CHÚ GIẢI SẤM GIẢNG QUYỂN 1 KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM
Chú Giải từ câu 105 – 208 (Quyển I KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM)
CHÁNH VĂN
105. “Bá gia phải rán làm lành,
Niệm-Phật cho rành đặng thấy
Thần-Tiên.
Thương đời trong dạ chẳng yên,
108. Khắp trong lê-thứ thảm phiền từ
đây”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 105 đến câu 108):
-Đoạn nầy Đức Thầy khuyên nhủ khắp mọi người
phải rán làm lành lánh dữ và chuyên tâm niệm Phật một cách chí thành chí thật;
tức phải nhứt tâm tha thiết trì niệm 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì đặng kết
quả cao quý, luôn được Thánh Thần hộ trì, kiến diện Phật Tiên trong kiếp hiện
tiền và tương lai được an vui nơi Lạc cảnh.
-Bởi lòng Đức Giáo Chủ quá thương xót sanh
linh từ đây phải gánh chịu chuyện đau buồn sầu thảm, nên Ngài không ngớt kêu
gọi bá tánh tu hành.
CHÚ THÍCH:
PHẢI RÁN LÀM LÀNH: Làm lành là tu hành những
việc từ thiện phước nhân đối với cả muôn loài chúng sanh. Việc làm lành ai cũng
biết là cao quý, nhưng thiệt thi thì ít ai chịu, cho nên Đức Thầy mới khuyên
chúng ta phải rán. Song muốn làm lành cho trọn vẹn, hành giả cần phải tránh các
điều dữ tức là vừa hành thiện và vừa ngăn ác.
Kinh Minh Thánh đã bảo:
“Chung thân hành thiện,
Thiện du bất túc,
Nhứt nhựt hành ác,
Ác tự hữu dư”.
(Trọn đời làm lành, lành còn chưa đủ; một ngày
làm dữ, dữ bèn có dư).
Đức Thầy nay cũng dạy:“Làm hết các việc
từ thiện, tránh tất cả các điều độc ác…”.
Tóm lại, người muốn làm lành cho trọn vẹn thì
phải đáp Tứ Ân (hành Thiện) và chừa Thập Ác (ngăn Ác).
NIỆM PHẬT CHO RÀNH ĐẶNG THẤY THẦN TIÊN: Niệm Phật là tưởng nhớ
danh hiệu Phật, tức là tưởng nhớ 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Theo các Kinh điển cho biết:“Niệm một danh
hiệu Đức Phật A Di Đà, tức là niệm hết danh hiệu của chư Phật ở mười phương”.
CHO RÀNH: Là niệm Phật đúng phương
pháp để được kết quả như ý. Vậy niệm như thế nào là đúng phương pháp ? Về
phương pháp niệm Phật có nhiều cách, (Trì danh niệm Phật, Tham cứu niệm Phật,
Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật,…) nhưng tựu trung
vào các điểm như sau:
1/- Tiếng niệm Phật thầm trong Tâm mà tai vẫn
nghe rõ ràng từ chữ một.
2/- Tập trung tư tưởng vào chỗ niệm.
3/- Tha thiết thành khẩn như Đức Phật có ngay
trước mặt để mình không dám phóng tâm nghĩ sái.
4/- Không để ý tưởng nào khác xen vào.
Niệm Phật được như thế gọi là niệm rành và đó
là niệm Phật tam muội (chánh định).
Như Ngài U Khuê Tổ sư đã nói:“Phương pháp
niệm Phật Tam muội (Chánh định) là người niệm Phật lấy tâm duyên Phật, lấy Phật
buộc tâm, niệm niệm nối liền, không hề gián đoạn. Lúc ấy nội tâm không dấy
khởi, ngoại cảnh không xen vào, xoay vòng không hở. Trước sau như một. Chính
không thọ các Thọ mà lại được Chánh Thọ, thế nên gọi là Niệm Phật Tam muội”.
Hiện nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:“Còn
phương pháp niệm Phật là để trừ cái Vọng Niệm của chúng sanh, vì trong tâm của
chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt, vì cái Vọng Niệm về việc thế trần ấy mà
không cho cõi lòng an lạc, phiền não ngăn che, Chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ
thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh,
mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng sanh cho đến khi nhất tâm bất loạn,
chừng ấy vọng niệm chúng sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu
mà nảy sanh ra được ?
Nên niệm Phật là niệm cái bản
lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và
chẳng còn trược nhiễm trần ai.
Cần tu thập thiện thì sự niệm
Phật mới có hiệu quả. Tu Thập Thiện, dứt được Thập Ác (cũng gọi là Tịnh Tam
Nghiệp) ( Bài Chư Phật Có Bốn Đại Đức ).
Đức Thầy dạy nếu ai chí tâm niệm Phật
được rành thì thấy được “Bản Lai Thanh Tịnh” và đắc Đạo tại
thế, (thấy được Phật Tiên Tự Tánh, tức Tâm mình đồng hòa với Phật tánh) hoặc
đến lúc lâm chung đặng vãng sanh về cõi Cực lạc. Như Ngài đã nói:
“Ao sen báu Tây phương đua nở,
Chờ chúng sanh niệm Phật chí
tâm”
(Khuyến Thiện Q.5)
Chẳng thế mà ngày kiến tạo đời Thượng ngươn
Thánh đức tới đây cũng thấy được Phật, Tiên, Thần, Thánh như Ngài từng dạy:
“Niệm Di Đà rán niệm cho rành,
Thì mới được sống coi Tiên
Thánh”.
THẢM PHIỀN: Cảnh thảm khổ đau buồn
nhiều lắm…Nhà thơ Cao Bá Nhạ đã xác nhận:
“Phút nữa khắc muôn ngàn thê thảm,
Trong một mình bảy tám biệt ly”.
Đức Thầy từng giục thúc nhân sanh:
“Nhắc ra quá thảm quá phiền,
Bể khổ gần miền mà chẳng chịu tu”.
(Sấm Giảng Q.1)
CHÁNH VĂN
109. “Ngày nay thế-cuộc đổi xây,
Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu
cho.
Mảng theo danh-lợi ốm-o,
112. Sẵn của hét hò đứa ở người ăn.
Đừng khi nhà lá một căn,
Mà biết niệm Phật sau bằng bạc
muôn.
Giàu sang như nước trên nguồn,
116. Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 109 đến câu 116):
-Bởi cuộc thế đổi thay không ngừng, hễ hết lúc
thái bình thì tới chiến tranh loạn lạc; bấy giờ bá tánh phải sống cảnh điêu
linh thống khổ. Đức Thầy kêu gọi mọi người, sống thức tỉnh niệm Phật trời, tu
thân hành Đạo thì sau nầy được Ngài cứu độ cho, Ngài cảm thương cho những kẻ
say mê vật chất, tranh đấu lợi danh, khiến lao tâm mệt xác; ỷ mình tiền của
nhiều xài xỉ tôi tớ, khinh khi kẻ nghèo hèn, phạm tội Ỷ Ngôn ngày thêm chồng
chất.
-Còn những người biết lo niệm Phật làm lành,
giữ lòng thanh bạch hiện giờ tuy nghèo khổ, nhưng sau nầy được kết quả cao quý
hơn kẻ có tiền ngàn bạc vạn. Trái lại, có hạng giàu sang chuyên sống nghề gian
xảo
“Của dương thế góp tom bảo thủ”,(Khuyến Thiện Q.5) rồi một ngày
kia bao nhiêu tiền của sự nghiệp ấy, đều bị chiến tranh giặc cướp làm tiêu tan
trong tức khắc.
CHÚ THÍCH:
THẾ CUỘC ĐỔI XÂY: Cuộc đời luôn thay đổi
không ngừng nghỉ, ý nói cảnh đời diễn biến theo định luật Thành, Trụ, Hoại,
Không và bi, hoan, ly, hiệp; nó xoay vòng rất mau lẹ.
Đức Thầy có câu:
“Mười hai tháng mà còn mau tới,
Thì tuồng đời cũng chóng đổi
thay”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
MẢNG: Mãi, ham mê mải miết.
Ca dao có câu:
“Vai mang bầu rượu chiếc nem,
Mảng vui quên hết lời em dặn dò”.
CHÁNH VĂN
117. “Cửu-Huyền Thất-Tổ chẳng thờ,
Để thờ những Đạo ngọn cờ trắng
phau.
Dương-trần bụng dạ nhiều màu,
120. Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng
nghĩ suy.
Lời xưa người cổ còn ghi,
Những việc lạ kỳ nay có hay
chưa ?
Chưa là với kẻ chẳng ưa,
124. Chớ người tâm đạo biết thừa tới
đâu”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 117 đến câu 124):
-Đoạn giảng trên ý nói khi người Pháp đặt chơn
đến xứ ta, có số người chạy theo bưng bợ chúng, đua đòi tập nhiễm lối sống văn
vật và theo đường đạo ngoại lai; vội quên đi phong tục cổ truyền của Ông Cha ta
từ trước. Đức Thầy thường cảnh giác hạng người ấy qua những câu:
“Con người có Tổ có Tông,
Học hay chữ nghĩa sao không
phượng thờ.
Hiếu trung chuyện tích sờ sờ,
Người đời phải biết phượng thờ
mẹ cha”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)
-Lại có số người sống tham tàn bạo ác, lòng dạ
thay đổi khôn lường. Đức Thầy chỉ cho thấy cảnh lầm than máu đổ bên đất Trung
Hoa, để nhắc nhở họ nhớ lời tiên tri của cụ Trạng Trình và Đức Phật Thầy Tây An
thuở xưa, nay hiện cảnh có đúng không ?
Vả lại, hạng người không ưa đạo đức thì chẳng
tin lời Phật Thánh, bởi thành kiến cố chấp lâu đời:
“Màn vô minh che mờ căn trí”
Thì bảo sao họ không:
“Nên thường khi nhận ngụy làm
chơn”.
(Khuyến Thiện Q.5)
-Còn hạng người có lòng Đạo đức, chẳng những
họ thừa biết trạng huống đau thương hiện tại mà còn nhận rõ con đường thoát ly
cảnh ấy, bởi nhờ lời giác tỉnh của Đức Thầy:
“Lui chơn
ra khỏi cho mau,
Tìm trong
lánh đục tẩu đào mới ngoan”.
(Thiên Lý
Ca)
CHÚ THÍCH:
CỬU HUYỀN
THẤT TỔ: Thành ngữ chỉ cho Ông Bà Cha Mẹ từ vô
lượng kiếp đến giờ.
CỬU HUYỀN: Theo Nho giáo (Hán học) thì Cửu huyền là Cửu tộc,
gồm có: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng, Huyền. Có nghĩa: trên mình bốn
bực là ông Sơ, ông Cố, ông Nội, Cha, giữa là mình và dưới mình bốn bực là Con,
Cháu, cháu Chắt, cháu Chít.
Xưa, đời
Hạ Võ bên Tàu có đúc 9 cái đỉnh bằng đồng để thờ Tổ Tiên tộc họ. Trào nhà
Nguyễn Việt Nam ta cũng có tạo ra cửu đỉnh đặt tại nhà Thái Miếu, cũng ý để
tưởng nhớ Tổ Tiên nòi giống. Song nên nhớ là thờ lạy bốn bực trên đã qua đời,
còn sự cứu độ và liên đới trách nhiệm thì cả luôn bốn cấp dưới.
THẤT TỔ: Theo Phật giáo (Phật học) thì Thất Tổ là Tổ Tông
bảy đời, do chữ “Thất Thế Phụ Mẫu”. có nghĩa là mỗi lần sanh ra một xác thân
đều có Tổ Tiên cha mẹ, mà bảy đời như vậy gọi là “Tổ Tông bảy đời”. Theo phong
tục ở Ấn Độ, con số 7 là con số tượng trưng cho số nhiều (vô lượng). Bởi từ vô
thỉ tới giờ con người chết đi rồi sanh lại không biết bao nhiêu lần, cho nên
Thất Tổ là chỉ cho ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp.
Đức Thầy
đã bảo:
“Chừng nào
đắc được lục thông,
Vớt hồn
cha mẹ Tổ Tông bảy đời”
(Cho Ông
Cò Tàu Hảo)
Căn cứ
theo hai lý giải trên, tựu trung”Cửu huyền Thất tổ” là một thành ngữ ghép cả
hai từ ngữ Cửu Huyền (Hán học) và Thất Tổ (Phật học). Ban sơ là tiếng cầu chúc
lẫn nhau (chúc cho Cửu Huyền Thất Tổ Nội Ngoại), sau thành thói quen, nên dùng
làm thành ngữ chỉ chung cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
“Phụ mẫu
thâm ân vô lượng kiếp”.
(Mượn Cây
Đuốc Huệ)
Và:
“Đầu cúi
lạy Cửu huyền Thất tổ,
Ngõ đáo ơn
báo bổ sanh thành”.
(Bài
Nguyện Trước Bàn Thờ Ông Bà)
ĐẠO CỜ
TRẮNG: Chỉ cho giặc Pháp đến xâm lăng nước ta.
Các nhà yêu nước thời Nguyễn (1862) gọi quân giặc Tây Âu là “Đàn Bạch
Quỷ”(người da trắng) qua hai câu thơ:
“Ngày rằm
năm Dậu tháng giêng,
Có Đàn
Bạch Quỷ nó liền bủa giăng”.
Và trong
12 câu thơ ca ngợi tinh thần chống Pháp của Bình Tây Đại Nguyên Soái (Trương
Công Định) cụ Đồ Chiểu có viết:
“Dấu đạn
hỡi rêm tàu Bạch Quỷ,
Hươi gươm
thêm rạng vẻ Huỳnh Môn”.
Bởi chúng
vừa truyền Đạo (Gia Tô) vừa đánh cướp nước ta. Đạo ấy chủ trương không thờ Tổ
tiên cha mẹ. Đây chỉ cho những người chạy theo Pháp vong ân bội nghĩa Tổ tiên
nòi giống. Giảng xưa thuộc tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, từng kêu gọi vạn dân:
“Đạo nhà
chẳng tưởng, tưởng Đạo xa,
Đạo gốc
Nam bang, Đạo nước nhà,
Đạo của
Phật Thầy truyền kim cổ,
Đạo Trung,
Đạo Hiếu, Đạo nhơn hòa”.
Hoặc là:
“Đạo nhà
như đám mưa ngâu,
Rưới mát trần
thế biển sầu tiêu tan.
Theo chi
những Đạo xa ngàn,
Không cha,
không Chúa, không đàng siêu thăng.
Các con
hãy sớm ăn năn,
Đạo nào
không gốc, Đạo xằng con ơi !
Đạo nào dụ
dỗ ngoài môi,
Không
đường giải thoát con thôi cho rồi.
Đạo nào
chẳng tưởng Chúa tôi,
Cửu Huyền
chẳng tưởng, Đạo tồi lắm con.
Hiếu Trung rán giữ cho tròn,
Ngay Cha thảo Chúa thì còn xác thân”.
BỤNG DẠ NHIỀU MÀU: Lòng người thường thay
đen đổi trắng, thật khó mà lường được. Đây chỉ cho hạng người gian xảo không
lòng trung thực.
Đức Thầy từng nói:
“Dạ hiểm sâu không thước đo
lường,
Dốc phá hoại đường ngay bôi lẽ
thẳng”.
(Trao Lời Cùng Ông Táo)
THẤY CẢNH BÊN TÀU: Cảnh Trung Hoa bị quân đội
Nhựt tràn sang đánh phá, lúc bấy giờ (1939) dân chúng nước Tàu phải chịu sự
chết chóc đói đau thảm thiết. Đức Thầy không ngớt kêu gọi nhân dân Việt Nam
nhất là miền Bắc:
“Bắc kỳ, Trung Quốc giáp ranh,
Sao không xem đó tu hành hiền
lương”
(Để Chơn Đất Bắc)
NGƯỜI CỔ: Do chữ Cổ nhân, tức là
người đời xưa. Người quá vãng cách từ một thế kỷ (100 năm) trở về trước thường
gọi là người xưa. Cổ nhân ở đây chỉ cho cụ Trạng Trình và Đức Phật Thầy Tây An.
Bởi hai vị nầy đều có tiên báo trạng huống hiện nay, tất cả mọi chuyện đều xảy
ra không sai một.
NHỮNG VIỆC LẠ KỲ: Việc lạ lùng chưa từng
thấy. Những việc đó trong các Sấm truyền của người xưa đề cập đến rất nhiều,
nhưng ở đây chúng tôi nêu lên một ít việc đã diễn ra để làm chứng cứ cho việc
sắp tới:
1.-Gốc mục lên chồi: Sấm
truyền về Đức Phật Thầy có nói:
“Chừng nào gốc mục lên chồi,
Ta vưng sắc lịnh tái hồi trần gian”.
Đó là lời di truyền của Đức Phật Thầy.
Tại chùa Tây An Cổ Tự xã Long Kiến (An Giang)
có cây dầu trồng trước sân chùa vào năm 1856 (trồng trước khi Ngài viên tịch).
Đến năm 1918 người ta đốn để sửa chùa, gốc mục lần lần. Đến năm 1939, Đức Giáo
Chủ PGHH khai Đạo thì nơi gốc dầu ấy mọc lên cái chồi cao 7 tấc, từ trước tới
giờ không ai nghe nói loại dầu bị chặt sát gốc mà còn đâm chồi nảy tược được
bao giờ. Khi thấy cái chồi dầu mọc ngay gốc cũ người ta mới bươi thử thì thấy
gốc dầu ấy có ba cái rễ mà hai cái đã mục chỉ còn một cái rễ còn tươi nên đâm
lên một cái chồi như thế. Từ đó bá tánh thập phương mỗi khi đến viếng chùa Tây
An Cổ Tự đều có ra chiêm ngưỡng cái chồi dầu đã ứng nghiệm ấy.
2.-Tàu chạy trên mây; ghe đi khỏi chèo:
“Ngày sau tàu chạy trên mây,
Dưới sông thương mãi ghe đi khỏi chèo”.
(Sấm Truyền Về Đức Phật Thầy)
Đức Phật Thầy tiên tri lời nầy trước năm Bính
Thìn (1856). Đến mùa hè năm 1867 (trên 11 năm), khi người Pháp hoàn toàn chiếm
trọn lãnh thổ Việt Nam; chừng đó người ta mới thấy được tàu chạy trên mây (phi
cơ) và ghe đi khỏi chèo (tàu) mà nước ta trước kia chưa bao giờ có phi cơ và
tàu.
3.-Lúa mọc trên chì; voi đi trên giấy:
“Chừng nào lúa mọc trên chì,
Voi đi trên giấy tới kỳ đông chu
(Sấm Trạng Trình).
Cụ Trạng Trình (1491-1585) tiên tri việc trên.
Đến thời Ngô Đình Diệm (1954-1963) và Nguyễn Văn Thiệu (1966-1975) lên nắm
chánh quyền, có làm ra thứ bạc bằng chì, có hình bông lúa lộ ra và loại bạc
giấy có hình con voi. Thật ứng nghiệm với câu “Lúa mọc trên
chì, voi đi trên giấy” rất đúng với thời kỳ
chiến tranh liên tiếp.
“Gốc mục lên chồi, tàu chạy trên mây, ghe
đi khỏi chèo, lúa mọc trên chì và voi đi trên giấy” quả là
một điều rất nên kỳ lạ mà người nước ta thuở đó không ai có thể tin là có được,
nhưng các sự việc ấy thời gian sau đều xảy ra đúng y như thật.
NGƯỜI TÂM ĐẠO: Người có lòng hiền lành.
Đạo đức và tin tưởng Phật trời, mọi việc đều thi thố theo con đường ngay chánh
sáng suốt.
Đức Thầy có câu:
“Ai người tâm Đạo thấy càng
hay”.
(bài Mặc Tình Ai)
CHÁNH VĂN
125. “Bá-gia mau kíp lo âu,
Để sau đối đầu chẳng đặng toàn
thây.
Việc đời nói riết thêm nhây,
128. Nếu muốn làm Thầy phải khổ phải
lao.
Mèo kêu bá tánh lao-xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn
ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
132. Khắp trong trần-hạ nhiều bề
gian-lao.
Khỉ kia cũng bị xáo-xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới
ngưng.
Nói ra nước mắt rưng-rưng,
136. Điên biểu dân đừng làm dữ làm
hung”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 125 đến câu 136):
-Đức Thầy nêu lên định luật nhân quả để thức
tỉnh bá gia sớm quày đầu hướng thiện; nếu ai còn tiếp tục con đường tội ác, e
cho đến cơ tận diệt khó mà bảo tồn thân mạng. Bởi có trách nhiệm dạy dỗ nhân
sanh, nên Đức Giáo Chủ chẳng ngại sự gian khổ; mặc tình bá tánh có chịu nghe
hay không, Ngài vẫn tiếp tục khuyên tu mãi mãi.
-Ngài có tiên tri cho mọi người được biết khởi
đầu cuộc Đệ nhị Thế chiến từ năm Kỷ Mão (1939) (Mèo kêu bá
tánh lao xao), cho đến khi hai quả bom nguyên tử của Đồng Minh rơi xuống
đất Nhựt, khiến bao nhiêu lầu đài và hằng triệu con người bị thiệt hại, để chấm
dứt cuộc chiến vào mùa Thu năm Ất Dậu (1945), (Canh khuya gà
gáy máu đào mới ngưng), thật không sai một mảy.
-Vì lòng quá thương xót sanh linh, khó ngăn
giọt lệ nên Đức Thầy không ngớt kêu gọi vạn dân sớm gieo giống lành, xa đường
tội ác.
CHÚ THÍCH:
LO ÂU: Lo sợ, lo liệu.
“Thân ta, ta phải lo âu”.(Truyện Kiều)
Đức Thầy có câu:
“Nợ thế âu toan tròn nợ thế,
Đường tu sớm liệu vẹn đường tu”.
(Tỉnh Giấc Mê)
ĐỐI ĐẦU: Kình chống, đương đầu,
cũng có nghĩa đến nơi, đến đầu cùng, đến lúc kết thúc (việc đã đáo đầu).
Ở đây ý nói người làm ác nếu không sớm cải sửa
thì đến lúc cuối cùng phải gặt lấy quả khổ.
Kinh Minh Thánh có câu:
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Cao phi viễn tẩu giả nan tàng”.
(Việc làm lành hay dữ, đối đầu đều có trả, dầu
cao bay xa chạy cũng không trốn đặng).
Cũng như con gà ăn gạo chung quanh cối xay,
giáp vòng rồi đụng lại chỗ đầu mối.
“Làm ác đức nhiều điều quanh
quẩn,
Như gà cồ ăn bẩn cối xay”.
(Giác Mê Tâm Kệ)
NÓI RIẾT THÊM NHÂY: Cách nói dai dẳng, nói
nhiều lần, nhiều việc không dứt. Đây vì ý muốn chúng sanh thức tỉnh nên Đức
Thầy phải nói hoài nói mãi.
LAO XAO: Ồn ào lộn xộn, ý chỉ cảnh
chiến tranh loạn lạc, cảnh chạy giặc.
“Phút nghe tiếng nói trên rừng lao xao”.(?)
CHỈN GHÊ: Chỉn là vốn, là rất (tiếng
trợ từ); Ghê là gớm, tởm, sợ. Chỉn ghê là vốn rất ghê sợ.
“Đạo trời báo phục chỉn ghê”.(Truyện Kiều)
Đức Thầy cũng nói:
“Thấy đời mê muội lầm than,
Ăn bạ nói càn tội lỗi chỉn ghê”.
(Sấm Giảng Q.1)
GIAN LAO: Khó nhọc vất vả.
XÁO XÀO: Rầy rà, xung đột làm rối
loạn. Ở đây chỉ cho cảnh giặc loạn, chết chóc chẳng yên ổn.
CANH KHUYA: Một đêm có năm canh, mà canh
khuya chỉ cho hai phần ba đêm, tức là khoảng canh tư. Câu “Canh khuya gà gáy
máu đào mới ngưng” là chỉ khoảng tháng Tám năm Ất Dậu (1945) chấm dứt Đệ nhị
Thế chiến, thế giới tạm được thái bình, ngưng cuộc đổ máu.
CHÁNH VĂN
137. “Việc đời nói chẳng có cùng,
Đến sau mới biết đây dùng kế
hay.
Bây giờ mắc việc tà tây,
140. Nên mới làm vầy cho khỏi
ngại-nghi.
Thiên cơ số mạng biết tri,
Mà sao chẳng chịu chạy đi cho
rồi ?
Những người giả đạo bồi-hồi,
144. Còn chi linh-thính mà ngồi
mà nghe”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 137 tới câu 144):
-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ cho biết việc thế gian
không thể nào nói hết cho được, nhưng đến một ngày kia vạn dân sẽ thấy rõ diệu
kế của Ngài. Bởi lúc bấy giờ nhà cầm quyền Pháp kiểm soát gắt gao, bất cứ người
dân Việt Nam nào có lòng yêu nước, yêu dân thì chúng bắt đem tù đày hoặc ám hại.
-Do đó Đức Thầy dùng đủ phương cách đánh lạc
hướng người Pháp. Khi thì Ngài tỏ ra rất thông minh xuất chúng, khi thì giả
dạng điên dại ngu khờ. Có lúc Ngài trị bệnh nhân gần như là thượng xác cỡi
đồng, trừ ma tróc quỷ, làm cho những kẻ rình rập Ngài không lấy đâu mà định
đoán được.
-Trường hợp nầy cũng là cơ thử thách hạng
người giả tu bị bày lộ chân tướng. Những người thật lòng theo đạo thì nhận được
Đức Thầy là bậc quán chúng độ đời, nên họ quyết tâm tu thân lập hạnh, theo con
đường chơn lý. Còn số người kém duyên cùng Phật pháp, chỉ tin sự linh thính
hoặc tu theo thời buổi thì làm sao họ nhận được sự thật. Đức Thầy thường cho
biết tâm trạng của hạng người ấy:
“Ngày nay mới đến Phật đàng,
Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh
liền.
Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
Rồi sau tội nghiệp liên miên
tới mình”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
CHÚ THÍCH:
TÀ TÂY: Nịnh tà Tây tặc, chỉ
những người Việt Nam a dua làm việc theo Pháp trở lại hại dân hại nước. Bọn
giặc Tây Âu đến xâm chiếm nước ta, gọi là Tây tặc.
“Bây giờ làm việc tà tây,
Ngày sau chịu khốn tội rày điêu
ngoa”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
THIÊN CƠ: Máy trời. Cơ xoay chuyển
mầu nhiệm của trời đất.
SỐ MẠNG: Cũng gọi là số mệnh. Theo
dịch lý thì số mạng của mỗi người: sống chết, giàu nghèo, cực sướng, yểu thọ
v.v…đều do luật trời đất định sẵn. Còn theo Phật học thì hiểu số mạng là định
nghiệp của nhân và quả. Thế nên người ta có thể sửa đổi từ nghiệp xấu thành tốt
hay thêm bớt lớn nhỏ…
NGẠI NGHI: Cũng gọi là nghi ngại, có
nghĩa ngờ vực ái ngại, chưa tin hẳn.
GIẢ ĐẠO: Không thật tâm theo Đạo,
chẳng thật sự tu hành, hay tu giả dối:
“Tu thật tâm thì đặng thảnh
thơi,
Tu giả dối thì lao thì lý”(Giác Mê Tâm Kệ).
BỒI HỒI: Bồn chồn, xao xuyến trong
lòng.
“Nhìn xem tâm não bồi hồi,
Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh
vang”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
LINH THÍNH: Cũng đọc là linh thiêng.
Nghĩa là có dấu hiệu ứng nghiệm, nơi đó linh thính lắm. Đức Thầy có câu:
“Ai ham linh theo nó tập tành,
Sa cạm bẫy khó mong sống sót”.
(Giác Mê Tâm Kệ)
CHÁNH VĂN
145. “Việc đời như nước trong khe,
Nó tưởng đặt vè nói biếm người
hung.
Điên này nối chí theo Khùng,
148. Như thể dây dùn đặng cứu bá-gia.
Sau này kẻ
khóc người la,
Vài ba năm
nữa biết mà tà-tinh.
Điên biết
chẳng lẽ làm thinh,
152. Nói
cho bá-tánh mặc tình nghe không”.
LƯỢC GIẢI
(Từ câu 145 đến câu 152):
-Lời Sấm
Giảng báo trước cuộc đời sắp đến ngày tàn cỗi để lập lại Thượng ngươn, cơ tận
diệt hiền còn dữ mất. Thế mà còn nhiều người chẳng tin, cho đó là bài vè để
nhạo báng người hung ác.
-Đức Giáo
Chủ nối chí theo Phật Thầy tùy theo thời thế và căn cơ của mỗi chúng sanh mà
giáo độ. Ngài
cũng cho
biết chẳng còn mấy năm nữa sẽ có những tai nạn đói rách bệnh tật và giặc cướp
nhiễu hại sanh linh. “Vì lòng từ ái chứa chan…”, Ngài
không thể lặng nhìn trước cơ tận diệt nên phải ra tay tế độ quần sanh bằng cách
dùng Kệ Giảng khuyến tấn đường tu, mặc người đời nghe không tùy ý.
CHÚ THÍCH:
NƯỚC TRONG
KHE: Khe cũng gọi là suối, tức là rảnh nước
trên chảy xuống. Ví dụ khe nước suối từ nguồn chảy ra.
“Nước
trong khe nước chảy ra,
Người chê
ta đục, người đà trong chưa”.(Ca Dao)
Câu “Việc
đời như nước trong khe” là vì nước trong khe luôn một chiều chảy ra mãi, không
bao giờ chảy ngược chiều hay dừng lại. Việc đời cũng thế, cứ diễn tới mãi chẳng
hề ngưng.
VÈ: Là một thể văn vần ở nước ta đã có tự nghìn xưa,
dùng để châm biếm hoặc thuật lại một sự việc gì, tốt hay xấu đã xảy ra trong
đời. Văn đặt có vẻ ngây ngô và chân thật, không dùng sáo ngữ hay văn chương bác
học.
Vè có khi
viết thể văn lục bát, có khi câu dài câu ngắn , số chữ không hạn định, như vè
say rượu, vè đánh bạc.v.v…
NÓI BIẾM: Nói lời chê bai nhạo báng.
NHƯ THỂ
DÂY DÙN: Do câu “dây dùn khó đứt”. Đây ý nói
nương theo thời thế mà giáo độ quần sanh.
TÀ TINH: Tà ma quỷ quái. Loại ma quỷ chuyên phá hại người.
Cũng chỉ cho hạng người tàn bạo dã man (quỷ sống).
Đức Thầy
từng bảo:
“Sau tà
tinh ăn sống nuốt tươi,
Mà bá tánh
chẳng lo cải thiện”.
(Kệ Dân
Q.2)
CHÁNH VĂN
153.
“Việc Điên, Điên xử chưa xong,
Lục-Châu chưa
giáp mà lòng ủ-ê.
Người nghe
đạo lý thì mê,
156.
Kẻ lại nhún trề nói Lão kiếm cơm.
Thấy nghèo
coi thể rác-rơm,
Rồi sau
mới biết rác-rơm của Trời.
Vì Điên
chưa đến cái thời,
160.
Nên còn ẩn dạng cho người cười chê”.
LƯỢC GIẢI
(Từ câu 153 đến câu 160):
-Đoạn
giảng trên ý nói công cuộc khai Đạo cứu đời, Đức Thầy còn nhiều trách nhiệm
phải làm. Nhìn thấy lòng người tham ác, cảnh thế đau thương sắp xảy ra mà Ngài
chạnh nỗi thương tâm cho bá tánh.
-Khi nghe
đến lời Kệ giảng của Ngài có nhiều người ham mộ tín hành, song cũng “Còn
lắm kẻ nghinh ngang theo chọc rối”.(Trao Lời Cùng Ông Táo).
-Thấy
người giả dạng người tàn tật, ăn xin khắp đó đây, họ liền khinh khi nhạo báng,
không ngờ rằng bởi thời cơ chưa đến, Đức Thầy mới dùng phương cách đó hầu dễ bề
cảnh tỉnh nhơn sanh.
CHÚ THÍCH:
LỤC CHÂU: (Xem chú thích câu 56 – Q.1).
ĐẠO LÝ: Lý lẽ của Đạo hay Giáo lý của một tôn giáo. Riêng
chữ Đạo có ba nghĩa:
1.-Đạo
là con đường của tâm hồn: Hễ lúc sống, thân tâm tạo nghiệp nào thì khi chết
nghiệp lực ấy húc thác sanh về cảnh giới đó: lục phàm hay tứ thánh. (Lục phàm
là 6 đường phàm: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Thần A-tu-la, Người, Trời; tứ
thánh là 4 đường thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật).
Cũng thế,
Đức Thầy bảo:
“Cái chữ
tâm mà quỷ hay ma,
Tiên hay
Phật cũng là tại nó”.
(Giác Mê
Tâm Kệ, Q.4)
Hoặc là:
“Đạo là
vốn thiệt cái đàng,
Ta ra sức
dọn cho toàn chúng sanh”.
(Sấm
Giảng, Q.3)
2.- Đạo
là bổn phận, là lẽ phải: Hễ ta đứng vào địa vị nào đều có bổn phận trong
địa vị ấy và phải cư xử cho trọn vẹn. Đức Thầy dạy:
“Đạo tôi
chúa chặt gìn câu chung thỉ,
Đạo thầy
trò khắc cốt với ghi xương.
Đạo cha
con chặt chẽ chữ miên trường,
Đạo chồng
vợ thuận hòa cho đến thác.
Biết lễ
nghĩa kính yêu cùng cô bác,
Nội tông
cùng ngoại tổ với cậu dì.
Thêm kính
nhường anh chị kẻ cố tri
Mắt chẳng
thấy lũ gian phi xảo trá.
Đạo bè bạn
bất phân nhân với ngã,
Chữ nghĩa
tình sắt đá mãi bền gan”.
(Không
Buồn Ngủ)
Đó là phần
Nhân Đạo. Còn phần Phật đạo, Đức Thầy dạy:
“…Chân lý
ấy là cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với Trời Phật, của mình
đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp
sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt. Hãy tin tưởng Phật Trời và cầu
nguyện đấng thiêng liêng ban bố phước lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường
giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”. (Bài Chánh Tư Duy trong Bát Chánh Đạo).
3.- Đạo
là bản thể tuyệt đối: Lý nầy là lìa cả danh ngôn sắc tướng, chỉ tạm gượng
kêu là Đạo và gượng giải mà thôi.
Đức Lão tử
đã bảo;
“Đạo khả
đạo, phi thường đạo,
Danh khả
danh, phi thường danh.”
(Đạo mà có
thể nói ra được thì không phải là đạo chơn thường; và dùng tên mà gọi cũng
không phải là danh chơn thường).
Ngài Khổng
Tử cũng dạy:
“Đạo bất
khả viễn nhân,
Nhân tri
vi Đạo,
Nhi viễn
nhân,
Bất khả dĩ
vi Đạo”.
(Đạo không
xa bản tánh của con người, nếu theo Đạo mà để xa bản tánh thì chẳng phải là Đạo
vậy).
Còn Kinh
Phật dạy rằng:
“Đạo giả vô chung thỉ,
Minh minh hà xứ tầm,
Thanh tịnh vô vi pháp,
Chánh đạo ẩn chơn tâm”.
Tạm dịch:
“Đạo vốn chẳng đầu đuôi sau trước,
Khắp muôn
Tự nhiên tánh đạo hiện mà nơi tâm”.
Tóm lại, chữ Đạo rất vô vi mà cũng rất linh
hoạt sáng mầu, cho nên nó có cả tướng, dụng và thể:
-Có mà không là Tướng của Đạo.
-Không mà có là Dụng của Đạo.
-Không mà chẳng không là Thể của Đạo.
LÝ: là Giáo lý, là lời lẽ
luận giải các Kinh Luật và pháp môn tu hành của Thầy Tổ và chư Phật Thánh đã
chỉ dạy, hành giả nương theo đó mà học hỏi tu hành đến chỗ thâm nhập chơn
lý tuyệt đối và chứng đắc đạo quả.
Đức Thầy từng cho biết:
“Hạ giái dạy khuyên truyền đạo
lý,
Giả dạng Điên Khùng mượn thi
ca”.
(Để Chơn Đất Bắc)
NHÚN TRỀ: Rùn vai, bỉm môi. Ý chê
bai bằng lời nói cả dáng điệu.
“Làm dâu vụng nấu vụng kho,
Chồng không bắt bẻ mụ o nhún trề”.(Ca dao)
ẨN DẠNG: Giấu kín hình dạng. Nghĩa
bóng là dùng phương cách khéo léo làm cho người đời không biết mình là bậc tài
trí.
CHÁNH VĂN
161. “Từ đây sắp đến thảm-thê,
Con lìa cha mẹ, vợ kia xa chồng.
Tới chừng đến việc ngóng-trông,
164. Trách rằng Trời Phật không
lòng từ-bi.
Di-Đà lục tự rán ghi,
Niệm cho tà-quỉ vậy thì dang ra.
Khuyên đừng xài phí xa-hoa,
168. Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 161 đến câu 168) :
-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ tiên tri từ đây sắp đến
cuộc chiến tranh loạn lạc, diễn ra cảnh chia ly thật là thê thảm: “Con
lìa cha mẹ vợ kia xa chồng” (Sấm Giảng Q.1). Người đời nếu không
cải ác tùng thiện, đợi khi đương đầu với cảnh ấy dầu có ăn năn thì việc đã muộn.
Và chừng đó cũng đừng thống trách Phật Tiên
sao thiếu lòng từ bi cứu độ.
-Pháp Môn Niệm Phật là phương pháp thần diệu
để cứu độ nhân sanh trong thời hiện đại. Chỉ có 6 chữ Di Đà, người trì hành
không phân biệt đi, đứng, nằm, ngồi. Đức Thầy dạy:
“Nằm, đi, đứng hay ngồi chẳng
chấp”.
(Kệ Dân, Q.2)
Mà lúc nào cũng gắng công chuyên niệm cho đến
khi tâm được thuần chánh (chánh niệm), không còn một vọng tưởng nào xen tạp thì
chẳng những thoát khỏi nạn đao binh nước lửa mà còn được thân tâm thanh tịnh,
chứng đắc “Cực lạc tại mục tiền”.
-Đồng thời với Pháp Niệm Phật, ta phải rán thi
hành lời răn dạy của Đức Thầy:
“Ta chẳng nên lười biếng, phải
cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất…” và “chẳng nên ăn xài
chưng dọn cho thái quá và lợi dụng tiền tài
mà đành quên nhơn nghĩa và đạo
lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang phụ người nghèo khó”.(Tám Điều Răn Cấm)
Nếu ai thi hành được như thế là đúng với ý
nghĩa của chữ “lo tu”, tất được toại nguyện.
CHÚ THÍCH:
TỪ BI: Xem chú thích đoạn 2 Bài
Sứ Mạng
DI ĐÀ LỤC TỰ RÁN GHI: Là ghi nhớ, tưởng niệm 6
chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” mãi mãi nơi tâm, đừng để một vọng tưởng nào xen tạp,
đây là phương “Trì Danh Niệm Phật”. Đức Thầy từng dạy:
“Rán trì tâm tưởng niệm canh
thâu”.
(Kệ Dân Q.2)
Và:
“Muốn niệm Phật chẳng cần sớm
tối,
Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.
Thì hiền lương quên mất điều tà,
Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố
gắng”.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Nếu ai trì niệm được như thế thì ngoại cảnh
không bị quỷ ma khuấy rối và nội tâm không còn tà vọng làm hoặc loạn.
Về ngoại cảnh, Kinh Phật có dạy:“Người niệm
Phật được có hào quang của Phật soi vào mình, ánh sáng chung quanh 40 dặm, nên
ma không thể xâm phạm được. Đó là nhờ oai lực của Đức Phật A Di Đà và chư Phật
mười phương hộ trì, mãi từ ngày phát tâm cho đến thành đạo, trước sau mọi việc
đều lành cả”.
Ông Sư Vãi Bán Khoai cũng bảo:
“Niệm Phật có bốn Thần linh,
Thường thường ủng hộ bên mình mộ khan.
Niệm Phật tật bệnh tiêu tan,
Như sương tan nát, như hồ nước trong”.
Còn về nội tâm, nếu ta cố gắng trì
niệm lục tự cho đến khi “nhứt tâm bất loạn” thì vọng tâm tà vạy (nội ma) không
còn, tức diện kiến “Bản lai thanh tịnh”.
Đức Thầy từng dạy:
“Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”
(Giác Mê Tâm Kệ Q.4)
Và:
“Niệm chữ Di Đà tan chướng
nghiệp”.
(Đáp Lời Ông Phan Châu Bá)
XA HOA: Ăn xài xa xí, chưng dọn
lòe loẹt. Người xài xí xa hoa thì phải lao tâm mệt xác, chạy chọt tham cầu đủ
cách để có tiền của ăn xài. Cho nên người càng ăn xài nhiều thì càng bị vật
chất chỉ huy. Đức Thầy hằng khuyên dạy hạng người ấy:
“Nhà giàu có xài không sợ tốn,
Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn.
Lo ăn xài trà rượu xình xoàng,
Chừng khổ não phàn nàn căn số”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
ĂN CẦN Ở KIỆM: Cần là siêng năng, chịu
khó. Kiệm là tiết kiệm, biết bớt chỗ dư, bồi vào chỗ thiếu, không ăn xài vô lý.
Đức Thầy từng dạy:
“Khuyên chúng sanh bỏ tánh
biếng lười,
Phải sốt sắng làm ăn cần thiết.
Nghèo với đói từ đây sẽ biết,
Hàng ngoại bang bố thiết ta
hoài.
Nên bá gia hãy rán miệt mài,
Dầu rách rưới cũng mau cần
kiệm”.
(Giác Mê Tâm Kệ Q.4)
CHÁNH VĂN
169. “Đừng khinh những kẻ đui mù,
Đến sau sẽ khổ gấp mười mù đui.
Đời nay
xét tới xem lui,
172.
Chừng gặp tuổi mùi bá-tánh biết thân.
Tu-hành
sau được đức-ân,
Nhờ Trời
ban bố cho gần Phật Tiên.
Nói ra
trong dạ chẳng yên,
176.
Điên gay chèo quế dạo miền Lục-Châu.
Tới đâu
thì cũng như đâu,
Thêm thảm
thêm sầu lòng dạ người xưa.
Bá gia ai
biết thì ưa,
180.
Tôi chẳng nói thừa những việc thiên-cơ.
Khi già
lúc lại trẻ thơ,
Giả quê
giả dốt khắp trong thị thiềng.
Đi nhiều
càng thảm càng phiền,
184 Lên
doi xuống vịnh nào yên thân già”.
LƯỢC GIẢI
(Từ câu 169 đến câu 184):
-Đoạn
giảng qua Đức Thầy khuyên bá tánh đừng khinh thường những người mù đui, vì sau
nầy (tuổi mùi) dân chúng phải chịu khổ nhiều hơn cái khổ của những người tàn
tật hiện tại.
-Nếu ai biết
trau dồi đạo đức thì được kiến diện Phật Tiên, thoát qua tai khổ.
-Xét qua
thời cơ rồi nhìn khắp vạn dân, Đức Thầy phải ngậm ngùi vì cảnh khổ đã kề bên mà
ít ai tỉnh thức tìm phương giải thoát.
-Bởi lòng
từ bi quá thương xót sanh linh buộc lòng Ngài tỏ thật cơ mầu; nếu ai hiểu được
thì nghe theo, bằng không tin mặc ý. Trên đường dạo Lục châu, Ngài chẳng quản
sự gian khổ, giả ra đủ hạng người để tùy cơ giác tỉnh quần sanh.
CHÚ THÍCH:
ĐỨC ÂN: (Xem Chú thích câu 27, Q.1)
BAN BỐ: Cấp phát, giúp cho (cũng như chữ bố thí).
Đức Thầy có câu:
“Nhờ ơn
Trời ban bố đức ân,
Xem chung cuộc Phong Thần tại
thế”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
CHÈO QUẾ: Chèo làm bằng gỗ quế,
thịt loại cây nầy rất quý và chắc. Văn chương thường dùng “chèo quế sào lan” để
nghe đẹp lời. Trong bài “Ngược Dòng Sông Lam” của Nguyễn Huy Hổ có câu:
“Này này quế trạo lan hương,
Ví đưa Xích Bích chỉ đường Đông Pha”.
LỤC CHÂU: (Xem chú thích câu 56,
Q.1)
THỊ THIỀNG: Cũng đọc là thị thành. Chỉ
các nơi có chợ búa, phố xá và dinh thự. Đức Thầy có câu:
“Muốn lánh phồn hoa lánh thị
thành”.
LÊN DOI XUỐNG VỊNH: Doi là phần đất lồi ra mé
sông; vịnh là khoảng bờ sông ăn khoét vào đất liền. Có nghĩa là chèo lượn quanh
bờ sông, khi doi ra khi khuyết vào. Đây ngụ ý cho sự cực nhọc vất vả.
CHÁNH VĂN
185. “Tay chèo miệng lại hát ca,
Ca cho bá-tánh biết đời loạn-ly.
A-Di-Đà
Phật từ bi,
188.
Ở bên Thiên-Trước chứng tri lòng này.
Từ ngày
thọ giáo với Thầy,
Dẹp lòng
vị-kỷ đầy lòng yêu dân.
Ngày nay
chẳng kể tấm thân,
192.
Miễn cho bá-tánh được gần Bồng-Lai”.
LƯỢC GIẢI
(Từ câu 185 đến câu 192):
-Đoạn nầy ý
nói Đức Thầy đi dạo lục châu. Ngài vừa chèo vừa ca hát cảnh tỉnh nhơn sanh,
nhứt là Ngài tiên báo về thế cuộc sắp xảy ra cảnh giặc loạn khắp nơi, nhà cửa
tan nát, thân tộc chia ly.
-Ngài cũng
cho biết từ khi thọ giáo với Đức Phật, Ngài đã giũ sạch lòng trần; tham lam, vị
ngã, sân si đều dứt bặt; quyết đem đạo mầu rộng độ quần sanh. Dù bao thử thách
chua cay, bao sự tù đày hiểm họa dồn tấp đến, nhưng Ngài chẳng hề nao núng;
miễn sao bá tánh biết hồi tâm, quay về nẻo Đạo để sau nầy được thọ hưởng cảnh
thanh bình của Tiên Phật.
-Đức Thầy
cũng nguyện với Đức Phật A Di Đà chứng minh cho cuộc xả thân độ chúng của Ngài.
“Dù cho
phải chịu ngàn cay đắng,
Cũng
nguyện đạo mầu sẽ chấn hưng”.
(Hiến Thân
Sãi Khó)
CHÚ THÍCH:
A DI ĐÀ
PHẬT: Phạn ngữ Amitabhâ, Tàu dịch là Vô Luợng
Thọ Phật. Ngài thọ mạng dày dặc vô biên triệu ức kiếp và Vô Lượng Quang Phật,
hào quang của Ngài sáng vô cùng, chiếu khắp 10 phương, không bị sự vật nào ngăn
che. Phật A Di Đà là Giáo Chủ cõi Tây Phương Cực Lạc.
Có nhiều
kinh chép về sự tích A Di Đà, ở đây chúng tôi xin lược ghi hai chuyện.
1.- Căn
cứ theo Kinh Bi Hoa: Vào thời quá khứ tại thế giới San Đề Lam, có vua
Chuyển Luân Thánh Vương tên là Vô Tránh Niệm, có quan đại thần là Bảo Hải. Bảo
Hải sanh được người con trai tướng mạo trang nghiêm, đức độ siêu thường, sau
xuất gia tu hành đắc đạo hiệu là Bảo Tạng Như Lai.
Một hôm
Đức Bảo Tạng đến thuyết pháp gần hoàng thành, vua Vô Tránh Niệm và quan đại
thần Bảo Hải đến dự thính. Nghe pháp xong, vua quyết tu thành Phật để độ khắp
chúng sanh. Ngài liền đến trước Đức Bảo Tạng Như Lai xin cúng dường các món y
thực cho Phật và đại chúng trọn 3 tháng. Đồng thời vua phát 48 lời đại nguyện
rộng lớn. Đức Bảo Tạng liền thọ ký cho nhà vua nhiều kiếp sau sẽ thành Phật A
Di Đà, làm Giáo chủ cõi Cực lạc.
2.- Theo
Kinh Vô Lượng Thọ: Vào thời quá khứ lúc Phật Thế Tự Tại Vương ( Phạn ngữ là
Lokisvara Bouddha ) ra đời, có một nhà vua tên là Nguyệt Thượng Luân Vương (
hiệu là Diệu Hỷ), hoàng hậu là Thù Thắng Diệu Nhan, đang ngự trị. Quốc Vương
Diệu Hỷ và hoàng hậu sanh được 3 người con:
1./ Nhựt
Nguyệt Minh.
2./ Kiều
Thi Ca.
3./ Nhựt
Đế Chúng.
Sau khi
nghe Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, Thái tử Kiều Thi Ca bỏ
ngôi xuất gia thọ Tỳ kheo giới. Phật đặt pháp danh cho Ngài là Pháp
Tạng. Ngài liền quỳ trước mặt Phật phát 48 lời đại nguyện. Phật Thế Tự Tại
Vương liền thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phật hiệu A Di Đà, làm Giáo chủ cõi Tây
Phương Cực Lạc.
Lúc bấy
giờ quả địa cầu rúng đông, chư thiên ở các cõi Trời đều mưa hoa cúng dường,
trổi nhạc chúc tụng mà tán thán rằng: “Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo chắc chắn sẽ
thành Phật A Di Đà”.
THIÊN
TRƯỚC: Cũng đọc là Thiên Trúc, hay gọi là Tây
Thiên Trước, bởi nơi ấy có Phật giáng sanh và phát xuất đạo Phật; từ đó người
tu Phật cũng coi như vậy. Nhưng chữ Thiên Trúc còn có nghĩa rộng là chỉ cho cõi
Tây phương Cực lạc (An Dưỡng Quốc) của Đức Phật A Di Đà. Trong Kệ Dân (quyển
Nhì), Đức Huỳnh Giáo Chủ có cho biết:
“Cảnh
Thiên Trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở
yên còn xuống phàm trần”.
Và:
“Cảnh Tây Thiên
báu ngọc đầy lầu,
Rán tu
tỉnh tìm nơi an dưỡng”.
THỌ GIÁO: Cũng đọc là thụ giáo. Có nghĩa vâng chịu sự dạy dỗ
của một ông Thầy hay một Đạo (quy y thọ giáo).
VỊ KỶ: (Xem chú thích đoạn 1 Bài Sứ Mạng).
MIỄN: Cốt, gắng sức, khuyến khích (tiếng so sánh để chọn
lựa cái chánh). Đức Thầy có nói:
“Miễn cho
được ngày hai cơm tẻ,
Buổi bần
hàn đặng có tu thân”.
(Giác Mê
Tâm Kệ, Q.4)
BỒNG LAI: Tên một hòn đảo ở biển Bột Hải. Các từ điển chép:
Trong biển Bột Hải có ba hòn đảo: 1/.
Bồng Lai.
2/. Phương Trượng. 3/. Doanh Châu. Nước ở biển nầy rất yếu nhẹ (nhược thủy) cho
đến lông chim rớt xuống cũng không chìm. Trong văn chương thường dùng “non Bồng
nước Nhược” để chỉ cho cảnh Tiên (cảnh tiêu diêu thanh thoát) đối với cõi trần
đầy tục lụy.
“Bầu trời
man mát xa trông,
Biết đâu
nước Nhược non Bồng là đâu”. (Cổ
Thi)
Đức Thầy
cũng viết:
“Cảnh
dương trần khó sánh Bồng Lai,
Về Tiên
cảnh say mùi rượu Thánh”.
(Diệu Pháp
Quang Minh)
CHÁNH VĂN
193.
“Đời này vốn một lời hai,
Khắp trong
trần-hạ mấy ai tu trì.
Đời này
giành-giựt làm chi,
196.
Tới việc ly-kỳ cũng thả trôi sông.
Thuyền đưa
Tiên-cảnh Non-Bồng,
Mấy ai mà
có thiềng lòng theo đây.
Cứ lo làm
việc tà-tây,
200.
Bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn.
Chừng đau
niệm Phật lăng-xăng,
Phật đâu
chứng kịp lòng người ác-gian.
Thấy đời
mê-muội lầm-than,
204.
Ăn bạ nói càn tội-lỗi chỉn ghê.
Chữ tu
không phải lời thề,
Mà không
nhớ đến đặng kề Tiên-bang.
Nói nhiều
trong dạ xốn-xang,
208.
Cùng hết xóm làng tàn-ác nhiều hơn”.
LƯỢC GIẢI
(Từ câu 193 đến câu 208):
-Đoạn nầy
ý nói trong thế gian ít người tu niệm, phần nhiều lo tham gian giành
giựt, bày mưu nầy chước nọ để: “Của dương thế góp tom bảo thủ” (Khuyến
Thiện, Q.5).
Rốt cuộc
của ấy cũng tiêu tan theo chiến tranh giặc cuớp. Kinh Phật bảo: Của Thế
gian là của năm nhà (năm nhà: nhà lửa, nhà lụt lội, nhà giặc
cướp, nhà sung công, nhà con cháu phá tán), dầu ta có tham gian cũng chẳng giữ
được lâu dài. Đức Thầy thường cảnh tỉnh:
“Nạn khổ
đâu đâu đều túng rối,
Tai ương
chốn chốn khắp cùng nơi.
Tiền ma
gạo quỷ đừng nên trữ,
Sau cũng
tiêu theo luật của trời”.
( Bài
Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
-Lời giáo pháp
của Đức Thầy ví như chiếc thuyền có diệu năng đưa người tu đến cảnh Tiên Phật,
nhưng ít có ai thành tâm theo Đạo, mãi mãi chạy theo danh lợi ảo huyền,
sát hại sanh vật ăn uống cho hả hê, nói năng bất chánh không kể gì là nghĩa
nhân đạo lý. Đến khi gặp cảnh ốm đau họ mới van lơn cầu khẩn Phật Trời thì việc
quá muộn:
“Đến tội
rồi mới hối muộn màng”.
( Khuyến
Thiện, Q.5 )
Cho nên
Đức Thầy hằng khuyên mọi người:
“Chi cho
bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới
luật nghe kinh trọng Phật”.
( Khuyến Thiện,
Q.5 )
thì sau
nầy sẽ gần được Tiên Phật.
-Nhìn qua
xã hội loài người thấy kẻ gian ác thì nhiều, người hiền lương quá ít. Cho nên
càng nhắc đến,
Đức Thầy
càng xót dạ thương tâm cho hạng người chưa cải ác tùng thiện.
CHÚ THÍCH:
VỐN MỘT
LỜI HAI: Lối cho vay lúa hoặc tiền của số người
giàu có. Lúc bấy giờ (thời Pháp thuộc) lòng họ quá tham ác (cắt cổ lột da) cho
vay vốn một tới mùa phải trả bằng hai. Nếu mùa nầy không đủ trả thì cứ kê
thêm mùa
tới, hai phải lên bốn. Rồi ít năm sau chủ nợ kiện đến tòa, buộc con nợ phải bán
nhà, giao đất để trừ.
Đức Thầy
đã giác tỉnh hạng người cho vay:
“Xác phàm
có mấy lăm hơi,
Hỏi vay có
một mà lời đôi ba.
Của dư cho
mượn mới là,
Hảo tâm bố
thí ngọc tòa được lên”.
(Khuyên
Người Giàu Lòng Phước Thiện)
TU TRÌ: (Xem chú thích câu 36, Q.1)
VIỆC LY KỲ: Việc lạ lùng, khác thường. Đây chỉ cho cuộc gặp
cướp loạn lạc, thay đổi màn lớp làm bao nhiêu của cải phải tiêu tan. Giờ ta có
tham lam giành giựt cũng chẳng ích chi. Đức Thầy diễn tả cảnh ấy:
“Giàu sang
như nước trên nguồn,
Gặp cơn
mưa lớn nó tuôn một giờ”.
(Sấm
Giảng, Q.1)
Hoặc là:
“Cảnh vinh
hoa lại quá cheo leo,
Nhà giàu
có sau nhiều tai ách”.
(Kệ Dân,
Q.2)
Việc ly kỳ
còn chỉ cho cảnh biến thiên tận diệt đời Hạ ngươn để lập lại Thượng ngươn:
“Khắp thế
giới cửa nhà tan nát,
Cùng xóm
làng thưa thớt quạnh hiu.
Bấy lâu
nay nuôi dưỡng chắt chiu,
Nay tận
diệt lập đời trở lại”.
(Kệ Dân,
Q.2)
TIÊN CẢNH
NON BỒNG: Cảnh Tiên ở núi Bồng lai. Ở đây ý nói
Đức Thầy khai truyền Đại đạo nếu ai tu đúng theo giáo pháp thì được thoát khỏi
miền trần tục mà hưởng cảnh tiêu diêu tự tại của Tiên Phật. Bởi giáo pháp ví
như thuyền bè, nếu ai chịu bước xuống (vào Đạo) và cố gắng chèo chống (hành đạo)
tức sẽ tới bờ bên kia giải thoát. Đức Thầy khuyên nhắc:
“Khuyến
dạy dân tình minh đạo đức,
Tu hành
được kiến cảnh Bồng Lai”.
(Viếng Non
Ông Két)
THIỀNG
LÒNG: Cũng đọc là thành lòng. Nghĩa của chữ
thành tâm, tức là lòng theo đạo một cách chí thành chí thật mới mong kết quả.
Cổ Đức từng bảo: “Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai”.( Ý nói
sức mạnh của lòng thành khẩn hướng đến đâu thì có thể chẻ núi thấy được vàng
đến đó).
Đức Thầy
hằng khuyên:
“Tới với
Ta chớ đem đồ cúng,
Chỉ đem
theo hai chữ thành lòng”.
(Giác Mê
Tâm Kệ, Q.4)
LÀM VIỆC
TÀ TÂY: Làm việc theo lũ Tây tặc (giặc Pháp).
Đây chỉ cho người mãi a dua làm việc với Pháp để kiếm chút quyền oai bổng
lộc. Đức Tôn Sư thường thống trách những hạng người ấy:
“Sớm lo lòn cúi, chiều ăn ngủ,
Nào biết tính toan gỡ nợ nần”.
(Rứt Cái Ngu Đần)
NGƯU VÀ CẦY: Ngưu là trâu; cầy là chó.
Hai loại gia súc nầy giúp ích cho đời khá nhiều. Trâu dùng để cày ruộng, chó để
giữ nhà, thế mà người ta nỡ giết nó mà ăn thịt. Đây chỉ cho hạng vong ân bội
nghĩa.
Đức Thầy hằng khuyên:“… Đối với các gia
súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo…chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta
trong các việc sanh hoạt hằng ngày”.( bài Luận về Tam Nghiệp – Ác Sát
Sanh ).
MÊ MUỘI: Mờ tối không sáng suốt.
NÓI CÀN: Nói xằng bậy, ngang
ngược, nói thí nói đại, không lựa lời. Cổ ngữ có khuyên:
“Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Đức Thầy nay cũng dạy:
“Lựa lời tiếng dịu dàng trong
sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước
dư,
Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.
(Khuyến Thiện, Q.5)
TIÊN BANG: Nước của chư Tiên. Đây
chỉ cảnh Tiên ở. Đức Thầy khuyên:“Tu hành tâm đạo dựa kề Tiên bang”.(Sấm
Giảng, Q.1)
XỐN XANG: Nhức nhối, bức rức, khó
chịu. Phan Văn Trị có câu:
“Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa,
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn”.
Đăng nhận xét