CHƯƠNG THỨ HAI: Phần Giáo-Lý Phật Giáo Hoà Hảo
Hỏi. – Tôi đã hiểu thân-thế và hành-trạng của Đức Huỳnh Giáo-Chủ, nhưng tôi chưa hiểu giáo-lý của Ngài như thế nào. Vậy xin quí ông giải cho tôi rõ.
Đáp. – Như chúng tôi đã cho biết Ngài lâm-phàm là có sứ-mạng
hưng-truyền giáo-pháp của Phật Thích-Ca như Ngài đã từng thuyết:
Rút trong các Luật các Kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng này.
Câu này đủ minh-chứng Ngài đã rút tỉa tinh-lý của Phật
trong Tam-tạng tức là Kinh-tạng, Luật-tạng và Luận-tạng mà nêu rõ trong Sám-giảng
của Ngài.
Đồng thời, vì phương-tiện thích-ứng với trình-độ của
nhơn-sanh, Ngài xiển-minh đạo Thánh Hiền để đem con người trở lại với phong-hóa
thiện-mỹ cổ-lai, như Ngài đã phổ-biến:
Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh,
Nên truyền ban cho chúng-sanh tường.
Hay là:
Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh,
Sách Thánh Hiền dạy đạo làm người.
Như thế chúng ta có thể tóm lược giáo-lý của Ngài gồm có
hai quan-điểm: Nhơn-đạo và Phật-đạo.
H. – Về nhơn-đạo, Ngài chủ-trương như thế nào?
Đ. – Đứng trước xã-hội hiện-nay, cái xã-hội tiêm-nhiễm theo
văn-minh vật-chất mà đa số gia-đình đã bại hoại, phong-hóa đã suy-đồi, đạo Nho
đã thất bổn, Ngài lấy làm đau-đớn cho thế-đạo nhơn-tâm mà chẳng ngớt cực-lực
bài-xích những thói hư tật xấu của người đời.
I. – Về gia-đình, việc loạn-luân cang-kỷ càng ngày càng
thêm chất-ngất, như giữa cha con thì mất cả hiếu từ, giữa chồng vợ thì mất cả
ân nghĩa, giữa anh em thì mất cả kính thuận, giữa bè-bạn thì mất cả thành thật,
giữa chủ tớ thì mất cả trung tín…
Ngoài ra, giữa tôi chúa không còn trung nghĩa, giữa thầy
trò mất cả kỉnh-thành. Nói tóm lại đạo luân-thường đã hư-hèn bại-hoại:
Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân;
Nào kể chi là đạo quân thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ,
Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết thầy tội ấy đáng không?
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh đệ cùng nhau xâu-xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào,
Tình nhân-loại phân chia yểm-bách.
II. – Về phong-hóa thì xã-hội càng ngày càng đồi-bại,
nảy sanh ra nhiều hạng người: đàng-điếm chơi-bời, gian-phi hung-ác, ích-kỷ sâu
dân…
1.-Hạng đàng-điếm chơi
bời không lúc nào thạnh hành bằng từ khi có ngọn gió vật-chất thổi mạnh
vào làm cho con người say mê:
a) Quen thói chè chén say-sưa vất-mả, la ó đánh đập, sanh
ra lắm việc tồi-tàn;
b) Đàng-điếm đĩ-thỏa, son phấn lả-lơi, trêu hoa cợt nguyệt,
bày trò dâm-loàn khả-ố;
c) Đấu kê đổ-bác, dối gạt lận lường, thua thiếu nợ-nần sanh
ra cướp giựt;
d) Hút xách ghiền-gập, cạo ống vét nồi, cầm quần bán áo,
làm những điều hèn-hạ nhuốt-nhơ.
Về vần-đề này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã khéo trách thiện trong
mấy vần thơ dưới đây:
Ở thị-thiềng đua chen xướng-khởi,
Những tuồng hư cho bọn gái lẫn trai.
Nào hút thuốc phiện hội ve chai,
Nào trùm đĩ, ma-cô, nghề hút máu,
Ai để mắt xem đời châu đáo,
Chẳng khỏi than giùm dân-tộc hư hèn.
Diện áo quần, son phấn lấn chen,
Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.
Mảng điểm-tô huy-hoàng nhà cửa.
Ai khốn cùng để mặc đất Trời xoay.
2- Hạng gian-phi là những kẻ:
a) Chuyên sống về nghề khoét vách đào tường, năm này tháng
nọ chẳng chịu ra sức làm ăn; ngoài ra còn bày mưu này kế nọ lường gạt kẻ làm ăn
chơn chất mà lòng không chút ăn-năn cải-hối.
b) Chuyên sống về nghề mua giựt bán giành, buôn lậu đầu-cơ,
lường cân tráo đấu, hại kẻ quê mùa dốt nát vì mình mà sống cơ-cực thiếu thốn.
Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ thường xuyên:
Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
Chớ tập tánh lận lường tráo đấu.
Các công cuộc của người tánh xấu,
Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào.
c) Chuyên sống về nghề cho vay cắt cổ, vốn một lời mười,
thi-hành phát-mãi, ở đợ nát lời gây nên một cảnh-trạng bức hiếp thê-thảm cho kẻ
cô thân bần tiện.
3- Hạng hung ác là những người:
a) Chưởi cha mắng mẹ, rủa xả chòm riềng, không kiêng già cả,
kêu réo Thánh Thần, miệng không ngớt lời độc ác với kẻ trong nhà cũng như người
ngoài ngỏ.
b) Ỷ khôn lanh húng-hiếp những người hiền lương khờ-khật, từ
miếng ăn cho đến thức mặc đều đặt trên lẽ hung tàn ác-độc.
4- Hạng ích-kỷ là hạng người chỉ biết sống riêng,
ngày tháng cứ bo-bo giữ của, không lòng bố-thí. Chẳng những thế mà lại còn
tham-lam vùa hốt của người một cách sâu hiểm.
5- Hạng sâu dân là hạng người giá áo túi cơm, phỉnh
gạt dân-chúng bằng ngòi viết ngọn roi khiến cho đám dân đen phải sống dưới sự
đàn-áp bóc-lột mà họ vẫn ngang-nhiên không biết xấu-xa hổ-thẹn.
Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã lắm phen thống-trách như
mấy vần thơ dưới đây:
Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bã vinh nhiều hạng túi cơm;
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.
6- Hạng người ngợm là
hạng người:
a) Vô-ích trong xã-hội, sống một cách trơ-trẻn dưới sự ám-ảnh
của nhục-dục, chỉ biết ăn với ngủ, không khác gì đời sống của con vật.
Về hạng này trong Sám-Giảng có đoạn tả như vầy:
Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa,
Coi sự sống như Tiên nưa-nửa;
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo thức tỉnh quầy đầu,
Cho khỏi thẹn với người Thượng-cổ.
b) Vô liểm-sỉ, chỉ vùi đầu óc trong cuộc truy hoan dật-lạc,
lo chưng diện hình vóc lả-lơi, bày trò bướm ong hoa nguyệt một cách nhơ-nhuốc tối-tăm.
Chẳng những thế mà lại còn tự-phụ vào mớ học văn-minh cặn bã, trở lại phỉ-báng
ông cha, khinh chê cổ-tục, không chút liêm-sỉ thẹn-thùa.
Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ không ngớt than phiền như mấy
câu thơ dưới đây:
Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày ngày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.
Trong tâm chứa những điều tà,
Lời ăn tiếng nói thiệt là quá lanh.
Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
Chẳng trau hiền đức học hành làm chi.
Khôn ngoan thời những chuyện gì,
Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.
Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ bại u-mê hơn mình.
Tự-do trai gái kết tình,
Với lo trau sửa cho mình đẹp tươi.
Gái trai đến tuổi hai mươi,
Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả lơi.
So hình sửa sắc chiều mơi,
Đặng làm những chuyện trái đời vô-liêm.
Cớ sao chê cổ trọng kim,
Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
Thấy đời trần hạ thon-von,
Ai nuôi cho lớn mà còn khinh-khi.
Ông cha thuở trước ngu-si,
Mà ngay mà thảo hơn thì đời nay.
Học hay lợi-dụng tiền tài,
Lên quan xuống huyện ăn xài lả-lê.
Gặp ai đói rách cười chê,
Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
Chẳng lo rèn trí lập thân,
Để làm xảo trá khổ thân sau này.
III. – Về đạo Nho thì thuyết tu tề trị bình, nền
tảng luân thường đạo nghĩa của ngàn xưa, đã đến hồi suy-vi hủ-bại. Kẻ học Nho
ngày nay không còn mấy người được phong-độ quân-tử, đem đạo Thánh Hiền truyền-bá
trong dân-gian, chấn-chỉnh cang thường đạo nghĩa, gây nên một học-phong sĩ-khí,
mà chỉ đem cái sở học ra áp-dụng vào những việc buôn y bán lễ, làm thơ cợt nhã
trêu đời, coi như dưới mắt không ai, hiêu hiêu tự đắc.
Về hạng hủ nho này, Sám-Giảng có đoạn biểu-trạng như vầy:
Đàng nhu thầy lễ cũng kỳ,
Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng.
Lại thêm đờn-địch từng-tưng,
Đem con heo sống mà dưng làm gì.
Chủ gia kẻ lạy người quì,
Làm chuyện dị-kỳ giả dối hay không?
Nếu không thì trả lời không,
Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.
Thương đời Ta luống sầu bi,
Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
Rung đùi ngâm chuyện trên Trời,
Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.
Thấy đời Ta cũng héo-von,
Học trò mà chẳng làm tròn nghĩa nhơn.
Khoe mình mà chẳng có ai hơn,
Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.
Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,
Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.
Hốt thời cắc bảy, cắc ba, (1)
Chúng đòi năm cắc người ta hoảng hồn.
Lành bay còn ác lại tồn,
Đến chừng lập hội xác hồn lìa xa.
(1) Giá tiền hồi năm
1939
Nói tóm lại, đứng trước hiện-tình gia-đình bại-hoại,
phong-hóa hư-hèn, đạo Nho suy-đốn vì làn sóng vật-dục lôi cuốn ồ-ạt, Đức Huỳnh
Giáo-chủ đầy lòng trắc-ẩn, trước khi đem nền đạo-lý chánh-đáng đặt lên xã-hội
loài người, Ngài cực-lực bài bác những phần-tử có thói hư tật xấu ấy để
cách-chánh luân-thường đạo-lý.
H. – Vậy Ngài cách-chánh bằng phương-pháp nào?
Đ. – Để đối trị cái bịnh của thời-đại quá đắm say dục-lạc,
trước hết Ngài đem con người trở lại với bản tâm lương thiện, bằng cách chấn-phục
đạo ngũ-luân ngũ-thường và tam tùng tứ-đức đã có từ xưa.
1- Ngũ-luân.
a) Đạo quân thần là mối đạo vua tôi. Lúc bình thời
thì lo củng-cố cho đất nước được phú-cường, khi có giặc phải đem thân ra ngăn đỡ
cho nước nhà khỏi lọt vào tay kẻ địch, dù phải hy-sanh tánh-mạng. Hãy xem đó là
cơ-hội độc nhứt cho mình đáp ơn đất nước, không hề vì quá tham sanh úy tử làm mất
sự trung,
b) Đạo sư đệ là mối đạo giữa thầy trò. Phận làm
trò phải kính và vâng lời dạy bảo của thầy. Đứng trước mặt thầy, lúc nào cũng
giữ dung-mạo đoan-nghiêm lễ phép. Khi thầy vắng mặt cũng vẫn giữ lòng thành
kính như khi có mặt.
c) Đạo phụ-tử là mối đạo giữa cha con. Làm con phải
hết lòng hiếu dưỡng cha mẹ, từ món ăn thức mặc đều phải cung-phụng cho đầy đủ,
chí đến việc hành-xử cũng phải làm cho cha mẹ vừa lòng.
Việc làm chánh-đáng của cha mẹ không nên trái cãi, hãy gìn
giữ như vàng ngọc. Thảng như ở trong cảnh nghèo-hèn hay giàu-có cũng phải giữ
lòng thờ kính cha mẹ làm gốc. Không nên để ngoại-cảnh chi-phối đến nỗi làm cho
mình mất hẳn sự hiếu.
Về bổn-phận làm con trong Sám-Giảng có khuyên:
Nếu ai biết chữ tu trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung-lăng,
Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.
Trái lại, kẻ làm cha mẹ cũng có bổn-phận trước hết là nuôi
dưỡng cho con khôn lớn; đến khi khôn lớn phải gia-tâm giáo-dục những điều đạo
nghĩa, cốt tạo nên con người hữu dụng trong xã-hội ở tương-lai. Khi còn lầm lỗi,
hãy dùng cách khéo-léo mà cảm-hóa, chớ không nên đánh đập chưởi rủa mà làm cho
con khinh-lờn và bắt chước theo, gây thành ác-tập.
Về bổn-phận làm cha mẹ, trong Sám-Giảng có dạy:
Dạy rồi những việc đức ân,
Phận làm cha mẹ xử-phân lẽ nào.
Lỗi lầm chớ có hùng-hào,
Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi.
Đem lời hiền đức tốt tươi,
Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn.
Cũng đừng gây-gổ giận hờn,
Cho con bắt chước sạ duơn mới là…
d) Đạo phu thê là mối đạo giữa chồng vợ. Giữa chồng
vợ phải ăn ở với nhau cho có ân nghĩa, đối đãi với nhau cho có nhã độ và dám liều
chết để cứu nhau trong lúc khốn nàn cho trọn nghĩa thỉ chung. Không nên vì
hoàn-cảnh sang hèn mà thay đổi tâm ý đen bạc cho mất hẳn chữ tình.
e) Đạo huynh đệ là mối đạo giữa anh em. Phải
thương yêu lẫn nhau, dạy dổ cho nhau những điều hay lẽ phải, hầu bảo-vệ
danh-giá gia-đình và làm cho vui lòng cha mẹ. Hơn nữa khi gặp việc nguy biến đều
phải hết lòng tương cứu tương trợ, chớ vì quyền lợi mà xâu xé lẫn nhau, gây nên
thảm-trạng giữa tình cốt nhục mà để tiếng chê bai trong thiên-hạ.
Về đạo huynh đệ, trong Sám Giảng có khuyên:
Anh em đừng có đổi dời,
Phụ-phàng dưa muối se lơi nghĩa tình.
Tuy là Trời đất rộng thinh.
Có Thần xem xét phân minh cho người.
Ngoài ra còn đạo bằng hữu là mối đạo giữa bè-bạn. Phải
tương thân tương tín, sửa cho nhau những điều lỗi lầm, dạy cho nhau những việc
chánh-đáng. Ngộ khi gặp việc bất thường, phải tận tâm cứu hộ, giúp đỡ lẫn nhau.
Hơn nữa đối với gia-đình của bạn cũng tôn-trọng như của mình.
Nói tóm lại về ngũ-luân, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có khai-thị như
vầy:
Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ,
Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương.
Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên-trường,
Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác.
Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác,
Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì;
Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,
Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.
Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,
Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan.
2 Ngũ thường
a) Nhân là lòng hiếu-đạo hay thương người mến vật
mà tận tâm cứu hộ cho được mọi việc lợi-ích, không hề chán-nản hối tiếc.
b) Nghĩa là có tánh công-bằng ngay thẳng, biết
tôn trọng lẽ phải, thọ ân huệ nơi người không hề quên, ra chẩn-tế người chẳng đợi
trả, thấy của người không động lòng tham, giúp cho người mà không tiếc mạng và
luôn luôn đối xử với bà con thân tộc có ân hậu đầy đủ.
c) Lễ là có lòng kính người trên, nhượng kẻ dưới
xem người dưng như kẻ ruột thịt, dối người giàu-có cũng như kẻ nghèo-hèn, vẫn
giữ cách hỏi thưa khuôn phép như nhau. Và xem thân danh của người cũng như của
mình, chẳng hề có ác ý phá hoại nghĩa là không khi nào rù quến vợ con người làm
những việc tồi bại cho hư thân mất tiết lỗi đạo nhơn-luân.
d) Trí là có óc minh-mẫn phân-tách rõ việc phải
quấy; nói lựa lời lành, làm trọn việc chánh, sống trong tiền bạc mà không đổi
tánh, ngồi giữa tiệc rượu mà chẳng loạn ngôn và lúc nào cũng được bình tỉnh
sáng-suốt để phán-đoán mọi việc của người khác hay của mình, chẳng hề có sự tư-vị
lầm lỡ.
e) Tín là có lòng tin thật, miệng nói thẳng, lòng
xét ngay, tin người thì dụng, nghi người thì thôi, không hề để cho mình thất hứa,
chẳng muốn gần gũi những kẻ sai lời và đối với người trong nhà cũng như ngoài
ngỏ đều lấy lòng ngay thật chắc-chắn bày tỏ hoặc hứa-hẹn. Dù lúc nào cũng lấy
chữ tín ra dò người xét việc để đi tới mục-đích.
Những phần đã kể trên đây về ngũ-luân và ngũ-thường là bổn-phận
hàng tu-mi nam-tử phải suất-sử cho tròn. Đến như phận thuyền-quyên thục-nữ thì
có tam-tùng và tứ-đức.
3) Tam-tùng.
a) Tùng-phụ là trong lúc
chưa chồng tức là thời-kỳ trả ơn cha mẹ, phận làm gái phải lo hầu hạ một bên
cha siêng năng và vâng giữ các việc của cha mẹ dạy bảo.
Mỗi việc chi cũng đều phải dọ hỏi cha mẹ rồi sẽ làm, riêng
mình không được quyền định-đoạt một việc nào cả; nhứt là những việc có quan-hệ
đến gia-tộc thì càng phải đãi lịnh của cha mẹ.
Phải biết kính trọng thân danh của cha mẹ và của mình trong
một ngày kia mà hiện giờ mình phải gắng lo trau-giồi đức-hạnh hiền-lương
trinh-bạch. Việc làm phải khéo-léo lẹ-làng để cho cha mẹ trông vào đẹp ý và sau
khi có chồng không làm cho ngưới chê mình là kẻ hư-hèn
Không nên học thói cợt gió cười trăng, lả-lơi tánh nết, ngủ
trễ ăn bừa, vụng-về biếng-nhác gieo sự tủi nhục cho tổ-tiên cha mẹ mang tiếng
sanh con bất-hiếu và thân mình sau nầy cũng chẳng ra gì.
b) Tùng-phu là sau khi về nhà chồng, mình
đã thuộc quyền của chồng, mọi công ăn việc làm trong ngoài đều do người chồng
chỉ bảo.
Mình phải hiểu cái nào chồng không thích để mà tránh hẳn, đừng
làm hoặc nói đến điều đó. Và những khi chồng nóng giận nên tránh đi để khỏi phải
sự gây-ó. Cũng như các việc quấy của chồng mình đã gặp, hãy tùy lúc vắng người
dùng lời dịu-ngọt khuyên can khiến cho chồng nghe mà chừa bỏ; không nên nói đường-đột
sỗ-sàng mà thêm sự rầy-rà.
Chớ giấu-giếm chồng một việc nào và tự lịnh làm điều chi, nếu
điều ấy có tánh cách hệ-trọng cho gia-đình.
Tự mình phải siêng-năng và có thứ-tự ở mọi việc trong nhà,
đừng để phiền đến chồng những việc quá nhỏ mọn.Nhứt là phải cho sạch-sẽ hạp vệ-sanh
và đừng vì chồng quá yêu mà khinh-lờn.
Nên cẩn-thận trong khi người bạn của chồng đến thăm, nhằm
khi chồng mình đi vắng, phải cho lễ-độ nghiêm-chỉnh để tiếp-đãi chào hỏi tử-tế.
c) Tùng tử là chẳng may người chồng qua đời thì
mình nên thủ-tiết để bảo dưỡng con-cái cho đến ngày mình nhắm mắt theo chồng.
Thay cho chồng mà làm-lụng nuôi con cho được cơm no áo ấm
và dạy-dỗ cho nó được khôn-ngoan ngay thảo. Rủi phải chạm việc khó-khăn mình
cũng vẫn giữ lòng cứng-rắn để lướt qua cho trọn sự tốt lành.
Và khi con mình trưởng-thành, hãy lập cho nó cái nghề-nghiệp
chánh-đáng hợp thời để nó bảo thân. Khi muốn cưới vợ gả chồng cho con đừng kén
chọn chỗ giàu sang mà hãy chọn nơi cha lành con thảo là được, song cũng phải hỏi
ý con, nếu như nó bằng lòng mới lo, chớ không nên ép.
Bổn-phận làm mẹ là phải treo gương tốt cho con học theo.
Không nên sau khi chồng chết, chẳng những mình không giáo-dục con-cái cho nó có
căn-bản nghề-nghiệp sanh sống, đạo-đức đối-xử, mà còn tha-hồ chuốc lấy mọi việc
tồi-tệ hư-hèn cho con bắt chước để miệng thế khinh chê một cách nhục-nhã. Như
thế sẽ làm khổ con sau này và mình cũng có lỗi với tổ-tiên trong việc khói
hương.
4. – Tứ-Đức
a) Công là nấu nướng, vá may cho sắc-xảo,
khéo-léo, mọi việc làm-lụng được thứ lớp và thu-xếp gọn-ghẽ kỹ-càng, không được
phào-phẹt bừa-bãi.
b) Dung là trạng-mạo đằm-thắm, cử-chỉ hòa-huỡn và
mỗi lúc đi đứng nằm ngồi phải dòm ngó trước sau một cách cẩn-thận. Thân-thể phải
cho sạch-sẽ và hình dáng phải đoan-trang, cách ăn thức mặc giữ được chừng mực gọn-ghẽ,
không được hở-hang, cách điệu quá lẽ.
c) Ngôn là thưa thốt dịu-dàng, nói-năng lễ nghĩa
không hay dùng lời láo-xược chưởi rủa tục-tằn.
d) Hạnh là nết-na hiền-hậu, tánh ý ôn-hòa, hay
tha-thứ kẻ lầm lỗi, giúp đỡ kẻ thiếu hụt. Chốn khuê phòng thường trau-giồi giá
gương trong sạch, không xem những loại sách bất chánh cũng không gần kẻ lả-lơi
trây-trúa hỗn-ẩu tham-gian để ngừa hại đến danh thể.
Ở với cha mẹ đầy lòng hiếu-thuận, với ông bà cô bác anh chị
thân quyến cũng giữ mực cung kính khiêm-từ đáo-để.
Về bổn-phận làm gái, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có khuyên dạy như vầy:
Lớn lên phận gái cần chuyên,
Làm ăn thì phải cho siêng mới là…
Phải gìn dục-vọng lòng tà,
Đừng chìu theo nó vậy mà hư thân.
Nghe lời cha mẹ cân phân,
Tam-tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.
Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
Chớ đừng cãi lịnh gió mây ngoại tình.
Đi thưa về cũng phải trình,
Công dung ngôn hạnh thân mình phải trau.
Công là phải giữ làm sao?
Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên.
Mình là gái mới lớn lên,
Đừng cho công việc hớ-hênh mới là.
Chữ dung là phận đàn-bà,
Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng.
Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn,
Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.
Ngôn là lời nói mặc dầu,
Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn ngoan.
Đừng dùng lời tiếng phang-ngang,
Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.
Hạnh là đức-tánh phải không?
Ở cùng chòm xóm đừng cho mất lòng.
Bốn điều nếu đã làm xong,
Cũng gìn chữ hiếu phục-tòng song thân.
Nhưng về mặt đạo nhân, ngoài ngũ-luân ngũ-thường tam-tùng tứ-đức,
Đức Huỳnh Giáo-Chủ còn khuyên hãy hành thêm bát-nhẫn là một phương trợ-lực
giúp cho người bền chí lướt qua mọi trở-ngại khó-khăn như:
Mùi đạo-diệu chúng-sanh rán kiếm,
Trễ thời-kỳ khó gặp được Ta.
Rồi hành luôn bát-nhẫn mới là,…
Thì muôn việc điều an bá tuế.
Chữ thứ nhứt nhẫn năng xử thế,
Là người hiền khó kiếm trong đời.
Lập thân danh từng trải nơi nơi,
Chờ thời-đại mới là không khéo.
Chữ nhẫn giái kỳ tâm trong-trẻo,
Khuyên dương trần giữ phận làm đầu.
Nhẫn hương-lân cùng khắp đâu đâu,
Trên cùng dưới đều hòa ý hỷ
Nhẫn phụ-mẫu gọi trang hiền-sĩ,
Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau.
Nhịn xóm chòm cô bác mới cao,
Nhẫn tâm nọ ngày ngày an-lạc.
Nhịn tất cả những người tuổi-tác,
Nhẫn-tánh lành yên tịnh dài lâu.
Giữ một lòng hiền hậu mới mầu,
Quanh năm cũng bảo toàn thân-thể.
Chữ nhẫn-đức kể ra luôn thể,
Thì trong đời vạn sự bình an.
Chữ nhẫn-thành báu quí hiển vang,
Khắp bá-tánh được câu hòa-nhã.
Khái-yếu, phương chấn-phục đạo-nhân của Đức Huỳnh Giáo-Chủ
là như thế. Có chấn-phục đạo-nhân thì mới có bước sang qua nền Phật-đạo.
H. – Vậy về phương diện Phật-đạo, Ngài chủ-trương
như thế nào?
Đ. – Đồng một cảnh-ngộ với đạo Nho, đạo Phật xứ ta hồi thời
Đinh, Lê, Lý, Trần rất thạnh, sức tin-tưởng của toàn dân mạnh-mẽ; song từ sau
ngày các vị tổ bên Trung-hoa bặt truyền y bát, phái Thần-Tú nổi lên truyền mạnh
qua xứ ta, làm cho chánh tín của chúng sanh ngày càng lu mờ, họ trở lại hướng mạnh
về âm thinh sắc tướng của Thần-Tú nhiều hơn. Vì thế cho nên chánh-giáo của Phật
bị suy-đồi, lòng người quay theo dị-đoan tà-kiến, thành-thử trong việc tu-hành
không được bao nhiêu người đắc đạo. Trái lại thấy nhiều người bị tà-thần ám-ảnh
dẫn-đắt đến chỗ lầm-lạc tai-hại thảm-khốc.
Để đi đến chỗ xương-minh đạo Phật, trước nhứt Đức Huỳnh
Giáo-Chủ đả-phá những lưu-tệ do phái Thần-Tú bày ra, như: làm thầy đám, bày
chuông mõ, lầu phướn xá bạc, làm trai đàn mà Ngài đã chỉ tạc chỗ giả dối của họ
trong một đoạn Sám-Giảng dưới đây:
Lũ thầy đám hay bày trò khỉ,
Mượn Kinh luân tụng mướn lấy tiền.
Chốn Diêm-đình ghi tội liên miên,
Mà tăng-chúng nào đâu có rõ.
Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ.
Từ xưa nay mấy có ai thành,
Phật từ-bi độ tử độ sanh.
Là độ kẻ hiền lương nhơn-ái.
Xá với phướn làm trò kỳ-quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian.
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng-chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá-tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn-nghĩa đã tròn;
Thấy lạc lầm đây động lòng son,
Khuyên bổn-đạo hãy mau tỉnh-ngộ.
Ngoài những lưu-tệ này, còn nhiều sai lầm khác nữa, như
khoác áo thầy tu làm nhưn-bông tụng mướn, bày việc đốt giấy tiền vàng bạc, tượng
cốt phết vàng, cúng kiếng chè xôi, bày trò hát Phật mà trong Sám-giảng của Ngài
không dứt cảnh-tỉnh:
Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót,
Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành.
Đẩu với đờn kèn trống nhịp-sanh,
Làm ăn rặp đặng đòi cao giá.
Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã,
Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi.
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô-lý.
Xưa Thần-Tú bây điều tà-mị,
Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường.
Thấy chúng-sanh lầm-lạc đáng thương,
Cõi âm-phủ đâu ăn của hối.
Đúc Phật lớn chùa cao bối-rối,
Mà làm cho Phật-giáo suy-đồi.
Tu vô-vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng-sanh lo lót.
Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,
Nên bày ra cúng kiếng hoài-hoài;
Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
Cúng với lạy khó trừ cho đặng,
Kẻ nghèo khó tu-hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?
Lập trai đàn chạy chọt lao-xao,
Bôi lem mặt bày tuồng hát Phật.
Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,
Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan.
Nó tóm lại, đứng trước hiện-tượng Phật-pháp suy đồi do phái
Thần-Tú gây ra, Đức Huỳnh Giáo-Chủ nối chí Phật Thích-Ca mà hưng-truyền
chánh-giáo.
H. – Ngài hưng-truyền bằng cách nào?
Đ. – Muốn đưa chúng-sanh đi đến một mức cao-rộng của đạo Phật
đúng theo chơn-truyền của Đức Phật Thích-Ca. Ngài dạy cho tín-đồ phải hành bốn
trọng ân trước nhứt.
H. – Bốn trọng ân ấy thế nào?
Đ. – Về bốn trọng ân, Đức Huỳnh Giáo-chủ có chỉ như vầy:
“Đức Thầy Tây-An thuở xưa thường khuyến-khích các
môn-nhơn đệ-tử rằng: Muốn làm xong Hiếu-Nghĩa, có bốn điều Ân ta cần phải
hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn:
1.– Ân tổ-tiên cha mẹ,
2.– Ân đất nước,
3.– Ân tam-bảo
4.– Ân đồng-bào và nhơn-loại (với kẻ xuất-gia
thì ân đàn-na thí-chủ).
Ân tổ tiên cha mẹ. – Ta sanh ra cõi đời được có
hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng-thành đủ trí khôn-ngoan,
trong khoản bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao nhiêu khổ nhọc:
nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên, nên khi biết ơn cha mẹ cũng có bổn-phận
phải biết ơn tổ-tiên nữa.
Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy
ta những điều hay lẽ phải, ta rán chăm-chí nghe lời, chớ nên xao-lảng làm phiền
lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm-lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức
tìm cách khuyên-lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo
cho cha mẹ khỏi phải đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa-hảo trong đệ
huynh, tạo hạnh-phúc cho gia-đình đặng cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho
cha mẹ được hưởng điều phước-thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn
được siêu thăng nơi miền Phật cảnh thoát đọa trầm-luân.
Còn đều ơn tổ-tiên, đừng làm điều gì tồi-tệ điếm-nhục
tông-môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai-lầm gieo họa đau thương lại cho con
cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo-nghĩa rửa nhục tổ-đường.
Ân đất nước. – Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ; sống,
ta cũng nhờ đất nước quê-hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn
cho sự sồng được dễ-dàng, giống nòi được truyền-thụ, ta cảm thấy có bổn-phận phải
bảo-vệ đất nước khi bị kẻ xăm-lăng dày-đạp. Rán nâng đỡ xứ-sở quê-hương lúc
nghiêng nghèo và làm cho trở nên được cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị
kẻ ngoài thống-trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc-gia mạnh giàu mình
ta mới ấm.
Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy-sinh cho xứ-sở.
Thảng như không đủ tài lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ
giúp đỡ quê-hương, ta phải rán trách đừng làm việc gì sơ-suất đến đỗi làm cho
nước nhà đau khổ và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây ra sự tổn hại đến đất
nước.
Đó là ta đền ơn đất nước vậy.
Ân tam bảo – Tam bảo là gì?
Tức Phật, Pháp, Tăng.
Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng nhờ đất nước
tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương-diện vật-chất.
Về phương-diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ
của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện,
toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải.
Thế nên, Ngài mới truyền lại giáo-pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các
chư-tăng đặng đem nền đạo của Ngài ban-bố khắp trần-thế. Các chư tăng chẳng ai
lạ hơn những đại đệ-tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ-dẫn và cứu
vớt quần-sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và
tín-nhiệm vào sự-ngiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư
tăng cho biết. Tổ-tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với
chúng sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài
đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát-triển thêm ra, xây dựng một
tòa lầu đài đạo-hạnh vô-thượng vô song roi truyền mãi mãi với hậu thế.
Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí-đức của tiền-nhơn hầu
làm cho trí huệ minh-mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn-dắt giùm kẻ sa
cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai thông nền đạo-đức đặng cái tinh-thần từ-bi
bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế, mới chẳng phụ công
trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời
sau vậy.
Ân đồng-bào và nhân-loại. – Con người vừa mở mắt chào
đời, đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung-quanh và cái
niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.
Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm
thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong-vũ. Vui sướng, ta đồng hưởng với họ.
Hoạn-nạn họ cùng chịu với ta. Họ và ta cũng chỉ một màu da, cùng nói một thứ tiếng.
Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một, ấy quốc-gia đó. Họ là ai? Tức những
người, ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.
Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi giống
roi-truyền cũng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn
nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực-rỡ trong
bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết,
không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào
hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đền-đáp cái
ơn mà ta đã thọ trong muôn một.
Chẳng như thế thôi, ngoài đồng-bào ta còn có thế-giới, người
đang cặm-cụi cần-lao cung-cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là
những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân-lọai,
thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật-liệu cần dùng chăng? Ta có thể
tự-túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những
khi phong-vũ nhiệt-hàn, với những lúc ốm đau nguy-biến, giữ những cuộc sống còn
này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên, dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là
nhờ đến dân-tộc khác và phải biết ơn họ. hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến
mình và đồng-chủng mình vậy.
Vả lại, cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận-thức
rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân-biệt
màu da không phân-biệt chủng-tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các
từng lớp xã-hội mà chỉ đặt vào một: Nhân-loại chúng-sanh.
Thế, ta không có lý-do gì chánh-đáng để vì mình hay vì đồng-bào
mình mà gây ra tai-hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng
nhân-hòa, một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp đỡ họ trong
cơn hoạn-nạn.
Đối với những kẻ xuất-gia qui y đầu Phật, phụ vào những
ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na
thí-chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo-tâm cung-cấp những vật-dụng cần-thiết
cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc-men đặng sanh sống. Rốt lại,
họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của kẻ tốt lòng.
Với quần-sanh, họ mang cái ân rất nặng. Cho nên họ phải
dìu-dắt sanh linh đi tầm chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu-cố của thiện-tín.”
H. – Ngoài bốn điều ân phải hành, còn yếu-pháp nào nữa
không?
Đ.- Vẫn biết thiệt-hành xong bốn điều ân thì tín-đồ nhà Phật
đã tiến được một bước khá xa trên con đường đạo, nhưng như thế cũng chưa đủ,
còn cần phải trừ xong tam-nghiệp, vì nó là nguồn gốc của tội-lỗi.
H. – Thế nào gọi là tam-nghiệp?
Đ. – Về tam-nghiệp, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có mở đầu như vầy:
“Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay dầu không cũng
phải chịu dưới sự chi-phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào một
chữ Đạo. Đạo của con người kêu bằng đạo nhân và nó là một con đường đi trúng
thì sống, bước trật tất chết.
Muốn làm tròn nhân-đạo phải vẹn Tứ-ân. Nhưng trước hết hãy
tránh tam-nghiệp và chừa thập ác, cũng như muốn làm giàu, phải
tránh đừng cho thiếu nợ.
Mỗi người đều có ba nghiệp chướng như sau đây:
1 Thân-nghiệp, tội lỗi do xác thân gây nên,
2 Khẩu-nghiệp, tội lỗi do miệng lưỡi gây nên.
3 Ý-nghiệp, tội lỗi do ý tưởng gây nên.
H. – Tội lỗi của thân-nghiệp như thế nào?
Đ. – Thân-nghiệp gây ra ba điều ác:
1 Sát-sanh.
“Những khi rượt bắt con vật để mà làm thịt, ta sẽ thấy
nó chạy trốn một cách thương hại, nó sợ chết và muốn sống như ta. Ta há nỡ lòng
giết nó một cách vô cớ ư!
“Trong khi ta chưa trì trai được, vì lẽ lúc này ta
còn phải làm việc sóc-vác theo khuôn-khổ của đạo nhơn nhiều hơn, thành thử buộc
ta dùng một ít cá thịt vừa với sự nhu cầu để giúp cho sức khỏe của ta được có
nhiều để làm công-việc khỏi bị chậm-chạp vậy thôi. Chớ ta không gì lấy miếng ăn
làm thú-vị. Rồi đây ta sẽ lần-lượt từ chỗ tâm chay tiến đến thực-chay một cách
tròn vẹn nếu trình-độ và hoàn-cảnh của ta cho phép ta đến đó.
“Đối với loài vật cũng như loài người, lúc nào ta
cũng phải xem-xét từ cái tít-tắc trong việc làm của ta không để phải hại đến mạng
sống của nó, và ta không nuôi ý muốn giết, hoặc là vui thấy hay nghe cho kẻ
khác giết nó một cách vô-cớ. Lại ta cũng không nên nuông chìu cái khẩu dục sát
hại loài vật một cách quá đáng hơn sự như-cầu thường-lệ của ta “. (1)
(1) Dẫn theo “Những bài thuyết-pháp ứng-khẩu trong năm
Quí-tỵ ” quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
Về sát-sanh, trong Sám-Giảng có giải như vậy:
Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách,
Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn,
Chớ sát hại mạng người như thế.
Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,
Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời;
Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả.
2 Đạo-tặc.
” Phải làm lấy việc để cung vào sự sống, phải có
sanh-kế để nuôi vững xác thân, song trước khi làm những việc này, ta phải kiểm-soát
lại nhiều lần, thấy rằng chơn-chánh rồi sẽ thi-thiết sau.
” Giàu có không được bê-tha xa-xí cho phải nghèo cũng
như người nghèo chẳng được dựa vào chỗ thiếu hụt chẳng chịu nỗ-lực làm ăn, lại
sanh ra biển-lận trộm cướp của người về nuôi sống cho mình, mà quên rằng kẻ đã
làm ra được của ấy họ đã phải đổ ra không biết bao nhiêu mồ-hôi công khó mới tạo
ra. Nay ta lấy của họ, ta sung sướng, họ đau khổ, mà họ là đồng-bào ta, không
thì cũng loài người vẫn muốn sung-sướng, sợ đau khổ và biết tiếc của như ta thì
lẽ phải ta nên giúp họ nhiều hơn chớ lòng ta đâu vui xài của họ bằng cách
gian-tặc như vậy được.
” Tóm lại, bất luận như thế nào, nếu không phải của ta
thì nhứt định không được lấy, và ta cũng không xúi cho kẻ khác lấy, ví dầu thiếu
món đó mà phải chết đi nữa thà là ta chết chớ không đành làm việc phi nghĩa có
hại cho đạo-đức của ta và người khác “. (1)
Về đạo-tặc, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có thuyết-hóa như vầy:
Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
Chẳng kể công nước mắc mồ-hôi,
Phá lương dân dạ luống bồi-hồi,
Ngày làm –lụng đêm lo gìn giữ.
Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
Nào đào tường khoét vách khuân đồ;
Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
Nay đuốc huệ từ-bi đã rọi,
Vào thâm-tâm những kẻ gian-phi,
Hãy tu thân chừa thói vô-nghì,
Của phi-nghĩa làm chi xong chuyện.
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.
(1) Dẫn theo “Những
bài thuyết-pháp ứng-khẩu trong năm Quí-tỵ ” quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
3 Tà-dâm
” Sắc đẹp là món ưa thích nhứt của cả một thế-giới
loài người, trái lại nó cũng chẳng kém gì hầm lửa biển sóng, giết được người dễ-dàng.
Kẻ tu-hành phải tránh nó đừng đợi nó tránh mình. Thắng được nó là một việc rất
khó, song không phải là không thắng được. Mà hễ khi thắng được nó rồi sẽ được nửa
phần chướng ngại của sự tu học.
” Cho nên sắc đẹp đối với kẻ tu-hành lúc nào cũng cần phải
thắng phục được nó đừng để nó sai khiến lại mình. Dù nam hay nữ cũng vậy, đều
phải chú-trọng lẽ trinh-chánh làm gốc, sẽ coi nó là việc quan-hệ đến đời sống
hiện-hữu và tương-lai của mình rất nhiều mà hết sức bảo-vệ cho trong sạch. Kẻ
thắng được sắc đẹp là hạnh-phúc, bại vì sắc đẹp là khổ nhục vậy.
” Cả đến sự nằm, ngồi, đi, đứng, nghe thấy, nghĩ tưởng
có thể phạm vào tội dâm được, nếu trong lúc đó nơi mình có chỗ quấy. Mà điều
này, bề trái của nó rất dễ phạm tội dâm vì nó không hình và rất hại cho trí tưởng
phải mờ-ám điên-đảo.
” Cho nên luật đạo răn ta không nên ve-vãn vợ con người,
phải giữ sự trinh-chánh cho ta và cho kẻ khác để trách khỏi cái nhơn quả hỗn-loạn
của ngày mai. Việc này dù phải nát thây cũng gắng làm cho được mới đạt đến quả
phẩm siêu-việt của đạo Phật.” (1)
Về tà-dâm, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có thuyết-hóa như vầy:
Ác tà-dâm thứ năm càng tệ,
Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần:
Thì đảo-huyền tất cả quốc-dân,
Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
Tội ác ấy diễn nhiều thảm-trạng,
Từ xưa nay Trời đất đâu dung;
Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
Trai liều-lĩnh điều này nên rõ,
Đừng phá trinh hại tiết nữ-nhơn.
Gái lẳng-lơ tiếng quyển lời đờn,
Hoa có chủ đèo-bòng tình mới.
Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi!
Bỏ những điều điếm-nhục tông-môn.
Đấng nam-nhi học lấy điều khôn,
Lòng trung hiếu gìn theo đạo-lý.
Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
Niệm Phật mà gây lấy thiện-duyên,
Cho đẹp mắt tổ-tiên nòi giống.
(1) Dẫn theo ”
Những bài thuyết-pháp ứng-khẩu trong năm Quí-tỵ “. quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
H. – Còn tội lỗi của khẩu-nghiệp như thế nào?
Đ. – Khẩu-nghiệp sanh ra bốn điều-ác:
1 Lưỡng-thiệt.
Thường thấy người đời căm-thù nhau vì một phần lớn do tánh
đâm-thọc mà ra. Tánh đâm-thọc là đến người này đem chuyện người kia mà
khêu-khích, rồi khi đến người kia thì đem chuyện người này mà thêu-dệt, khiến
cho hai đàng hiểu lầm nhau mà đâm ra oán hờn chia rẽ, dẫn đến sự giết hại nhau.
Cái tai hại chẳng những gieo trong thứ dân mà còn gây họa đến hàng quan tướng.
Nước này nước nọ sanh giặc cũng đều do tội ác mồn-mép của kẻ du-thuyền bày điều
đâm-thọc.
Cả đến hạng tu hành cũng vì nó mà hư cả đức-hạnh, mất luôn
cả tình thân-ái giữa người đồng đạo với nhau.
Vì thế cho nên, muốn tránh khỏi mọi sự hiểu làm vì ác lưỡng-thiệt,
ta phải tập nói những lời chơn-thật chánh-đáng. Nếu trừ được điều này thì trong
gia-đình chẳng những được hòa thuận mà đến cả trong hương-đảng cũng không thường
xảy ra việc gấu ó rầy rạc.
Về ác lưỡng-thiệt, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:
Ác nơi khẩu nhứt là lưỡng-thiệt.
Với người này dùng lời tha-thiết,
Đến kẻ kia đâm thọc cho gây.
Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy,
Dùng sự thiệt giải bày tâm trí.
Người choảng nhau tại mình gia vị,
Mà cũng không hưởng được lợi-danh.
Sau rõ ra chúng lại ghét ganh,
Chiêu-cảm quả bất lành thêm nữa.
2 Ỷ-ngôn.
Con người hay có tánh tự cao tự đắc về tài-lực của mình mà
miệt-thị khinh-khi hạng người kém sức hơn. Như kẻ giàu sang thì khi dễ nghèo
hèn, người trí-thức thì hủy-nhục kẻ ngu-muội, hạng quyền thế thì áp-chế đám dân
đen, người khôn lanh thì nhiếc xài kẻ khờ-khật. Thậm chí đến người tu-hành cũng
có kẻ ỷ mình đức nhiều trí rộng mà chê-bai kẻ kém nhân thiểu phước.
Những điều này là nguyên-do gây ra sự phản-ứng thê-thảm giữa
xã-hội. Thế cho nên muốn san bằng nhơn ngã, cần phải trừ diệt cái ác ỷ-ngôn. Kẻ
hữu phước được no ấm, khôn lanh thông-thái, có oai quyền, phải thương đến hạng
người phước mỏng nghệp dày chịu điều nghèo khó, ngu-muội dốt-nát, yếu hèn mà
dùng những lời êm đềm dịu-ngọt để an-ủi giáo-hóa họ.
Về ác ỷ-ngôn, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có thuyết hóa như vầy:
Ác thứ nhì ỷ-ngôn chất-chứa,
Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày.
Của tiền nhiều tự-phu rằng hay.
Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
Lắc-lẻo chi có ba tấc lưỡi,
Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu.
Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù,
Ôi! nghĩ thế lòng đau tợ cắt.
Khuyên bá-tánh giữ lòng cho chặt,
Đừng để cho quỉ dắt đường cong.
Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng,
Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
Chúng vô phước đời này dốt nát,
Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là…
Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra,
Đừng bao-biếm mới là nhơn thiện.
3 Ác-Khẩu
Điều mà làm cho người ta khi nghe đến căm-tức nhứt là những
lời ác-độc. Xưa nay nó thường diễn ra trong xã-hội, như con hỗn-ẩu với cha mẹ,
vợ mắng nhiếc chồng, mẹ nguyền rủa con cái. Kẻ thất-phu thì chưởi gió mắng mưa,
kêu réo Trời Phật, thề-thốt Thánh Thần, mời thỉnh ngũ-vị mà trù-ẻo. Người
bán-buôn thì hay dùng lời xiên xỏ gay cạnh mà chống báng nhau. Đứa du-đảng khi
mở miệng ra là chưởi thề nói tục không ngớt. Những hạng này làm cho mọi người
nhờm gớm và gây ra một cảnh-trạng bỉ ổi trong xã-hội.
Thế cho nên, kẻ đã được giác-ngộ bao giờ cũng tránh những
tiếng tục tằn thô-lỗ. Trong gia-đình đối với cha mẹ cô bác, ngoài xã-hội đối với
mọi người, phải có lễ-độ và nghiêm-chỉnh trong lời ăn tiếng nói.
Về ác-khẩu, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giảng-giải như vầy:
Tới ác-khẩu thứ ba bày biện,
Tiếng tục-tằn thô-lỗ hung-hăng.
Nào chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng,
Chẳng kể đến luân-thường thảo-hiếu.
Ham đánh giết những người hèn yếu,
Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng;
Trong gia-đình chưởi rủa liên-miên,
Hết dương-thế kêu sang Thần-Thánh.
Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
Cõi long-cung mời thỉnh tối ngày.
Đời âm-u tội-trạng thảm thay!
Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.
Gương tổ-phụ còn roi lại đó,
Sao không theo nề-nếp gia-phong?
Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,
Mà kêu réo Tây Đông Nam Bắc.
Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
Những đàn-bà khe-khắc cháu con.
Kể từ nay phải giữ cho tròn,
Không chừa dứt ắt mang tai ách.
Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan-chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa ương đeo-đắm.
4 Vọng-ngữ
” Cái lỗ miệng là một tai trong tam tai (Ngó, nghe,
nói). Việc nói láo là một tội ác trong bốn tội ác của lỗ miệng. Chuyện có nói
không, chuyện không nói có, việc đủ cho rằng thiếu, việc thiếu cho rằng đủ, đặt
điều kiếm chuyện làm cho giữa người này người khác hiểu lầm nhau, giao-kết hứa-hẹn
ngày kia đổi ra ngày nọ; và trước tụng-đình không biết bao nhiêu sự đôi chối lẫn
nhau đến đỗi phải thề thốt đủ lẽ… giai do một phần lớn của sự nói láo mà ra.
” Lời nói của mình thường được kẻ khác tín-nhiệm,
danh-giá của mình đã làm cho người kính-nể mà chỉ vì một việc nói láo là cũng đủ
làm hư hại hết cả. Mà khi đã bị hư hại thì khó mà thâu hồi như cũ được.
” Cho nên kẻ ở trong đạo đã hiểu lấy cái vọng-ngữ là một
cái hại cho sự tin tưởng, sự thân-ái, sự hòa nhứt giữa nhau và cũng là một cái
nhân không chánh-đáng cho mình mà lúc nào cũng nhắm vào sự thật để mà nói-năng
hứa-hẹn và tường-thuật với kẻ khác. Tránh tất cả chuyện mơ-hồ, sai-siển, dối-mỵ
trong việc nói, dù hạng nào cũng vẫn giữ như thế.” (1)
Về vọng-ngữ, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã có giải-giáo như vầy:
Ác vọng-ngữ thứ tư cũng cấm,
Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.
Ghét người thì kiếm chuyện dệt thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bàu chữa.
Đời bất công mấy ai xem sửa,
Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tùng.
Khuyên nhơn-sanh lấy lẽ chí công,
Mà ăn ở nói-năng chơn-chất.
Phật từ-bi độ trong nhơn vật,
Là Luật Kinh dạy rất tinh-tường.
Nếu chẳng lo hồn vướng tai ương,
Chừng ấy mới Phật nào đón rước.
Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước,
Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn.
Đã tu-hành đừng có bôn-chôn,
Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài-cán.
Người hiểu rành mới càng thêm chán,
Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu;
Nói với ai cũng phải lựa điều,
Bằng tráo-trác cho người khinh-dể.
(1) Dẫn theo ”
Những bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
H. – Còn tội lỗi của ý-nghiệp như thế nào?
Đ. – Ý-nghiệp sanh ra ba điều ác:
1 Tham-lam
” Đối trước cái lợi, nó hay làm mờ-ám đôi mắt của người,
khiến cho nước lớn xâm-chiếm nước nhỏ, khối mạnh lấn hiếp khối yếu, giàu sang bức-xách
nghèo hèn và cá-nhơn này mưu hại cá-nhơn nọ gây ra nhiều cuộc nồi da xáo thịt,
chém giết ghê-tởm, điều chỉ vì muốn tham lấy cái lợi cho mình mà tạo thành sự
tranh-đấu khốc-liệt để phải tội lỗi tàn ác cho người và cho mình điêu-linh khổ-sở.
Rốt lại nó cũng không đưa mình đến chỗ vinh-diệu trường-cửu mà chỉ thường đem lại
cho mình một cái chết vô nghĩa. ” (1)
Về tham-lam, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:
Ác thứ tám là lòng tham-hiểm,
Muốn bao gồm của thế một mình.
Tham nhà cao cửa rộng thân vinh,
Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
Thấy của người thèm khô nước miếng,
Tính làm sao lường gạt lấy đi.
Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
Của thế-trần như mật dính dao.
Kẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
Tham tiền tài thường vướng nạn eo.
Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
Lúc tận số nằm trơ một xác,
Gẫm kim-tiền bội bạc bất tài;
Không làm cho ta được sống dai,
Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.
Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
Lo vun trồng cội phước về sau.
Muốn trừ tham phải liệu cách nào?
Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ.
Tâm chánh-niệm thường thường xét nghĩ,
Vật ở trần như bọt nước làn mây.
Thân ta còn rày đó mai dây,
Của ấy cũng khi tan khi hiệp.
(1) Dẫn theo ”
Những bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. quyền thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
2 Sân-nộ
” Đối với vua tôi hốt-nhiên lỗi trung, đối với cha mẹ
hốt-nhiên lỗi hiếu, đối với chồng vợ hốt-nhiên lỗi nghĩa, đối với anh em hốt nhiên
lỗi hòa, đối với bậu bạn hốt-nhiên lỗi tín, dễ gay mắt, dễ trái lại, dễ nói ra
những lời cắt đứt sự thân yêu, cung kính và dẫn đến sự thoi đánh, chém giết chưởi
rủa, đưa thân ra tụng-đình, dẫn mình đến chỗ tù tội; cuộc sanh-hoạt dễ bị hư hỏng
tan-nát, con người mau cằn-cỗi bịnh-tật không đem lại cho ta cái khoan-nhã
thư-thái nào, lại thường làm cho ta phải cuồng-táo khổ-nhục, các điều này chỉ
do lòng sân-hận gây ra.” (1)
Về sân-nộ, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:
Ác thứ chín hận sân luận tiếp,
Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
Nổi lôi-đình đâu có định chừng,
Cho ta biết mà toan giữ trước.
Tánh sân-nộ thường làm bạo ngược,
Nên loài người ở cõi thế-gian;
Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,
Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
Hơn tự-đắc khoe-khoang dõngsức,
Phải bị người hềm-khích ghét-ganh;
Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,
Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
Trong cơn giận kể gì nhơn-đạo,
Tỷ như con cọp dữ trong rừng;
Gặp thịt toan cấu xé tưng-bừng,
Phân từng mãnh mới là thỏa dạ.
Diệt được nó tâm trần thong-thả,
Ta thường nên tập tánh khoan-dung.
Thiệt-hành đi đứng có ngại-ngùng,
Tha thứ kẻ lỗi-lầm ngu-xuẩn.
Và nhẫn-nhịn đừng ham tranh-luận,
Khỏi mất lòng tất cả mọi người;
Tánh thuần-lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín-đồ Phật-giáo.
Nay ta đã qui-y cầu đạo,
Gây-gổ là trái thuyết từ-bi.
(1) Dẫn theo ” Những
bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. quyền thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
3 Mê-Si
” Những cái phải cho là quấy, cái quấy cho là phải, những
cái chánh cho là tà, cái tà cho là chánh, những cái thật cho là hư, cái hư cho
là thật, điều lành việc dữ luôn luôn hiểu ngược lại, làm cho sai-siển chơn-lý,
gieo ra nghiệp nhân đen tối từ một người này đến một người khác, chằng-chịt trồng
tréo lẫn nhau để phải buộc vào cái bánh xe luân-hồi sanh-tử trong cõi Ta-bà mà
mỗi chúng-sanh từ vô thỉ đến nay đã gấp mấy muôn lần triệu kiếp mà chưa thoát
thân ra được, trái lại càng ngày càng thêm siết buộc cho mình vào đường tội lỗi
mà tựa-hồ như ngây như ngất chưa nhận ra đâu là sanh tử, đâu là Niết-bàn để mãi
chịu thời gian giết mòn. Vô-thường vật ngã, xương thịt chồng như núi Thái-sơn,
huyết lưu đỏ như biển đại-dương, nước mắt chảy dầm dề hơn suốt thác; mọi việc ấy
toàn là ở trong cái luyến-ái, cái dục-lạc mà nguồn gốc của nó sanh chỗ mê-si.”
(1)
Về mê-si, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:
Ác thứ mười đoạn chót mê-si,
Nguyên tăm-tối từ hồi vô-thỉ.
Màn vô-minh che mờ căn-trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn;
Lo huyễn-thân vật-chất kém hơn,
Ít tìm biết tinh-thần đạo-đức.
Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức,
Bịn-rịn đời cực khổ tang thương.
Khi nói làm ít chịu suy lường,
Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.
Diệt mê-si phải nương thuyền-giác,
Muôn việc làm chánh-trực không ngoan.
Đừng bạ đâu tin bướn nghe càn,
Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp.
Ác trừ xong hiện ra thiện-nghiệp,
Lóng nguồn chơn Phật tiếp-dẫn cho.
Trồng cây lành vị quả thơm-tho,
Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
(1) Dẫn theo ” Những bài thuyết-pháp ứng khẩu
trong năm Quí-tỵ “. quyền thứ nhứt của Thanh-Sĩ.
Thể theo Đức Huỳnh Giáo-Chủ thì khi trừ xong thập-ác này tức-nhiên
hiện ra mười điều lành. Tuy rằng đã trừ xong mười điều ác, chỉ hưởng được quả
nhân-thiên, nhưng còn cần phải hành luôn đạo Bát-chánh mới tiến đến con đường
giải-thoát.
H. – Thế nào gọi là Bát-chánh?
Đ. – Về Bát-chánh Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải như
vầy:
Bát-chánh gồm có:
1 Chánh Kiến
2 Chánh tư-duy
3 Chánh nghiệp
4 Chánh tinh-tấn
5 Chánh mạng
6 Chánh ngữ
7 Chánh niệm
8 Chánh định
Chánh-Kiến – Chánh: đúng sự thật. Kiến: thấy,
xem thấy. Chánh-Kiến: dòm thấy, xem-xét đúng theo sự thật.
Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn trí mờ ám làm
cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng-suốt, khi vì sự tư-thù, khi
vì ích-kỷ khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng, nên sự phán-đoán
không công-bình chánh-đáng làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục chánh-kiến
dạy ta phải đem hết trí năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét, tránh sự
lạc lầm trong khi phê-đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự
quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận-tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem
xét lầm-lạc sai chạy), khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt-mờ u-ám,
giúp cho ta hiểu biết được rõ-ràng minh-bạch, cách phán-đoán được ngay thẳng
công bình.
Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục lụy
trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo, khiến ta xua đuổi các điều tà-mị,
bỏ các sự say mê trở về với đạo-lý, thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả
những sự giả-dối và nhờ thế, nên ta khỏi bị lầm-lạc trong khi hành đạo.
Chánh Tư-Duy. – Tư-tưởng chơn-chánh. Sanh ở trong trần con
người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi-danh, quyền tước, nghĩa vợ, tình chồng…
cái tư-tưởng rù quến tâm trí mãi mãi quây cuồng vào những sự ấy, không thể nào
thoát-ly ra được. Ấy về phần tà.
Phần chánh dạy rằng: Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh,
giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình
đối với nhân-loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình.
Vì thế hãy đặt tư-tưởng mình vào công-cuộc tìm phương cứu
giúp sanh-linh trong vòng trầm-luân oan-nghiệt. Hãy tin-tưởng Phật Trời và cầu
nguyện đấng thiêng-liêng ban bố phước lành cho nhân-chủng. Hãy tìm con đường giải
thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh.
Chánh-nghiệp. – Việc làm chánh-đáng ngay thẳng.
Đối với kẻ xuất-gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập
định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc
công-quả cho nhà Thiền, không có làm việc chi có thể tạo thành ác-nghiệp cả.
Những kẻ tại-gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh
nhai, mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc nầy việc nọ tóm lại
cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ bị sư sinh nhai
chi-phối, song cái chi-phối ấy khác hẳn với kẻ gian-tà đạo-tặc, chẳng có làm việc
gì xảo-trá bất nhân. Trong những cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ nguyện bỏ những
nghề-nghiệp gây tai hại cho con người như: nuôi điếm, bán á-phiện, buôn rượu, đầu
cơ, cho vay cắt cổ v.v…
Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn
hàng, song tại có họ làm cái nghề-nghiệp ấy con người mới bị hư-hỏng trụy-lạc
hoang-đàng, trà đình tửu điếm… Họ là đồng-lỏa mà phạm-nhân là những kẻ ghiền-gập
say sưa.
Thế nên, mục chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.
Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô-cớ các sanh vật, hoặc
không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.
Chánh Tinh-Tấn. Tín-ngưỡng chơn-chánh và lướt tới.
Phải vô-thần luận, thường cho rằng thân xác tức con người,
thân còn là người còn, thân mất là người mất. Không có Thánh Thần Trời Phật,
không quả-báo luân-hồi, cũng chẳng có tội, có phước có vía, có hồn. Đời là thân
xác con người, sống là tranh-đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao mánh
khóe gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo-trá, bao nhiêu tàn-bạo ngược ngang
đều được ra dùng cả thảy.
Vì vậy mục chánh tinh tấn này khuyên hãy rán giữ đức-tin
cho mạnh-mẽ. Dầu các thị-dục có sức lực gì cám-dỗ hay bức-bách bỏ lòng tín-ngưỡng
Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thế lôi kéo được. Và ta
luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt quần-sanh thoát nơi khổ hải của Đức Thế-Tôn,
phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng-trần, rằng ngày giờ nào có
kẻ chúng-sanh chịu-khổ, thì ta cũng phải chịu khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận
giác-ngộ trần-gian bỏ những oan-trái luân-hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết
ta phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-bàn tấn tới, quyết chí tu thân đắc
thành đạo-quả, hầu dìu-dắt bá tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết
các sự rầu buồn, các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh-thần
được thêm sáng-suốt, rèn luyện các đức-tánh cho thiện-mỹ: yên tịnh, hỷ lạc,
nghiêm-trang… quyết gắng công-phu một lòng bước tới Niết-bàn có tế-độ chúng
sanh thoát khỏi luân-hồi quả-báo.
Chánh-Mạng. – Sanh mạng chân chánh trong sạch.
Ở đời, người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí trọng
săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem
sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân
ưa sự sung-sướng, ý ưa chức-phận cao.
Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho
trí-huệ càng ngày càng thêm mờ-ám ngu đần không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.
Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh-thần bị đen tối; bỏ
hết sự đài-các xa-hoa, thân mình tự-chủ để tìm chỗ bất diệt, bất sanh. Thiền-định
đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh-hồn nhập Liên hoa siêu-sanh vào cõi Niết-bàn.
Chánh-Ngữ. – Lời nói chân thật.
Lục-căn làm người nhiễm Lục-trần. Vì muốn nuôi dưỡng xác
thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn-cội các tội lỗi. Trong những tội
lỗi ấy cũng có nghiệp-chướng của miệng lưỡi. Lưỡng-thiệt (làm cho
thiên-hạ bất hòa nhau). Ỷ-ngôn (lời chưởi mắng kẻ dưới tay), Ác-khẩu (tiếng
độc-ác, tục-tằn, chưởi-rủa Thần-Thánh). Vọng-ngữ (nói láo, nói huyễn-hoặc).
Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy
bỏ hết những xảo-ngôn tráo-chác, những tiếng thô-lỗ cộc-cằn, phàm những khi bàn
luận việc chi phải nói tỏ-tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói
cho phải hiền-lương đức-hạnh và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ
phải đều có ích-lợi cho chúng-sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.
Chánh-Niệm. Ghi nhớ sự chân-chánh.
Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng
tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng…,
thất-tình lục-dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm-cơ, bao nhiêu
trí-não, phụng-sự nó. Danh-lợi, cảm-tình, uy-quyền, phú-quí … được hằng ngày
ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường không thoát khỏi
vòng sanh-tử.
Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm-than hoạn-họa, hãy
rán tưởng-niệm phương-pháp hành-đạo, bỏ các điều phù-phiếm, ghi nhớ công-lao Đức
Phật đối với quần-sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng
xác thân do tứ-đại ( đất, nước, lửa, khí ) tạo-thành và sớm muộn gì cũng bị tan
rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được sự xúc-động, các mối dục-tình, tránh điều lụy khổ
do nó gây nên.
Chánh-Định. – Suy gẫm chân-chánh.
Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sang
thêm lên, được giàu thêm lên, được sung-sướng thêm lên… nghĩa là những ý-định
hoàn-toàn nhỏ-nhen thấp-thỏi. Họ không hiểu cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai
khác, thân-thế lạc-luân, của-cải gia-tài như phù vân trước gió, nước bọt mây
bèo. Những cái sanh, cái lão, cái bịnh, cái tử, được đặt lên cuộc đời của người
này đến người khác, rồi đến người khác nữa… nghĩa là tất cả nhân-loại, không
thiếu sót một ai. Thế mà họ vẫn cuống-cuồng tâm-trí theo bã lợi-danh phú-quí,
đi theo những vật-dụng tiểu-ti eo-hẹp.
Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù-du của trần-thế, còn
có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường-tồn. Nếu lấy Thiền-định phá tan
màn u-minh che phủ, thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn, hết khổ, hết quả-báo
luân-hồi. Và khi ta dùng sự chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền-não rầu buồn,
phá tan các làn sóng thị-dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao-động,
trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng-suốt không nhiễm ô cảnh ngoại,
dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi giải-thoát.
H. – Muốn thực-hành đạo Bát-chánh, phải dụng
phương-pháp nào?
Đ. – Cứ theo ý-chỉ của Đức Huỳnh Giáo-Chủ, muốn đạt đến mức
giải-thoát của đạo thì phải dùng phương-pháp Tứ-diệu-đề.
H. – Vậy phương-pháp Tứ-diệu-đề như thế nào?
Đ. – Theo Đức Huỳnh Giáo-Chủ thì Tứ-diệu-đề là bốn
mục-đề gồm có:
1 Tập-đề
2 Diệt-đề
3 Khổ-đề
4 Đạo-đề
H. – Thế nào là Tập-đề?
Đ. – Thể theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Tập-đề có nghĩa là khi
đặt bước chơn trên con đường đạo, tức là sau khi qui-y, ta phải chí-công tu-tập
theo qui-điều giáo-giới của Thầy Tổ đã truyền dạy như: thường hành phu sám, trọn
giữ chay lạt, giới luật chu-toàn, thường xem Kệ giảng, giữ hạnh đức tinh-minh…
Về tập-đề, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:
Chữ Tập-đề nay đà mở cửa,
Để đem vào khuôn-khổ người hiền.
Rán cực lòng một bước đầu tiên,
Sau mới được làm nên Phật Thánh.
H. – Thế nào là Diệt-đề?
Đ. – Thể theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Diệt-đề có nghĩa:
phải trừ các ác-tập đã có từ trước tới giờ do thân, khẩu, ý gây ra như đã thấy ở
mục thập-ác. Những ác-tập ấy chẳng khác như một món đồ đã nhuộm lâu năm, nay muốn
gột rửa nó, cần phải trì chí, cương-quyết diệt-trừ mới được.
Nhứt là về mặt lục-căn lục-trần, người tu hành cần phải diệt
bỏ không nên ô-nhiễm. Như mắt thì nhiễm sắc đẹp, tai thì ưa nghe những tiếng
hay, mũi thì ưa những mùi thơm, miệng thì thích những vật ngon, thân thì ham
sung-sướng, còn ý thì muốn quyền-tước giàu sang, toàn là những việc khó bỏ,
nhưng khi trừ-diệt được thì sáu căn thanh-tịnh.
Về lục-căn lục-trần, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:
Lo tu tỉnh mặc ai khinh ngạo,
Diệt lục-căn đừng nhiễm lục-trần.
Chữ sắc thinh chớ có hầu gần,
Hương với vị xác trần nên lánh.
Chữ xúc pháp treo gương Hiền Thánh,
Tránh sáu đường cũng được về Thần.
Từ xưa nay chỉ dạy nhiều lần,
Mà lê-thứ không lo chẳng liệu.
Nhãn thấy sắc thường hay bận-bịu,
Tai ưa nghe những điệu âm thinh.
Mắt với tai đều chọn đẹp xinh,
Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu;
Đồ thơm-tho nó ưa nó chịu,
Chốn xạ hương hay lết lại gần.
Lưỡi ưa ngon là chuyện ân-cần,
Đồ ngọt béo nó ham nó mến.
Thân tham sướng muốn tiền của đến,
Đặng ăn xài cho phỉ tấm tình.
Ý thì ưa sửa sắc soi hình,
Với chức phận cho cao cho quí.
Sáu đường ấy ở trong tâm ý,
Ta mau mau dứt nó cho rồi.
Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi,
Mượn trí đạo ra tay tận sát.
Giết được nó ấy là giải-thoát,
Thì xác trần mới khỏi đọa đày.
H. – Thế nào là Khổ-đề?
Đ. – Thế theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Khổ-đề có nghĩa
là sau ngày vào đạo, dầu rằng gặp sự gian-lao khổ-sở cũng phải luôn luôn
kiên-tâm bền chí, không vì đó mà thối-chuyển đức-tin, sa-sút đạo-hạnh. Hãy coi
sự lao-khổ như là một việc thử-thách và là một dịp trả xong nghiệp quả. Có như
thể mới càng tăng cao đạo-vị.
Về Khổ-đề, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:
Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,
Thì Khổ-đề phải chịu nhọc-nhành;
Lòng dục tu thì phải thiệt-hành,
Chớ đừng có tham điều sung-sướng.
H. – Thế nào là Đạo-đề?
Đ. – Thể theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Đạo-đề có
nghĩa là khi tu-tập và diệt-trừ xong các điều hung-ác, mọi sự vọng-hoặc thì
thân-tâm thanh-tịnh, tức là đạt đến mức sáng tỏ của Đạo, tức là hoàn-thành đạo
Bát-chánh. Chừng đó sẽ thấu-triệt mọi lẽ nhiệm-mầu, các điều huyền-bí, tự-nhiên
thoát vòng khổ-não, khỏi nẻo luân-hồi.
Về Đạo-đề. Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:
Đức Phật-tổ nào đâu hẹp lượng,
Chịu nhọc-nhằn mới rõ Đạo-đề;
Thấy một đàng thẳng-bẳng mà mê,
Ôi! chừng đó mới là mầu-nhiệm.
Tóm lại, Tứ-diệu-đề là một phương-pháp toát-yếu để giúp người
hiểu đường lối tu-tập, vừa diệt-trừ các ác-nghiệp, vừa hoàn-thành đạo
Bát-chánh.
H. – Cứ theo chỗ hiểu biết của tôi, Tứ-diệu-đề của quí
ông vừa giải không cùng một trình-tự như Tứ-diệu-đề của nhà Phật. Tại đâu có sự
sai-biệt ấy?
Đ. – Mới nghe qua dường như Tứ-diệu-đề của Đức Huỳnh
Giáo-Chủ có khác hơn Tứ diệu-đề của nhà Phật, nhưng xét ra thì cùng chung một mục-đích
giải-thoát.
Theo Đức Huỳnh Giáo-Chủ. Theo nhà phật
1 Tập-đề 1 Khổ-đề
2 Diệt-đề 2 Tập-đề
3 Khổ-đề 3 Diệt-đề
4 Đạo-đề 4 Đạo-đề
Theo sự đối-chiếu này thì Tứ-diệu-đề của Đức Huỳnh Giáo-Chủ
sắp theo trình-tự từ khi mới vào tu-tập cho đến diệt-trừ ác-nghiệp, nhẫn chịu khổ
là đi đến chỗ thành Đạo; còn Tứ-diệu-để của Phật thì sắp theo trình-tự từ hiểu
cái khổ hiện nay là do cái tập-nghiệp quá khứ gây ra, nên khi diệt xong cái tập-nghiệp
đương-đời tức là đoạn cái nhân khổ vị-lai và đạt đến đạo-quả.
Phương-chi vào thời-kỳ chánh-pháp của Phật, người thiện-căn
có nhiều nên cái trình-tự về Tứ-diệu-đề của Phật được thích-hợp cho sự tỏ-ngộ
hơn. Đối lại thời-kỳ mạt-pháp này, chúng-sanh phần nhiều là hạ căn hạ trí, Đức
Huỳnh Giáo-Chủ phải phương-tiện xếp-đặt cái trình-tự của Tứ-diệu-để cho dễ bề
lãnh-hội ý-nghĩa.
Đại-để, giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ với chánh-pháp của
Phật Thích-Ca, vì hoàn-cảnh xã-hội, vì căn-khí chúng-sanh, cái phương-tiện
giáo-hóa có thay đổi chút ít, nhưng cứu-cánh vẫn cũng một mục-đích đưa
chúng-sanh đến chỗ thành-đạo. Như thế đủ tỏ rằng tôn-yếu Phật-giáo Hòa-Hảo vẫn
bắt nguồn trong giáo-pháp của Phật. Thế là giữa Kinh Luật của Phật với Sám-giảng
của Đức Huỳnh Giáo-chủ, người xem càng không nên có ý câu-chấp. Để minh-chứng
điều này, ngay như Đức Huỳnh Giáo-chủ đã từng biện-bạch:
Ta là kẻ vô-hình hữu ảnh,
Ần xác phàm gìn đạo Thích-Ca.
H. – Như thế là Phật-giáo Hòa-Hảo cùng một tôn-chỉ với
Đạo Phật, nhưng Đức Huỳnh Giáo-Chủ xướng-xuất theo pháp-môn nào?
Đ. – Theo sự hiểu biết của chúng tôi, Ngài chủ-trương theo
hai pháp-môn Thiền-tông và Tịnh-độ cùng đồng thực-hành một
lượt.
H. – Pháp-môn Thiền-tông như thế nào?
Đ. – Thiền-tông là một tông do Phật Thích-Ca khai-thị,
sau truyền lại cho ngài Ca-Diếp, nhẫn xuống đến Đức Huệ-Năng, kể có 33 vị tổ.
Trong khoản thời-gian truyền kế, pháp-môn Thiền-tông rất thạnh-hành từ Ấn-độ
qua Trung-quốc và các nước kế cận.
Tông này chủ yếu pháp vô-vi, chỉ thẳng vào chỗ kiến-tánh
thành Phật, nghĩa là phải tự tu tự ngộ lấy bổn-tâm sẵn có thanh-tịnh quang-minh
bất di bất dịch vĩnh-viễn trường-tồn của mình mà chứng đến quả chánh-đẳng
chánh-giác, không thiên-chấp vào âm thinh sắc tướng. Song người tu pháp-môn
này, muốn đạt đến cứu-cánh của đạo Bồ-đề, cần phải thiền-định, nhưng trước phải
giữ giới, rồi nhân giới sanh định, do định mà phát huệ. Khi đã phát-huệ thì tâm
tánh trở lại viên-minh thấy được bản-lai diện-mục. Chừng ấy thoát khỏi màn
vô-minh che mờ căn-trí, tự thấy biết không lầm, hành-động đúng theo chơn-lý, tức
nhiên là không còn mắc trong nẻo luân-hồi đọa-lạc nữa. Nhờ pháp-môn này mà
chúng-sanh từ chánh-pháp trở lại đây, tỏ ngộ rất nhiều.
Mặc dầu vào đời mạt-pháp. Thiền-tông đại-cương vẫn còn được
thích-ứng. Và đáng được thích-ứng hơn nữa là vào thời mạt-pháp này, phái ngụy
truyền của Thần-Tú thạnh-hành làm cho chánh-pháp suy-vi vì mãi nghiêng theo lối
huyễn-hoặc của âm thinh sắc tướng.
Vì thế mà Đức Phật-Tổ lịnh cho Đức Huỳnh Giáo-Chủ lâm-phàm
đem chánh-pháp vô-vi của Ngài mà phá tan màn hắc-ám của số người mê-tín theo
tà-thuyết có cơ thức tỉnh quay về con đường chánh-giác, trước là thoát khỏi tai
hại của Ma-vương, sau là dọn sạch thân tâm hầu đến khi Đức Di-Lặc ra đời dưới cội
Long-Hoa, nhờ phước duyên được tồn-tại mà dự vào các cuộc giáo-độ của Đức Từ-Thị.
Để chứng tỏ Đức Huỳnh Giáo-Chủ duy-trì thiền-pháp vô-vi của
Phật, Ngài đã kêu gọi sư-vãi hãy mau trở lại chánh-pháp tu-hành mới thấy rõ chỗ
diệu-huyền của đạo Phật và sẽ cứu mình khỏi lạc bước chỗ mê-si, như đoạn giảng
dưới đây:
Khuyên sư vãi mau mau cải-hối,
Làm vô-vi chánh-đạo mới mầu.
Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Vả lại muôn việc gì cũng do nơi tâm mà sanh ra cả, nhưng vì
mê-si mà giữa Phật và chúng-sanh có chỗ sai-thù. Nếu sớm trở về với bản-giác của
tự-tâm thì chúng-sanh với Phật đâu có chỗ khác biệt, như câu: mê là chúng-sanh,
giác là Phật.
Như vậy thì bất tất phải tìm kiếm ở ngoại cảnh mà bỏ luống
tâm Phật của mình, rốt lại không khác như bắt bóng trong gương, mò trăng đáy nước.
Do đó Đức Huỳnh Giáo-Chủ mới đánh thức những người tu hãy nhìn vào tự-tâm mà tầm
Phật:
Làm nhơn-ái ắt tiêu bịnh tật,
Vậy hãy mau tầm đạo Thích-Ca;
Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở trên non núi.
Chúng đục đẻo những cây với củi,
Đấp xi-măng sơn phết đặt tên;
Ngục A-tỳ dựa kế một bên,
Chờ những kẻ tu hành giả-dối.
Cứ theo câu: Phật tức tâm, tâm tức Phật thì tâm vốn
sẵn có Phật song vì vọng tưởng vô-mình gây thành nghiệp-hoặc mà thành ra tối-tăm.
Bây giờ ta cứ nhắm ngay cái tâm mà đánh dẹp tất cả hôn trầm si-hoặc cho đến khi
không còn một niệm ác sanh-diệt nữa, tức nhiên bao nhiêu khung-cảnh sáng mầu đền
hiện rõ nơi tâm ta. Chừng ấy những điều lỗi-lầm tà-khúc nơi ta đã hết. Thế là
giữa ta cùng Phật đâu còn phải cách xa nhau nữa. Như Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã
minh-huấn trong hai câu:
Tu rèn tâm trí cho minh,
Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau.
Trong khoản thời-gian tu-tấn hạnh-học lòng ta vẫn trơ cứng như
đinh sắt, bể ái không xao, lửa phàm đã tắt, nghĩa là tâm ta được lặng lẽ, trong
sạch, tức nhiên mảnh gương trí-tuệ từ từ soi tỏ. Lúc này không một hình-ảnh tối-đen
nào đến ta được nữa, tức là trí-huệ của ta đã phát. Vì thế Đức Huỳnh Giáo-Chủ
có chỉ phương-pháp:
Nếu ai mà biết chữ tu-trì,
Tâm bình-tịnh được thì phát-huệ.
Khi trí-huệ của ta đã phát, mọi kiến-hoặc tư-hoặc và các tướng
nhơn ngã đều diệt hết, tức thì ta sẽ trực-kiến được bản tâm vốn rổng không vắng-lặng
mà ở Thánh cũng không thêm, đến phàm cũng không bớt, lại qua trên dưới không
còn vướng mắc một mảy chướng-ngại nào. Vì thế mà gọi chơn tâm là chơn-không bất
biến. Đức Huỳnh Giáo-chủ biểu-thị cái ý đó trong hai câu:
Tìm-tõi đạo-mầu trong Phật-pháp,
Cho đời hiểu rõ lý chơn-không.
Cái tâm đã là chơn-không thì người tu-hành càng không nên thiên-chấp
vào các pháp-tướng, vì tất cả cái có đều không có tự-tánh thường-tồn mà vẫn
theo định-luật sanh diệt mãi mãi. Khi không còn bị các pháp-tướng câu-thúc, tức
nhiên cái thiệt-tướng thường-tại của chơn-tâm mới hiện ra sừng-sựng. Chỗ này Đức
Huỳnh Giáo-Chủ có chỉ giáo trong câu:
Vô pháp-tướng mới là thiệt-tướng
Kết-luận, pháp-môn Thiền-tông được Đức Huỳnh Giáo-Chủ xiển-minh
một cách vi-diệu xác-đáng đúng theo chơn-ngôn của chư Tổ, song nó càng vi-diệu
bao nhiêu lại càng khó thực-hành bấy nhiêu nhứt là đối với chúng-sanh vào thời
mạt-pháp phần nhiều là bực hạ-căn thiểu-trí, sự nhận xét thiển-cận, tiềm-lực yếu-ớt
thì không thể nào lãnh-hội nổi cái giáo-lý hoàn-toàn cứu-cánh ở tự-lực, nhưng
tuyệt-nhiên chẳng phải là không dùng đến; nên chi Đức Huỳnh Giáo-Chủ, đồng-thời
với pháp-môn Thiền-tông khai-thị pháp-môn Tịnh-độ là một pháp-môn hoàn-toàn
nương cậy ở tha-lực trợ-trưởng bằng cách chúng-sanh tự tâm niệm sáu chữ Nam-mô
A-Di-Đà Phật, một cách thiết-tha ai-khẩn. Tức nhiên với cái lực-cảm này sẽ được
Đức-Phật thù-ứng lại một cách vi-diệu vừa được thân-tâm thanh-tịnh vừa được đạo-huệ
hoác-khai và khi lâm-chung được Phật hiện-thân đến rước về cõi Cực-lạc, tùy
theo công-phu hạnh-đức mà ban cho ngôi phẩm trong chín cấp sen vàng để hường-thọ
bực bất-thối.
Với pháp-môn Tịnh-độ này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã
cân-nhắc một cách rõ ràng và xứng hợp với căn-cơ trình-độ chúng-sanh hiện nay.
Nên chi Ngài cả-quyết kêu chúng-sanh hãy nhứt-tâm phụng-hành:
Môn tịnh-độ là phương cứu-cánh,
Rán phụng-hành kẻo phụ Phật xưa;
Lòng từ-bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền-giác rước đưa sanh-chúng.
H. – Pháp-môn do ai khai-thị mà Đức Huỳnh Giáo-Chủ
tán-dương?
Đ. – Cứ theo trong kinh-điển thì chính Đức Phật Thích-Ca giới-thiệu
cõi Cực-lạc của Đức A-Di-Đà và cũng chính Ngài tán-dương công-đức vô-lượng-thọ
và vô-lượng-quang của Đức Phật A-Di-Đà và nguyện-lực tiếp-dẫn của Ngài, nhân đó
khai-thị pháp-môn Tịnh-độ.
Sau đó chừng bảy trăm năm, chính Đức Mã-minh Bồ-tát,
Long-thọ Bồ-tát và Thế-thân Bồ-tát cực-lực khuyên người tu theo Tịnh-độ, cầu
sanh về cõi Cực-lạc. Từ đó pháp-môn Tịnh-độ đã được lưu-hành khắp Á-châu, nhưng
tùy theo sở-nhận của mỗi người mà tu lấy chớ không có tổ-chức thành hệ-thống.
Mãi cho đến đời nhà Tấn bên Trung-hoa, có Ngài Huệ-Viễn Đại-sư đã thâm-ngộ
pháp-môn Tịnh-độ mới đứng ra tập-hợp các đạo-sư lập-thành hội Liên-xã, số hội-viên
đầu tiên được 123 người. Bắt đầu từ đó pháp-môn Tịnh-độ được thạnh-hành khắp
dân-gian.
Sau khi Ngài Huệ-Viễn Đại-sư tịch thì có các Ngài Thiện-Đạo
Đại-sư, Thừa-Viễn Đại-sư, Pháp-Chiếu Đại-sư, Thiếu-Khương Đại-sư, Diên-Thọ Đại-sư…
nối nhau mà hưng-truyền pháp-môn Tịnh-độ, gây nên một phong-trào niệm Phật mạnh-mẽ.
Đa số người tu hành, lúc lâm-chung đều có thoại-ứng được vãng sanh về
Cực-lạc.
H. – Cõi Cực-lạc như thế nào?
Đ. – Cứ theo Kinh A-Di-Đà thì cách đây 10 muôn ức cõi Phật,
thuộc về hướng Tây có một thế-giới tên là Cực-lạc, do công-đức của Đức Phật
A-Di-Đà lập ra để tiếp-dẫn chúng-sanh đúng theo 48 lời thệ-nguyện của Ngài. Cõi
này sở-dĩ có tên Cực-lạc là vì nơi đây hoàn-toàn an-vui hơn cõi Ta-bà đầy những
thống-khổ.
Trong Kinh có thấy tả cõi Cực-lạc như vầy:
I. – Về phong-cảnh
a) Cảnh địa. – Cứ theo các Kinh Vô-lượng-thọ và
Kinh Quán Vô-lượng-thọ thì toàn cõi Cực-lạc tự-nhiên có bảy báu như vàng bạc,
lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, mã-não, xích-châu hiệp thành làm đất, rộng lớn
thênh-thang không có giới-hạn. Các món báu ấy thảy đều xen lộn nhau ánh ra rực-rỡ,
đẹp-đẽ phi-thường, trang-nghiêm thanh-tịnh hơn cả thập phương thế-giới. Mặt đất
thì bằng-phẳng, không có gò nổng, hầm hố, cũng không có biển sông khe rạch suối
ngòi, song hễ muốn được thấy thì nhờ thần-lực của Phật giúp cho được ty; lại bốn
mùa: xuân hạ thu đông, chẳng nồng chẳng rét, thường điều-hòa khí-hậu.
b) Ao báu. Trên mặt đất ấy có nhiều ao báu để tắm,
bề rộng có cái từ mười do-tuần chí đến trăm ngàn do-tuần, sâu cạn đều như nhau.
Hễ ao bằng vàng thì đáy bằng bạc, còn ao bằng bạc thì đáy bằng vàng, hễ ao bằng
lưu-ly thì đáy bằng thủy-tinh, còn ao bằng thủy-tinh thì đáy bằng lưu-ly… Trên
bờ ao thì có cây chiên-đàn, hoa lá phủ mát, xông nức mùi thơm. Trong ao thì
luôn luôn đầy nước, thứ nước có tám công-đức:
1 Trừng-thanh nghĩa là lặng trong khác với nước
cõi Ta-bà vẩn-đục.
2 Thanh-lãnh nghĩa là mát mẻ khác với nước quá
nóng quá lạnh.
3 Cam mỹ nghĩa là ngon-ngọt, khác với nước
mặn quá, lạt quá.
4 Khinh-nhuyễn nghĩa là nhẹ-nhàng, khác với nước
nặng chìm.
5 Nhuận-trạch nghĩa là trơn nhuận, khác với thứ
nước trớt-át, thúi-hôi, phai màu, nhợt-nhạt.
6 An-hòa nghĩa là êm dịu khác với nước chảy mau ồ-ạt.
7 Trừ cơ khát nghĩa là trừ đói khát, khác với thứ
nước uống vào sanh lạnh bụng.
8 Trưởng dưỡng chư căn nghĩa là nuôi lớn các
căn, khác với thứ nước làm hại các căn, làm chìm đắm…
Khi các Bồ-tát và Thinh-văn xuống tắm, nếu muốn nước ngập
chơn tức thời nước lên ngập chơn, muốn nước đến gối tức thời nước lên gối, muốn
lên tới lưng tới cổ… thì tức nhiên nước lên như ý muốn. Khi muốn nước xuống thì
nước xuống liền. Nước ao tùy theo ý muốn mà ấm mát. Khi tắm xong, thân thể nhẹ-nhàng
khoan-khoái, sáng-suốt tinh-thần.
Nước không bao giờ trụ, cứ chảy qua luôn, không mau không
chậm, thanh-tao diễn ra các thứ tiếng pháp: Phật, pháp, tăng, tịch-tịnh, vô-thường,
đại-bi, Ba-la-mật…
Trên mặt nước có các thứ hoa sen xanh đỏ, trắng, vàng, màu
chen lộn nhau, sum-sê tốt đẹp, chói tỏa đầy ao. Mỗi khi tắm xong các vị Thượng-thiện
ngồi trên mấy hoa sen báu đó mà tu-tập đạo-pháp.
c/Cây báu. – Trên mặt đất có bảy thứ cây báu: vàng, bạc,
lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não, hoặc có hai ba thứ báu hòa lại lam
thành một cây. Hoặc có cây vàng mà hoa lá bằng bạc, hoặc có cây bạc mà hoa lá bằng
vàng, hoặc có cây lưu-ly mà hoa lá pha-lê hoặc có cây pha-lê mà hoa lá bằng
lưu-ly… Mỗi hoa lá có màu báu lạ; trong màu lưu-ly nảy ra ánh sáng màu vàng,
trong màu pha-lê nảy ra ánh sáng màu hường, trong màu xa-cừ nảy ra ánh-sáng màu
xích-châu…
Bảy lớp lưới kết bằng diệu-chơn-châu giăng trên mỗi cây
báu. Trong mỗi khoản lưới hiện ra trăm ức cung điện tốt đẹp như cung điện Phạm-vương.
Trong cung diện tự-nhiên có các đồng-tử. Mỗi đồng-tử có đeo chuỗi ma-ni. Mỗi hột
ma-ni chiếu rọi thấu cả trăm do-tuần, ánh-sáng chiếu ra như trăm ức mặt trời mặt-trăng.
Tất cả Phật-sự trong cõi Cực-lạc đều hiện bóng trong bóng
cây mà cả mười phương thế-giới cũng hiện bóng trong cây như tấm gương phản-chiếu.
d) Lầu đài đường sá. – Chung quanh ao có đường sá
và lầu đài làm toàn bằng bảy báu. Những lầu đài ấy có thứ ở nửa chừng trên
hư-không, có thứ ở mặt đất, trang nghiêm tốt-đẹp. Chư Thượng-thiện tùy theo
công-đức lớn nhỏ mà được an-trú nơi đó, song sự hưởng-thụ về ăn mặc vẫn được
bình-đẳng.
Xung quanh cung điện có cả trăm thứ hoa báu, xông ra mùi
hương ngào-ngạt và thường có gió nhẹ thổi vào khiến rung-động các nhành lá mà
phát ra những tiếng âm-nhạc lẫn tiếng pháp: vô-thường, khổ không, vô ngã từ-bi,
hỉ-xả, Bát-nhã Ba-la-mật… Người nghe đến trong lòng vui-vẻ mà khởi lên những tiếng
niệm Phật.
e) Các loài chim. Cõi Cực-lạc có nhiều loại chim,
như chim hạc trắng, con công, con két, chim xá-lỵ, chim ca-lăng tần-già, chim
công-mạng, có những sắc lông đẹp-đẽ, ngày đêm sáu buổi hót lên những tiếng hòa
nhã, diễn ra các pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ-đề phân, bát chánh đạo và nhiều
pháp vi-diệu khác nữa không kể xiết. Người nghe đến đều hoan-hỷ mà xưng niệm Phật,
pháp, tăng.
Cứ theo lời phát-nguyện của Đức Phật A-Di-Đà thì cõi Cực-lạc
của Ngài tuyệt-nhiên không có loài ác-đạo, thế mà sở-dĩ có loài chim là vì Ngài
muốn cho tiếng pháp lưu-biến khắp nơi nên hóa-hiện để trợ-niệm.
II. Chúng-sanh.
a/Liên-hoa hóa sanh. Người sanh về cõi Cực-lạc không
như ở cõi Ta-bà phải đầu thai vào thai mẹ chịu sự sanh đẽ ô-uế, chín tháng cưu
mang ba năm bú mớm, mà lại thần-thức gá vào hoa sen nơi ao thất bảo. Khi hoa
còn búp thì ở trong thai sen chờ ngày khai nở.
Trong thời-gian ở trong đó, thần-thức cũng được hưởng-thụ mọi
cảnh-tượng an vui hơn các cõi Trời.
Thời-hạn khai nở của các hoa chậm mau có khác là do ở
công-đức trí-tuệ dày mỏng sâu cạn mà có sự sai-biệt. Chính vì đó mà cõi Cực-lạc
có cửu phẩm liên hoa: ba phẩm thượng, ba phẩm trung và ba phẩm hạ.
Ba phẩm thượng dành cho những người trước kia tu hạnh đại-thừa,
phát Bồ-đề tâm, tỏ ngộ lý vô-sanh, tự-giác giác-tha, công-đức trí-huệ sâu rộng
mà phát tâm hồi-hướng về cõi Cực-lạc. Những vị này khi về cõi Cực-lạc thì được
hóa-sanh trong liên-hoa bằng chất kim-cương, hoặc khai nở liền, hoặc cách một
ngày một đêm mới nở.
Ba phẩm trung là chỗ hóa-sanh của hạng người trai giới
tinh-nghiêm, hiếu hạnh từ thiện mà quyết tâm cầu sanh về cõi Cực-lạc. Những vị
này được thác sanh vào tòa liên-hoa bằng thất-bảo hoặc nở liền hoặc bảy ngày
đêm, hoặc hai mươi mốt ngày, hay bốn mươi chín ngày.
Ba phẩm hạ là chỗ hóa-sanh của hạng người không biết tu-tập,
không biết làm lành, cho đến những kẻ lúc sanh thời làm những việc hung ác mà
khi lâm-chung trở lại ăn-năn tự hối, tha-thiết niệm lục tự Di-Đà cầu sanh về Cực-lạc.
Liên tọa và thời-hạn hoa nở giống như ở phẩm trung.
a/An vui. Một khi hóa-sanh về cõi Cực-lạc thì không
còn chịu mọi sự khổ như ở cõi Ta-bà và cũng không còn thối-chuyển trong các đường
ác-đạo nữa mà vẫn một mực tinh-tấn mãi đến quả Phật.
Về tám điều khổ ở cõi Ta-bà, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã kể lược
như sau đây:
Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo,
Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần.
Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân,
Đoạn thứ nhứt sự sanh là gốc.
Vào bụng mẹ chung quanh bao bọc,
Có khác nào ở chốn ngục tù;
Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
Ta kể lên những điều bi-thống,
Mẹ no cơm chật chội khó-khăn;
Khi ra đời đau đớn vô ngằn,
Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế.
Đoạn lão khổ thứ nhì xin kể,
Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân;
Hết tráng cường đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ nâng chống chõi,
Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng?
Đoạn thứ ba ma bịnh làm nhăn,
Đeo hành hạ xác-thân ô-uế.
Bởi thời-tiết chuyển xoay biến thể,
Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa.
Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra,
Thân trằn-trọc hôn mê nhức-nhối.
Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
Còn mang thêm tật nọ, tật kia;
Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
Đoạn tử khổ thứ tư phân-giải.
Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
Có sanh ra khổ-hải đâu chừa;
Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn-thân tan-nát.
Gần hấp-hối tâm-thần xao-xát,
Trí vẩn-vơ kinh sợ vô-cùng.
Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
Mà cũng không thoát luật tuần-huờn;
Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
Chẳng trốn lánh Tử-thần cho khỏi.
Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tõi,
Cầu chẳng thành những việc thích ham.
Người trên đời ai cũng lòng tham,
Muốn phước thọ phẩm hàm tiền của.
Nào vợ đẹp hầu xinh là-lụa,
Không được thì bực tức ưu-phiền.
Cả tâm thần điêu-đứng đảo điên,
Vậy có phải khổ hay là chẳng?
Đoạn thứ sáu biệt-ly cay đắng,
Người mình thương bỗng lại chia lìa;
Khi khóc than nước mắt đằm-đìa,
Lúc trông nhớ ruột tầm chua xót.
Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,
Nợ gia-đình đeo-đằm căn-duyên;
Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,
Kẻ lưu lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan-hiệp, hiệp tan ân-ái,
Đến xong đời để lại sầu ưu;
Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
Cũng chung chịu như người tăm-tối.
Đoạn thứ bảy khổ oan tắng hội,
Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,
Chẳng nhẫn nhịn thành ra cứu oán.
Muốn tránh xa đừng trông tăm dạng,
Cứ gặp nhau mắt tợ kim châm;
Làm cho người đau-đớn âm-thầm;
Khổ như thế diễn ra mãi mãi.
Đoạn thứ tám ưu sầu lo ngại,
Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
Lo đau đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên số phận mình nhơ sạch,
Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười;
Giàu thì lo chen lấn với người,
Liệu cho được đầy rương đầy tủ.
Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
Sợ gian-phi trộm cướp rình mò;
Lo tước quyền cho được thơm-tho,
Sợ kẻ khó thiếu liền chẳng trả.
Ôi! Cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
Sao nhơn-sanh cứ mãi đắm say;
Chẳng tu thân đặng dựa Phật-đài,
Cho thong-thả hưởng mùi sen báu.
Tám điều khổ này khi được hóa-sanh về cõi Cực-lạc thì không
còn nữa, đổi lại thành tám điều vui. Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải như vầy:
Thần-thức nhập thai-sen tinh hảo,
Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
Thân thì thân công-đức hiền lành,
Bất di dịch khỏi vì lão khổ.
Thể thanh-tịnh thường không huyên-náo,
Hết lo toan nắng lạnh gió mưa;
Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
Ta thoát cuộc lao-đao vì nó.
Đường sanh mạng Phật ta đồng thọ,
Tánh an-nhiên bất diệt trường tồn;
Tử-thần kia đâu dám dắt hồn,
Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử.
Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
Không nhọc-nhằn lo việc sanh-nhai.
Trí an nhàn nhìn cảnh Phật-đài,
Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc.
Cả hải-chúng thảy đều vững chắc,
Toàn dân lành đâu có đắn-đo;
Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò,
Lướt sóng khổ thương yêu ly biệt.
Chữ hòa thuận kể sao cho xiết,
Tâm đồng nhau thượng-thiện vui-vầy;
Cảnh như-như chẳng có đổi thay,
Không màng biết phân chia nhơn ngã.
Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau.
Thân tâm thường trụ hết rạc-rào,
Chất thô-trược tiêu tan mất cả.
Cõi Tịnh-độ lắm điều thanh-nhã,
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn;
Chốn Ta-bà tim lụng dầu mòn,
Thân từ-đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta rán lo toan,
Gìn giới-luật nghe Kinh trọng Phật.
Đến lâm-chung quả lành không mất,
Cõi Tây-phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện-tín hẫng-hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh.
Lại cõi Ta-bà có ngũ-trược mà không một chúng-sanh nào
thoát khỏi cả. Về ngũ-trược, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có kể ra như vầy:
Biển hồng-trần lao-lý diệu-vơi,
Xô đẩy mãi trong vòng ngũ-trược.
Thân hôi-tanh muỗi ruồi đón rước,
Thêm nhọt u ghẻ lác phung cùi.
Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui,
Là kiếp-trược ta xin kể trước.
Dòm việc quấy lắm điều bạo ngược,
Mắt trông vào những chỗ đê-hèn;
Nào được xem cảnh báu đài sen,
Nghĩa Kiến-trược giải ra như vậy.
Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây,
Thiết mưu-kế toan bề thắng thối.
Gây thù oán chưởng điều đáp đối,
Nên ma phiền-não trược đắm say;
Chuyển luân trong nhơn-vật các loài,
Căn mờ ám làm điều dại-dột.
Chúng-sanh trược ta đà kể nốt,
Còn thứ năm là mạng-trược trung;
Số giàu sang họa phước bần cùng,
Giàu hoa nguyệt thung-dung cẩu-thả.
Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
Sang oai quyền hối-lộ gần xa;
Nghèo a-dua bợ-đỡ nịnh-tà,
Khó trộm cướp cùng điều nhơ xấu.
Một khi thác sanh về cõi Cực-Lạc thì ngũ-trược sẽ
biến thành ngũ-thiện. Như.
1 Kiếp-trược chuyển thành Thanh-tịnh hải-hội.
2 Kiến-trược chuyển thành Vô-lượng-quang,
3 Phiền-não trược chuyển thành Thường-tịch-quang
4 Chúng-sanh trược chuyển thành Liên-hoa hóa-thân,
5 Mạng-trược chuyển thành Vô-lượng-thọ.
a)Đời sống. Ở cõi Cực-Lạc vô số cung điện làm toàn bằng
bảy báu nhưng tự-nhiên mà có chớ không phải gia công xây cất. Đến như vấn-đề ăn
uống may mặc cũng tự-nhiên mà có, không cần phải nhọc công lo-liệu.
Đến giờ ăn, hễ lòng muốn dùng món chi, tự-nhiên món ấy hiện
ra trước mặt. Mâm bàn chén bát toàn bằng thất bảo. Đồ ăn đựng trong ấy thơm
ngon lạ thường vừa theo lượng của người ăn, không dư không thiếu. Sau khi ăn
xong thì mâm bát ấy tự-nhiên biến mất, rồi đến khi muốn ăn thì nó lại hiện ra.
Đồ ăn sau khi vào mình, tự-nhiên tiêu-hóa và xông ra theo chơn lông, không có
tiêu tiểu, không có trí-trệ mà trái lại thân tâm được sảng-khoái nhẹ-nhàng.
Đến việc may mặc thì quần áo cũng tự-nhiên hiện ra theo ý
muốn, vừa với thân-thể không rộng không hẹp, muốn màu gì có màu nấy.
Đã khỏi lo ăn lo mặc, mà con người lại có dung mạo
đoan-nghiêm, các căn tịch-tịnh, trí-huệ đầy-đủ, thêm có thần-thông. Bởi nhờ có
thần-thông, nên chúng-sanh ở cõi ấy mỗi buổi sáng thân hành khắp mười
phương cúng-dường các Phật. Những món cúng-dường ấy tùy theo lòng muốn mà hiện
ra nơi hư không rồi sa xuống trước Phật. Khi cúng-dường các Phật ở mười phương
xong, trở về vẫn còn trước giờ ăn.
Sau bửa ăn, mỗi vị đi khắp cõi Cực-Lạc, người thì giảng
pháp, kẻ thì niệm Phật rất thung-dung tự-tại. Do đó mà nhiều vị được chứng quả
tùy theo công-đức của mình.
Ngoài các điều vui đẹp vừa kể trên, những người về cõi Cực-Lạc
còn hưởng thêm mười điều báu quí hy-hữu:
1 Thường được thấy Phật, gần Phật,
2 Chư Đại Bồ-tát thường là bạn cùng chung hội-hiệp,
3 Luôn luôn được nghe tiếng diễn pháp-mầu không luận
chỗ nào, lúc nào, nếu muốn nghe,
4 Thường được chư Phật hộ-niệm,
5 Sống lâu vô-lượng kiếp đồng với Phật,
6 Không còn lo bị đọa vào ác đạo,
7 Vĩnh-viễn thoát khỏi luân-hồi,
8 Thọ dụng tự-nhiên khỏi lo ăn lo mặc, bê-trễ
công-phu hành-đạo.
9 Được vào chánh-định,
10 Hiện một đời là thành Phật.
III. Phật A-Di-Đà.
Sở-dĩ có cõi Cực-Lạc là do bản-nguyện của Đức Phật A-Di-Đà.
Ngài là vị giáo-chủ cõi ấy. Ngài có danh-hiệu A-Di-Đà là vì Ngài có hào-quang
sáng chói khắp cả mười phương không có vật chi chướng-ngại, và tuổi thọ vô cùng
vô tận không thể kể xiết.
Thân tướng của Ngài, vàng chói rất đoan-nghiêm tốt đẹp có
32 tướng chánh và 80 tướng phụ, cao một trượng sáu thường đứng trên hoa sen trắng.
Giữa đôi chơn mày có lông trắng xoay bên hữu, thường phóng hào quang. Ngài thường
hóa-hiện khắp nơi cứu-độ chúng-sanh.
Cứ theo lời Đức Phật Thích-Ca thì Ngài đang thuyết pháp ở
cõi Cực-Lạc và luôn luôn có hai vị Quan-thế-âm Bồ-tát và Đại-thế-chí Bồ-tát
theo trợ-pháp.
Thân tướng của hai Ngài cũng đoan-nghiêm trang chỉnh và có
thần-thông quảng-đại, cứ mỗi bước đi đều có hoa sen kim-cương đỡ gót.
Đức Quan-thế-âm thường dùng bàn tay báu của Ngài mà tiếp dẫn
chúng-sanh về nước Cực-Lạc. Ngài sở dĩ có danh-hiệu Quan-thế-âm là vì Ngài thường
nghe rõ tiếng kêu cầu của các loài trong mười phương mà thân đến cứu khổ cứu nạn.
Đức Đại-thế-chí thường dùng ánh sáng trí-huệ chiếu khắp mọi
loài làm cho chúng-sanh thoát khỏi tam-đồ mà thành vô-thượng-lực. Vì thế mà
Ngài có danh là Đại-thế-chí.
Ở cõi Cực-Lạc còn có vô số vô biên hàng Bồ-tát và A-la-hán.
Tóm lại, cõi Cực-Lạc do Đức Phật A-Di-Đà hóa hiện ra là một
cõi an vui không thể kể xiết mà bất cứ người nào được vãng-sanh về đó cũng đều
nhờ chí-tâm niệm danh hiệu của Ngài thì liền được Ngài dùng thần lực nhiếp-thủ.
Như thế đủ thấy rằng oai lực của Ngài không thể nghĩ bàn được. Nên chi pháp-môn
niệm Phật có thể nói là pháp-môn siêu-thắng hơn hết và dễ tu hơn hết vì mọi người
bất luận trí ngu phàm Thánh, tùy theo hoàn-cảnh xuất-gia hay tại gia đều có thể
tu chứng được tất cả.
Vĩnh-Minh Đại-Sư cho rằng: mười người tu đều được cả mười.
Tổ Thiện-Đạo cũng nhận: ngàn người tu không sót một.
Văn-Thù Bồ-tát cũng nói: các môn tu-hành không môn nào qua
môn niệm Phật. Niệm Phật là vua các pháp-môn.
Huống chi trong kinh Đại-tập có nói rằng: vào thời mạt-pháp
muôn ức người tu hành khó có một người được giải thoát. Chỉ nương theo pháp-môn
niệm Phật mà được thoát khỏi luân-hồi.
Những lời của các Tổ và các kinh dẫn trên đầy đủ minh-chứng
pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn tu chắc-chắn hơn hết. Hễ chí-tâm niệm Phật
thì sớm muộn gì cũng được vãng-sanh. Nên chi trong Vô-lượng-thọ kinh có nói:
người chí-tâm niệm một tiếng Phật được tiêu-diệt tám muôn ức kiếp tội trọng
sanh-tử. Huống chi niệm nhiều thì sự thành-tựu lại càng mau chóng hơn nữa. Vì rằng
pháp-môn niệm Phật có năm công-đức bất khả tư-nghị:
1 Người niệm Phật có thể vượt
tắt ra khỏi tam-giới, chẳng đợi phải đoạn-trừ hoặc-nghiệp.
2 Hễ vãng-sanh về Cực-lạc là
được quả bất-thối, chẳng nhọc vượt lên lần từ cõi một.
3 Chỉ chuyên-trì niệm Phật
cũng đủ vãng-sanh, chẳng cần đến các phép thiền-quán.
4 Chỉ thuần niệm trong một tuần
là có thể thành công, chẳng đợi tu nhiều kiếp.
5 Chỉ trì niệm danh-hiệu của
Phật A-Di-Đà là được các Phật hộ-niệm.
Thêm một bằng chứng nữa, ngay Đức Huỳnh Giáo-Chủ cũng
nhìn-nhận sự lợi-ích của pháp niệm Phật. Ngài cho rằng niệm Phật là kết
duyên-lành với Phật như câu:
Niệm Phật mà gây lấy thiện-duyên,
Cho đẹp mặt tổ-tiên nòi giống.
Chẳng những gây được thiện-duyên mà niệm Phật còn có
công-năng trừ được các vọng-niệm. Đức Huỳnh Giáo-chủ có giải như vầy:
” Phương-pháp niệm Phật là để trừ các vọng-niệm của
chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm
về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn-tâm
mờ ám. Nên nay, hễ thành-tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một
niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi
nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng-niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và
các tình dục còn đâu mà nẩy sanh ra được.
” Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật
cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trước-nhiễm trần-ai
“.
Về điều này, Ngài có minh-chứng trong câu:
Gìn giới cấm sửa tâm ô-tạp,
Niệm Phật thì để dẹp lòng tà.
Niệm Phật ngoài lợi-ích cho tự-tánh, còn cứu mình khỏi
nguy-nan tai biến, như bài thơ dưới đây:
Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,
Muốn khỏi hội này, trẻ ăn chơi.
Lục tự trì tâm là phương phép,
Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời.
Hay câu:
Chữ lục-tự trì tâm bất viễn,
Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.
Chẳng những thoát khỏi tai nàn mà lại còn được sống coi
Tiên Thánh:
Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,
Thì mới được sống coi Tiên Thánh.
Và còn gần được Tòa-chương:
Niệm Phật nào đợi mùi hương,
Miễn tâm thanh-tịnh Tòa-chương cùng gần.
Tuy nhiên, Đức Huỳnh Giáo-Chủ còn nhận rằng: Niệm Phật là để
làm theo bốn đại-đức của Phật, như Ngài đã khuyên: chư Phật có bốn đại-đức. Vậy
ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán làm theo bốn đại-đức của Phật đặng
ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đại-đức ấy là: Đại-từ, đại-bi, đại-hỉ, đại-xả.
Nhưng cứu-cánh của phép niệm Phật là cầu sanh về cõi Tịnh-độ.
Thế cho nên người muốn về cõi Tịnh-độ được an-dưỡng mọi cảnh khoái-lạc trường-tồn
thì chỉ có nhứt-tâm niệm Phật là phương-pháp vi-diệu hơn hết. Điều nầy Đức Huỳnh
Giáo-chủ không ngớt kêu gọi chúng-sanh, như đoạn giảng dưới đây:
Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh-độ,
Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-quốc.
Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật,
Dầu Tiên phàm, ma quỉ, súc-sanh;
Cứ nhứt tâm tín-nguyện phụng hành,
Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây-phương hồi-hướng,
Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi.
Xét cõi trần sóng khổ giạt trôi,
Vô-lượng thứ ở trong thế-giái.
Như thế đủ thấy rằng pháp-môn Tịnh-độ dễ tu hơn
các pháp, vì là một pháp-môn tu-tắt, cũng gọi là pháp-môn “hoành siêu
tam-giới”, như con mọt đục ngang cây tre, chỉ đục ngang qua là ra khỏi,
không như các pháp-môn khác khó tu khó đắc mà người ta thường gọi là pháp-môn “thụ
xuất tam-giới”, như con mọt phải đục từ mắt một của cây tre, cho đến tột
ngọn mới ra khỏi. Có khi đuối sức phải chết ngột trong đó.
Để chứng chắc rằng pháp-môn Tịnh-độ rất dễ tu mau thành,
không pháp nào bằng, Ngài Vĩnh-Minh Thiền-sư có làm bốn bài kệ rằng:
Có Thiền-tông, có Tịnh-độ,
Như thêm sừng cho mãnh-hổ,
Hiện-tại thì làm thầy người,
Vị-lai thì làm Phật-tổ.
٭ ٭ ٭
Có Thiền-tông, không Tịnh-độ,
Mười người tu, chín người đổ (rớt).
Am-cảnh nếu thấy hiện ra,
Chỉ chớp mắt là theo nó.
٭ ٭ ٭
Không Thiền-tông, có Tịnh-độ,
Vạn người tu, vạn người đỗ (đậu).
Đã được thấy A-Di-Đà,
Còn lo gì chẳng khai-ngộ.
٭ ٭ ٭
Không Thiền-tông, không Tịnh-độ,
Địa-ngục đêm ngày đau khổ.
Muôn đời ngàn kiếp còn lâu,
Nhờ cậy ai mà tế-độ.
Tóm lại, giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ gồm cả hai pháp-môn
Thiền-tông và Tịnh-độ đồng-hành nghĩa là vừa tự-lực chừa các điều ác, làm hết
các điều lành và vừa cầu tha-lực của Đức Phật A-Di-Đà tiếp-dẫn về cõi
Tây-phương Cực-lạc. Đành rằng phải gồm tu cả hai pháp-môn Thiền-Tịnh, nhưng ở
thời-kỳ mạt-pháp này, chúng-sanh căn-tánh thiển-bạc, tội-chướng dẫy-đầy, cũng
như cục đá nặng nếu không nhờ thuyền đại-đức của Phật chở-chuyên thì khó mà qua
đến bờ bên kia. Vì thế mà các vị tiên-đức cực-lực khuyến-khích chúng-sanh nên tấn-tu
pháp-môn Tịnh-độ.
Đó là cả giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ.
H. – Cứ theo giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ mà quí ông
vừa trình-bày thì đồng một giáo-pháp vô-vi của Phật Thích-Ca khuyên người không
thiết đến việc cạnh-tranh, thế sao tôi lại thấy có tổ-chức quân-sự như
vậy có sai-biệt với giáo-pháp của Đức Phật không?
Đ. – Về câu hỏi này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có lần đáp như vầy:
” Theo sự nhận xét của tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi
Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai-sáng lấy chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với
tất cả chúng-sanh làm nồng-cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để
về tư-tưởng vì những câu “ Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh ”
và ” Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng với chúng sanh “. Đã có
những sự bình đẳng về thế-tánh như thế mà chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật
là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không đồng-đều, chớ không phải họ không tiến-hóa
ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian này còn có chúng-sanh tiền-tiến
áp bức những chúng-sanh lạc-hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo-lý
chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó Đức Thích-Ca-Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực
trong đời của Ngài là do nơi hoàn-cảnh xã-hội của Ấn-độ xưa không thuận tiện.
Thế nên Ngài chỉ phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay trình-độ tiến-hóa
của nhân-loại đã tới một mực khả-quan, đồng-thời với tiến-hóa về khoa-học thì
ta có thể thực-hành giáo-lý ấy về để thực-hiện một xã-hội công-bằng và nhân đạo.
Thế nên với cái-tâm-hồn bác-ái từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều hòa với
phương-pháp tổ-chức xã-hội mới để phụng-sự một cách thiết thực đồng-bào và
nhơn-loại.”
Hơn nữa như chúng tôi đã trình-bày đại-khái giáo-lý của
Ngài, chủ-yếu ở chỗ học Phật tu-nhơn lấy Tứ-ân làm căn-bản để thực-hành
mỗi ngày. Phương-chi tín-đồ của Ngài hầu hết thuộc vào hạng tại-gia cư-sĩ nghĩa
là sống gần với quốc-dân đồng-bào, đã từng thụ-ân rất nhiều của đất nước. Vì thế
mà khi nước nhà gặp cơn nguy-biến, dĩ-nhiên là họ cảm thấy có bổn phận đem thân
ra bảo-vệ. Do đó mà họ vẫn vui-vẻ góp công với đồng-bào họ trong công cuộc bảo-vệ
quê-hương đất nước.
Phương-chi cái lý-tưởng đạo-đức mà họ đã lãnh-thụ nó đượm-nhuần
đức-độ vị-tha bác-ái, thì đây là một cơ-hội cho họ thi-hành pháp-môn vô-úy
thí là một việc cao quí nhứt, khó làm nhứt trong ba môn bố-thí, tài-thí,
pháp-thí và vô-úy-thí.
Như thế thì không còn ai phải lấy làm lạ khi được nghe Đức
Huỳnh Giáo-chủ tuyên-bố:
” Đối với toàn-thể tín-đồ Phật-giáo, tôi vẫn không
quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng
giáo-lý giải-thoát chúng-sanh chẳng những được truyền-bá ở thiền-lâm mà còn phải
thực-hiện trên trường chánh-trị “.
Đăng nhận xét