CHÚ GIẢI SẤM GIẢNG QUYỂN 1 KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM
Chú Giải từ câu 803 – 912 (Quyển I)
CHÁNH VĂN
803.“Khổ đà đi đến như tên,
Rán lo tu niệm tìm nền vinh-hoa.
Vinh này của Đức Phật-Bà,
806. Của Ông Phật-Tổ ban mà cho dân.
Tu cho nhàn toại tấm thân,
Đừng làm tàn-ác xa lần Tiên bang.
Hát kêu bớ kẻ giàu sang,
810. Rán lo làm phước làm doan mới là.
Đến lâm cảnh khổ có Ta,
Với lịnh Phật Bà cứu vớt giùm cho.
Tu hành phải rán trì mò,
814. Gặp Lão Đưa Đò đừng có khinh-khi”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 803 đến câu 814):
-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ cho biết việc khổ não sẽ đến với nhân loại
rất mau lẹ, nếu ai cố gắng trau thân gìn Đạo sẽ được nhiều hạnh phúc. Với điều
vinh hạnh an vui, đây là do Đức Quan Thế Âm và Đức Phật Tổ Thích Ca ban cho.
Bằng ai tiếp tục con đường tội ác thì sau nầy phải vương lấy khổ sầu, không thể
nào gần được nhà Tiên cửa Thánh.
-Ngài hằng kêu gọi những người giàu sang dư ăn, dư để nên mở lòng
thương xót kẻ cơ bần, tận tâm giúp đỡ cho họ có cơm ăn, áo mặc, thuốc
uống.v.v…và trau tâm sửa tánh. Nếu ai làm được như vậy, thì hiện tại, được Đức
Thầy và Đức Quan Thế Âm cứu độ khỏi cảnh hãi hùng của cơ tận diệt, và còn gây
được duyên lành, để hoàn thành quả vị Phật Thánh ở tương lai.
-Bước tu hành của mỗi người nên kiên tâm bền chí, thực hành đúng
theo quy cũ và đường lối của Đức Thầy đã vạch thì sớm muộn gì cũng đặng kết quả
như ý.
Và kể từ đây:
“Phật Tiên Thánh cùng nhau xuống thế”.
(Kệ Dân, Q.2)
Các Ngài giả dạng đủ hạng người: Buôn bán, chèo đò, tàn tật, ăn
xin…để thức tỉnh bá gia. Đức Thầy căn dặn chúng ta phải dè dặt kính nhường, nếu
lăng mạ khinh khi, ắt bị lầm lỗi.
CHÚ THÍCH:
VINH HOA: Xem
chú thích câu 666, Q.1
NHÀN TOẠI: Thanh
nhàn thỏa nguyện. Người rút bỏ hết nghiệp duyên trần tục, tranh đấu lợi danh
thì thân tâm lúc nào cũng an nhàn tự tại.
Như Đức Giáo Chủ cho biết:
“Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao”.
Và: “Gót sen thong thả xiết bao thanh
nhàn”.
(Khuyến Thiện, Q.5)
TIÊN BANG: Nước
Tiên hay cảnh Tiên. Đây chỉ cõi đời Thượng ngươn Thánh đức, con người sống thời
đó như ở cảnh Tiên. Đức Thầy từng kêu gọi:
“Theo Ta đến chốn Tiên Bang,
Đặng coi các nước hội hàng Năm Non”.
(Thiên Lý Ca)
LÀM PHƯỚC LÀM DOAN: Tức là tu phước là làm các việc từ thiện, bằng cách là đem
các vật sở hữu của mình như: tiền của, vải sồ, thuốc uống v.v…châu cấp cho mọi
người được phúc lợi. Tất cả những việc làm lành, làm phải đều gọi là tu phước.
Trong Tăng Nhứt A Hàm Kinh, Phật có nói với A Nan Luật:
“Thế gian muốn có sức,
Dạo trong hàng Trời, Người.
Phước Lực là hơn hết,
Do phước thành Phật Đạo”.
Đức Thầy nay từng dạy:
“Muốn cho rắn đặng hóa cù,
Xả thân làm phước Diêm Phù vượt qua”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
LÀM DOAN: là
làm duyên. Ý nói người thi hành việc lành, việc phải thì chẳng những được hưởng
hạnh phúc ở hiện tại, mà còn được gieo duyên lành, để tương lai hoàn thành ngôi
Phật quả.
Xưa kia, tại nước Xá Vệ có vợ chồng ông Trưởng Giả, sanh được
người con gái nết hạnh phi thường, đặt tên là Thúc Ly. Điều lạ khi mới sanh, cô
đã có sẵn bộ y phục trắng mịn che thân. Cô càng lớn, y phục ấy càng lớn theo.
Đến tuổi cập kê, cha mẹ định gả chồng, nên sắm đủ đồ trang sức. Cô
không đồng ý, cầu xin cha mẹ, cho cô đến gặp Phật để xuất gia. Cha mẹ rất nuông
chiều nên đưa cô đi, sau khi yết kiến Phật, Ngài liền thâu nhận Thúc Ly vào
hàng Tỳ Kheo Ni, bỗng nhiên y phục của cô đang mặc, biến thành pháp y (tức y
phục nhà tu). Cô luôn tinh tấn tu hành, ít lâu được chứng quả A La Hán. Ông A
Nan lấy làm lạ, bạch hỏi Phật, do phước duyên gì, Thúc Ly Tỳ Kheo được như thế
?
Phật liền giảng cho A Nan và đại chúng nghe: Thuở quá khứ, lúc Đức
Phật Tỳ Bà Thi trụ thế, có một nhà vua mở đại hội bố thí và cúng dường Phật,
cùng chư tăng để cầu nghe pháp. Các Tỳ Kheo đi khắp nơi, tuyên truyền công quả
bố thí và nhận thực phẩm về hội.
Bấy giờ có hai vợ chồng cô Đàn Nị Già, gia đình rất nghèo, cơm áo
không đủ dùng, chỉ có tấm chăn rách, hễ chồng đi làm thì vợ ở nhà đóng cửa lại,
còn vợ đi ra thì chồng cũng phải như thế. Hôm nọ cô Đàn Nị Già được nghe Thầy
Tỳ Kheo thuyết giảng về công hạnh bố thí trừ được lòng tham xẻn v.v…Cô bèn bàn
với chồng nên bố thí tấm chăn nầy, để giải thoát kiếp cùng khổ dầu chết cũng
cam. Người chồng thuận ý, cô liền thỉnh Thầy Tỳ Kheo vào gần cửa để gởi tấm
chăn về hội thí. Thầy Tỳ Kheo cảm động chú nguyện cho tín thí rồi lãnh chăn về.
Tại Pháp hội, Đức Phật gọi Tỳ Kheo, trao tấm chăn ấy cho Ngài
trước hết. Lúc đó nhà Vua và cả đại chúng đều có ý hiềm tỵ, vì sao Phật lại
dùng cánh tay muôn phước, trang nghiêm thọ lãnh vật thô bẩn như thế?
Phật biết rõ tâm lý chúng nhơn, bèn đưa chăn ra bảo:“Ta xem tất
cả các món quí giá trong Đại hội cúng thí hôm nay, chưa bằng được vật nầy”.
Phật liền thuật rõ vợ chồng Đàn Nị Già cam chịu lõa lồ chết đói
trong xó nhà để tròn hạnh bố thí. Đây là món vật khinh mà tình trọng. Nghe Phật
nói, mọi người đều cảm động. Hoàng hậu tháo đồ trang sức vàng ngọc, cả Vua quan
cũng đem y phục, tiền bạc góp lại gởi giúp vợ chồng Đàn Nị Già và bảo đến chỗ
Phật nghe Pháp. Thuật đến đây, Phật Thích Ca bảo A Nan:
“Đàn Nị Già nghèo khổ xưa kia, nay là Thúc Ly Tỳ kheo vậy. Do lòng
thanh tịnh bố thí nên trải qua 91 kiếp, sanh ra nơi nào đều có y phục tùy thân,
không hề bị túng thiếu. Và do ngày trước nơi Pháp hội của Phật Tỳ Bà Thi, nghe
Pháp phát nguyện tu giải thoát, nên nay được gặp ta và đắc đạo quả A La Hán.
Các ông nên tinh tấn tu pháp bố thí ấy”.
Vậy danh từ “Làm phước làm doan”là Đức Thầy khuyên mọi
người nên thi hành Pháp bố thí gieo duyên lành với Phật Pháp, hầu sau nầy được
thành Đạo giải thoát. Như Ngài từng khuyên nhủ:
“Khuyên người hữu phước giàu sang,
Mau mau làm phước làm doan cho rồi”.
(Sám Giảng, Q.3)
TRÌ MÒ: Trì là giữ gìn bền chặt.
Mò là dò dẫm kỹ lưỡng mà đi lần lần. Đức Thầy từng dạy:
“Tu hành trì chí mới là liễu mai”.
(Sám Giảng,Q.3)
Và: “Đường Đạo đức bước đi từ nấc”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
CHÁNH VĂN
815.“Dạy rồi Thầy Tớ liền đi,
Biên-Hòa đến đó vậy thì xem qua.
Đến đây dạy-dỗ gần xa,
818. Khuyên trong bá tánh vậy mà tỉnh tâm.
Ngày nay gặp Bạn Tri-Âm,
Rán mà trì chí đặng tầm huyền-cơ.
Tân-An dạy dỗ kịp giờ,
822. Chẳng dám chần chờ đi thẳng Tây-Ninh.
Tới đây vừa lúc bình minh,
Điên ra sức giảng mặc tình nghe không.
Giảng rồi Dầu-Một thẳng xông,
826. Thiềng-thị giáp vòng thứ chót là đây.
Thương dân giảng dạy dẫy-đầy,
Rảo khắp tối ngày chẳng có nghỉ chơn.
Nhiều người hung ác quá chừng,
830. Không biết đời khổ lo mừng lo vui”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 815 tới câu 830):
-Khi đến tỉnh Biên Hòa, thầy trò Đức Giáo Chủ giảng khuyên khắp
nơi, kêu gọi vạn dân sớm tỉnh tâm tu niệm, ai là kẻ hữu duyên cùng Phật pháp
trước kia, nay đã gặp người đồng tâm trở lại thì phải rán trì lòng sưu tầm đạo
lý cho thấu lẽ huyền cơ.
-Kế đó, Ngài dời chân đến tỉnh Tân An để làm cho dân chúng đâu đâu
cũng đều được nghe lời khuyến thiện. Trời vừa rựng sáng, thuyền Ngài đến tỉnh
Tây Ninh; nơi đây mặc tình bá tánh có chịu nghe hay không, Thầy trò cũng ra sức
giảng khuyên đủ lẽ. Đoạn rồi Ngài đi luôn tỉnh Thủ Dầu Một, đây là một vị trí
chót hết trong 20 tỉnh của Nam kỳ thời ấy (1939). Vì lòng quá thương xót
chúng dân nên Ngài chẳng màng đến sự lao nhọc và kêu gọi suốt ngày, không ngừng
nghỉ, song có nhiều người mãi đắm say dục lạc thường tình, gây tạo nhiều tội
ác, không ý thức được cảnh đời là khổ đau và giả tạm.
CHÚ THÍCH:
BIÊN HÒA: Tỉnh
thứ 13 của Nam kỳ thời Pháp thuộc. Đông bắc giáp tỉnh Long Khánh; Tây bắc giáp tỉnh
Bình Dương; Nam giáp Phước Tuy, Gia Định ; Tây giáp Thủ đô Sài Gòn; diện tích
2.800 km vuông, dân số 270.512.
TỈNH TÂM: Lòng
tỉnh thức sáng suốt, hết u tối mê lầm.
BẠN TRI ÂM:
Người bạn nghe tiếng đờn mà hiểu nhau, do điển tích Bá Nha Tử Kỳ.
Ở đây Đức Giáo Chủ muốn nói: Người nghe lời giảng khuyên, liền
hiểu được ý mà giác tỉnh tu hành, tức là người đã có duyên lành với Ngài trong
nhiều tiền kiếp và cũng gọi là tri âm tri kỷ, như Ngài từng cho biết:
“Nay gặp bạn tri âm tri kỷ,
Cho những điều thiện mỹ cổ lai”.
HUYỀN CƠ: Xem
chú thích đoạn 2, bài Sứ Mạng.
TÂN AN: Xưa tên là”Tần Bôn”, tỉnh
số 9 của Nam kỳ thời Pháp thuộc; từ năm 1956 bị tách một phần thành tỉnh Kiến
Tường, còn lại sát nhập với tỉnh Chợ Lớn mà thành tỉnh Long An.
TÂY NINH: Một
tỉnh cách Sài Gòn 99 km về phía Tây Bắc; Đông giáp Bình Dương và Bình Long: Tây
và Bắc giáp Cam Bốt; Nam giáp Hậu Nghĩa. Diện tích 3.516 km vuông, dân số
278.150 người.
DẦU MỘT: là tỉnh Thủ Dầu Một, do
tiếng Cao Miên là Thul Đoánbôth (gò có đỉnh cao nhất); từ năm 1956, một phần
nhập với quận Hớn Quảng làm tỉnh Bình Long, phần còn lại đổi tên là Bình Dương.
Đông giáp Biên Hòa và Long Khánh; Tây giáp Tây Ninh; Bắc giáp Bình Long; Nam
giáp Hậu Nghĩa, Biên Hòa; diện tích 2.000 km vuông, dân số 266.538.
CHÁNH VĂN
831.“Nhắc ra dạ nọ nào nguôi,
Từ đây Lục-Tỉnh đui cùi thiếu chi.
Nói mà trong dạ sầu-bi,
834. Bá-gia chậm chậm khinh-khi Điên nầy.
Đừng ham nói nọ nói nầy,
Lặng yên coi thử Điên nầy là ai.
Cảm thương Ông Lão Bán Khoai,
838. Vì yêu dân-chúng chẳng nài nắng mưa.
Câu này nhắc chuyện năm xưa,
840. Khuyên trong trần-hạ hãy chừa lòng tham”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 831 tới câu 840):
-Nhắc đến việc mê say tội ác của chúng sanh, lòng Đức Thầy không
ngớt buồn thương và cho biết: Kể từ đây trong 6 tỉnh miền Nam Việt Nam,
có rất nhiều người tàn tật, ăn xin mà trong đó phần đông là các vị Phật Tiên
giả dạng, để thức tỉnh bá gia.
Trong bài “Lộ Chút Cơ Huyền”, Ngài nói:
“Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian”.
-Vậy thì từ đây trong chúng dân, nếu có gặp người tàn tật hay điên
khùng đừng vội khinh khi mà hãy bình tâm tìm hiểu coi kẻ “điên khùng” ấy là
người như thế nào. Đức Thầy cũng nhắc lại năm xưa, vì lòng quá yêu sanh chúng,
nên Ngài chẳng nài sự lao nhọc, hóa hiện một ông lão chèo ghe, bán
khoai theo kinh Vĩnh Tế để thử lòng và thức tỉnh bá gia. Ngài cũng có
dụng ý muốn nhắc nhở người đời, nhớ lại chuyện ấy mà răn chừa lòng tham. Vì
thuở đó dân chúng thấy ông già bán khoai quá thật thà, nên họ
dở đủ trò tham lam giựt giọc.
CHÚ THÍCH:
LỤC TỈNH: Sáu
tỉnh miền Nam của Việt Nam thời vua Minh Mạng trào Nguyễn (xem thêm chữ Lục
châu câu 56, Q.1)
ÔNG LÃO BÁN KHOAI: Tức là ông Sư Vãi Bán Khoai. Ông tên Mỹ, nhưng họ và niên kỷ
cũng như nơi sanh quán không ai biết rõ; người ta chỉ thấy ông thường lui tới
miền Vĩnh Tế (Châu Đốc). Sở dĩ có danh từ “Sư Vãi” vì Ông có một thân hình mảnh
mai, xa trông như một bà vãi và cũng vì ông trị bịnh cho đời
thường dùng vải áo khăn của mình cho nên mới có biệt danh là Ông Sư Vãi. Lại
nữa bởi ông chèo thuyền đi bán khoai ở kinh Vĩnh Tế, nên người đời gọi là “Ông
Sư Vãi Bán Khoai”.
Tuy với một thân hình ốm yếu, nhưng võ nghệ ông rất cao cường.
Thuở ông ở Vĩnh Gia, một hôm ông đang cầm mác thông đi chặt bàng trong đồng,
bỗng nghe có tiếng người lẫn tiếng cọp gầm thét gần đó, ông liền cầm mác chạy
tới thì thấy Ông Mạnh (người cùng xóm) đang dùng một thế võ hai tay nắm chặt
bốn chân con cọp và đội thẳng bụng cọp lên đầu; nhưng vì gặp phải cọp mạnh quá
ông Mạnh không đập xuống được mà cũng không dám thả cọp ra. Ông Sư Vãi liền cầm
mác thông nhảy tới, vươn mình lên thật cao, hét lên rồi chém xả xuống một mác
thật mạnh, con cọp bị đứt làm hai đoạn, mà ông Mạnh vẫn không bị phạm chút nào.
Còn một điều kỳ lạ, ngón tay cái của ông mỗi khi tụng kinh, ông
dùng cây gỏ vào thì kêu như tiếng mõ không khác.
Vào khoảng năm Tân Sửu (1901) và năm Nhâm Dần (1902), Ông xuất
hiện ở kinh Vĩnh Tế, giả dạng thường nhân chèo thuyền đi bán khoai và khắp miền
Thất sơn, ông đều có đi lại, để tùy duyên thức tỉnh người đời tu niệm. Ông có
truyền lại cho đời một tác phẩm tựa là “Sấm Giảng Người Đời”(gồm11 hồi). Nội
dung: Khuyên người làm lành lánh dữ và tiên tri sự biến thiên hãi hùng trong
thời kỳ Hạ ngươn mạt kiếp.
Ông chỉ hóa hiện trong vùng Vĩnh Tế khoảng hai năm (1901-1902),
rồi từ độ ấy đến nay ông vắng bóng luôn; người ta chỉ còn truyền những câu thơ
của ông:
“Nào khi Sư Vãi Bán Khoai,
Trong kinh Vĩnh Tế ai ai cũng lầm.
Mặt cân tôi chẳng biết cầm,
Quê mùa già cả âm thầm biết chi”.
Đến năm 1939 Đức Giáo Chủ PGHH ra đời có kể lại cho ông Sư Vàng
nghe, khi ông nầy đem quyển Sấm Giảng 11 hồi đến Tổ Đình Hòa Hảo, ý định thử
Ngài. Đức Huỳnh Giáo Chủ liền đọc thuộc lòng cho ông Sư Vàng dò theo từng chữ
một. Bởi thế, ông Sư Vàng ngạc nhiên, liền quỳ xuống bạch với Ngài, xin cho
biết căn nguyên. Đức Giáo Chủ liền cho biết “Sấm Giảng Người Đời” là của Ông Sư
Vãi Bán Khoai, một trong các lần hóa thân của Đức Phật Thầy Tây An. Cách trước
đây khoảng 37-38 năm, vì lòng từ ái thương sanh chúng bị lầm than, nên ông đã
hóa hiện ra người Bán Khoai, để thức tỉnh người đời rán lo tu niệm, hầu thoát
khỏi cảnh biến thiên, hủy diệt cõi đời Hạ ngươn Mạt kiếp.
Ngày nay trong Sấm Giảng, quyển 1, Đức Thầy nhắc đến Ông Sư Vãi
Bán Khoai là ý nói vì lòng từ bi và bản nguyện rộng lớn, nên Ngài phải luân
chuyển độ đời mãi mãi, chẳng hạn như Ông Sư Vãi Bán Khoai trước kia, cũng là
một hóa thân của Ngài để tùy duyên độ chúng. Trong Giảng Mười Một hồi có câu:
“Thương Ông Sư Vãi nhọc nhằn,
Sau thân chẳng biết mấy thân dưới trần”.
LÒNG THAM: Tâm
ham muốn quá độ về vật chất, danh, lợi, tình v.v…(Xem them phần Chú thích chữ
Tham gian câu 48, Q.1)
CHÁNH VĂN
841.“Khùng thời quê ngụ núi Sam,
Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.
Vua Nghiêu xưa mở đất cày,
844. Ngày nay nhường lại cảnh nầy cho Điên.
Xuống trần dạy-dỗ huyên-thiên,
Dạy rồi thì lại thảm-phiền nhiều hơn.
Cầu xin Phật-Tổ ra ơn,
848. Lời Điên khuyên nhủ như đờn Bá-Nha.
Thị-thiềng khắp hết gần xa,
Từ đây sắp đến quê nhà Điên đi.
Đừng thấy ngu dại mà khi,
852. Thầy thì Huệ-Lựu, Tớ thì Huệ-Tâm”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 841 tới câu 852):
-Đoạn nầy Thầy trò Đức Giáo Chủ cho biết vị trí của hai Ngài: Ông
Khùng (Ông Thầy) thì trước ở tại chùa Tây An núi Sam, khai truyền Chánh Đạo và
tịch diệt tại đó. Đây là ám chỉ Ngài là Đức Phật Thầy Tây An, như trong quyển
“Kệ Dân của Người Khùng” Ngài đã cho biết:
“Lời của người di tịch Núi Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc”.
-Còn ông Điên (Ông tớ) thì tu đắc đạo tại ruộng Năm Dây (cũng gọi
là ruộng Vua Nghiêu) trên núi Tà Lơn, nhưng còn một ý nghĩa nữa là cảnh thái
bình của Trời Nghiêu Đất Thuấn xưa kia. Giờ đây Trời Phật sắc lịnh cho Ông Điên
có trách nhiệm kiến tạo đời Thượng ngươn Thánh đức như thời Nghiêu Thuấn cho
toàn dân được hưởng. Ngài đã từng cho biết:
“Ta Điên thuở Tam Hoàng Thượng cổ”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
Và: “Nực cười cho lũ sói muông,
“Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn Nghiêu”.
(Bóng Hồng)
-Vì thế, khi đặt chân xuống trần gian, Ngài phải giảng dạy thật
nhiều, nhưng rất đau buồn cho bá tánh, chưa được bao người thức tỉnh. Ngài cầu
xin với Đức Phật Tổ ban ân huệ cho toàn chúng sanh, sớm tỉnh cơn ác mộng, khi
nghe đến lời giảng khuyên của Ngài, liền biết quay đầu hướng thiện. Cũng như
Chung Tử Kỳ khi nghe đến tiếng đờn của Bá Nha, liền rõ được thâm ý.
-Bởi mảnh đất Việt Nam, là nơi Đức Thầy liễu đạo và cũng là nơi có
nhiều linh căn hữu duyên với Ngài, nên kể từ đây, Thầy trò Ngài thường hay giả
dạng nhiều hình thức khác nhau, để lui tới khắp đó đây, hầu tiện bề giảng
khuyên bá tánh. Vậy vạn dân chớ nên khinh khi những người tật nguyền khờ dại mà
phải bị lầm lạc đáng tiếc.
CHÚ THÍCH:
NÚI SAM: Xem chú thích câu 414,
Q.1
VUA NGHIÊU: Xem
chú thích câu 634, Q.1
HUYÊN THIÊN: Rất
nhiều, thật nhiều.
ĐỜN BÁ NHA: Bá
Nha tộc danh là Du Thụy, có tài đờn ít ai bì kịp, làm quan Đại phu nước Tống.
Một hôm đi sứ nước Sở về, nhằm đêm Trung Thu trăng tỏ,Bá Nha cho dừng thuyền
tại mé sông Hàm Dương rồi lấy đờn ra khảy, đờn bỗng đứt dây, Bá Nha nghi có
người nghe trộm, truyền quân lên bờ tìm kiếm. Chung Tử Kỳ liền lên tiếng: Tôi
là kẻ hàn vi, đi đốn củi về ngang đây, thấy Ngài đờn dừng lại nghe, chớ chẳng
phải là người bất lương xin thượng quan thứ cho.
Bá Nha nói:
-Nơi rừng sâu hoang dã nầy làm gì có người biết nghe tiếng đờn của
ta.
Tử Kỳ đáp:
-Tại sao nơi nầy lại có người như Thượng Quan đến đây khảy
đờn ? Có người biết khảy đờn thì ắt có người biết nghe đờn chớ sao !
-Vậy nhà ngươi có biết ta đờn bản vừa rồi là khúc nhạc chi chăng ?
-Ngài đờn bản Đức Khổng Tử thương tiếc thầy Nhan Hồi, tài cao mà
đoản mệnh.
Bá Nha ngạc nhiên bèn mời Tử Kỳ lên thuyền rồi ôm đờn sửa dây
tưởng mình trên non cao khảy…
Tử Kỳ khen:
-Thật là hay ! Chí đại nhơn vòi vọi như non cao (nga nga hồ chí
tại cao sơn).
Bá Nha lại sửa dây gảy một bản nữa, tưởng mình theo dòng nước…Tử
Kỳ tán thán:
-Thật là chí đại nhơn cuồn cuộn như dòng nước chảy (dương dương hồ
chí tại lưu thủy).
Bấy giờ Bá Nha nhìn nhận Tử Kỳ là bạn tri âm, thưởng thức được
thâm ý qua tiếng đờn của mình, bèn cùng Tử Kỳ kết bạn thâm giao. Hai người ăn
uống trò chuyện tới sáng mới chia tay, đồng hẹn nhau sang năm, cũng ngày giờ
nầy sẽ gặp nhau tại đây.
Năm sau, đúng hẹn Bá Nha đến chỗ cũ, không gặp Tử Kỳ bèn lấy đờn
ra khảy, tiếng đờn nghe ai oán não nề. Ông sanh nghi lên bờ tìm kiếm, may gặp
được phụ thân của Tử Kỳ mới hay Tử Kỳ đã chết. Bá Nha liền tìm đến mộ bày lễ
vật tế Tử Kỳ, rồi lấy đờn ra khảy. Khúc ai điếu nghe thảm thiết rồi ông đập nát
cây đờn, vì ông cho rằng Tử Kỳ đã thác, còn ai nghe được tiếng đờn của ta nữa !
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đờn vắng Tử Kỳ đờn với ai ?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm Tri Âm, ôi khó thay !”
Do đây, người sau thường dùng điển tích nầy chỉ cho bạn tri âm tri
kỷ. Trong bài gởi Phường Hậu Tử, làm trong lúc sắp lâm chung, nhà cách mạng
Phan Bội Châu có nói:
“Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm,
Bỗng nghe qua khóc trộm lại thương thầm,
Chung Kỳ chết ném đàn không gảy nữa”.
Ngày nay Đức Thầy dùng điển nầy, ý nói lời Sấm Giảng của Ngài ví
như tiếng đờn của Bá Nha:
“Lão đây thân khó chẳng sờn,
Tỏ lời khuyến khích tợ đờn Bá Nha”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
Vậy ai là người có duyên lành với Ngài, khi nghe đến lời khuyên
nhủ liền hiểu ý mà giác tỉnh tu hành, ấy là người tri âm tri kỷ với Ngài:
“Điệu đờn trỗi khúc huyền thâm,
Nhà nghề chọn bạn tri âm đâu nào ?”
(Thu Đã Cuối)
HUỆ LỰU: Cũng gọi là Huệ Lưu. Huệ
là minh mẫn sáng suốt. Lưu (Lựu) là trôi chảy, ý nói ngôn từ pháp giáo tuôn ra
như dòng nước chảy thấm mát tâm hồn của vạn loại chúng sanh. Vậy Huệ Lựu là
người có Trí Huệ sáng mầu thông suốt tất cả sự vật trong vũ trụ, thấu đạt cả sự
lẫn lý, cả pháp thế gian và xuất thế gian. Không vật nào ngăn ngại được như
tánh chất của nước nơi nào cũng chảy tới và thấm mát được cả. Huệ Lựu là danh
hiệu của Ông Thầy (ông Khùng). Trong Sấm Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai đã
nói:
“Huệ Lựu hết dạ cần lo,
Lưu truyền một bổn sao cho dân tường”.
Hoặc là:
“Huệ Lựu diễn nghĩa mấy hàng,
Cầu cho già trẻ luận bàn tu thân”.
HUỆ TÂM: Tâm trí sáng suốt trong
sạch, chẳng còn vi tế phiền não, chỉ cho bậc đã chứng đắc “Tha Tâm Thông”. Đức
Thầy từng nói:
“Huệ Tâm khai ngữ chuyển huyền thông”.
(Cho Ông Tham Tá Ngà)
Hoặc là:
“Tâm sáng suốt như đài nguyệt kiếng,
Tánh trong như nước bích mùa Xuân”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
Huệ Tâm ở đây là danh hiệu của Ông trò (một trong 3 ông tớ theo
Đức Thầy độ chúng).
Vào đầu Xuân năm Kỷ Mão (1939) Thầy Ba Thận ở Phú Lâm có đem câu
giảng “Thầy thì Huệ Lựu tớ thì Huệ Tâm” hỏi Đức Thầy, thì Ngài trả lời rằng;“
Đó là danh hiệu của một ông thầy và một ông đệ tử”. Ví dụ như tôi là Thầy Tư
Hoà Hảo, còn ông là Thầy Ba ở Phú Lâm, chớ có gì đâu mà khó hiểu. (Đức Thầy
xưng hô với các đệ tử thường dùng chữ Tôi và Ông, Tôi và các Ông Bà. Còn Thầy
Ba Thận là ông Thầy dạy chữ Nho tên Thận).
CHÁNH VĂN
853.“Đời cùng còn chẳng mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
856. Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.
Khuyên trong lê-thứ trẻ già,
Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho.
Ấy là quí-báu thơm-tho,
860. Đừng ham gây-gổ nhỏ to làm gì.
Con thì ăn ở nhu-mì,
Học theo luân-lý kính vì mẹ cha.
Sau này sấu bắt hùm tha,
Xử người tàn-bạo vậy mà tại đây.
Đời xưa quả-báo thì chầy,
866. Đời nay quả-báo một giây nhãn tiền”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 853 tới câu 866):
-Đoạn giảng vừa qua ý nói cuộc đời ngươn Hạ sắp đến ngày cùng
cuối, nhân loại phải trải qua cuộc tang thương biến đổi để lập lại Thượng
ngươn; trước giờ phút ấy thế giới xảy ra cuộc chiến tranh dữ dội:
“Cảnh sông máu núi xương tha thiết”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
Nạn giặc giã gây cho dân chúng trạng huống khổ sầu: Con xa cha,
chồng lìa vợ, gia đình tan nát, vườn ruộng đổi dời. Đức Giáo Chủ khuyên khắp
vạn dân nên trau dồi hiền đức để Đức Phật cứu thoát cảnh hãi hùng ấy.
-Bởi chỉ có con đường hiền đức mới được sống đời Thượng ngươn an
lạc và mới:
“Thơm tho gia trụ danh tề Tổ Tông”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
-Kẻ tu hành hãy dẹp bỏ lòng sân si gây gổ, những tiếng gièm siểm
chê bai, nên tập tánh ở ăn cho đúng một con người có đạo lý. Bổn phận mỗi cá
nhân, cần đối xử trọn vẹn đạo làm người. Trong gia đình biết tôn kính bảo dưỡng
và vâng lời cha mẹ, gây sự hòa thuận giữa anh em; ngoài xã hội thời xử sự cho
hợp với lẽ phải.
-Còn những kẻ bạo tàn hung ác, sau nầy sẽ có cuộc phân xử tại thế
gian, bằng cách bị các loài thú dữ phân thây; tới chừng ấy:“Có con nghiệt
thú nuốt mà người hung”. (Sấm Giảng, Q.1)
Và:
“Hổ lang ác thú muôn bầy,
Lớp bay lớp chạy sau nầy đa
đoan.
Ai mà ăn ở nghinh ngang,
Đón đường nó bắt xé tan xác
hồn”
(Sấm Giảng, Q.3)
Từ xưa luật trả vay của nhân quả có khi phải trì huỡn (hoãn) tới
kiếp sau và nhiều kiếp nữa; nhưng với thời nay là phải trả báo trong kiếp hiện
tiền. Bởi kiếp cùng cuối thì tất cả nợ nần phải thanh toán cho dứt, nên cảnh
trả quả tới đây, rất hãi hùng chưa từng thấy.
Đức Thầy đã diễn tả:
“Trải một lúc cuồng ba sóng dậy,
Chắc nhơn sanh sẽ thấy việc chi.
Trời đà sắp đặt ly kỳ,
Tới ngày trả quả ầm ì biết bao”.
(Thu Đã Cuối)
CHÚ THÍCH:
NHỎ TO: Xem chú thích câu 343,
Tập 2, Q.4
LUÂN LÝ: Cái nguyên lý Đạo đức của
con người và lý lẽ của Đạo Nhân luân, tức là đạo làm người, gồm có “Ngũ Luân,
Ngũ Thường và Tam Tùng, Tứ Đức”. Ăn ở đúng theo luân lý tức là đối xử cho tròn
cái đạo làm người. Ngài Mạnh Tử bảo:“Nội tắc phụ tử, ngoại tắc Quân thần;
nhân chi đại luân giả”.(Bên trong thì đạo cha con, bên ngoài là đạo vua
tôi, đó là giềng mối lớn của đạo làm người).
Trong Sấm Giảng Q.3, Đức Thầy cũng dạy:
“Nào là luân lý Tứ ân,
Phải lo đền đáp xác thân mới còn”.
KÍNH VÌ MẸ CHA:
Biết kính trọng nể vì cha mẹ. Ở đây Đức Thầy chỉ dạy người con đối với cha mẹ
phải vẹn tròn câu hiếu thảo.
Trong Trường A Hàm kinh, Phật dạy:“Làm con kính thờ cha mẹ có 5
điều:
1.-Cung cấp món ăn thức mặc đầy đủ.
2.-Làm việc chi, trước phải thưa hỏi cha mẹ.
3.-Những việc phải của cha mẹ làm, mình phải kính thuận.
4.-Mạng lịnh chánh đáng của cha mẹ không nên cãi.
5.-Chẳng đặng đoạn tuyệt nghề nghiệp chánh đáng của cha mẹ.
Ngày nay Đức Thầy cũng thường dạy:
“Hiếu trung chuyện tích sờ sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)
Và “Mẹ cha là kẻ trọng ân,
Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu già”.
QUẢ BÁO: Luật quả báo, tức là nhân
quả, là luật trả vay của nhân và quả, mình làm việc lành hoặc dữ thì sớm muộn
gì cũng có sự tốt hoặc xấu trả lại.
Kinh Minh Thánh đã bảo:“Thiện Ác đáo đầu chung hữu báo, Chỉ
tranh lai tảo dữ lai trì”.(Làm việc lành hay dữ chừng đối đầu đều có báo
cả. Chỉ khác nhau là sớm hay muộn đó thôi).
Sự quả báo ấy có nhiều cách, tạm chia làm năm phần:
1. Hiện báo: Quả báo trong một đời, hễ mình tạo việc
thiện hay ác trong kiếp nầy, thì sớm muộn gì cũng bị trả lại quả vui hoặc khổ
trong kiếp nầy.
2. Sanh báo: Quả báo hai đời, là mình làm lành hay dữ
trong đời nầy, qua đời kế đó mới có kết quả vui hay khổ, hoặc gây tạo ở kiếp
vừa qua mà kiếp nầy thọ hưởng.
3. Hậu báo: Quả báo nhiều đời, là gây tạo nhiều kiếp
trước, kiếp nầy trả, hoặc hành động kiếp nầy đợi tới nhiều kiếp sau mới trả.
4. Nhồi báo: Là nghiệp nhân đã gây tạo nhiều lần trong
nhiều tiền kiếp, bây giờ phải trả dồn một lượt.
5. Dư báo: Là những nghiệp nhân yếu ớt thiếu trợ duyên
từ vô lượng kiếp tới giờ còn sót lại, vì hành giả tu hành tinh tấn nên những
hột giống đó không có cơ hội phát triển nhưng nó cũng không úng chết, đợi tới
kiếp hành giả đắc đạo mới bị trả quả một cách nhẹ nhàng. Như trường hợp tiền
kiếp của Đức Thích Ca có giết mấy chục mạng giặc cướp, đợi đến kiếp đó Ngài chỉ
bị cây giầm đâm vào bàn chơn là đủ.
Tóm lại, “Luật quả báo” rất nghiêm minh dù cách nầy hay cách khác,
nhưng tất cả hễ có vay phải có trả.
Ngài Tế Điên Hòa Thượng có răn đời:
“Khán tận Di Đà Kinh,
Niệm triệt Đại Bi Chú.
Chưởng qua hoàn đắc qua,
Chưởng đậu hoàn đắc đậu.
Kinh Chú Bổn Từ Bi,
Oan kết như hà cứu ?
Chiếu kiến Bổn lai Tâm,
Tố giả hoàn tha thọ”.
Tạm dịch:
“Xem hết Kinh Chú Phật Đà,
Trồng dưa tỉa đậu quả mà kết y.
Kinh pháp vốn từ bi giải khổ,
Nghiệp đã gây Phật độ được nào ?
Bổn tâm phản chiếu tận vào,
Người sai người chịu ta lầm ta mang”.
Đức Thầy hiện nay cũng bảo:
“Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”.
Hay là:
“Luật nhân quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một
ai”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
CHẦY: Cũng gọi là trì, có nghĩa
chậm hay muộn.
MỘT GIÂY: Một
phần 60 của một phút, nghĩa rộng là khoảng thời gian rất ngắn.
QUẢ BÁO MỘT GIÂY NHÃN TIỀN: Sự quả báo rất mau lẹ (hiện báo), gieo nhân và hưởng quả chỉ
trong một kiếp nầy. Dưới đây là mẩu chuyện để chứng minh cho vấn đề.
Vào khoảng mùa Xuân năm Mậu Ngọ (1978) tại chợ Núi Sập xã Thoại
Sơn (Huệ Đức) có xảy ra câu chuyện như sau. Gia đình anh Thành là chủ sở hầm đá
tại đây. Anh bị đi học tập cải tạo, ở nhà còn cha mẹ, một vợ và 3 đứa con nhỏ.
(Dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, người ở tù gọi là “học tập”). Cuộc sống đang
bình thường, bỗng một hôm con mèo nuôi trong nhà, vào cái thùng đựng dép của
chị Thành đẻ 3 con mèo con. Chị Thành quá ghê tởm và giận dữ vội bưng thùng mèo
cả mẹ lẫn con, trút xuống sông chết hết.
Hôm sau chị nằm mộng thấy một bà già đến xưng là con mèo mẹ, đòi
chị Thành phải đền 3 mèo con cho nó, nếu không thì phải giết 3 đứa con để đền
mạng.
Qua đêm thứ nhì chị Thành cũng thấy y như vậy, chị hết sức buồn
bực lo sợ. Mấy hôm sau chị ra chợ mua bánh và thuốc ngủ về cho 3 đứa con ăn
uống. Khi 3 đứa nhỏ ngủ lịm, chị đem vào phòng đóng cửa lại, dùng dao đâm vào
cổ họng 3 đứa nhỏ chết hết. Đoạn rồi chị tự cắt cổ và mạch máu nơi hai tay,
chẳng biết bị đau hay đuối sức quá mà chị bị ngã xỉu nằm bất tỉnh.
Sáng ra, cha chồng của chị thường bữa đều đến dắt 3 đứa cháu nội
đi chợ…nhưng khi tới nơi thì cửa phòng vẫn còn đóng, thấy có một bà già ngồi
tại cửa hông. Ông rất ngạc nhiên bèn tông cửa vào thấy cảnh trạng như vậy. Ông
liền chạy xuống lầu la lên, mọi người chung quanh đến tiếp cứu thì bà già biến
đâu mất; 3 đứa nhỏ đã chết, chị Thành còn thoi thóp nên được chở đến bệnh viện
cứu cấp…Khi chị Thành bình tĩnh lại mới thuật rõ câu chuyện xảy ra như đã kể
trên.
Anh Thành ở nơi lao ngục nghe tin ấy liền phát bịnh điên. Nhà nước
trả tự do cho anh. Còn chị Thành khi hết bịnh bị tống giam vì tội giết 3 đứa
con.
Nghe chuyện nầy có người bình luận, con mèo đó là Linh Miêu, nhưng
nhiều người khác thì nhận đây là cuộc trả báo nhãn tiền.
(Tường thuật theo lời cô Hiền, người bị giam chung với chị Thành).
CHÁNH VĂN
867.“Dương-trần phải rán làm hiền,
Đừng trọng bạc tiền bỏ nghĩa bỏ nhân.
Người hung phải sửa cái thân,
870. Từ đây có kẻ Du-Thần xét soi.
Chuyện người chớ móc chớ moi,
Hãy treo gương thiện mà soi lấy mình.
Ai thương ai ghét mặc tình,
874. Phận mình cứ giữ tâm mình cho ngay.
Điên đây vưng lịnh Phương Tây,
Hầu hạ bên Thầy đặng cứu bá-gia.
Thấy đời lòng dạ tây-tà,
878. Cứ theo chế nhạo cười mà người Điên”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 867 tới câu 878):
-Đức Giáo Chủ kêu gọi chúng dân rán làm lành lánh dữ, đừng vì tiền
bạc để mất nghĩa nhân; bởi nhân nghĩa là then chốt của đạo làm người, nếu để
mất đi thì làm người chưa hẳn được mong gì đạt đến quả vị Phật Tiên. Còn những
kẻ hung dữ thì Ngài khuyên từ đây nên cải hối tu thân, bởi mọi hành vi thiện
ác, đều được Thần Thánh xét đoán phân minh.
“Nhơn gian tư ngữ Thiên văn như lôi, ám thất khuy tâm Thần mục như
điển”.(Lời nói riêng của nhơn gian
Trời nghe như sấm nổ, lòng tính quấy trong nhà kín mắt Thần xem như điện chớp).
-Đã tu hành thì không nên ngồi lê đôi mách, xoi xỉa chuyện sai
trái của người khác, mà nên noi theo những gương tốt lành từ xưa để lại, hầu lo
tu thân xử kỷ đúng theo qui tắc của Đạo; miễn sao thân tâm mình được ngay thẳng
tốt lành. Còn những tiếng thị phi thương ghét của người đời, chẳng nên bận tâm
vô ích.
-Phần người viết Sấm nầy ( ông Điên ) vì có sắc lịnh của Đức A Di
Đà và Đức Phật Tổ, nên lúc nào cũng theo sát bên Thầy (Phật Thầy) để cứu độ vạn
dân. Thế mà có số người không nhận được, mãi lo khinh khi cười nhạo.
CHÚ THÍCH:
NHÂN NGHĨA: Hai
điều trong Ngũ thường. Nghĩa là làm các việc phải, có ích lợi
cho mọi người và đúng theo con đường đạo lý, Nhân là lòng hiếu
đạo hay thương người mến vật.
Ngài Mạnh Tử có nói:“Nhân nhơn tâm giả, Nghĩa nhơn lộ giả, xả
kỳ lộ như phất do, phóng kỳ tâm nhi bất tư cầu, ai tai !”(Nhân là lương tâm
của người, Nghĩa là con đường bằng phẳng và rộng lớn của con người. Thế mà
người đời vì lòng tư lợi nỡ rời xa đường Nghĩa. Vì lòng tư dục đành bỏ mất
lương tâm, thật đáng thương thay!).
Đức Giáo Chủ cũng từng thống trách hạng người bỏ Nghĩa bỏ Nhân:
“Giàu sang lắm kẻ vô nghì,
Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa nhân”.
(Không Buồn Ngủ)
Cho nên Ngài từng kêu gọi:
“Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
Muốn về cõi Phật lập thân
cỏi trần”.
(Thu Đã Cuối)
DU THẦN: Xem chú thích câu 675,
Q.1
CHỚ MÓC CHỚ MOI: Không nên thổi lông tìm vít, xoi xỉa tìm tòi chuyện quấy của
người khác.
Cổ nhân từng bảo:
“Các nhơn tự tảo môn tiền thuyết,
Bất quản tha nhơn ốc thượng sương”.
(Mỗi người tự quét tuyết ngoài thềm, Chớ bận nhà người sương phủ
nóc).
Ý cũng đồng dạy: Nên thấy lỗi của mình để cải sửa, chớ nên moi móc
chuyện sái quấy của thiên hạ.
TREO GƯƠNG THIỆN: Ghi nhớ những gương hạnh tốt lành để học đòi theo. Đức Thầy
đã nhắc nhở tín đồ noi theo những gương thiện, xin đơn cử một số: Xả thân bố
thí như Cấp Cô Độc; hiếu thảo như Muc Liên, Mạnh Tông; hiền đức và thương dân
như Nghiêu, Thuấn; trung hiếu vẹn toàn như Nguyễn Trung Trực, Nhạc Phi; hy sinh
tầm Đạo giải thoát như Thái tử Sĩ Đạt Ta…
Và Ngài cũng hằng dạy:
“Đấng nam nhi học lấy điều khôn,
Lòng trung hiếu gìn theo đạo lý.
Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền”.
(Khuyến Thiện, Q.5)
BÁ GIA: Trăm nhà, ý chỉ chung cho
tất cả mọi người.
TÂY TÀ: Xem chú thích câu 139.
Q.1
CHÁNH VĂN
879.“Ngồi buồn kể chuyện huyên-thiên,
Chẳng có ham tiền cũng bị ghét vơ.
Viết cho bá-tánh ít tờ,
882. Đi làm ruộng rẫy bỏ hờ theo xem.
Thương người nghèo khổ lấm-lem,
Thấy cảnh sung-sướng nó thèm quá tay.
Ai mà biết đặng ngày mai,
886. Ngày
nay yên-tịnh ngày mai thảm-sầu.
Từ rày gặp cảnh buồn rầu,
Cho người tàn-bạo cứng đầu khinh-khi.
Dương-trần nay đáng sầu-bi,
890. Nên
Điên mới nói chuyện ni tỏ tường.
Đêm ngày tưởng Phật cho thường,
Phải rán lo-lường kim-chỉ từ đây.
Thương đời Điên mới tỏ bày,
894. Dạy trong trần-hạ ngày rày rán nghe.
Đừng khi nhà lá chòi tre,
896. Nhà săng cột lớn bù-xè hay ăn”.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 879 tới câu 896):
-Đoạn nầy ý nói vì lòng từ bi, Đức Giáo Chủ khuyên dạy bá tánh
thật nhiều, chớ chẳng phải vì ham tiền bạc, thế mà cũng bị lắm kẻ chẳng ưa.
Ngài khuyên mọi người dầu có đi làm ruộng rẫy phương xa, cũng nên đem Kinh
Giảng theo, để lúc rảnh việc xem coi tìm hiểu nghĩa lý, hầu có thực hành theo.
-Thảm thương cho những kẻ nghèo khó tay lắm chơn bùn, sống cuộc
đời cơ cực, vất vả quanh năm suốt tháng; nhìn hạng người giàu sang sống trong
phong cảnh đài các họ rất thèm thuồng, nhưng nào có ai ngờ trước:
“Máy thiên cơ mỗi phút mỗi thay,
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
Đường vinh nhục rủi may một lát”.
-Tuy ngày nay thấy yên lành sung sướng, nhưng biết đâu ngày mai
biến loạn thảm sầu. Đức Giáo Chủ còn cho biết thêm: rồi đây kẻ tàn bạo sẽ thấy
cảnh đau thương sầu khổ dồn đôn tới tấp. Vì lòng quá thương bá tánh nên Ngài
chỉ bày cặn kẽ để khuyên mọi người hãy rán niệm Phật thường xuyên và biết lo
cần kiệm làm ăn, bớt xa hoa phung phí, vì cảnh:
“Nghèo với đói từ đây sẽ biết,
Hàng ngoại bang bố thiết ta hoài”.
-Ngài còn chỉ dạy chúng dân, thấy kẻ nghèo khổ chớ vội khinh khi
mà hãy thương xót, vì cảnh giàu sang phú quí giữa thời nay:“Như cành hoa
sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc”(bài Lời Khuyên Bổn Đạo).
CHÚ THÍCH:
CHUYỆN NI:
Chuyện nầy, chỉ cho chuyện đã hoặc đang trình bày. Đức Thầy từng khuyên:
“Ai ai phải rán mà suy,
Thương đời ta tỏ chuyện ni rõ ràng”.
(Sám Giảng, Q.3)
KIM CHỈ: Cây kim và sợi chỉ. Nghĩa
rộng là chỉ cho người tiết kiệm tiền của, kỹ lưỡng trong việc tiêu xài, không
xa hoa phung phí. Đức Thầy có khuyên:
“Trong bổn đạo từ đây kim chỉ,
Đói với nghèo sắp đến bây giờ”.
(Kệ
Dân, Q.2)
BÙ XÈ: Một loại côn trùng, thích
đục ăn các thứ cây khô và cứng, nhưng không phải là danh mộc, dù cột nhà hay
ván ngựa v.v… Ở ngoài da coi làu làu, nhưng bên trong chúng đã đục khoét bỏng
lỏng hết. Đây ý nói kẻ giàu sang làm điều dối trá, tuy họ có nhà săng, cột lớn,
nhưng từ đây sẽ gặp nhiều tai nạn, phải hao tài tốn của. Đây có ý chỉ những nhà
giàu có thường bị những kẻ gian tà nịnh tặc, làm tiền đủ cách:
“Cảnh vinh hoa lại quá cheo leo,
Nhà giàu có sau nhiều tai ách”.
(Kệ Dân, Q.2)
CHÁNH VĂN
897. “Lúc này
Điên mắc lăng-xăng,
Dương trần biết đặng đạo-hằng mới thôi.
Chẳng ham cúng kiếng chè xôi,
900. Phật Trời chẳng muốn điều tồi ấy đâu.
Muốn cho dân hiểu Đạo-mầu,
Chớ không có muốn chùa lầu cho cao.
Bao nhiêu cũng biết vàng thau,
904. Dạy khôn trần-thế chớ nào dạy ngu.
Sáng ngày con chó sủa tru,
Chừng heo cắn ổ hiềm thù mới yên.
Đừng ham giành-giựt của tiền,
908. Người hung hay gọi kẻ hiền rằng ngu.
Nay Điên chỉ rõ đường tu,
Ấy là đủ việc tài bù cho dân.
Thôi thôi nói riết dần lân,
912. Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên”.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
LƯỢC GIẢI (Từ câu 897 tới câu 912):
-Bước đầu của công cuộc cứu thế, Đức Giáo Chủ có rất nhiều trách
nhiệm, mong sao khắp bá tánh “Hiểu biết phận sự con người phải làm
gì trong kiếp sống”.(bài Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ).
Tức là phải đối xử cho tròn nhân đạo là điều trước hết. Ngài kêu
gọi mọi người hãy bãi bỏ tục lệ cúng kiếng chè xôi, lầu kho xá phướn, chuông mõ
tụng tán, vì đó là những tệ đoan, do từ đời Thần Tú bày ra đến nay, làm cho dân
chúng tin theo một cách mù quáng. Nếu ai tu hành như thế thì biết bao giờ thấu
đạt lý mầu của Đạo pháp. Đức Thầy từng cho biết:
“Đạo mầu diệt khổ có từ
lâu,
Thần Tú ra đời lại góp thâu.
Chuông mõ sám kinh bèn cải sửa,
Xá phướn truyền lưu lấp đạo mầu”.
(Muốn Lánh Phồn Hoa)
-Trước khi dừng bút, Đức Thầy dặn dò bá tánh bao nhiêu lời lẽ
trong đây cũng đủ giúp cho mọi người nhận được đâu chơn đâu giả. Lời giảng của
Ngài làm cho ai cũng hiền lành sáng suốt, chớ chẳng phải làm cho mờ tối đâu, mà
họ còn ngờ vực. Ngài cũng tiên tri đến thời kỳ thái bình an lạc, qua hai câu
giảng 905-906. Hạng người hung bạo thấy kẻ hiền lành, không tranh đua tiền bạc
thì họ cho là ngu dại, đó là sự thường.
-Bài thi tứ cú khoán thủ sau quyển Nhứt nầy, tựa
đề là “Hãy Chờ Thiên Định”, đã có bên phần Thi văn Giáo lý, nên ở đây
chúng tôi không chú giải.
-Để kết thúc quyển “Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu
Niệm”, Đức Giáo Chủ cho mọi người được biết; những lời chỉ dạy trong đây có
đủ diệu năng giúp chúng sanh tiến đến chỗ vinh quang rực rỡ. Vì Ngài đã vạch rõ
con đường tu niệm, nếu ai cố gắng trì hành theo đó, tất được toại nguyện.
CHÚ THÍCH:
LĂNG XĂNG: Nhiều
việc bận rộn.
ĐẠO HẰNG: Đạo
thường, tức năm mối Thường Hằng (Ngũ Thường), gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín.
-Nhân là lòng hiếu Đạo hay
thương người mến vật.
–Nghĩa là biết phải, làm các việc ngay thẳng chơn
chánh, hợp với Đạo lý.
-Lễ là biết kẻ lớn người nhỏ,
chỗ trọng chỗ khinh, kính người trên, nhượng chỗ dưới, đầy lòng cung kính chùa
miễu lăng mộ.
-Trí là sáng suốt, biết phương
kế mưu lược, hiểu rõ việc hư nên tốt xấu, chẳng bị lầm lạc.
-Tín là lòng thành tín, chân
thật của con người, không gian dối lừa phỉnh ai.
Đạo Hằng cũng gọi là Đạo làm
người.
Đức Thầy có câu:
“Ngũ luân lễ nghĩa năm
hằng,
Tam cang trung trực người rằng ngu si”.
ĐIỀU TỒI: Điều
tệ hại, dị đoan mê tín như: cúng kiếng chè xôi, xá phướn lầu kho, giấy tiền
vàng bạc v.v…
ĐẠO MẦU: Đạo rất mầu nhiệm sâu
kín, không phải tìm qua loa bằng hình tướng mà được, hành giả phải xoay về bản
tâm đem hết trí năng suy gẫm nghiên cứu mới mong thấu rõ. Pháp Bửu Đàn Kinh có
câu:
“Biển tâm yên lặng thấy minh châu,
Thanh tịnh vô vi ấy đạo mầu.
Chư Phật ba đời nương một mạch,
Hồi quang phản chiếu vọng tâm thâu”.
Nay Đức Giáo Chủ cũng dạy”
“Xả thân tầm đạo vô vi,
Nhiệm mầu thâm diệu nan tri lão bày”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
BIẾT VÀNG THAU: Biết được sự giả hay thiệt. Lúc viếng làng Mỹ Hội Đông, Đức
Thầy nói:
“Lọc lừa hiểu đặng vàng thau,
Đem thân mua lấy mận đào thiên nhiên”.
TÀI BÙ: Cũng gọi là tài bồi. Có
nghĩa là vun trồng hay nâng đỡ và đào tạo. Ca dao có câu:
“Nước còn quến cát làm doi,
Huống chi ta chẳng tài bồi lấy nhau”.
Đức Thầy từng nhắc nhở:
“Bắc Nam một dãi sơn hà,
Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi”.
(Gọi Đoàn Tráng Sĩ)
DẦN LÂN: Nói nhiều, nói hết việc
nầy sang việc khác, cách nói cốt kéo dài câu chuyện hoặc nhắc tới nhắc lui
nhiều lần.
Đăng nhận xét