
Thấy lầm,
lầm đã khỏi mình,
Như
ngoài hình mới thấy hình tròn vuông.
Nên mừng
chớ nên buồn vô ích,
Càng vấn
nghi sự tích càng thông;
Muốn
gieo duyên khắp đại đồng,
2574.
Đạo đời ý vị phải thông hiểu rành.
Ví như
kẻ thường hành hàng hải,
Chỗ cạn
sâu cồn bãi phải thông;
Lối
nguy cần biết đề phòng,
Chỗ an
nên hiểu để lòng khỏi lo.
Sự nào
chẳng hiểu cho tột lý,
Không
bao giờ tâm chí được an;
Cho
nên đạo phải rành đàng,
Đâu
qua địa phủ đâu sang Tây đài.
Nếu chỉ
khởi lầm sai một niệm,
Rơi
vào đường tà kiến muôn thu;
Ví như
làm mắt đã mù,
2586.
Suốt đời chịu tối khó âu trị lành.
Sự tu
phải mổ phanh cho biết,
Tại
sao tu? Tu được những gì?
Biết rồi
thì cứ hành y,
Miễn
làm sao được đến khi công thành.
Phật
liền chỉ vào mình và nói :
Ví
trên thân có bụi đóng đầy,
Tự tay
chùi rửa cho ngay;
Đó là
ý nghĩa của bài sự tu.
Sau
khi được tay thu hết bụi,
Cả
châu thân trở lại sạch trong;
Đó là
ý nghĩa thành công,
2598.
Lấy đây hiểu lý đại đồng như nhau.
Bổn
lai tâm lúc nào cũng sáng,
Niệm
trần lao phủ án che mờ;
Niệm
trần lao nếu không ngơ,
Bổn
lai tâm trở ban sơ một màu.
Thấy
suốt chẳng vật nào cản trở,
Nghe
thông không sót bỏ một lời;
Biết
rành tâm niệm của người,
Việc
mình việc chúng ba đời hiểu thông.
Trong
nhứt khắc dạo xong khắp chỗ,
Việc lớn
như việc nhỏ không lầm;
Diệu mầu
của bổn lai tâm,
2610.
Không lời để ví chẳng làm chi đo.
Phật tạm
chỉ để cho dễ biết,
Từ mũi
kim cây viết nhỏ nhen;
Đến
như vật lớn lầu đền,
Tàu bè
máy móc chế nên các loài.
Ấy
cũng do bổn lai tâm tạo,
Đâu tự
nhiên thành thạo hình hài;
Mê,
nên tạo vật trần ai,
Giác rồi
tất lập được ngay cảnh mầu.
Tâm
khi lớn trùm bao vạn vật,
Khi nhỏ
thì chun lọt lỗ kim;
Dụng
tâm nếu muốn kiếm tìm,
2622.
Nhắm vào nét chạm, mà xem thì tường.
Nét lớn
nhỏ, tròn vuông, dài ngắn,
Nét cạn
sâu, ngay thẳng, quanh co;
Nét
cây cỏ đến chim cò,
Cũng
là dụng bổn lai do mà thành.
Dựa lẽ
ấy chúng sanh sẽ thấu,
Sức bổn
tâm tạo cấu thế nào?
Gương
lòng bụi tục khá lau,
Để soi
bất luận vật nào cũng thông;
Đoạn nầy
nhớ để lòng cho kỹ,
Khi tỉnh
rồi con chỉ cho người;
Rán tu
đừng có biếng lười,
2634.
Hành cho chánh đạo một đời thành công.
Vừa
nghe Phật dạy xong lời ấy.
Hốt
nhiên ta tự thấy lòng mừng,
Cúi dầu
lạy Phật xin vâng;
Sẽ đem
lời Phật giáo dân khắp cùng,
Hầu
khiến kẻ chưa thông đạo lý,
Được
biết câu huyền bí cao siêu;
Từ lâu
tội ác đã nhiều,
Nay
nghe lời Phật ắt tiêu nghiệp trần.
Xin Phật
dạy thêm phần con trẻ,
Khiến
cho thông mọi lẽ thật hư;
Để khi
ra giục thúc người,
2646.
Đủ phương quyền thật đủ lời lại qua.
Nếu lầm
nghĩa hoặc là không rõ,
Hại
cho người cũng khó dắt người;
Thể
theo lời Phật vừa rồi,
Nhơn
sanh hiện đại nhiều người khôn lanh.
Sự
nghi vấn dữ lành của họ,
Mình
chẳng thông đường ngõ khứ lai;
Sẽ là
không độ được ai,
Lại
còn bị họ chê bai nhạo cười.
Duyên
mình với mọi người bị đoạn,
Còn
khơi tâm ngạo mạn họ lên;
Thế là
mình đã gây nên,
2658.
Chọc người nên tội, làm duyên Phật ngừng.
Như thế
sẽ hại phần phổ hóa,
Con
cúi xin lượng cả từ bi;
Dạy
rành nước bước đường đi,
Để con
có thể ứng tùy khuyên dân,
Phật
liền phán: con đừng lo ngại.
Phật
chỉ cho đại khái việc tu,
Lý mầu
đều cũng chứa thu,
Lấy
con số một khởi đầu đếm ra.
Dù nhiều
mấy cũng là đếm được,
Nên giữ
lòng sau trước an nhiên;
Để mà
phổ hóa nhơn duyên,
2670.
Bằng lời của Phật điểm truyền cho con.
Chúng
sanh đang sống mòn từ phút,
Con
khéo lời hối thúc người tu;
Bảo rằng
chớ có ngao du,
Thân
như lá úa mùa thu mỏng mành.
Nên l ấy
chữ tu hành làm gốc,
Được
nhẹ thân được vớt linh hồn;
Đừng
ngồi đợi nước đến trôn,
Mới ra
sức nhảy ắt không kịp nào!
Nên
tính trước để sau khó liệu,
Chớ
cho tâm bận bịu mùi đời;
Quyết
tu không hẹn chiều mơi,
2682.
Quí giờ niệm Phật hơn người quí châu.
Ngồi
tham thiền bao lâu chẳng biếng,
Xem kệ
kinh mấy quyển không nhàm;
Trong
lòng bao việc gian tham,
Đổi ra
tánh biết muốn ham tu hành.
Lợi dụng
trí thông minh văn vật,
Để làm
theo việc Phật giáo khuyên,
Ai
hung mình vẫn làm hiền,
Ai
gian mình vẫn lòng chuyên thật thà.
Sự
giúp người thì là vui giúp,
Lợi dụng
người một chút cũng không;
Thương
người với lý sạch trong,
2694.
Không đem nghĩa trược mà tròng vào ai.
Sợ tội
như sợ đày hải đảo,
Chuộng
phước hơn chuộng báu thế gian;
Biết
tu là được thanh nhàn,
Biết đời
là cõi khổ nàn không mê.
Biết
quấy là kẻ chê kẻ ghét,
Biết
phải là người thích người ưa;
Tự tâm
hôm sớm lọc lừa,
Chọn
làm những cái người ưa người dùng.
Bao
nhiêu đó khéo lòng sửa đổi,
Cũng sẽ
không máng tội lỗi vào;
Ngày
giờ thắm thoát qua mau,
2706.
Bàn cờ thế giới càng xao động hoài.
Trong
nháy mắt trời lay đất chuyển,
Người
năm châu phách biến hồn phi;
Giang
san sự nghiệp còn gì,
Ba năm
đốn củi thiêu đi một giờ.
Tai nạn
đến bất ngờ khó liệu,
Lâm nạn
người, đến chịu nạn Trời;
Đời
còn nhiều nạn chưa thôi,
Rán
khuyên người chớ dể ngươi mà lầm.
Khá
chưởng phước để ngăn đuổi họa,
Lo làm
nhân khỏi trả báo oan;
Đời nầy
vay trả lẹ làng,
2718.
Sớm gây tối lại vướng mang vào mình.
Cá
nhân vay gia đình chung trả,
Một
người làm cả họ thác oan;
Thân nằm
trong cuộc biến loàn,
Mạng
căn rẻ rúng như sàng cá ương.
Bị
nghi kỵ đủ xương thịt nát,
Vì của
tiền chịu thác lắm người;
Thù
nhơ oán chạ khắp nơi,
Đua
nhau bắt giết là đời nầy đây.
Nghiệp
oan đã tạo gây từ trước,
Tới
bây giờ đến lượt phải đền;
Nếu
riêng nghiệp đã gây nên,
2730.
Thì là riêng một mình đền đấy thôi.
Nếu
chung nghiệp vay lời vay mạng,
Thì là
chung nhiều hạng lại đền;
Khắp
nơi nức tiếng khóc rên,
Hồn
oan khí hận xung lên ngất trời.
Không
ai được yên nơi yên giấc,
Trong
lòng không hề ngớt sợ lo;
Lo bề
thiếu đủ đói no,
Lo
thân cái chết đến cho ngày nào.
Sống
như giấc chiêm bao một thứ,
Rủi
lâm vào vạn sự buông tay;
Không
ai biết được ngày mai,
2742.
Hôm qua thấy đó bữa nay mất rồi.
Biết
bao cuộc sóng dồi gió dập,
Cảnh
thảm sầu tới tấp liền tay;
Cám
thương già trẻ gái trai,
Sống đời
mạt pháp không ngày nào an.
Nên tu
niệm hơn toan làm dữ,
Ở hiền
lành khỏi sự hung tai;
Biết
gìn được bốn ngày trai,
Cũng
là được bớt tạo vay nghiệp sầu.
Lúc
khuya sớm nhớ câu lục tự,
Niệm
cho thường họa dữ cũng lui;
Lửa
lòng khá sớm làm nguôi,
2754.
Bớt câu thù oán, bớt hồi cuồng tâm.
Buổi
loạn dễ bị làm nghịch ý,
Không
dằn lòng tất bị oán thù;
Đến
khi lửa dậy mịt mù,
Dập
cho được cũng đài lầu tan hoang.
Từ cái
ngó cũng mang tai ách,
Đến
cái nghe cái nhách miệng ra;
Nếu
không xét cạn nghĩ xa,
Dễ gây
lấy họa chớ là không đâu.
Ấy
cũng tại người tu thì ít,
Kẻ
hung hăng gian ác thì nhiều;
Tự gây
hoặc bị ghẹo trêu,
2766.
Sanh ra hờn ghét hoặc điều đánh thoi.
Vì lẽ ấy
khắp người lão ấu,
Muốn
khỏi câu tranh đấu thù hằn;
Lửa
trong tâm nhớ khéo dằn,
Mới là
khỏi việc ăn năn cho mình.
Đời lắm
kẻ quái tinh mưu chước,
Dễ khiến
người lâm cuộc khó ra;
Việc
nào khi hễ đến ta,
Hãy
bình tâm để xét ra đuôi đầu.
Chớ tập
tánh bạ đâu làm đó,
Hư phạm
rồi sửa có dễ gì;
Việc
thường thì chẳng nói chi,
2778.
Nếu điều trọng đại mới thì làm sao.
Hạng
người có quyền cao chức trọng,
Sơ một
ly hư hỏng trăm thiên;
Hư hao
nhà cửa của tiền,
Cũng
còn tạo được ngay liền hoặc lâu,
Rủi chết
mạng dễ đâu làm sống,
Sẽ gây
nên bi thống nhà người;
Điều
chi cũng xét tới nơi,
Không
nên khinh suất đùa chơi sự nào.
Ở đời
nếu được giàu suy nghĩ,
Sẽ
tránh điều vô ý thường khi;
Xử
phân điều có củ qui,
2790.
Việc nào cũng khiến được đi xuôi dòng.
Phần đạo
lý được lòng cẩn mật,
Sẽ
giúp cho khỏi mất chơn cơ;
Không
hề để chút hở sơ,
Các tà
niệm khó xen vô được nào.
Mỗi cử
động mỗi rào mỗi rấp,
Sẽ thường
không sai thất lỗi lầm;
....................
Thận
trọng đến cả tầm mắt ngó,
Phòng
tránh lòng vạy vọ sanh ra;
Khi
nghe khi tưởng cũng là,
Ngăn
ngừa ý quấy xẹt ra bất ngờ.
Nhứt lời
nói bao giờ cũng lọc,
Buông
ra rồi khó hốt lại nào;
Tục rằng
lưỡi bén hơn dao,
2804.
Nói ra một tiếng đoạn bao nghĩa tình.
Sự vui
buồn trọng khinh thương ghét,
Thường
do nơi mồm mép gây nên;
Chỉ
trong một tiếng cất lên,
Hoặc
tan sự nghiệp hoặc nên cửa nhà.
Lời
nói dễ phá hòa ra nghịch,
Lời
nói thường giết chết được người;
Cho
nên tất cả người đời,
Trước
khi nói phải lựa lời cho thanh.
Nói tổn
đức nói sanh thù oán,
Nói
chia lìa nói tiếng trây trua;
Thì là
nhứt định phải chừa,
2816.
Dù ai cạy lưỡi không thưa thốt lời.
Nhà đạo
sĩ khéo lời biện luận,
Giúp
cho người biết đặng sự tu;
Trong
tâm tan được gút mù,
Đức
kia lớn có chi đâu sánh bằng.
Riêng
phận con trên đàng giảng giáo,
Cũng
khá âu cẩn đáo ngôn từ;
Vừa
cho vẻ mặt vui tươi,
Vừa
cho lời nói mát như gió chiều;
Lựa những
lẽ kẻ yêu người kính,
Chọn từ
câu ngay chính tốt lành;
Khi mềm
như tiếng chim oanh,
2828.
Khi hùng như chúa rừng xanh thét gầm.
Lời ngọt
ẩn nghĩa thâm vô tận,
Khiến
người nghe phấn chấn thêm lên;
Nếu
người đạo lý đã quên,
Được
nghe giảng giáo trở nên tỉnh lòng.
Gieo lời
kệ khắp trong thiên hạ,
Khiến
hương lành bay tỏa năm châu;
Cốt
làm cho khắp đâu đâu,
Nữ nam
lão ấu biết câu tu hành.
Con
khéo mở lời lành dắt chúng,
Mượn
đuốc thần soi phủng hốc hang;
Khéo
làm cho khắp thế gian,
2840.
Nắm tay nhau trở lại đàng từ bi.
Thế giới
sắp đến kỳ biến hoại,
Gian
ác không tồn tại xác hồn;
Vậy
con khéo tiếng giục nôn,
Cho
người gian ác trở chơn tu hành.
Nếu
không thể khiến lành tất cả,
Độ một
người cải hóa cũng nên;
Nếu
người không có Phật duyên,
Như gà
khác mẹ khó khuyên được nào.
Lòng từ
thiện phủ bao khắp chỗ,
Cứ ra
tay dạy dỗ khuyên răn;
Nếu
tin thì sớm ăn năn,
2852.
Bằng không cũng chẳng lòng hằng giận ai.
Không
phân biệt cấp giai chủng loại,
Hễ là
người cứ dạy cho tu;
Lấy lời
chơn chánh hòa nhu,
Chạm
lòng người trở hềm thù cũng ưng.
Đem hết
cả tâm thân vì đạo,
Mặc
cho đời khảo đảo vẫn vui;
Đạo mầu
đã thắm say mùi,
Dù ai
ưa ghét ngược xuôi như thường.
Con khá
nhớ tận tường lời Phật,
Chớ để
cho sót mất điều nào;
Thêm
đây là một cành lau,
2864.
Con nên dùng nó khi nào qua sông.
Nó chẳng
ngại khi giông gió thổi,
Sóng
càng to càng nổi lên cao;
Tiện
hơn các loại thuyền tàu,
Giúp
con khi gặp lúc nào phong ba.
…Nhiều
khi yêu hóa phép tà,
Nước
lên ngập núi cửa nhà đều trôi;
Nó sẽ
giúp con ngồi trên nước,
Được
nhẹ mình có lướt nguy nan;
Nhưng
con cần nhớ kỹ càng,
Ngồi
trên nó phải lặng an tâm thần.
Nếu
tâm động việc trần một mảy,
Nó
chìm lần xuống đáy nước sâu;
Chừng
ni muôn nỗi thảm sầu,
2878.
Của loài yêu quái bấu câu vào mình.
Ta cúi
đầu nhận cành lau phép,
Rồi chắp
tay khép nép lạy dài;
Lòng từ
bi rộng lớn thay!
Việc
chi cũng chẳng tiếc nài với con,
Ơn đức
lớn biển non khó sánh;
Đáng
cho đời trọng kính soi gương,
Con
nguyền giữ vẹn một đường;
Độ
mình và độ khắp phương xa gần.
Riêng
con vẫn phải cần gắng sức,
Nhưng
cũng xin Phật lực gia trì;
Khác
nào kẻ mới biết đi,
2890.
Mắt người cha mẹ thường khi xem chừng,
Phật rằng:
Chính do phần duyên ấy,
Mới
cho con được thấy hôm nay,
Lời mầu
Phật dạy bên tai,
Cảnh mầu
Phật hiện rõ ngay bên mình.
Sẽ
giúp con đức tin phấn tấn,
Trong
lúc chơn chưa đứng vững vàng;
Chỉ đường
sanh tử Niết-Bàn,
Để cho
con được rành đàng tới lui.
Phần
con chuyện ngược xuôi được hiểu,
Cũng
khiến người đạo diệu rõ mùi;
Lòng
con có phải được vui,
2902.
Khi nghe đích xác những lời Phật phân.
Ta cúi
mình nhận rằng đúng thế,
Lời
vàng đâu phải dễ được nghe;
Thân
hèn mọn có đâu dè,
Hôm
nay được Phật cho nghe lời vàng.
Không
những con hân hoan tâm chí,
Đến
như người nghe kỹ chuyện nầy;
Sẽ là
cũng được vui lây,
Lòng
tin thêm mạnh đường ngay thêm gìn.
Trừ những
kẻ vô tình với đạo,
Dù có
nghe chỉ nhạo rồi thôi;
Phật rằng:
họ khó tỉnh hồi,
2914.
Bởi duyên đạo cạn, duyên đời thì sâu.
Hạng nầy
thường nhiều câu cay đắng,
Dễ gây
cho tức giận nhiều người;
Vậy
con khéo nhẫn khéo lời,
Để qua
tiếng nhạo của người dữ hung.
Phải
chịu được người đun kẻ thét,
Mới trở
nên màu sắc vàng ròng;
Mười
phương chư Phật Tây Đông,
Cũng từ
lò đúc cõi hồng mà ra.
Chịu
khổ được mới là đắc quả,
Không
nhọc tu dễ há thành công;
Mang
giày nhẫn nhục leo chông,
2926.
Mặc y tinh-tấn đeo cung đại hùng.
Trừ
cho được giặc trong giặc ngoại,
Thắng
các loài yêu quái tà tinh;
Làm
cho chúng khiếp oai mình,
Trở
làm tùng giả mới bình yên thân.
Lúc
nào cũng tinh thần vững chắc,
Không
để cho ai dắt sai đường;
Tự làm
chủ lấy thân luôn,
Dù
trong giấc ngủ cũng thường không quên.
Được
như vậy ắt nên đạo cả,
Con
khá đem vào dạ từ câu;
Riêng
thân khi đạt đạo mầu,
2938.
Rán dìu bá tánh biết câu tu hành.
Phật
thương chúng không đành ngồi ngó,
Gọi
con vào chỉ rõ nguồn cơn;
Sắp
ngày đảo hải di sơn,
Do cơ
di dịch tuần huờn mà ra.
Nhơn với
vật thiết tha tha thiết,
Khắp
hoàn cầu chém giết lẫn nhau;
Thây nằm
dường thể núi cao,
Máu
trôi ngập đất khác nào nước dâng.
Cảnh
đói khát quỉ thần phải khiếp,
Sự oán
thù Trời đất cũng kinh;
Có nhiều
thứ bịnh phát sanh,
2950.
Lương y đều phải ngồi khoanh mà nhìn.
Khổ với
thảm muôn nghìn xảy tới,
Dân khắp
trong thế giới chịu chung;
Lòng
người càng lúc càng hung,
Nạn
tai càng nổi khắp cùng chưa thôi.
Nạn đến
đỗi nhà vôi nhà gạch,
Bị tan
ra bụi cát mịt mù;
Do
lòng người chẳng chịu tu,
Mới ra
lắm cuộc thảm sầu đó đây.
Việc
đã hiện có ngay trước mắt,
Chớ phải
đâu xa xắc khó tri;
Tại
người không chịu xét suy,
2962.
Hoặc là đã hiểu, ngơ đi không cần.
Vậy
con rán khuyên lần chót hết,
Nếu
không tu thì chết cũng ưng.
Đành rằng
nếu có xác thân,
Dù ai
cũng phải một lần chết đi,
Nhưng
kẻ chết hồi qui cõi Phật;
Còn
người sao lại thác ra ma,
Hoặc
là chết được ngợi ca,
Hoặc
là chết để gần xa chê cười.
Kẻ chết
già người thời chết yểu,
Hoặc
chết êm hoặc chịu chết đau;
Có nhiều
cách chết khác nhau,
2974.
Cũng nên lựa cách chết nào cho thanh.
Chết hồn
được siêu sanh Cực-Lạc,
Chết để
đời thường nhắc hiền nhơn;
Chết
cho người nhớ công ơn,
Chết
cho dân chúng thôn lân miếu thờ.
Chết
vì nước, chết cơ phổ độ;
Cách
chết nầy không hổ với ai,
Nhưng
mà lòng Phật hiện nay,
Muốn
cho người sống lâu dài như xưa.
Người
muôn tuổi cũng chưa tóc bạc,
Thân
tráng cường trí rất thông minh;
Trong
lòng thường được tự tin,
2986.
Suốt đời chẳng vướng vào mình lỗi chi.
Tri được
mình còn tri được kẻ,
Cách ở
ăn rành rẽ phân minh;
Vừa
ngay vừa sạch tấm tình,
Với Thần
Tiên cũng dám kình chẳng thua.
Người
chẳng có chanh chua lanh xảo,
Biết
trung trinh hiếu thảo dạ thưa;
Muốn nầy
chừng được mới vừa,
Con
mau khuyên chúng sớm trưa tu hành.
Làm
nhơn ái lo dành phước đức,
Phật sẽ
dùng diệu lực đỡ nâng;
Đưa
cho đến lập đời Tân,
2998.
Để cùng chư Phật được gần ngày đêm.
Lập đời
mới nhà êm nước thịnh,
Không
nứơc nào thôn tính nước nào;
Cùng đồng
ngôn ngữ như nhau,
Dễ bề
thân kết ngoại giao xa gần;
Khác
ngôn ngữ khác phần tư tưởng,
Khiến
biệt phân phẩm lượng khác nhau;
Nước
mình là nước phú hào,
Nước
người là nước bào hao bần cùng.
Nước lớn
nhỏ sanh lòng chấp trách,
Khởi
lên tâm lối phách kiêu căng;
Gây
nên chia rẽ thù hằn,
3010.
Dắt lần đến chỗ thẳng căng chiến trường.
Điều nầy
rất vô lương bất chánh,
Không
lưu tồn đến cảnh đời tân;
Vậy
con khuyên cả nhơn dân,
Muốn
cho thân được sống gần cảnh ni.
Phải
nhứt quyết bỏ đi việc quấy,
Lo làm
lành dù phải nát thân;
Thác
đi chứng quả Phật Thần,
Sống
thì được hưởng đời tân lâu dài.
Đời
tân với bồng lai tương tự,
Không
có người hung dữ gian phi;
Ai ai
cũng biết đạo nghì,
3022.
Cảnh vui người đẹp khác gì cõi Tiên;
Sống với
tuổi muôn thiên dày dặn,
Người
thường hay bay đặng khắp nơi;
Cỡi
mây xuống đất lên trời,
Đi đâu
cũng được không nơi ngại ngùng.
Người
người được thung dung tự tại,
Không
ai buồn ai hại lẫn ai;
Của
rơi không kẻ thò tay,
Nhà
không đóng cửa chính ngay đời nầy.
Dù cho
kẻ ngu ngây thế mấy,
Nghe
điều nầy cũng lấy làm vui;
Bỏ đi
cái kiếp lằng ruồi,
3034.
Rán tu cho được gặp hồi an cư.
Chớ ngồi
đợi việc hư đến nước,
Mới
toan lo khó được toàn thây;
Gặp
hùm thì cứ leo cây,
Gặp
voi thì cứ chạy quay lòng vòng.
Ngồi
than mãi ắt không rồi việc,
Nói
không làm đến chết không nên;
Ngày
giờ mau lẹ như tên,
Cũng cần
tu gấp chớ nên chần chờ.
Nếu đợi
đến vào lờ chúng quỉ,
Vạn sự
đều hưu hỉ nan phương;
Khá tu
chớ có xem thường,
3046.
Nay không liệu gấp sau đương không rồi.
Vì
lòng quá thương người hạ giái,
Phật cạn
lời quấy phải cho tin;
Vậy
con hôm sớm khá gìn,
Sau
khi thức giấc trần tình người nghe.
Tin
thì tốt dù chê cũng mặc,
Noi từ
bi cứ nhắc nhở luôn;
Nói
chi cũng chẳng hề buồn,
Miễn
cho đạo mở rộng đường thì hơn.
Rán
giúp khắp muôn dân hiện tại,
Được sống
còn đến cái Tân Nguơn,
Trừ
người số định mãn phần,
3058.
Thiên Tào bôi sổ khó dần dài thêm.
Kẻ nào
còn dài niên kỷ mạng,
Rán
giúp cho đổi hạng trường xuân;
Bao
nhiêu lời đã vừa phân,
Con
nên in trí chớ cơn nào rời.
Ta liền
cúi vâng lời vàng ngọc,
Hẹn từ
đây chí dốc tu hành;
Làm
cho rồi phận chim xanh,
Gieo
điềm cho khắp dân lành gần xa.
Núi
cao lớn vẫn là mòn lở,
Lòng
keo sơn không thuở nào rời;
Làm
cho tỉnh thức người đời,
3070.
Làm cho cửa đạo chói ngời dường châu.
Nguyện
vào trận mưa dầu nắng lửa,
Cứu
người cho đến thở cuối cùng;
Gương
lành cùng Phật nêu chung,
Thì là
mới được toại ưng lòng nguyền.
Cúi
xin Phật chứng miêng cho trẻ,
Và độ
giùm khi rẽ xuống trần;
Vì rằng
chỉ có một thân,
Tả
xông hữu đột lắm phần khó khăn.
Có
khác nào Đường Tăng Tam Tạng,
Gặp
yêu ma ngăn cản đầy đường;
Không
nhờ có Phật Tây-Phương,
3082.
Làm sao giải nạn trên đường thỉnh kinh.
Vậy
trước đây con xin với Phật,
Nhận
thân nầy làm vật cúng dường;
Đem về
đến cõi Tây-Phương,
Làm
người hầu hạ bên giường từ bi.
Phật rằng:
đáng nên ghi tâm nguyện,
Phật
cùng con chẳng viễn cách nhau;
Lúc
nào đến những lúc nào,
Cũng
là vẫn được hiệp nhau một đường.
Đây là
một dây Cương-Mã-Trị,
Thắng
được con ngựa ý bất thường;
Phật
cho con khéo cầm cương,
3094.
Trong khi bôn tẩu trên đường độ tha.
Khi ngựa
gặp phép tà cuốn vó,
Nhờ
cương nầy thắng nó dễ dàng;
Dù cho
vượt bể đăng san,
Dùng
Cương-Mã-Trị tất an nơi lòng.
Con
khéo giữ kẻo hòng bị trộm,
Mất đi
rồi sẽ khốn dài lâu;
Khó về
đến chốn Kim lâu,
Để mà
cùng Phật chung bầu hư vô.
Ta liền
niệm Nam Mô Tam Phật,
Chứng
cho con lãnh vật báu nầy;
Trong
khi dạo khắp Đông Tây,
3106.
Dùng Cương-Mã-Trị phá khai núi rừng.
Muốn đi
tất nhẹ chơn đi tới,
Muốn dừng
không ngại lối chông gai;
Mầu
thay ! Thật rất mầu thay !
Trong
khi buồn ngủ gặp rày chiếu manh,
Có phải
chăng xưa dành lắm hạnh,
Nay
khiến ta được lãnh cương nầy;
Riêng
ta nhẹ gót truông mây,
Khắp
người cũng được hưởng lây sự mầu.
Bạc bảy
há dễ đâu mua được,
Vàng
mười không thể chuộc cho ra;
Nhịp cầu
đến hội Long-Hoa,
3118.
Nấc thang leo tới chín tòa Kim Liên.
Chúng
sanh sẽ toại nguyền kỳ chót,
Hoặc về
Thần về Phật về Tiên;
Lành
duyên thật rất lành duyên,
Ai
nghe đến chẳng lòng liền phát tâm.
Phật cất
giọng thâm trầm liền bảo,
Được
như lời ước hảo của con;
Nghiệp
mê sẽ được tiêu mòn,
Lửa
binh tai khổ hết còn phát sanh.
Ai
cũng được hiền lành tất cả,
Tất
cõi trần sớm hóa ra Tiên;
Đâu
mang lấy kiếp khổ phiền,
3130.
Cũng không sống cuộc đảo điên lâu dài.
Vậy
con phải gọi ngay bá tánh,
Được một
người phúc hạnh một người;
Cuối
cùng nếu chẳng nghe lời,
Mạng
đành theo cuộc đổi dời biết sao.
Việc
cũng chẳng còn bao lâu nữa,
Biết
lo xa mau sửa tốt hơn;
Mở
lòng làm phước làm nhơn,
Sớm
chiều cầu nguyện Phật Thần độ cho.
Có
lòng thành khỏi lo Phật bỏ,
Người
đành quên Phật có quên ai;
Phật
liền đứng dậy xè tay,
3142.
Trong tay ánh sáng xẹt ngay tức thời.
Sáng
hơn ánh mặt Trời mấy bực,
Mát diệu
không nóng bức chút nào;
Phật rằng:
nơi cõi trần lao,
Hiền
nhơn khi bị lâm vào nạn tai,
Ánh
sáng nầy liền bay tới chỗ,
Cứu
cho người nạn khổ được qua;
Dù người
nát thịt tan da,
Cũng
lành mạnh lại như là khi xưa.
Phật
thường dụng Thần cơ vi diệu,
Kẻ khỏi
nàn khi hiểu khi không;
Điện
thường còn khó được trông,
3154.
Huống là điện Phật dễ hòng thấy ư!
Ánh
sáng nầy năng trừ tà quái,
Trong
những khi hãm hại hiền nhơn;
Chúng
sanh từng được hộ thân,
Nhưng
đâu mấy kẻ nào từng biết ra.
Ngày lập
hội Long-Hoa tại thế,
Ánh
sáng nầy dành để cứu dân;
Cứu
qua cơn lửa bạo Tần,
Cứu
khi chuyển động âm thần khắp nơi.
Hiền
nhơn chưa dứt lời khấn nguyện,
Ánh
sáng nầy liền đến bên thân;
Lẹ
không sức lẹ nào hơn,
3166.
Chỉ trong nháy mắt xa gần tới nơi.
Phật
cho con hiểu đời sắp biến,
Để tiện
bề nhủ khuyến đó đây;
Phật
liền tay chỉ vào cây,
Thân
cây bỗng hiện rõ nay việc trần.
Nào nước
dâng, nào thân người chết,
Nào bịnh
căn, nào phép yêu ma;
Nào là
sấu bắt hùm tha,
Nào là
giặc giã cửa nhà tan hoang.
Nào
bom phá nổ vang trời đất,
Nào lửa
hồng cháy lợp khắp cùng;
Kẻ thời
ôm chiếu, ôm mùng,
3178.
Bồng con bế cái có đùm có đeo.
Con
đói khát khóc kêu đòi bữa,
Mẹ
túng cùng thắt cổ chết đi;
Cũng
còn lại có nhiều khi,
Mẹ cha
nỡ dạ ăn thì thịt con.
Kẻ đã
chết người còn thoi thóp,
Đến
các loài gia súc không còn;
Ăn
luôn củ chuối củ thơm,
Cành
cây bụi cỏ không còn lá đeo.
Lũ ruồi
lằng đánh theo hơi thúi,
Bay đầy
đồng đầy bụi kêu reo;
Nào
thây trôi tấp như bèo,
3190.
Kên kên quạ quạ ó diều mổ ăn.
Núi nổ
đá sỏi văng chồng đống,
Đất liền
khi không bỗng nứt ra;
Tự
nhiên chôn sống người ta,
Tai đầy
những tiếng khóc la kêu cầu.
Nạn
ách đến thần sầu quỉ khóc,
Từ những
nơi hang hốc đâu đâu;
Nơi
nào cũng có thảm sầu,
Nơi
nào thần chết cũng bâu kéo vào.
Ta vừa
ngó vừa lau nước mắt,
Nếu
như vầy nhơn vật còn chi;
Cúi
xin lượng cả từ bi,
3202.
Ra tay độ chúng qua khi tai nàn.
Phật rằng
hiện con đang xem đó,
Đến
ngày kia sẽ có giống y,
Đó là
cuối Hạ Nguơn kỳ,
Cũng
kêu là đại hội thi tại trần.
Qua
lúc ấy đời Tân thành lập,
Lão ấu
đồng hát khúc thanh bình;
Nhàn
an, nước trị, người minh,
Thân
không bịnh hoạn dân tình sống lâu.
Cảnh nầy
kẻ hung đâu được gặp,
Toàn
là người hiền đức tốt tươi;
Nếu ai
muốn được coi đời,
3214.
Cũng nên ăn ở theo lời kệ kinh.
Kính
Tam-bảo lo gìn Ngũ giới,
Ăn Tứ
trai thường lạy bốn phương;
Một
lòng cải ác tùng lương,
Lo bề
hiếu tử gìn đường Phật nhi.
Nhịn
được việc quấy gì khó nhịn,
Làm được
điều chơn chánh khó làm;
Việc
hiền thì rất thích ham,
Điều
hung thì dạ chẳng làm chi vui.
Thấy
việc thiện như hồi khát nước,
Nghe
điều hung như lúc điếc tai;
Biết
mình có lỗi sửa ngay,
3226.
Thấy người hữu đức hữu tài học theo.
Thực
hành được mấy điều đã nói,
Sẽ
đáng người sống nối đời sau;
Vậy
con kíp kíp mau mau,
Ra đi
khắp chốn kêu gào người tu.
Ta cúi
đầu vâng câu chỉ phán,
Phật
cho con thấy đặng sự đời;
Con
xin kể lại cho người,
May ra
người có tỉnh hồi được chăng.
Sự mầu
nhiệm vô ngằn khó tỏ,
Không
chịu tu biết thuở nào tu;
Nay
con như kẻ đã mù,
3238.
Phật cho ngó thấy còn đâu vui bằng.
Thấy nẻo
khổ, thấy đàng khoái lạc,
Cảnh
giả cùng cảnh thật xem qua;
Rõ
ràng nơi cảnh Ta-bà,
Vừa
tanh hôi cũng vừa là khổ đau.
Tuổi sống
ngắn còn bao nạn ách,
Người ở
ăn tánh cách tham gian;
Không
ai trọn hưởng thanh nhàn,
Nếu
càng lánh sớm là càng rảnh thân.
Phật rằng:
đúng như con đã nói,
Người
sớm tu sớm toại tấm thân;
Xuống
lên nơi cõi hồng trần,
3250.
Chịu đường sanh tử, chịu phần khổ lao.
Bị làn
sống nghèo giàu lôi cuốn,
Bắt đấu
tranh bắt muốn hơn thua;
Lợi
danh lo bán lo mua,
Ái
tình lo hốt lo vùa vào thân.
Đi cặp
với tâm trần ham hố,
Nào ưu
sầu tai khổ muôn trùng;
Mạng
căn như đóa phù dung,
Muốn
ham chưa thỏa kế chun vào hòm.
Nếu để
mắt mà nom đích xác,
Công
Dã Tràng xe cát biển đông;
Của tiền
nhiều lấp cạn sông,
3262.
Người yêu đứng lợp cả đồng cũng thôi.
Uổng
công đổ mồ hôi nước mắt,
Vào
tình yêu vào các lợi danh;
Chỉ
gây lấy tội vào mình,
Thân
không trường hưởng, hồn linh đọa đày.
Chi bằng
lấy những ngày trụy lạc,
Lo tìm
đường giải thoát trần ai;
Đem đời
ngắn đổi kiếp dài,
Đó là
biết dụng trí tài phải nơi.
Kẻ
thông minh hoặc người ngu dốt,
Cũng
nên tu lần chót nầy đây;
Để xem
được hội rồng mây,
3274.
Và trông cho biết phép tài thần tiên.
Kẻo bấy
lâu nghe truyền lời miệng,
Mắt
chưa trông thật chuyện nhiệm mầu;
Việc
chưa tới bảo rằng lâu,
Tới rồi
như sét ngang đầu khó toan.
Vậy
con nhớ khuyên hàng thiện tín,
Rằng
Phật không lời phỉnh ai đâu;
Hãy
mau hối cải quày đầu,
Trễ
qua cơ hội dễ đâu kiếm tìm.
Việc hiếm
có cổ kim khó gặp,
Gặp được
nhờ cùng Phật hữu duyên;
Tục
phàm được hóa Thánh Tiên,
3286.
Chúng sanh về Phật cũng nguyên hội nầy,
Rớt hố
thẳm được dây bìm sắn,
Rơi
sông sâu vớ đặng khúc phao;
Ấy là
hạnh phúc dường bao,
Há
không hoan hỷ bước vào Phật môn.
Được
người mến được hồn siêu rỗi,
Giá
quí cao gấp bội của tiền;
Một
người đạo quả đắc thiền,
Lại
còn cứu được cửu huyền siêu thăng.
Đó chẳng
khác như thoàn một chiếc,
Chở được
nhiều người vượt qua sông,
Phải
là lợi ích lớn không,
3298.
Chẳng lo tu niệm còn hòng việc chi.
Thương
quá đổi mới di cơ mật,
Khắp
nhơn gian nên thức cơn mê;
Nầy
con trong cái ao huê,
Có nhiều
hoa bỗng ủ ê mặt mày.
Nguyên
nhân bởi gái trai trong đạo,
Tu nửa
chừng vội tháo lơi ra;
Nếu
không sớm sửa lòng tà,
Hoa
xào đến rụi thì là hết trông.
Nếu ai
có được lòng quảng ái,
Khi
xem hoa đều phải châu rơi;
Ước
sao sớm thức được người,
3310.
Để hoa trở lại tốt tươi như thường.
Phật
liền chỉ vào phương gần đó,
Bảo rằng
con nên ngó xem hoa;
Đúng
như sự thật chăng là,
Hay lời
Phật nói sai ngoa với đời.
Trông
thấy hoa, nghe lời bi thiết,
Khiến
lòng ta chi xiết ngậm ngùi;
Hoa
tươi xem thấy rất vui,
Hoa
xào càng ngắm lòng ôi càng buồn.
Cái đã
khô cái đương xào úa,
Cũng
có hoa ướm nở rồi ngưng;
Đúng
như lời Phật đã phân,
3322.
Có nhiều thiện tín tinh thần đang lui;
Bỗng
nhiên ta nghẹn lời sa lệ,
Một hồi
lâu không kể ra lời;
Phật rằng:
văn vật thạnh thời,
Dễ làm
cho khắp mọi người say mê.
Cùng kẻ
quấy theo về một lối,
Nẻo tu
hành bước thối ra xa;
Đã rơi
lầm kế yêu ma,
Đáng
nên thương tiếc biết là dường bao.
Kẻ
đang lầm dễ nào đánh thức,
Bởi họ
tin rằng thật trăm phần;
Họ ngơ
lãng việc Thánh Thần,
3334.
Chỉ lo thật tại cho thân đủ đầy.
Phật
thương xót kẻ nầy vô hạng,
Họ
khác nào mắt sáng kéo mây;
Tự làm
cho trí ngất ngây,
Chánh
đường nở bỏ lại quay đường tà.
Hạng nầy
chẳng phải là một kẻ,
Mà đã
đang rất có nhiều người,
Chỉ là
một nhỏ mực thôi;
Nhưng
mà có thể lan trôi ra nhiều.
Họ là
kẻ đem nêu gương xấu,
Cho
nhiều người tùng dấu đi sai;
Vậy
con cũng khá mau tay,
3346.
Ra công chận lại bớt lây phần nào.
Tuy rằng
hoa đang xào đang úa,
Nếu ăn
năn hoa trở nên tươi;
Như
khi dầu thấm tim rồi,
Ngọn
đèn sẽ được lửa khơi mạnh liền.
Tâm với
hoa căn nguyên vốn một,
Hoa
cùng tâm khí cốt tương ưng;
Xem
hoa rõ biết tinh thần,
Đang
cơn hăng hái, hoặc cơn thục lùi.
Con
còn bắt sụt sùi cảm động,
Huống
Phật càng bi thống dường bao!
Bị sa
đọa một người nào,
3358.
Lòng buồn hơn kẻ trần lao thất tình;
Nay gần
lúc vang thinh Trời đất,
Càng
xót thương chúng mất thiện tâm;
Đời nầy
để bị nịch trầm,
Kiếp
sau đọa chốn u thâm muôn đời.
Ra tro
bụi ra nơi cây cỏ,
Trong
bùn lầy hoặc chỗ nhuốc nhơ;
Ở
trong thế giới mù mờ,
Khổ sầu
hơn tự bao giờ đã mang.
Chúng không
thấy trước đàng nguy hiểm,
Nên cứ
vui ô nhiễm hồng trần;
Thấy
người sắp bị sa chân,
3370.
Lòng từ mau đến dắt lần cho ra.
Vậy
con khá nhớ qua lời Phật,
Đi đó
đây gọi thức chúng sanh;
Không
phân cấp bực giới ranh,
Bắc
Nam đâu cũng chỉ rành việc tu.
Người
đồng loại khuyên câu nhứt thể,
Kẻ
khác nòi dạy lẽ tương thân;
Giàu
sang nên giúp cơ bần,
Quan
liêu khéo xử cho dân được nhờ.
Chớ
mưu việc đầu cơ hối lộ,
Đừng
sanh tâm lang hổ hại người;
Xử
phân ngay ngắn tốt tươi,
3382.
Đáp lời dịu ngọt khi người hỏi han.
Kẻ học
thức giúp hàng ngu dốt,
Đừng
buông lời cười cợt mỉa mai;
Những
người tuy đã lầm sai,
Có lời
xin lỗi thứ ngay cho người.
Ăn ở
đúng theo lời Hiền Thánh,
Xét
mình rồi xét hạnh của người;
Xấu xa
cùng việc tốt tươi,
Cả hai
điều đáng cho nơi học hành.
Tốt
tươi thì lưu tình bắt chước,
Xấu xa
thì biết trước lánh đi;
Trên đời
bất luận việc chi,
3394.
Cũng đều lợi ích nếu suy xét rành.
Khéo dụng
sự như anh thợ mộc,
Cây vạy
ngay đều được dùng xong;
Tức là
chuyển tội nên công,
Đổi điều
họa trở phước hồng như chơi.
Phật
liền chỉ vào nơi vồ đá,
Hiện
ra thuyền Bát Nhã lớn lao;
Hào
quang chiếu rực rỡ màu,
Nhưng
không có đáy thêm vào không mui.
Phật rằng
: thuyền ngược xuôi trên nước,
Vẫn
không chìm và được chạy mau;
Thuyền
nầy chừng đến ngày sau,
3406.
Trong khi sấm nổ nước trào dâng lên.
Nó sẽ
chạy khắp trên các nước,
Để vớt
người nhân đức hữu duyên;
Đem về
dự hội Hoa Liên,
Khỏi
nơi khổ não xa miền trầm luân.
Kẻ bạo
ác xác thân trọng trược,
Kéo
lên thuyền cũng tuộc chìm đi;
Bởi
thuyền do sức huyền vi,
Của
chư Phật tạo cứu nguy người lành.
Phật
liền chỉ vào cành bửu thọ,
Bỗng
hiện ra Ty-Hỏa-Thần-Lung;
Rất
nên đẹp đẻ hình dung,
3418.
Hào quang ngũ sắc chói cùng khắp nơi.
Phật rằng:
chừng cả trời lửa cháy,
Núi ra
tro sắt chảy thành bùn;
Tức thời
Tỵ-Hỏa-Thần-Lung,
Hiện
ra to lớn bao trùm hiền nhơn.
Khỏi
thiêu xác trong rừng lửa đỏ,
Mát mẻ
như hứng gió mùa thu;
Những
người bạo ác không tu,
Đứng
ngoài lồng phép dễ đâu được vào.
Khắp bốn
phía lửa ào phủ xác,
Thân
tiêu ra tro mạt tức thì;
Phật
dù lòng rất từ bi,
3430.
Cũng không thể cứu vô nghì bất lương.
Khi
nghiệp đến không phương đào tẩu,
Luật
trả vay khó giấu dung ai;
Vậy
con khéo dụng lời ngay,
Để
khuyên bá tánh khéo dày công tu.
Lời Phật
chẳng sai đâu chớ ngại,
Đời sắp
tàn giải đãi sao xong;
Khá
đem vàng nén bạc đồng,
Làm điều
nhơn ái trừ xong tai nàn.
Kẻ bo
bo đeo mang tiền của,
Chỉ hại
thân đâu có ích chi;
Những
phường trộm cướp gian phi,
3442.
Bức cường lấy hết rồi thì tay không.
Ân chẳng
có mang lòng ích kỷ,
Thác sẽ
làm Ngạ quỉ tanh hôi;
Phải
chăng là việc ngu đồi,
Vật
không giữ được cứ ngồi bo bo.
Vậy
con khá bảo cho đời biết,
Lo tu
mau kẻo việc không rồi;
Tới đời
đất hỡi Trời ôi!
Đông
Tây Nam Bắc ối thôi tưng bừng,
Giặc-giã
lớn chưa từng ngó thấy;
Chúng
dùng nhiều khí giới kinh thiên,
Làm
cho đất động trời nghiêng,
3454.
Sanh linh chết chóc muôn thiên khó lường.
Thây lấp
giáp Bình Dương biển lớn,
Máu
trôi đầy khắp chốn cùng nơi;
Còn
chi mạng số người đời,
Nếu
không chưởng phước khó ngồi thế gian.
Phật
thấy rõ mọi đàng hư thiệt,
Nên
dùng lời chỉ quyết chúng sanh;
Khá
tin để sớm tu hành,
Cứu
thân và được độ lành mẹ cha.
Việc sắp
cuối ngân nga sao kịp,
Phải
quyết tâm thi thiết liền khi;
Một
lòng nối chí từ bi,
3466.
Xô đùa tất cả những gì bất lương.
Nguyện
một kiếp Tây-Phương đến chốn,
Phá
chư ma trừ hỗn loạn tâm;
Quyết
không chịu kiếp luân trầm,
Dầu
sao cũng quyết Lôi Âm dựa kề.
Đã rõ
biết sự mê là khổ,
Nên phải
lo giác ngộ chơn tâm;
Lấp bằng
các hố sai lầm,
Để cho
kẻ mến người tầm học theo.
Chớ để
dạ ôm đeo việc ác,
Khiến
mọi người bài bác khinh khi;
Giá
danh hiện chẳng còn gì,
3478.
Chết rồi hồn chịu lắm khi đọa đày.
Đầu
thai cõi trần ai đau khổ,
Chịu
ngu khờ ở chỗ cơ nguy;
Từ
sanh cho đến chết đi,
Không
ngày nào được hưởng gì sướng vui.
Sống
trong cảnh nặc mùi thảm khổ,
Khiến
lắm người phun nhổ gớm ghê;
Chúng
sanh vì quá còn mê,
Chỉ lo
hiện tại quên bề vị lai.
Nay
sung sướng ngày mai khổ não,
Mối oan
khiên nghiệp báo không lầm;
Một
vay phải trả thiên trăm,
3490.
Cũng là tự đắc cho rằng khôn ngoan.
Phật
trông rõ mọi đàng chơn giả,
Rất
xót thương lòng dạ người mê;
Làm
hung tuy hiện vinh huê,
Nhưng
sau nầy chịu trăm bề khổ lao.
Sự khổ
nhục khác nào giòi tửa,
Ăn bám
đồ kẻ mửa người chê;
Càng
nhìn vào cõi trần mê,
Lòng
càng quặn thắt không hề thấy vui.
Bởi
thương chúng đang vùi bụi cát,
Lòng từ
bi rào rạc lo âu;
Cho
nên mới dụng phép mầu,
3502.
Gọi con về có dạy câu tu hành.
Chỉ
cho biết ngọn ngành thời sự,
Lành
ra sao còn dữ ra sao!
Cho
con hiểu rõ âm hao,
Đến
khi thức giấc kêu gào chúng sanh;
Nếu trễ
ắt tan tành tất cả,
Cơ biến
thiên sự đã định rồi,
Chỉ
trong một phút một hồi,
Năm
châu nhơn loại thân ngồi không yên.
Rán niệm
Phật rán hiền tâm tánh,
Ngày
hai thời cúi kính bốn phương;
Đến chừng
có đại họa ương,
3514.
Sẽ nhờ Từ lực khỏi đường thiết tha,
Phật
chẳng nói sai ngoa khá liệu;
Liệu
cho thân khỏi chịu lao lung,
Đừng
chờ đến tiếng nổ đùng,
Pháo
kia ra xác còn dùng được đâu.
Sau rốt
hết trong bầu thế giới,
Có thứ
ma tên gọi Thọ-Khâu;
Ở
trong quả đất từ lâu,
Chừng
ni nó mới bắt đầu thêm oai,
Nó có
phép biến loài biến vật;
Tánh
thường hay đố tật khắp người,
Gặp ai
trẻ đẹp tốt tươi;
3526.
Nó làm xấu xí ra người già nua.
Gặp kẻ
mạnh nó đùa cho yếu,
Gặp
tráng cường bắt chịu ốm đau;
Thấy
người yêu mến lẫn nhau,
Nó làm
chia rẽ héo xào đôi nơi.
Nó khiến
gần những người mình chán,
Nó bắt
xa những hạng mình ưa;
Nó làm
trái ngược gió mưa,
Gây
nhiều bịnh tật không chừa một ai.
Việc sắp
thành nó gây cho bại,
Đang mừng
vui nó hại buồn rầu;
Khi
người đang muốn sống lâu,
3538.
Nó làm chết yểu để sầu thân nhân.
Khiến
quan trở thành dân thất lộc,
Tướng
huờn binh chịu nhục suốt đời;
Khiến
người giàu trở tả tơi,
Hại
người nghèo đến thở hơi cuối cùng.
Nó khiến
nhớ việc không đáng nhớ,
Nó xui
quên việc khó thể quên;
Vật
nào có xác có tên,
Nó làm
cho khó vững bền dài lâu.
Ai lại
chẳng âu sầu vì nó,
Nó
không hề chừa bỏ một ai;
Còn mê
xác chất thúi khai,
3550.
Còn lòng mến tục còn ngày nó theo.
Nay nhằm
lúc nạn eo khắp chỗ,
Nó lại
càng tăng độ hoành hành;
Nó vào
trong xác chúng sanh,
Đục
mòn cho đến tan tành ruột gan.
Không
riêng kẻ thế gian bị nó,
Đến
như loài sắn cỏ côn trùng;
Cũng đều
bị nó hành hung,
Làm
cho khô héo ngắn-ngùn số căn.
Nó độc
ác vô ngằn khó kể,
Quyết
làm cho cõi thế không người;
Nó gây
lắm cuộc đổi dời,
3562.
Từ nơi thể xác đến nơi tâm hồn.
Đời bị
nó thêm dồn lắm khổ,
Chỗ có
người có nó vãng lai;
Bom
hơi súng điện tàu bay,
Không
trừ được nó chỉ quay hại người.
Ma nầy
kêu Trời ơi đất dạ,
Nó có
tài biến hóa lẹ làng;
Hóa
người để hại thế gian,
Vào
trong tâm chúng xui đàng sầu ưu.
Người
càng dụng xảo mưu chống nó,
Càng hại
thân chớ khó thắng qua;
Chỉ
phương nhứt Niệm Di-Đà,
3574.
Niệm cho đến Phật tay xoa vào đầu.
Mùi uế
trược khắp châu thân mất,
Có hào
quang phủ khắp cả mình;
Tức là
khiến nó hãi kinh,
Dang
ra không dám đến rình bên thân.
Trừ được
nó chắc phần đắc đạo,
Sẽ thắng
luôn tà giáo chư ma;
Được
vào tận hội Long-Hoa,
Hết
già hóa trẻ vốn là nơi đây.
Nước
đã trải nhiều ngày bợn đục,
Cố
lóng hoài rốt cuộc cũng trong;
Quen
lâu thói xấu mặc lòng,
3586.
Quyết tâm trừ mãi ắt xong có ngày.
Đã biết
rối mau tay gỡ rối,
Không
sớm thì muộn mối cũng suôn;
Nghiệp
trần vay tạo luồng tuông,
Khéo
chừa trả sẽ tròn vuông ngày nào.
Trước
không tính để sau khó liệu,
Ngày cứ
đi khó kéo ngược dòng,
Cuộc đời
nào khác pháo bông;
Cháy
lên chốc lát rồi hòng tắt đi.
Cảnh
giả tạm có gì đáng mến,
Hãy
mau tu kịp đến hội lành;
Nay
không lánh trược tìm thanh,
3598. Ắt
không còn dịp để mình hồi tâm.
Phật e
chúng sa lầm đường khổ,
Nên
xưa nay dạy dỗ không ngừng;
Nào cơ
chữa trị bịnh nhân,
Nào là
mượn lấy xác trần giáo khuyên.
Kệ
trên không, diệu huyền trong nước,
Dắt hồn
linh trong cuộc mộng du;
Có nhiều
phương tiện dạy tu,
Hằng
hà không thể đếm thu cho cùng.
Vậy
con cũng khéo dùng phương tiện,
Để dắt
người khỏi bến sông mê;
Con
nên lo liệu vẹn bề,
3610.
Để mà có sớm trở về Kim-sơn.
Ta cúi
mình xin vâng ý Phật,
Nguyện
ra tay dẫn dắt nhơn sanh;
Đem lời
trong giấc mộng lành,
Kể cho
người biết ngọn ngành giả chơn.
Tuy lời
nói trong cơn đang ngủ,
Nhưng
chứa đầy ý tứ diệu mầu;
Nào là
rõ việc Kim lâu,
Nào là
ao báu sen màu tốt tươi.
Nào gậy
phép chói ngời ánh sáng,
Nào
gươm linh nhấp nháng hào quang;
Lại
thêm có bát nhã thoàn,
3622.
Có cành lau phép quá giang rất mầu.
Còn lại
có những câu mật chú,
Trừ loạn
tâm, trừ thú ác hung;
Niệm
câu đại lực Thần-cung,
Bắn ra
tất hiện muôn trùng tên bay,
Mỗi
mũi mỗi găm loài ác thú,
Tuy giản
đơn có đủ hiệu năng,
Trăm lần
trăm trúng chắc rằng,
Lời
vàng của Phật dạy răn không lầm.
Con
nguyện để vào tâm không sót,
Quyết
kể ra cho nốt người nghe;
Nếu
tin thì lánh đường mê,
3634.
Không tin cũng mặc không hề giận ai.
Nguyện
đem một kiếp nầy độ thế,
Dù tan
xương chẳng nệ chi thân;
Miễn
làm cho khắp chúng dân,
Biết
theo nẻo chánh lánh thân đường tà.
Phật
dùng lấy đóa hoa mầu nhiệm,
Chuyển
hồn con và điểm lấy danh;
Ơn nầy
chất mấy muôn thành,
Đền
cho vạn kiếp lai sanh không rồi.
Phật
liền tay xoa nơi tụ đảnh,
Bảo rằng:
con chớ tánh phàm phu;
Chữ ân
của hạng sĩ nhu,
3646.
Lấy câu nghĩa cả để âu đáp đền.
Nếu
con giúp cho nên chánh đạo,
Thì ân
nầy sẽ báo đền xong;
Có chi
đến phải bận lòng,
Như
người dương thế rao rong bên ngoài.
Đời sắp
rốt nay mai không đợi,
Con
mau lo kêu gọi chúng sanh;
Phút
qua là phút tan tành,
Việc
nay lòng chớ để dành ngày sau.
Khi
con đến kêu gào bá tánh,
Gặp
chông gai là cảnh rất thường;
Lòng
nên đầy đủ can cường,
3658.
Đừng lui trước cảnh tai ương phúc nào.
Con mạnh
tiến giúp vào người tiến,
Khéo
làm cho sớm hiển đạo mầu;
Bất kỳ
con đến nơi đâu,
Luôn
trong tầm mắt Phật thâu biết liền.
Độ
sanh chúng khắp miền thế giới,
Chớ
không riêng một khối một nơi;
Tùy cơ
dù phải xa vời,
Đừng
buồn trong lúc ly nơi quê nhà.
Đi
theo chữ Ma-ha Bát-nhã,
Thân
đó đây dày dã chớ nao;
Mạng
người quí giá dường nào,
3670.
Thân mình chớ quản ra vào chông gai.
Gặp
lúc phải thân trai hóa gái,
Cũng
nhiều khi giả dại qua truông;
Đủ
phương ứng biến chiều luồn,
Để mà
thức được người đang sai lầm.
Chớ ngại
tiếng thì thầm chế nhạo,
Miễn
khai thông cửa đạo đó đây;
Cơ
nguy sắp đến cận ngày,
Vậy
con cần phải ra tay giúp người.
Phật
phương tiện dùng nơi bí pháp,
Gọi hồn
con trong lúc đang say;
Chỉ
rành sự thế nay mai,
3682.
Cho con biết để gọi ngay người đời.
Tu cho
kịp cơ trời biến đổi,
Một đời
tu được rỗi muôn thu;
Bây giờ
nếu chẳng chịu tu,
Sau dầu
hối tiếc sự âu muộn màng.
Phật
liền phóng hào quang chói rực,
Tay cầm
lên một bát nước hoa,
Vừa cười
vừa sối vào ta;
Ta liền
cúi lạy, tiếng gà vừa nghe.
Mắt liền
mở không dè nằm mộng,
Mùi
hương còn dư đọng thơm tho;
Những
lời Phật đã dạy cho,
3694.
Nhớ ra không sót và lo vô cùng.
Và từ ấy
khắp vùng đây đó,
Thường
đến lui cạn tỏ đạo mầu;
Nắng
mưa nào quản chi đâu,
Hao
hơi tổn sức chẳng câu than phiền.
Thể lời
Phật cứ khuyên tu mãi,
Miễn
cho người hối cải là hơn;
Nay vì
chưa được thuận cơn,
Nên ta
phải tạm tách chơn nước ngoài.
Giữa
đường bỗng chia tay đôi ngả,
Ngày
như đêm lòng dạ xốn xang;
Nhưng
đâu là cũng thế gian,
3706.
Việc tu có thể bủa tràn khắp nơi.
Không
riêng độ một người một chỗ,
Mà vẫn
lo giác ngộ bốn phương;
Chóng
lo đạo mở rộng đường,
Khắp
người thế giới biết nương Phật- Đài.
Ước
quê nhà gái trai lớn nhỏ,
Việc
tu hành chớ có lãng xao;
Tuy rằng
xa cách mặt nhau,
Nhưng
lòng đừng một phút nào chia ly.
E việc
thế còn nghi chưa rõ,
Cho
nên ta đem tỏ chuyện nầy;
Trẻ
già nhớ đọc nơi đây,
3718.
Sẽ tường mọi cuộc chuyển xoay thế nào.
Khi biết
được rồi mau tu tỉnh,
Đừng kể
chi hòan cảnh lâu mau;
Tâm hồn
khuya sớm chùi lau,
Cố làm
sạch các điều nào bợn nhơ.
Giảng
bốn cuốn chớ ngơ dạ đọc,
Tám điều
răn là gốc khá gìn;
Mỗi
câu mỗi giống như in,
Lấy mười
dữ đổi mười lành ngày đêm.
Sự tu
tiến càng thêm chớ bớt,
Biết
thương nhau chia sớt ngọt bùi;
Dù đời
có lắm ngược xuôi,
3730.
Khuyên nam nữ cũng cứ vui tu hành.
Rán chịu
khó mới thành được việc,
Đem
thân phàm đổi kiếp Thánh Tiên;
Xin
nên phát một lòng nguyền,
Quyết
tu hành đến khi thiềng mới thôi.
Hiện
xác ta đang ngồi đất khách,
Tâm hồn
không xa cách quê nhà;
Những
người kính mộ Phật gia,
Lúc
nào cũng có hồn ta đứng gần.
Người
trong sạch ta mừng không ngớt,
Khi
nhuốc nhơ ta rất lo buồn;
Mong
người uống nước nhớ nguồn,
3742.
Bốn ân khá đáp cho vuông phận mình.
Bớt xa
xí để dành tiền bạc,
Giúp
cho người đói khát cần lao;
Tiếng
thơm và để phước sau,
Cho
con cháu hưởng cho cao hồn mình.
Đừng
ích kỷ chớ tình khe khắc,
Gặp
tai nàn của mất không ơn;
Biết
xài tiền đúng nghĩa nhơn,
Ấy là
người biết sống cơn ly loàn.
Bao
nhiêu việc tham gian vô lý,
Chẳng
ai ưa nên trị lấy thân;
Giữa
người đồng đạo xa gần,
3754.
Thứ nhau khi lỗi nhắc chừng khi mê.
Đã lắm
việc vụng về vô lối,
Do người
mưu riêng lợi gây ra;
Khiến
cho miệng thế gần xa,
Đầy lời
kêu ngạo há là không nghe.
Việc
chi cũng phải dè dặt kỹ,
Để
tránh điều nhục sỉ tông môn;
Thiệt
tu qui luật phải tôn,
Giả vờ
khi ló đuôi chồn khó coi.
Ngày
tháng lẹ như thoi như dệt,
Chẳng
bao lâu kế chết đến nơi;
Rán
treo gương tốt để đời,
3766.
Chớ lưu tiếng xấu cho người cười chê.
Xác hải
ngoại, hồn quê đất tổ,
Lòng
không quên tưởng nhớ trẻ già;
Khi
nghe việc quấy xảy ra,
Quên
ăn quên ngủ, lòng ta như dần.
Nay sự
thế đã gần bên vách,
Thân
ta còn ở cách phương xa;
Nghĩ rằng
không thể dần-dà,
Kết lời
Phật dạy viết ra quyển nầy.
Để
thay mặt cho đây về trước,
Gặp đồng
môn trong nước xa gần;
Nhớ cầm
lên đọc nhiều lần,
3778.
Nghĩa sâu cạn khá tách phân kỹ càng.
Việc đạo
lý nên toan liệu gấp,
Ngày lẫn
đêm tu tập cho cần;
Bao
nhiêu nghiệp vướng vào thân,
Nhứt
tâm quyết rửa một lần cho tiêu.
Ta còn
quên một điều Phật dạy,
Nếu có
người trai gái cõi trần;
Trước
khi đổi vật đổi nhân,
Chỉ
trong một phút không cần chi lâu.
Ngồi
hoặc đứng cách nào cũng đặng,
Chắp
tay và ngó thẳng phương Tây;
Lòng
không móng việc đó đây,
3790.
A-Di-Đà Phật niệm rày một câu.
Thì
cũng được nạn sầu thoát khỏi,
Nhờ
hào quang Phật rọi vào thân;
Tiêu
ma tiêu các chướng trần,
Khác
nào cỏ úa lửa phừng cháy qua.
Chỉ một
niệm cũng là khỏi nạn,
Huống
chi là niệm đặng dài lâu;
Dù cho
muôn thảm ngàn sầu,
Cũng
tan tất cả như bầu không trung.
Khuyên
đồng đạo khắp vùng đây đó,
Khá
ghi lòng chớ có bỏ qua;
Nhớ
câu nhứt cú Di Đà,
3802.
Bất lao đàn chỉ đáo mà Tây-Phương.
Vả lại
máy âm dương thay đổi,
Trận
cuồng phong sẽ thổi nay mai;
Nếu
không chứa đức sâu dầy,
Khó
qua đại nạn trong ngày biến thiên.
Thanh-Sĩ
một lời khuyên cùng cuối,
Hiện
thân còn đang gởi nước ngoài;
Quê
nhà già trẻ gái trai,
3810.
Cũng nên nghe đến đêm ngày lo tu.
Viết
xong ngày 15-7-1958
Ghi
Chú: (của nhóm Tái Bản)
(1)‘
huệ chúc’: (Hán Việt) đuốc huệ
(2)‘nghiệp
hoặc’:(Hán Việt) nghiệp mê lầm.
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
Đăng nhận xét