Mục lục
- Mẩu chuyện thứ 1: SỰ LÂM PHÀM CỦA ĐỨC THẦY
- Mẩu chuyện thứ 2: TRỊ BỊNH CHO ĐỨC THẦY
- Mẩu chuyện thứ 3 NÚI TRÀ SƯ
- Mẩu chuyện thứ 4: ĐĂNG SƠN LẦN THỨ NHỨT
- Mẩu chuyện thứ 5: ĐỨC THẦY TẮM SÔNG
- Mẩu chuyện thứ 6: ĐỨC THẦY ĐỘ ÔNG KÝ VÕ VĂN GIỎI
- Mẩu chuyện thứ 7: ĐỨC THẦY ĐỘ CHO NGƯỜI TRUNG HOA
- Mẩu chuyện thứ 8: CẢI TỬ HUỜN SANH
- Mẩu chuyện thứ 9: DẠY ĐẠO CỨU ĐỜI
- Mẩu chuyện thứ 10: LỜI DẶN DÒ CỦA ĐỨC THẦY
- Mẩu chuyện thứ 11: CON THEO THẦY
- Mẩu chuyện thứ 12: ĐỨC THẦY UỐNG NƯỚC ACID
- Mẩu chuyện thứ 13: CẤM THỌ THỰC BA NHÀ
- Mẩu chuyện thứ 14: CHẾT ĂN KHÔNG ĐƯỢC
- Mẩu chuyện thứ 15: CHUYỂN ĐIỂN LÀNH
- Mẩu chuyện thứ 16: TRUYỀN PHÉP LINH
- Mẩu chuyện thứ 17: TU TIẾN CHỚ TU LÙI
- Mẩu chuyện thứ 18: BÀI TÀ HIỂN CHÁNH
- Mẩu chuyện thứ 19: TRÁI BÍ ĐAO
- Mẩu chuyện thứ 20: THỂ HIỆN TỪ BI
Chuyện Bên Thầy (Phần 1)
LỜI NÓI ĐẦU
Quyển CHUYỆN BÊN THẦY được xuất bản không nhằm tính cách thương
mại, hoặc giới thiệu, hay quảng bá giáo thuyết của Tôn giáo.
Quyển Chuyện Bên Thầy do các bạn trẻ Đạo PHẬT GIÁO HÒA HẢO sưu tập
với hình thức:
* Được chép nguyên văn từ những băng cassettes do các vị Đồng Đạo
Niên Lão quê hương Việt Nam biên soạn và phát hành trước, hoặc sau biến cố năm
1975.
* Được viết lại từ những băng cassettes theo sự tự thuật của các
Niên Lão trước kia thường ở bên cạnh Đức HUỲNH GIÁO CHỦ. Phần nầy, Ban Sưu Tập
xin phép viết lại lời văn cho dễ đọc; riêng nội dung cốt chuyện luôn được giữ
nguyên. Có nhiều trường hợp nguồn xuất xứ, cũng như người kể không nêu tên, Ban
Sưu Tập chỉ ghi lại nội dung chánh của câu chuyện.
* Được viết qua sự trực tiếp kể lại chuyện của Quí Đồng Đạo mà Ban
Sưu Tập biết rõ có uy tín và câu chuyện có lý do để nêu lên. Thường ở đoạn cuối
của mỗi câu chuyện, chúng tôi có thêm Phần Nhận Xét. Phần nầy thuộc về thiển
kiến cá nhân, nên không tránh khỏi lỗi lầm. Vì ích lợi chung, chúng tôi ước
mong đón nhận những điều chỉ dạy của Chư Vị Cao Minh và Đồng Đạo giúp cho sự bổ
túc sau nầy được hoàn hảo hơn.
Sở dĩ chúng tôi Kết Tập những mẩu CHUYỆN BÊN THẦY, bởi những lý do
và quan niệm như sau:
* Những mẩu chuyện đầy Đạo vị có thể giúp cho các bạn tuổi trẻ dễ
lần bước theo hành trạng của một vị Hoạt Phật lâm phàm tại quốc độ Việt Nam.
* Những mẩu chuyện có thể gián tiếp giải đáp điều thắc mắc của ai
muốn tìm hiểu: Vì sao với số tuổi mới 19-20 mà Đức HUỲNH GIÁO CHỦ khai Đạo chỉ
trong một thời gian ngắn mà đã có hằng triệu tín đồ quy ngưỡng
* Ngoài ra, nhà Biên Khảo sưu tầm tài liệu về tinh hoa của quê
hương Việt Nam cũng ít phải vất vả sưu tầm nhiều tài liệu.
Bởi những điều nêu như trên, nhóm Thanh Niên Phật Giáo Hòa Hảo
chúng tôi không nệ hà khó nhọc ghi chép lại để giữ cho tài liệu nầy được lâu
bền và ước mong có thể đóng góp vào tủ sách Đạo học của chư Thiện giả thêm
phong phú.
Như chúng tôi trình bày ở phần vào đề là quyển sách nầy được ấn
hành không nhằm mục đích truyền bá giáo thuyết riêng của một Tôn giáo, vì tôn
giáo thường bị giới hạn bởi định kiến của nhiều thành phần khác nhau trong xã
hội, chúng tôi mong sao đề cập đến con đường hành Đạo là sự mở rộng thênh thang
cho mọi Hành giả tìm nơi cứu cánh giải thoát.
Mong ước sau cùng là quyển CHUYỆN BÊN THẦY có thể trợ trưởng quí
bạn Thanh Niên Đồng Đạo trên con đường Đạo đức miên viễn. Chúng tôi hy vọng
quyển Chuyện Bên Thầy thứ Hai sẽ được Kết Tập đầy đủ hơn nữa.
Hoa Kỳ, Phật lịch 2542 ngày Rằm tháng 6, năm Mậu Dần (1998).
Ban Sưu Tập Thanh Niên Phật Giáo Hòa Hảo.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CHUYỆN BÊN THẦY
Tiến sĩ LÊ HIẾU LIÊM
Mấy năm trước, được nghe 5 cuộn băng về Những Mẩu Chuyện Bên Thầy,
tôi vô cùng thích thú và ao ước những câu chuyện Đạo sống động, đầy ý nghĩa
nầy, về chính cuộc đời của một bậc Thánh, một vị Bồ Tát được sinh ra trên quê
hương Việt Nam và rất gần gũi với chúng ta, sẽ được in thành sách để phổ biến
rộng rãi cho mọi người cùng biết, học hỏi và tu hành. Niềm mong ước ấy nay đã
được thực hiện. Tôi nhiệt liệt tán dương công đức của Thanh Niên Phật Giáo Hòa
Hảo hải ngoại đã làm một việc có ý nghĩa, cho ra đời một tác phẩm vô cùng hữu
ích cho mọi người tu. Qua tác phẩm nầy, chân dung thật, hành động thật, sống
động, cao cả và vi diệu của một nhân vật tôn giáo lớn của Việt Nam cận đại, là
Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, được giới thiệu trung thực. Tác phẩm nầy cho chúng ta
thấy chính Ngài, một thanh niên bình thường trong lứa tuổi đôi mươi, đích thật
là một vĩ nhân phi thường, một Bồ Tát có mặt thật giữa cuộc đời cứu khổ, cứu nạn
cho con dân và quê hương Việt Nam.
Nếu so sánh về mặt xả thân hy sinh tranh đấu cho quốc gia, dân
tộc, trong tinh thần Bồ Tát Đạo, với nhân vật tôn giáo được kính trọng nhất thế
giới hiện nay, là Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, người được coi là hóa thân của
Bồ Tát Quan Thế Âm, là một vị “Phật sống”, thì Đức Huỳnh Phú Sổ, qua cuộc đời
hiến dâng trọn vẹn cho nền độc lập của tổ quốc Việt Nam, không thua không kém.
Nếu so sánh về mặt tiến hóa tâm linh và sự chứng đắc những thần thông chân
chánh trong chánh pháp của Đức Phật Thích Ca, như Tha Tâm Thông, biết tâm ý của
người khác, Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, thấy và nghe xa ngàn dậm, thì Bồ
Tát Huỳnh Phú Sổ của Việt Nam đã có phần trội vượt, siêu việt hơn Đạt Lai Lạt
Ma của Tây Tạng. Đọc những mẩu chuyện trong cuốn sách nầy thì sẽ rõ. Tây Tạng
được coi là đất nước có trình độ tiến hóa tâm linh rất cao trên thế giới. Việt
Nam còn sinh những người con có trình độ tiến hóa tâm linh cao cả hơn cả người
lãnh đạo tôn giáo và chánh trị của một nước có trình độ tiến hóa tâm linh rất
cao. Còn gì vinh dự và vẽ vang hơn cho người Việt Nam chúng ta. Điều nầy chứng
minh truyền thống tâm linh Việt Nam, trong chủ đạo Phật Giáo, không thua kém
bất cứ truyền thống tôn giáo lớn nào trên thế giới.
Thế nhưng tiếc thay, Bụt nhà không thiêng. Trong khi Đức Đạt Lai
Lạt Ma được vô số người thuộc đủ mọi quốc tịch, sắc dân trên thế giới, trong đó
có nhiều người Việt Nam, biết đến, ngưỡng mộ, tôn thờ và tiếng nói của Ngài
được nhiều giới tôn giáo, khoa học, chánh trị trên thế giới lắng nghe, thì Bồ
Tát Huỳnh Phú Sổ của Việt Nam, không nói gì trên thế giới, không mấy ai biết,
mà ngay cả 77 triệu người Việt Nam ngày nay, có được bao nhiêu người biết đến
Ngài và biết chọn con đường tu hành mà Ngài đã giảng dạy là những người có
nhiều phước duyên, công đức.
Tuy con số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo không phải là nhiều, nhưng với
một người trẻ tuổi, chỉ mở đạo, hoằng pháp có vài năm, trong một hoàn cảnh
nghiệt ngả vô cùng, và với những phương tiện giảng đạo thô sơ, mà đã có hàng
triệu tín đồ, thì đây cũng là điều hy hữu, hiếm có trong lịch sử tôn giáo. Và
chỉ có nhân cách siêu phàm của Ngài mới giải thích được sự thành công lớn lao
nầy. Trong 50 năm nay (1948–1998), với những phương tiện truyền thông hiện đại,
toàn cầu, có ai trên thế giới đã thu hút được một lượng tín đồ lớn lao, trong
một thời gian ngắn ngủi như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ của Việt Nam đã thu hút trong
thời gian 1940–1947?
Cuốn sách quí giá nầy đã ra đời thật đúng lúc để giới thiệu cho
mọi người vị Giáo Chủ trẻ tuổi nhất trong lịch sử tôn giáo Việt Nam và lịch sử
tôn giáo thế giới. Đây là một tấm gương phản chiếu một nhân cách hoàn hảo,
thánh thiện. Như những mẩu chuyện tiền thân của Đức Phật Thích Ca, như cuộc đời
của thánh tăng, đạo sư đã đi vào huyền thoại, tác phẩm nầy đã đưa chúng ta lên
cao, gần gủi những con người đã giác ngộ, và đồng thời trao cho chúng ta một
thông điệp của Chư Phật, Bồ Tát: Bạn hãy là một vị Bồ Tát có mặt thật giữa cuộc
đời để cứu khổ, cứu nạn cho quê hương và cho muôn người, muôn loài.
Hoa Kỳ, Phật lịch 2542 ngày 18 tháng 10 năm 1998.
LÊ HIẾU LIÊM
tác giả “Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ & PHẬT GIÁO THỜI ĐẠI”
Mẩu chuyện thứ 1
SỰ LÂM PHÀM CỦA ĐỨC THẦY
Tại Tổ Đình Hòa Hảo thuở Đức Bà còn
sanh tiền, tuy tuổi hạc đã cao, nhưng Bà vẫn sáng suốt, không lầm lẫn như những
thường nhân. Ngày nọ, nhân bà nhìn những cháu bé mới biết đi lẫm đẫm, bỗng bà
nhớ lại Đức Thầy khi Ngài còn nhỏ; cảm xúc trước cảnh đó, Đức Bà kể mẩu chuyện
được ghi lại dưới đây:
Đức Bà nói: Sau một thời gian về gá
nghĩa với Đức Ông , một hôm bà nằm mộng, có một dị nhân đến mời bà đi viếng
núi. Trên đường đi cảnh vật thật là đẹp mắt, ngàn hoa khoe sắc thắm, ngào ngạt
gió đưa hương, mãi mê trước phong cảnh mà ở thế gian này bà chưa hề nhìn thấy,
chợt bước đến cuối của vồ đá thật cao, nhìn quanh toàn là đá dựng lởm chởm, bà
nghĩ là không thể nào đi lên được nữa, bà dừng chân lại chưa biết phải làm sao
thì dị nhân mới nói:
– Tôi sẽ đưa bà lên viếng cảnh Non
Bồng cho biết.
Dị nhân nắm tay bà, bà cảm thấy thân
hình nhẹ bổng cùng bay vượt lên đến tận đỉnh của non cao, nơi đây một bình
nguyên khá rộng, tòng bá xanh um, hoa kiểng lạ mắt mọc khắp mọi nơi, cảnh đẹp
vô cùng, không sao nói hết đặng, chân bà bước có cảm giác hết sức nhẹ nhàng,
đến bên gành đá, cạnh đó có một tảng đá như cẩm thạch mặt bằng phẳng bóng ngời,
trên mặt có để một cái dĩa trắng chói sáng như thể bằng ngọc, trong đựng một
trái đào chính đỏ tỏa ngát mùi thơm. Người dẫn đường liền mời bà ăn trái cây
đó, bà đến bưng dĩa trái cây rồi mời lại dị nhân thì được người đó cho bà biết
là:
– Vật quí này là riêng phần của bà
được hưởng, còn người khác thì không.
Không khí nơi đây thật trong lành
mát dịu, hương thơm của những loại kỳ hoa dị thảo làm cho tinh thần của bà phấn
chấn chưa hề có, với hương vị đặc biệt của trái đào mà bà chưa từng nếm qua.
Ôi! Nói sao cho xiết, đến khi bà vừa dùng xong trái đào thì người dẫn đường nói
tiếp:
– Như vậy thì phần của bà đến đây đã
xong, bà vừa ăn trái đào này là để gieo duyên cùng Phật Pháp.
Nói xong dị nhân đưa bà xuống núi,
bà đi qua khỏi vồ đá cao, bị trợt chân bà liền tỉnh giấc mà lòng vẫn còn được
cảm giác thơ thới nhẹ nhàng.
Thời gian sau thì bà thọ thai, thắm
thoát đến tháng 11 âm lịch năm 1919 bà lại nằm mộng thêm một lần nữa:
Đang ngủ bà nghe hình như có tiếng
gọi ngoài sân nhà, bà bước ra ngoài thì cảnh vật không phải là trước sân mà
hoàn toàn thay đổi, cây cỏ tươi tốt, lại có một cành hoa lạ trổ ra mùi thơm
ngào ngạt và chung quanh thì hoa nào cũng đang nở rộ như để đón chào bà. Đứng
trước cảnh vật tươi mát đó thì bỗng chốc có vầng mây trắng kéo đến, sau đó một
đám mưa bao quanh mình bà, những hạt mưa như mù sương, nhẹ nhàng ve vuốt khắp
thân thể của bà, tạo cho bà có một cảm giác sảng khoái như cởi bỏ tất cả sự
nặng nhọc mà bà đang cưu mang; kế tiếp, lại có vầng mây ngũ sắc từ trên cao rơi
nhẹ xuống phủ quanh mình bà, cả tâm hồn lẫn thể chất êm dịu không sao tả xiết.
Một hồi lâu vầng mây ấy tan đi, bà bước vào nhà liền thức giấc.
Kế đó bà cảm thấy trong người có sự
chuyển động, báo cho bà biết sắp đến kỳ sanh, bà gọi Đức Ông để báo tin. Đức Bà
thuật lại chuyện hạ sanh Đức Thầy thật là khác thường.
Đức Thầy ra đời được bao trong cái
bọc, khi ra khỏi mình mẹ thật là trong sạch, không có máu huyết đầm đìa, hôi
tanh nhơ bẩn, cái bọc tự nứt ra một hài nhi với cặp mắt long lanh nhìn thế gian
trầm tư chớ không hề có tiếng khóc. Đức Bà kể tiếp:
Từ lẫm đẫm mới biết đi cho tới tuổi
khôn lớn, phẩm hạnh của Thầy nghiêm trang khác thường. Khi đến tuổi cắp sách,
đầu tiên học với ông thầy giáo Khoái tại thôn Hòa Hảo, sau đó Ngài đi thi tiểu
học ở quận Tân Châu, thi xong, Ngài về nhà, không chịu tiếp tục học thêm nữa.
Ngài vẫn ở chung trong gia đình,
sinh hoạt bình thường như mọi người khác, nhứt là công việc đồng áng, thường
ngày tuy có sự gần gũi với những người thiếu niên đồng lứa tuổi, nhưng chưa bao
giờ Ngài dự vào những cuộc vui chơi.
Điều đặc biệt hơn nữa là tuy với lứa
tuổi còn đang niên thiếu, nhưng người ta thường thấy Ngài hay ngồi trầm tư dưới
những cội cây cao bóng mát trong khu vườn sau nhà.
Thuở đó Đức Ông làm ruộng ở Kinh
Thần Nông, Ngài cũng theo giúp việc, thường khi trâu, bò đến ăn phá, Ngài chỉ
đuổi chúng đi nơi khác, không hề đánh đập những con vật này.
Tuy đang mắc việc ở trại ruộng,
nhưng hễ cứ đến ngày 14, ngày Rằm hoặc 29, 30 Âm lịch thì người ta thấy Ngài
trở về ở tại nhà, sự có mặt đều đặn trong những ngày nói trên, làm cho hầu hết
người trong nhà cho là chuyện lạ và có ý tò mò, hễ có ai hỏi đến đều được Ngài
trả lời là bị bệnh, nhưng chưa bao giờ thấy Ngài dùng thuốc men hoặc có vẻ chi
là bệnh.
Lúa gặt xong, người ta phải gom từ
cụm nhỏ lại thành ra lớn, được gọi là chồng mớ lúa, Ngài cũng làm như mọi
người, nhưng công việc thì khác thường, Ngài cũng gom lại từng mớ và xếp ngay
hàng thẳng lối, chiều nào cũng ngay thẳng giống như nhau, mớ nào lớn thì sớt
qua nhỏ, chia đều nhau, lại còn lấy tay vỗ vào gốc lúa cho bằng đầu. Thấy
chuyện làm lạ thường, ông Út (bào đệ của Đức Ông) và ông Tám Khâm (cháu gọi Đức
Ông bằng cậu) đều nói:
– Ngày mai thì gom vô cà lang mà ở
đó sắp cho ngay hàng vỗ cho bằng đầu, sớt mớ này qua mớ nọ làm chi?
Có nói chi thì Đức Thầy cũng không
trả lời, vẫn yên lặng làm theo ý của Ngài. Thấy vậy ông Út mới rầy:
– Cứ chồng thí cho mau, ở đó sớt đi
sớt lại, so tới so lui, còn nhắm cho ngay hàng thẳng lối làm gì.
Đức Thầy trả lời:
– Mấy ông làm sao thì làm, còn tôi
làm như vậy đó!
Ông Út nói nhiều lần mà Thầy vẫn làm
theo việc Ngài làm, thấy vậy ông Út phó mặc.
Khi Đức Thầy được 18 tuổi, Đức Ông
tính đến chuyện lập gia thất. Ở tại xã Hưng Nhơn, ông Cả Cẩn có người con gái
cùng tuổi với Đức Thầy, nhan sắc và tánh tình thùy mị, trang nghiêm. Xét về lý
đời thì thật là tương xứng, vì thế ông cả Cẩn muốn kết nghĩa thông gia với Đức
Ông, hai người đã ước hứa với nhau, Đức Ông hẹn sẽ đưa Thầy đến để trai gái gặp
nhau, điều này đã tỏ ý nhiều lần nhưng đều bị Ngài cự tuyệt. Hết cách giải
quyết, Đức Ông đến bàn chuyện với ông Út giúp ông làm cách nào để đưa Thầy sang
nhà ông Cả Cẩn để cho ông giữ đúng lời hứa hẹn. Ông Út vâng theo lời.
Nhân một hôm Thầy sang chơi nhà ông
Út, ông ngỏ lời nhờ Thầy cùng đi với ông sang nhà ông cả Cẩn để giúp cho ông
giải quyết việc sổ sách. Đức Thầy trầm ngâm hồi lâu rồi mới lên tiếng:
– Ông Út cần tiếp việc thì tôi sẽ đi
với ông.
Vài ngày sau hai người cùng đi đến
nhà ông Cả Cẩn, ông tiếp khách được một lúc thì người con gái bưng nước ra mời,
trông cử chỉ của chủ khách và cô con gái ông Cả Cẩn thì Đức Thầy đã rõ biết câu
chuyện. Ngài liền đứng lên nói cùng ông Út:
– Ông nói gạt tôi phải không ông Út.
Nói xong Đức Thầy bước ra cửa đi về.
Ông Út nói lại: Đức Thầy có ý phiền
nên cả tháng không qua lại nhà của ông Út. Thời gian sau Đức Ông có đề cập đến
chuyện hôn nhơn đều bị Đức Thầy từ chối quyết liệt.
Viết theo lời thuật trong băng nhựa
của ông Năm Chơn (tức ông Ngô Ngọc Chơn) trước khi Đức Thầy mở Đạo người ta
thường gọi ông này là ông Đạo Năm. Là cháu, con người chị thứ Tám của Đức Ông,
nhà ở bên cạnh Tổ Đình.
Mẩu chuyện thứ 2
TRỊ BỊNH CHO ĐỨC THẦY
Chuyện này do Đức Bà kể tiếp theo
chuyện trên.
Thời gian sau Đức Thầy bắt đầu thân
bịnh, ngày càng trầm trọng thêm, chạy chữa thuốc thang đủ cả mà bịnh tình vẫn
không thuyên giảm.
Đức Bà thấy căn bịnh lạ thường quá,
cứ trầm tư mặc tưởng, thân hình ngày càng tiều tụy, Bà lo nghĩ là mắc phải bịnh
tà. Bà đề nghị cùng Đức Ông thử tìm thầy bùa, thầy pháp chữa trị coi như thế
nào, bởi thuốc Tây thuốc Tàu uống vào như uống nước lã thì biết làm sao hơn.
Đức Ông nghe theo lời, chở Thầy đi
nhiều nơi, nhưng đến đâu thì các lương y cũng đều bó tay, và thuở đó Đức Ông
bận việc làng nên thường vắng nhà. Bệnh tình của Đức Thầy ngày càng trầm trọng,
đến bảy ngày không ăn uống chi cả, thấy thế Bà hết sức đau lòng, từ trong bước
ra chỗ Thầy nằm, nắm chân Thầy lay dậy mà hỏi rằng:
Trong mình ra sao? Không ăn uống làm
sao sống nổi.
Đức Thầy ngồi dậy, hai tay căng ra
thẳng nhìn bà rồi nói:
– Bà Cả, bà nhìn tôi coi có phải ba
đầu sáu tay.
Đức Bà nhìn Thầy nghĩ là đã mê sảng
rồi, Bà khóc.
Kế đó người nhà chở Đức Thầy đi
nhiều nơi để điều trị.
Tại Mặc Dưng có ông Sãi Cả người
Miên, ông này chuyên dùng bùa ngải để trị bịnh tà ma, ông có nhiều pháp thuật.
Đức Ông cùng vài người nữa chở Thầy đến đó.
Sau khi nghe Đức Ông trình bày bệnh
tình của Thầy, ông Sãi Cả bước vào bên trong chánh điện của chùa, một lúc sau,
ông bưng ra một ly nước, đỏ như nước rượu cho bịnh nhân uống.
Thầy không chịu uống, thấy thế Đức
Ông rầy:
– Bệnh tình như vậy, thầy bảo uống
thuốc lại không chịu, thì làm sao hết được bịnh.
Thấy Đức Ông phiền trách nên Thầy vị
tình bưng ly thuốc uống. Uống vừa xong Thầy rùng mình làm cho cả chùa chuyển
động gần muốn sập, làm cho mọi người lo sợ sắp bỏ chạy ra ngoài, cho đến khi
đức Thầy không còn rùng mình nữa thì chùa cũng ngưng chuyển động.
Trước chuyện lạ thường chưa hề xảy
ra, ông Sãi Cả tay chân run rẩy, mặt mày xám ngắt, đâu còn lòng dạ nào chữa trị
nữa.
Mẩu chuyện trên được ghi lại trong
băng nhựa, theo lời thuật của ông Năm Chơn (tức Ngô Ngọc Chơn) là cháu, con
người chị thứ Tám của Đức Ông.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đoạn này, có một vài người bảo là
nên để ra ngoài những Mẩu Chuyện Bên Thầy, bởi trông nó giống như chuyện khoa
học giả tưởng, nó không thể chứng minh bằng những phương pháp khoa học hiện
đại. Nhưng xét thấy khoa học là con đẻ của Phật học, để hiểu người con, thì chỉ
có cha mới hiểu rõ ngọn ngành, còn con mà muốn hiểu được cha thì cần phải có
thời gian lâu dài.
Hơn thế nữa chuyện này lại xảy ra
trước mắt của nhiều người, mà họ lại là những người vô tư. Xét thấy cũng nên
ghi đúng lại sự thật để cùng nhau suy gẫm, chắc cũng không hệ gì. Còn như câu
chấp đúng hay sai, mỗi sự việc đều đòi hỏi phải chứng minh mà trước đây Đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói: Ngoài thế giới
này còn hằng hà sa số thế giới khác và trước khi
uống nước đều phải niệm kinh siêu độ cho những sinh vật sống trong ly nước. Với
Phật nhãn Ngài đã nói đúng sự thật. Nhưng vào thời kỳ Trung cổ như thế đó bảo
khoa học phải chứng minh thì chắc là không có cách nào chứng minh được. Rồi mãi
đến hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, với sự tiến bộ vượt bực của khoa học thì lời
của đấng Tôn Sư đâu ai cần bảo phải chứng minh chi nữa.
Mẩu chuyện thứ 3
NÚI TRÀ SƯ
Sau đó, người nhà đưa Đức Thầy đến
ông Ba Nhựt, ngụ tại núi Trà Sư để tiếp tục trị bịnh, ông này người đời thường
gọi với đạo hiệu là ông Đạo Som, tu luyện đạo bằng pháp thuật và bùa ngải, cũng
là người nổi tiếng trong vùng Thất Sơn. Khi trị bịnh tà ma thì ông thường hay
dùng cây som làm binh khí, hình thức giống như cây gươm, nhưng nhỏ hơn, không
phải gỗ hay kim loại mà bằng sừng của con trâu. Những bệnh nhân thường hễ khi
thấy vủ khí này đều quỳ lạy xin ông tha cho là tự nhiên khỏi bịnh.
Đến khi gặp Đức Thầy, ông cũng làm
như thế. Ông bị Thầy dùng tay điểm mặt mà nói rằng:
– Tôi không phải đau bệnh tà ma chi
mà ông som tôi.
– Ông đạo Ba Nhựt dừng lại, đem cất
hai cây som vào trong rồi trở ra nói với Đức Ông:
– Ông Cả ơi! Tôi ở vùng Bảy Núi này
trị bịnh đã hơn mười mấy năm rồi, chưa có bịnh nhân nào dám điểm mặt tôi, hôm
nay con ông điểm mặt tôi, như vậy cái gốc hành bịnh này lớn lắm, thôi ông dắt
về đi, chừng tôi truy căn gốc thì tôi mới làm đặng.
Trên đường về, đi được một lúc, Đức
Thầy cho mọi người biết là tại vùng Bảy Núi này chỉ có ông Ba Nhựt là người
linh giỏi hơn các người khác.
Sau đó theo lời hẹn, Đức Ông đưa
Thầy đến lần thứ hai để ông Ba Nhựt chữa. Đến nơi thì được biết ông Ba Nhựt
chưa tìm ra căn gốc của bịnh. Nhưng vì đường xa và với lời yêu cầu khẩn thiết
của Đức Ông nên ông Ba Nhựt cố gắng chữa trị, nhờ vào lòng thành tâm này mà ông
Ba Nhựt biết được nguyên nhân phát sinh căn bịnh và Đức Thầy không như những
thường nhân khác.
Bởi không rõ nguồn cội nên ông Ba
lập đàn triệu thỉnh Chư Vị Sơn Thần Năm Non Bảy Núi giúp ông để chữa bịnh cho
Thầy. Ông thành tâm cầu khẩn nên được bốn vị hiện về, với thân hình cao lớn,
đầu đội mão, trang phục màu sắc sặc sỡ, từ ngoài đi vào; ông Ba Nhựt thật hết
sức hoan hỷ cho lời cầu khẩn linh ứng của mình mà chư vị hiện đến tiếp tay với
ông để chữa bịnh.
Nhưng khi bốn Chư Vị tiến tới bộ vạc
mà Đức Thầy đang nằm, thì chia nhau mỗi ông một góc giường, tay khoanh tròn,
đầu cúi mọp sát đất để đảnh lễ Thầy. Xong đâu đó, bốn ông khoanh tay nghiêm
chỉnh đứng hầu Đức Thầy chớ không dám nhúc nhích.
Được chứng kiến cảnh đó, ông Ba Nhựt
hoảng kinh, nói không ra lời, lấy tay khoát, khoát năm ba lần mới nói được:
– Ông Cả ơi! Ông hãy đưa con ông về,
chừng nào con ông làm Thầy thế gian này thì sẽ hết bịnh, chớ còn tôi không dám
chữa trị chi nữa đâu.
(*) Đến khi Đức Thầy mở Đạo thì ông
Ba Nhựt đến quy y với Ngài. Sau đó, Đức Thầy có trở lại nơi của ông Ba Nhựt ở,
Thầy dùng nước sơn đề trước cửa điện ba chữ HUỲNH LONG ĐIỆN rồi Ngài bước vào
trong, hỏi mượn bộ vạc tịnh của ông Đạo Ba. Ngài ngồi thiền nơi đó suốt 64
ngày.
Mẩu chuyện trên được ghi lại trong
băng nhựa theo lời thuật của ông Năm Chơn là cháu, con người chị thứ Tám của
Đức Ông.
Mẩu chuyện thứ 4
ĐĂNG SƠN LẦN THỨ NHỨT
Mẩu chuyện này theo lời thuật của
Đức Ông tại AN HÒA TỰ, có rất nhiều người nghe.
Cuộc hành trình, trên đường đi có
nhiều chuyện nhiệm mầu xảy ra, nhưng Đức Ông không thể nào nhớ hết, ông chỉ
thuật lại một vài mẩu chuyện khá đặc biệt mà ông còn nhớ rõ.
Trước khi đi núi, Đức Thầy có nhắc
Ông đem theo đồ lớn để làm lễ (đồ lớn là khăn đóng áo dài) khi đi đến bến xe
Châu Đốc, Thầy nói với Đức Ông mua dép làm bằng vỏ xe hơi để mang đi đường núi
rừng, bởi mùa này mưa nhiều, ngó tranh mới lên rất bén, còn giày dép thường
mang, đi núi bị trơn trợt khó đi. Đây là một điều lạ, bởi từ thuở nhỏ cho đến
lớn, có bao giờ Ngài lên rừng, tại sao Ngài lại thành thạo như một hướng đạo
chuyên nghiệp. Mua xong hai đôi dép, Ông còn mua thêm mười ổ bánh mì lên núi
phòng khi đói lòng.
Trên chuyến xe đi Nam Vang, khi đến
Cần Giọt Cam Chạy thì Thầy gọi xe dừng lại. Tại nơi này, trên núi người Pháp có
làm nhà tù để nhốt tù binh và những người chống đối chúng, thường ngày cấm ngặt
thường dân đi lại, lúc này vào năm 1939, tình hình không được yên ổn nên người
Pháp phòng bị rất là nghiêm ngặt, bất cứ ai đi trên đường này đều bị bắn bỏ, mà
hôm nay Thầy lại dẫn Đức Ông đi trên con đường này. Khi đi được nửa đường thì
có xe tuần tiểu của Pháp chạy xuống, hai bên hông xe lính chỉa súng, sẵn sàng
nhả đạn. Thầy chỉ cho Đức Ông, ông kinh tâm tán đởm, vội chun lẹ vào rao mui ẩn
tránh, chờ hồi lâu không thấy Thầy theo vô, Đức Ông nhìn ra thấy Thầy vẫn đứng
tự nhiên, lưng dựa vào cột lồng đèn bên đường, không trốn tránh, mà lạ một điều
là không thấy quân lính Pháp nói chi đến Ngài. Đến khi xe qua khỏi, Thầy gọi
Đức Ông ra để tiếp tục đi.
Đi thêm một đoạn nữa thì Thầy báo
cho biết là đã hết đường, bắt đầu vào rừng, cả hai đều thay dép vỏ xe. Trên con
đường của lối vào, Đức Ông nhìn không phải đường mòn sẵn có, nhưng khi đi vào
thì ngay đây, ai đã dọn sẵn con đường đi, dấu chặt cây còn mới tinh nguyên,
chưa lá nào bị héo, ông thầm nghĩ là có người nào đi đốn củi nên họ dọn trống
đường để đi. Đức Thầy bước đi trước ngay vào con đường đó, nhìn xa xa thì cũng
toàn những dấu mới đốn dọn, còn người nào làm chuyện đó thì không thấy, chỉ
thấy mủ cây còn chảy, lá cây còn xanh. Như hiểu được sự thắc mắc của Đức Ông, Thầy
quay lại hỏi:
– Ông Cả có biết đường nầy ai dọn
cho tôi và ông đi không vậy?
Đức Ông trả lời:
– Nào ai biết!
Đức Thầy nói:
– Chư Vị Sơn Thần dọn đường cho tôi
với ông Cả đi đó.
Đi được một lúc Đức Thầy quay lại
hỏi:
– Ông Cả! Ông ôm cái gì trông lùm
xùm vậy?
– Ôm bánh mì. Đức Ông trả lời.
Thầy hỏi tiếp:
– Đem bánh mì làm chi vậy ông Cả?
– Mua để phòng lên núi đói đặng ăn!
– Đưa tôi xách cho.
Đức Ông đưa bánh mì cho Thầy, Thầy
xỏ tay vào quay xách, đi một đỗi có nhánh cây nhô ra, Thầy máng một chục ổ bánh
mì lên đó rồi tự nhiên đi. Đức Ông bước theo hỏi:
– Sao không mang theo lại máng đó!?
– Máng đó, phòng khi có người đi
núi, đói, họ lấy mà ăn, còn tôi với ông đi núi có thiếu gì cơm mà ông sợ.
Đức Ông nhìn mấy ổ bánh tiếc của,
nhưng thấy Thầy rảo bước cũng đành phải đi theo. Đức Thầy nói tiếp:
– Lên núi có cơm mà cơm chay thôi
nghe ông Cả, cá thịt thì không có.
– Có cơm nuốt no bụng thôi chớ cần
gì cá thịt.
Đi được một đỗi, mặt trời lên cao,
lòng đã đói mà không thấy nhà cửa, trại hoặc chùa am chi cả, chỉ thấy toàn là
rừng rậm hai bên, núi non mù mịt. Đức Ông lo sợ, tự nghĩ, đói rồi, làm sao có
cơm ăn đây? Bỗng Đức Thầy quay nhìn lại:
– Ông Cả đói rồi phải không? Ráng
chút nữa sẽ có cơm ăn.
Đức Ông lấy làm lạ, giữa rừng sao
lại có cơm ăn, nghĩ như vậy chớ không nói ra. Đi được một lúc nữa đến tảng đá
bằng phẳng, trên có một cái giếng nước nhỏ, Đức Thầy dừng lại, ngồi trên tảng
đá, lấy tay bụm nước uống và gọi:
– Ăn cơm ông Cả ơi!
Đức Ông thấy Thầy uống nước, còn ông
thì đói chớ không khát, sao lại còn kêu ông ăn cơm, cơm đâu mà ăn! Ông ngồi
chần chờ chưa biết phải làm như thế nào, thấy Đức Thầy hớp thêm một hớp nữa rồi
giục:
– Ông ăn cơm chớ! Sao còn ngồi hoài
đó vậy?!
Đức Ông bước đến bên giếng, thấy
nước trong ngần, ông bắt chước theo Thầy dùng hai tay bụm nước uống.
Ông nói: Khi bụm nước uống mùi thơm
ngào ngạt, thơm thật lạ thường, mùi vị từ xưa đến giờ chưa hề có. Đức Ông bụm
uống nhiều hớp nước một lúc thì no đầy và khoan khoái khác thường. Kế đó Thầy
hỏi:
– No chưa ông Cả! Ông còn đói nữa
không?
Đức Ông mới hiểu lời của Thầy bảo
cơm chay trên núi, ông thấy lòng không đói, không thèm cơm mà lại no đủ khỏe
khoắn lạ thường.
Tiếp tục lên đường, cũng với con
đường mới dọn, bỗng Đức Thầy dừng lại gọi:
– Ông Cả ơi! Sửa soạn đồ lớn để làm
lễ.
Đức Ông nhìn không thấy chùa miễu,
am cốc chi mà sao Đức Thầy bảo làm lễ, vậy thì làm lễ ở đâu. Tuy nghĩ vậy chớ
ông cũng mặc áo dài, bịt khăn đóng vào, vừa xong. Đức Thầy chỉ:
– Đó, lại làm lễ ông đó.
Đức Ông nhìn theo thì thấy có một
bàn thạch, ông già đã ngồi sẵn nơi đó, lấy làm lạ, ông hỏi Thầy:
– Ông đó là
ai vậy?
– Ông lại
làm lễ rồi hỏi ông ta, chớ sao ông lại hỏi tôi!
Đức Ông bước
lại chắp tay làm lễ và được ông già đó khuyên việc tu hiền, giúp đỡ xã hội, lập
công bồi đức. Câu chuyện sắp kết thúc, Đức Ông mới hỏi ông ấy là ai, thì được
ông cho biết, danh từ gọi ông trước kia là Cố Quản. Đức Ông kỉnh lễ rồi lui ra.
Đoạn này Đức
Thầy có giải thích cho Đức ông được rõ là xưa kia Đức Cố Quản bị Pháp vây hãm
rồi mất tích, nay thì Đức Ông gặp lại nơi này.
Tiếp tục lên
đường cũng theo hàng cây mới dọn. Đến xế chiều bỗng nghe Đức Thầy gọi ông mặc
đồ lớn để làm lễ. Đức Ông nhìn chung quanh cũng không thấy chùa miễu chi, nhưng
cũng nghe lời mặc áo dài bịt khăn đóng vào, xong rồi Đức Thầy cũng chỉ cho ông
thấy một người ngồi trên bàn thạch y như kỳ trước mà ông này tướng mạo rất là
trang nghiêm. Đức Ông hỏi ông đó là ai vậy thì cũng được Đức Thầy bảo cứ hỏi
ông ấy thì rõ.
Đức Ông đến
làm lễ và cũng được ông ấy nhắc việc tu hiền, giúp đỡ xã hội, lập công bồi đức,
nghe dạy việc xong. Đức Ông hỏi ông tên chi, thì được ông cho biết là Nguyễn
Trung Trực. Thầy nói thêm cho Đức Ông rõ, ông Nguyễn Trung Trực khi xưa bị Pháp
hành quyết tại Rạch giá, nay cũng còn ở nơi đây.
Rồi lại tiếp
tục lên đường đến chiều tối thì Đức Thầy dừng lại, Ngài leo lên một tảng đá
bằng phẳng rồi quét dọn sạch sẽ rồi bảo Đức Ông: Tối rồi nghỉ ngơi. Đức Ông
cũng cảm thấy mệt mõi, bước lên tảng đá nằm nghỉ, một lúc thì trời sẩm tối,
sương núi lạnh lùng, làm cho ông lạnh muốn phát run. Ông than, lạnh như vầy,
không có mền đắp thì làm sao ngủ đặng.
Lúc đó Đức
Thầy đã nằm xuống, Ngài nói:
– Không có
gối, ông nằm trên cánh tay của tôi ngủ đỡ đi.
Đức Ông nghe
lời nằm xuống, gối đầu trên cánh tay của Thầy, Thầy mới dùng cánh tay bên kia
ôm ngực của Đức Ông, còn chân thì gác ngang lưng của ông, Thầy ôm Đức Ông nằm
trên tảng đá. Đức Ông nói, khi Thầy ôm xong, bao nhiêu lạnh lẽo tức khắc tan
đi, sự ấm áp thật lạ lùng, tỷ như được đắp đôi ba cái mền vậy. Đức Ông đi dần
vào giấc ngủ lúc nào không hay, đến khi gần tỉnh giấc thì nghe Đức Thầy gọi:
– Ông Cả ơi!
Trên non rừng rậm mà sao có xe hơi chạy, đèn sáng quá, mở mắt ra coi.
Đức Ông nghe
gọi thì mở mắt ra thì thấy hai con cọp bạch ngồi hai bên, cặp mắt như đèn pin
rọi vô sáng lòa. Đức Ông hoảng hồn, lấy tay bịt mắt, bắt đầu phát lạnh run lập
cập. Đức Thầy hỏi:
– Gì mà run
dữ vậy?
– Mẹ đẻ cho
tới lớn chưa từng gặp qua cảnh này.
– Thôi ông
đừng sợ, Chư Vị Sơn Thần đến giữ cho tôi với ông ngủ, có chi mà ông sợ dữ vậy.
Mặc Đức Thầy
nói, còn ông run thì vẫn run, run mãi không sao kềm đặng, thấy ông sợ quá Đức
Thầy an ủi ông, một lúc thì bảo ông mở mắt ra. Ngài nói lớn:
– Sáng,
người ta đi hết rồi, còn đâu nữa mà sợ.
Ông mở mắt
thì không còn thấy hai con cọp, ông bình tĩnh lại, ngồi dậy và tiếp tục lên
đường, cũng con đường mới vừa được dọn dẹp. Đến trưa ông cảm thấy đói, Thầy
hiểu ý, khuyên ông cố gắng đi, chốc nữa sẽ có cơm. Đức Thầy cũng dừng lại bên
tảng đá bằng phẳng, cũng có giếng nước nhỏ trong ngần, Ngài lấy tay bụm nước
uống và bảo:
– Ăn cơm ông
Cả.
Hôm nay ông
không còn ngần ngại mà bước lại liền, lấy tay bụm nước uống thì mùi vị thơm
ngát, ngọt ngào giống hệt như ngày hôm qua vậy. Rồi kế đến những ngày khác cũng
giống như nhau, mỗi ngày chỉ dùng một bữa nước mà no suốt cả ngày. Suốt những
ngày theo Thầy trên non, chỉ duy nhứt dùng nước thay thực phẩm mà không thấy
đói hay thèm cơm, còn về sức lực thì dường như mạnh mẽ hơn xưa, tinh thần cũng
có phần phấn chấn. Đi đến trưa Đức Thầy bảo:
– Để tôi dẫn
ông lại hồ sen xem chơi cho biết.
Khi đến hồ
sen, Thầy chỉ cho ông coi chuyện lạ thường, lá sen thật to, ước sức người vào
ngồi đó cũng chưa chìm, còn bông nở thật là to, không biết muôn ngàn cánh, nhụy
đơm quanh, sự đẹp chưa hề có trên thế gian, còn gương sen đường kính độ ngoài
thước Tây, hột sen phần ló ra ngoài cũng bằng bắp tay, càng nhìn gợi cho ông
lòng thích thú lạ kỳ, Đức Ông trầm trồ, nhưng liền theo đó Đức Thầy bảo:
– Ông Cả coi
thì được chớ đừng bẻ hái chi.
Đức Ông nghe
vậy nên không dám đụng đến, và hỏi Thầy bông sen gì mà to lớn quá như vậy.
– Sen Tây Vức đó ông Cả. Đức Thầy
trả lời.
Trên bước đường đăng sơn, đến chiều
tối thì Thầy dừng lại, Ngài leo lên tảng đá lớn bằng phẳng, quét dọn sạch, gọi
Đức Ông nghỉ ngơi và lần này thì khác hơn mọi khi, Ngài dặn ông hãy quan sát
chung quanh nơi này trước khi nằm nghỉ. Đức Ông thấy nơi này toàn là đá trắng,
bên cạnh ông nằm có vài bụi tranh đưa lá ra, ông đưa tay gút ba gút lá tranh
làm dấu. Đức Thầy thì đã nằm trước rồi, Ngài cũng đưa cánh tay như mọi hôm để
ông gối đầu, cũng ôm ông như những bữa trước, và sự ấm áp khỏe khoắn giống như
mọi hôm. Nhưng hôm nay còn thêm một điều hết sức lạ thường, vì khi đang ngủ thì
cảm giác xác thân nhẹ nhẹ, như đang đu đưa trên chiếc võng, mà khi chợt giấc
thì vẫn thấy đang nằm y nguyên trên tảng đá. Đến khi ngủ lại thì có cảm giác
như trên. Trong đêm đó cứ thức rồi ngủ, ngủ rồi thức không biết bao nhiêu chập
mà kể. Cuối cùng đang trong giấc ngủ mê thì nghe bên tai Thầy gọi:
– Dậy ông Cả ơi! Sáng rồi dậy rửa
mặt đặng đi.
Kế đến Thầy dắt ông lại giếng nước
nhỏ để ông rửa mặt rồi trở lại chỗ cũ ngồi. Đức Thầy bảo:
– Ông thử nhìn lại coi có phải là
chỗ ngủ đêm hôm không?
Đức Ông nhìn lại thì cảnh vật nơi
đây hoàn toàn khác lạ, đá hôm nay đen và những bụi tranh cũng không còn thấy
nữa, ông ngơ ngác tưởng chừng như đang trong cơn mơ. Sự thay đổi hoàn toàn chỉ
sau một giấc ngủ thì làm sao ông còn bình tĩnh đặng nữa. Trong bối cảnh này,
ông biết còn có ai khác hơn ngoài Đức Thầy, bởi thế ông phải hỏi Thầy:
– Chỗ này là nơi nào vậy?
– Nơi này khác hơn chỗ ngủ ngày hôm
qua, từ đây đến đó, nếu đi bộ sẽ mất năm hoặc sáu ngày đường, vì núi này đầu
nằm Đông Độ, đuôi nằm Tây Qui, một phía thì ở Xiêm La, một phía thì ở Cao Miên,
mà tôi đưa ông qua đây là khỏi cái suối lớn rồi.
(*) Trên núi Tà Lơn có con suối lớn,
chiều ngang độ hai trăm thước, người ta thường gọi là suối San Hà, nước chảy
như thác, xuồng ghe hoặc người thì không cách chi qua lại cho đặng. Quả là một
lằn ranh thiên nhiên ngăn cách mọi sự vật.
Tiếp tục nhiều ngày Thầy dẫn Đức Ông
băng rừng lội suối khắp các nơi, làm cho đôi chân của ông không còn sức chịu
đựng đặng nữa, ông luôn miệng than thở. Thấy thế, Thầy nói:
– Ông ráng đi cho đủ tám ngày để ông
giải hết quả trần, ở trên này ông đi một ngày thì dưới trần ông giải quả được
một tháng.
Đi được đến ngày thứ sáu thì Đức Ông
cho biết không còn cách chi đi đặng nữa, Đức Thầy cũng lại khuyên:
– Ráng ông Cả ơi! Đủ tám ngày để
giải cho hết quả!
– Thôi có giải thì về dưới trần hãy
giải, chớ tôi đi hết nổi rồi!
Thấy Đức Ông than quá, Thầy dắt ông
trở về. Khi về đến chơn núi, ông giẫm phải hòn sỏi nơi ngón chân cái, bị cảm
giác ê một chút vậy thôi, vậy mà khi về đến nhà, vết đó tự phát lên làm độc đau
nhức thấu tim gan, ông ôm chân lăn lộn, không ăn uống ngủ nghỉ chi đặng, và
cũng không có thuốc nào làm giảm được cơn đau nhức.
Đức Ông nằm trên giường ôm chân lăn
lộn kêu rên. Trong khi đó, bên cạnh, Đức Thầy nằm trên võng đong đưa với một tư
thế bình thản, mặc nhiên. Còn ông Năm Truyền thấy vậy nóng lòng không chịu nổi,
muốn đến bạch với Thầy nhờ cứu giúp cho Đức Ông, nhưng khi đến võng của Thầy
đang nằm thì không nói được nên lời, phải đi qua luôn; rồi khi thấy Đức Ông đau
lại nóng lòng muốn đến biện bạch với Thầy, nhưng khi đến nơi thì cũng mở miệng
không đặng. Ông Năm hết sức băn khoăn, cứ năm lần bảy lượt tới lui, đến khi Đức
Thầy lên tiếng thì ông mới mở lời được:
– Ông Năm! Làm cái gì mà đi tới đi
lui hoài vậy, muốn nói gì thì nói.
Ông dừng lại xá Thầy và mới nói
được:
– Thầy ơi! Cậu Út đau cái chân tôi
thấy nóng ruột quá, sao Thầy không kiếm thuốc trị giùm cho cậu.
– Cái quả của ông Cả là tự ông phải
trả, tôi đã nói với ông ráng đi thêm hai ngày nữa trên non để giải quả trần
dưới thế hai tháng mà ông không chịu, lại còn nói về dưới trần muốn trả bao
nhiêu thì trả. Quả của ông Cả thì ông Cả trả cho hết, còn như ông muốn ông Cả
hết ngay bây giờ thì ông đứng ra hứa lãnh cái quả này cho ông Cả, tôi sẽ làm
hết bịnh cho ông coi.
Nhưng khi thấy Đức Ông đau đớn rên
than quá thì ông Năm Truyền sợ không dám lãnh, đứng làm thinh một hồi rồi bước
đi.
Độ vài phút sau thì Đức Thầy gọi ông
Năm Truyền múc cho Thầy một ly nước mưa. Tay bưng ly nước, Ngài rời cái võng,
đến chỗ Đức Ông nằm, Ngài nhìn từ đầu gối đến ngón chân đau, ba lần như vậy,
rồi Ngài hớp nước phun từ đầu gối đến ngón chân cũng ba lần. Ông Năm Truyền
đứng ngó. Kế Ngài bưng ly nước để trên bàn rồi lại võng nằm.
Liền theo đó, Đức Ông ngồi dậy gọi
cô Năm (Cô Năm Biên là em kế của Đức Thầy) dọn cơm cho ông ăn, ông đói lắm,
chân của ông hết đau nhức rồi,
Cô Năm dọn cơm nơi bàn, ông ngồi ăn
như người khỏe mạnh chưa hề bị đau ốm chi. Đức Thầy nói với ông Năm Truyền:
– Ông Năm thấy không? Tôi làm là hết
đau nhức liền, nhưng mà quả của ông để ông trả cho dứt.
Đức Thầy nói trong khi đó Ngài cũng
tự nhiên nằm trên võng, còn Đức Ông khi ăn cơm uống nước xong rồi, vấn một điếu
thuốc hút, khi hút xong, vừa liệng bỏ tàn thuốc, thì la nhức, ôm chân nằm
xuống, lăn lộn rên than suốt ngày đêm, cơn đau kéo dài gần đúng hai tháng thì
Đức Thầy viết cho Đức Ông và Đức Bà một bài thơ:
Chừng nào vết nọ liền da,
Chuột kia mãn hạn khỉ vào vườn hoa.
Ấy là thời
đại của Ta,
Thầy ra cứu
thế mới là hiển vinh.
(Cho Đức Ông
và Đức Bà SGTV t 191)
Đúng hai
tháng vết thương không chữa trị mà tự nhiên lành. Sau khi vết thương của Đức
Ông lành thì Thầy gọi ông Năm Truyền lập cho Ngài một bàn hương án ngoài trời
để Ngài mời ông bà Cả chứng kiến cho Ngài thỉnh Ấn Ngọc Hoàng cứu dân độ thế,
lúc nầy đúng vào ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão.
Viết theo
lời kể trong băng nhựa của ông Năm Chơn.
(*) Ông Năm
Chơn là cháu, con người chị thứ Tám của Đức Ông, nhà ông Năm Chơn ở sát bên Tổ
Đình.
Mẩu chuyện thứ 5
ĐỨC THẦY TẮM SÔNG
Chuyện này
vào năm 1939. Ông Bảy Phan văn Dứt con của ông Cả Chín, ông Cả làng Mỹ Hội
Đông, cùng bạn làng với Đức Ông. Khi Đức Thầy mở Đạo thì ông Cả và con là ông
Bảy Dứt cùng đến quy y với Đức Thầy.
Nhân ngày
ông Cả Chín và con là ông Bảy Dứt đến thăm Đức Thầy, Đức Thầy rủ ông Bảy Dứt đi
tắm với Ngài và có hơn mười người cùng đi tắm chung, ông Bảy Dứt thuở đó cùng
tuổi với Đức Thầy. Lúc này Thầy thường mặc bà ba trắng và Ngài đang viết bài Để
Chơn Đất Bắc.
Tuy trong
lúc tắm có trên mười người, nhưng Thầy chỉ gọi ông Bảy Dứt kỳ lưng cho Ngài.
Ông Bảy Dứt kỳ lưng cho Ngài nhẹ, không dám kỳ mạnh, vì lúc này kim thân của
Ngài ốm quá, thấy thế, Thầy bảo:
– Ông Bảy à!
Kỳ lưng tôi cho mạnh đi, lưng tôi cũng đất không chớ gì.
Nghe theo
lời, ông Bảy kỳ mạnh, Thầy gục tới, gục lui, sức không chịu nỗi. Thầy quay mặt
nhìn lại thì ông Bảy thấy là một ông lão râu tóc bạc phơ, có chòm râu dài, lông
nheo, lông mày toàn là một màu trắng.
Từ đang tuổi
thanh niên, bỗng chốc Đức Thầy trở thành một cụ già râu tóc bạc phơ, thật là
ngoài sức tưởng tượng của ông Bảy, sự việc làm cho ông kinh hoàng tột độ, ông
nhìn Thầy sửng sốt. Thấy thế Thầy bảo với ông Bảy:
– Chắc ông
lạ lắm phải không? Mới đây tôi từ một người đang tuổi thanh xuân, bỗng chốc trở
thành cụ già râu tóc bạc phơ.
Lúc đó ông
Bảy vẫn đang trong trạng thái sửng sốt, thì Đức Thầy tiếp luôn:
– Ông đọc
lại Quyển Thứ Nhứt của tôi, thì ông sẽ biết rõ tôi hơn.
Khi già lúc
lại trẻ thơ,
Giả quê giả
dốt khắp trong thị thiềng.
Đi nhiều
càng thảm càng phiền,
Lên doi xuống
vịnh nào yên thân Già.
Rồi Ngài nói
tiếp:
– Tôi già
cũng đặng, mà trẻ cũng đặng, ông hãy nghe thêm một đoạn nữa:
Vàm Nao rày
đã đến rồi,
Quày thuyền
ghé lại bằng nay Chợ Đình.
Hát hai câu
hát huê tình,
Đậu xem dân
chúng Chợ Đình làm sao.
Sáng ngày chợ
nhóm lao xao,
Giả bận áo
màu ai cũng dòm xem.
Mấy thằng
trai trẻ thấy thèm,
Đứng xa
quanh quẩn nói gièm với nhau.
Đứa này nói
để cho tao,
Đứa kia xạo
xự áo màu quá ngon.
Sau câu
chuyện, ông Bảy nhìn thấy Đức Thầy đã trở lại trạng thái bình thường là một người
trai trẻ lúc đầu, và Ngài nói:
– Thôi bây
giờ đến phiên tôi kỳ lưng lại cho ông Bảy.
Ông Bảy vội
vàng thưa:
– Bạch Thầy,
con đâu dám để Thầy kỳ lưng cho con.
Thôi vậy
cũng được, bây giờ mình cút bắt cho vui.
Những người
cùng tắm, kể Đức Thầy nữa là 16 người, ông Bảy thưa với Thầy:
– Thầy cút
hay là tụi con cút trước.
– Các ông
cút trước Thầy bắt cho.
Ông Bảy nói:
– Tụi con
lặn là Thầy khó bắt lắm, bởi tụi con mỗi đứa chia nhau mỗi ngã thì lâu lắm Thầy
mới bắt hết được.
– Thì các
ông lặn đi, Thầy bắt được hay không là các ông biết liền.
Các ông chia
nhau lội ra xa chỗ Thầy đang đứng rồi hè nhau lặn một lượt, khi họ lặn xong,
Ngài mới đưa tay vuốt và vỗ nhẹ trên mặt nước, tức khắc mọi người đều nổi lên,
mà mặt và mắt thì đỏ lơ.
Đức Thầy
bảo:
– Tại sao tôi
chưa bắt mà các ông trồi lên hết vậy?
– Bạch Thầy!
Tụi con đang ở dưới nước, trên nầy không biết Thầy làm gì mà tụi con nghe tiếng
nổ thật mạnh, tụi con chịu không nỗi, giống như cá bị ngộp phải trồi lên.
– Tôi chỉ vỗ
tay nhẹ trên mặt nước, mấy ông không chịu nỗi phải trồi lên, tôi nói để mấy ông
rõ, sau này cái tay của tôi chỉ là thế giới người ta sẽ tu nhiều lắm. Thôi bây
giờ đến phiên tôi cút để các ông bắt.
– Thầy lặn
là tụi con ôm Thầy lên liền hè! Bởi tụi con mười mấy đứa giống như cái đăng
vậy, Thầy lặn sao khỏi được tụi con.
– Ờ! Mấy ông
ráng bắt Thầy cho được nha!
Nói xong
Ngài lặn, cả mười mấy người đều thấy mặt nước không một mảy gợn sóng, con cá
lòng tong ăn móng mà còn dợn nước nhiều hơn.
Sau khi Đức
Thầy lặn rồi, cả mười lăm người hè nhau lặn tìm Ngài, tất cả cố mở mắt ra mò
tìm cả giờ mà không sao bắt gặp được Ngài, lạnh tay chân đều móp, run rẩy, cùng
leo lên bờ ngồi, họ lo sợ phát khóc vì nghĩ là Thầy đã mất tích.
Các người
còn ngồi đó khóc than với nhau, thì ngay khi ấy Đức Thầy từ trên Tổ Đình đi
xuống mà chưa ai hay. Ngài đến vỗ vai ông Bảy:
– Tôi chờ
các ông lâu quá mà không thấy các ông lên, các ông ở đây làm gì?
Các ông quay
lại thấy Thầy thì ai nấy đều mừng rỡ, Thầy chỉ vào đôi mắt của các người mà
rằng:
– Nước mắt
của bà con còn nhiều lắm! Nhưng đến khi tôi vắng mặt và lúc trở về thì nó sẽ
cạn đi nhiều! Bởi quá nhiều cảnh khổ!
PHẦN NHẬN
XÉT
Trong buổi
đi tắm sông, Đức Thầy dùng sự để nhắc nhở và báo cho tín đồ có một thời gian
Ngài xa vắng mọi người, không ai biết Ngài ở đâu mà tìm, và cũng đừng uổng công
tìm kiếm, hãy nương theo Giáo Lý, Giới Luật của Ngài mà tinh tấn tu hành. Rồi
sau đó Thầy sẽ trở lại tìm gặp tín đồ của Ngài, nếu chúng ta cứ tìm, cứ chạy
theo sắc tướng, càng tìm sẽ dễ lạc vào con đường của tà sư ngoại giáo.
Đức Thầy cho
biết:
Tam thiên
lục bá giáng lâm trần,
Khốc tử lang
tâm biến họa dân.
Có ba ngàn
sáu trăm mối đạo xuống thế gian này, gây nên không biết bao nhiêu tai họa cho
loài người trong cơn mạt Pháp, ai mà ham linh, ham nghiệm, ham quyền, ham chức
sẽ sa vào cạm bẫy của kẻ xấu, tức đường đạo sẽ lểnh lảng đau thương, nghiệp quả
chắc sẽ sâu dầy tội báo.
Mẩu chuyện thứ 6
ĐỨC THẦY ĐỘ ÔNG KÝ VÕ VĂN GIỎI
Thời gian
Đức Thầy vân du đó đây, Ngài trở về Xà No, rồi đến Bạc Liêu, sau đó Ngài đến ở
tại nhà ông Ký Võ văn Giỏi. Lúc này bà Ký đã quy y với Đức Thầy rồi, còn ông Ký
thì chưa quy y.
Ông ký Giỏi
đang làm việc cho Pháp, vì chưa hiểu đạo nên ông không tin Đức Thầy là Phật,
nhưng có một điều là nhìn tư cách của Thầy thì ông rất là kính trọng, ông
thường gọi Đức Thầy bằng Ngài.
Hôm nọ người
bạn ở Pháp có gởi tặng cho ông Ký ba gói trà, được biến chế đặc biệt hơn các
loại trà khác, người ta thường dùng để đãi khách quý của họ. Có được trà, bèn
suy nghĩ trà này nên đãi ai, ông liền nhớ, tại nhà ông có mặt của Đức Thầy là
thượng khách.
Buổi trưa
hôm đó cũng là đặc biệt, ông tự vào bếp nấu nước pha trà, chớ không sai gia
nhân như mọi khi. Ông tự rửa ly tách để vào bộ kỹ trà, châm trà xong, ông gọi
bà Ký:
– Tôi nhờ bà
mời Thầy của bà ra nhà khách dùng trà. Ông luôn dùng từ Thầy của bà ký, chớ
không phải Thầy của ông.
Đức Thầy
bước ra Ngài nói:
– Ông Ký mời
tôi uống trà.
Ông Ký cúi
đầu:
– Dạ tôi mời
Ngài uống trà.
Ngay lúc đó
Đức Thầy ngồi xuống ghế, ông ký rót tách trà, đứng lên dùng hai tay dâng tách
nước cho Thầy. Ngài đưa tay lấy tách nước và nói:
– Ông Ký
ngồi xuống đi.
Ngay lúc đó
bỗng dưng Ngài trầm ngâm, Ngài dùng tách trà của ông Ký mới dâng mà hất ra sân.
Trước sự việc như vậy làm cho ông Ký băn khoăn trong lòng, quá đỗi ngạc nhiên,
không hiểu mình có gì xúc phạm làm cho Đức Thầy phải hất tách trà ra sân.
Ông Ký con
đang ngẩn ngơ thì liền theo đó Ngài mới ôn tồn bảo với ông:
Ông Ký à!
Chắc ông khó chịu trước hành động lạ thường của tôi, tách trà tôi không uống mà
lại hất ra sân. Vì cách đây độ một ngàn thước có kho xăng đang bốc cháy dữ dội,
nhờ tách trà của ông, tôi dùng kịp thời để tưới tắt ngọn lửa.
Nghe Thầy
nói xong, trong lòng ông Ký nẩy thêm sự ngờ vực hơn nữa. Ông nghĩ, chỉ một tách
trà nhỏ như thế thì làm sao dập tắt lửa của kho xăng đang cháy cách đây một
ngàn thước. Hoàn toàn ngoài sức hiểu biết và ngoài sự tưởng tượng của con
người, hơn thế nữa ông là một người có trình độ hiểu biết về khoa học. Vì lẽ đó
ông đứng thộn người ra, chưa biết phải làm thế nào hay đối đáp ra sao với Đức
Thầy. Thấy thế Ngài mới nói với ông:
– Tôi biết
ông khó tin lời của tôi. Vậy ông hãy vào lấy chiếc xe hơi của ông, tôi chỉ
đường cho ông chở tôi đến nơi, khi chứng kiến thực sự việc đã xảy ra, chừng đó
ông sẽ được giải đáp những gì ông đang thắc mắc nơi lòng.
Ông Ký nghe
vậy, buộc lòng phải ra lấy xe chở Ngài đi, ông mở cửa xe để Thầy vào ngồi . Đức
Thầy chỉ ông chạy về hướng cây cầu, ông Ký nghe theo lời lái xe đến nơi. Vừa
lên dốc cầu thì ông phải cho xe dừng lại, vì có rất đông người đứng trên cầu.
Dân nơi đó
họ thấy ông Ký đến, họ xúm nhau chào hỏi và họ rất ngạc nhiên tại sao ông Ký
biết có đám cháy mà đến sớm quá vậy. Mỗi người một câu, hồi lâu trật tự mới
được ổn định. Ông ký hỏi họ nguyên nhân như thế nào. Thì bà con nơi đây cho ông
biết:
Trưa nay
nắng quá gắt, kho xăng bỗng nhiên bị bốc cháy dữ dội, mà kho xăng chứa trên hai
chục ngàn lít, ngọn lửa bốc cao lên, nhà cửa xung quanh ai nấy cũng đều nghĩ là
sẽ bị thiêu hủy tất cả. Sự kinh hoàng tột độ, bởi không ai biết cách nào dập
tắt được ngọn lửa.
Thì ngay lúc
đó bỗng đâu có đám mây đen kéo lẹ đến, rồi cơn mưa ào ào phủ xuống ướt cả vùng
đang cháy, kho xăng được dập tắt tức khắc. Nhưng có một điều hết sức lạ lùng
làm sao là nước mưa bốc lên mùi thơm của trà, một loại trà thơm hiếm quý mà
chúng tôi chưa được dùng qua bao giờ. Mọi người lại thêm một phen ngẩn ngơ cho
chuyện lạ lùng chưa hề xảy ra.
Chỉ riêng có
ông Ký, ông nhìn phớt qua Đức Thầy mà nơi lòng của ông có một sự biến chuyển
hết sức trọng đại.
Ông Ký hỏi
thăm họ có thiệt hại gì không, họ cho biết nhờ có trận mưa kịp lúc dập tắt ngọn
lửa nên không có thiệt hại nào của họ. Đức Thầy cùng ông Ký quày xe trở lại
nhà.
Ngay ngày
hôm đó, khi Đức Thầy còn đang nghỉ trưa nơi phòng của Ngài, thì ông Ký gọi bà
Ký, nhờ chuyển lời xin của ông, được quy y làm đệ tử của Ngài.
Bà Ký vô
cùng mừng rỡ, chờ Thầy thức giấc để vào trình với Ngài, còn ông Ký thì đi tắm
rửa sạch sẽ, mặc đồ tề chỉnh, đứng trước ngôi Tam Bảo chờ nhận lễ quy y, nhưng
khi ông Ký lên nhang, sắp sửa đốt đôi đèn trên bàn Phật thì Đức Thầy ngăn lại,
Ngài chưa cho ông Ký quy y, bèn nói với ông Ký rằng:
– Ông mới
thấy sự linh nghiệm mà vui mừng muốn quy y theo tôi, khi tâm của ông chưa thật
sự nhìn vào chân lý, như vậy khó bền chắc, cần thêm một thời gian nữa, khi cơ
duyên đến trọn vẹn thì quy y cũng chưa muộn.
Trước sự
việc xảy ra không hẹn, không cân nhắc trước, làm cho ông Ký chơi vơi, khó lòng
dỗ giấc ngủ và cũng không biết tâm sự với ai, ông nhớ đến những người bạn cùng
chia sẻ kiến thức học hỏi với nhau khi còn du học ở Pháp quốc, ông vội viết thư
gởi cho họ.
Độ một tuần
lễ sau, sáng hôm nọ, Đức Thầy gọi ông Ký nói rằng:
– Ông nên
chuẩn bị để tiếp đãi những người bạn thân của ông, họ từ Sai gòn sắp đến rồi
đó.
Thêm một
phen ông sửng sốt, không hiểu tại sao Thầy lại biết rõ việc này, vì có bao giờ
ông nói cho ai nghe việc làm của ông. Đức Thầy nói tiếp:
– Họ đến đủ
ba người như trong thư ông đã mời họ.
Quả nhiên
đến mười giờ hơn thì có tiếng còi xe hơi trước cổng nhà, ông tự ra mở cổng thì
quả đúng ba người bạn của ông, cùng mừng rỡ chào hỏi nhau xong, kế tiếp là bữa
cơm trưa, ông Ký nhờ bà mời Thầy dùng cơm chung với khách.
Thường thì
Thầy làm việc hoặc nghỉ ngơi ở phòng riêng của Thầy, phòng này bà Ký tự trang
hoàng với giường ngủ bằng đồng, bên cạnh kê một cái bàn viết.
Trong bàn
cơm thì câu chuyện cũng chưa có gì đặc biệt. Đến khi uống trà thì họ mới vào đề
câu chuyện, họ hỏi Đức Thầy:
– Thưa ông,
chúng tôi được ông Ký viết thư kể rõ chuyện ông dùng ly nước trà tưới tắt được
lửa đang bốc cháy tại kho xăng cách đây một ngàn thước, điều này nghe qua chúng
tôi không thể nào tin hay hiểu cho được, vậy có cách nào ông chứng minh cho
chúng tôi hiểu được không?
Người kế
tiếp nói vào: Hiện giờ khoa học đang trên đà tiến bộ, ông có thấy họ chế ra
điện lực, quạt máy, tàu thủy, máy bay, trên đà đưa nhân loại vào cơ khí kỹ nghệ
hóa, hoàn toàn khoa học thực nghiệm, còn chuyện của ông có tính cách huyền
thoại, làm sao chứng minh được cho mọi người cùng hiểu.
Bởi có túc
duyên với Ngài, Thầy nhìn họ cảm thông, ôn tồn nói với mấy vị khách:
– Các ông
nên hiểu, khoa học là con đẻ của Phật học, muốn chứng minh sự nhiệm mầu của
Phật học thì không thể lấy khoa học thực tiển mà chứng minh được vì khoa học nó
chỉ giới hạn trong phạm vi kiến thức của con người, các ông muốn làm gì thì đều
lấy trí để suy nghĩ, còn hàng tiến hóa thì có khác hơn.
Các ông khách
luôn suy diễn theo khoa học thực nghiệm, họ chưa thấu hiểu lẽ nhiệm mầu của
Phật pháp nên họ nói với Ngài:
Việc ông
làm, lời ông nói trên phương diện thực tế thì chưa thể chứng minh được, ông hãy
xem đây là quạt máy, tôi mở con tắc điện là quạt mát ngay và tôi mở con tắt đèn
là có ánh sáng; miệng nói, tay họ hành động, tạo cho căn phòng sáng và mát mẻ,
họ hãnh diện nói tiếp với Ngài:
– Đó ông
xem, khoa học đã thực tế giúp ích cho đời sống của con người, còn với ông thì
ông làm sao? Đức Thầy nhìn họ cảm mến và với giọng từ tốn Ngài nói cùng họ:
– Các ông
cần điện đèn mới sáng, quạt mới quay, tôi thì không cần điện cũng vẫn sử dụng
các thứ được như thường, các ông tắt hết điện đi, tôi dùng tay chỉ các thứ sẽ
hoạt động lại, mà tôi báo trước, sức sáng và sức quay nó tăng lên nhiều lắm.
Nghe qua ai
nấy nhìn Ngài với lòng ngờ vực, nhưng rồi họ cũng y lời tắt điện, bóng đèn và
quạt trở lại bình thường. Ông Ký ngồi yên không lên tiếng, bà Ký đứng sau lưng
hầu Đức Thầy cũng trong tư thế yên lặng lắng nghe sự trao đổi của Thầy với các
ông khách.
Liền đó,
Ngài dùng ngón tay chỉ bóng đèn, đèn bật sáng, sức sáng tăng gắp bội hơn khi
xài điện, và Ngài đưa tay tiếp tục chỉ cánh quạt ở trần nhà, quạt quay với tốc
độ thật nhanh, làm cho cánh quạt quằn cong như không còn sức chịu đựng được
nữa, làm cho các ông khách sợ hãi, họ vội vàng thưa với Ngài:
– Thưa ông
Tư! Chúng tôi đã tin ông là Phật rồi, ông cho nó ngưng giùm lập tức, nếu không,
chắc chắn tai nạn sẽ xảy ra!
Buổi trưa
hôm đó, các ông khách tắm rửa sạch sẽ, họ nhờ chủ nhà xin phép với Đức Thầy để
họ được quy y theo Ngài.
Buổi lễ quy
y thật trang nghiêm, ba người khách cùng ông chủ nhà quỳ trước ngôi Tam Bảo,
với sự chứng kiến, khuyên dạy của một vị Hoạt Phật lâm phàm tại đất nước Việt
Nam.
Hôm đó Đức
Thầy có cho các người bài thơ:
Khoa-học đời
nay thật khéo cho,
Bày ra cái
máy chạy vo-vo.
Tranh quyền
tạo-hóa nồng thay lạnh,
Đông-Á lần
hồi phụ quạt mo.
***
Có tiền mua
lấy cũng nên cho,
Tủ sắt còn
đầy còn gió vo.
Nhưng ngặt
khan dầu e hết điện,
Trở về lối
cũ lượm cau mo.
***
Cau mo chừng
ấy đắt tiền cho,
Ngóng cổ
thêm dài hút gió vo.
Chủ khách
ngẩn-ngơ cơn nóng bức,
Thôi thì
“toa mỏa” tạm dùng mo.
(Vịnh Quạt
Máy SG TT TB Trang 362)
Tiếp theo
Đức Thầy Thuyết Pháp và dạy phương Tịnh Độ cho các người.
Ông ký Võ
văn Giỏi được Đức Thầy chỉ cho phương Tịnh Độ, ông hành trì hàng ngày, luôn
luôn trì niệm, lúc nào ông cũng mặc chiếc áo tràng dù có khách hay không cũng
vậy, và ông thường hay ở riêng trong phòng tịnh niệm của ông.
Thời gian
lâu trôi qua, một hôm ông báo cho gia đình hay là ông sắp vãng sanh qua miền
Cực Lạc.
Quả đúng
ngày giờ như ông đã báo, ông tắm rửa thay đồ sạch sẽ, nằm trên giường xuôi tay
chân niệm Phật cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, sắc mặt của ông trông hết
sức là an nhiên tự tại. Một điều cần được biết là ông đang khỏe mạnh bình
thường chớ chẳng phải đau ốm bịnh hoạn chi hết.
Ông Võ văn
Giỏi được Đức Thầy cho bốn câu thơ tại Bạc Liêu ngày 11 tháng 9 năm 1941 nhằm
ngày 20 tháng 7 năm Tân Tỵ:
Hào-quang
chư Phật rọi mười Phương,
Đạo Pháp xem
qua chớ gọi thường.
Chuyên-chú
nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn
giữ tánh thuần-lương.
(Khuyến
Thiện Quyển 5)
Mẩu chuyện thứ 7
ĐỨC THẦY ĐỘ CHO NGƯỜI TRUNG HOA
Năm Ất Dậu (1945), Đức Thầy trên
đường Khuyến Nông và vân du thuyết giáo, lần khởi hành từ Long Xuyên đến Rạch
Giá, xe của Đức Thầy ngồi do Bác Sĩ Trần Lũy lái, tháp tùng theo Thầy với một
chiếc xe khác nữa gồm có ông Phan Thành Vọng và các vị đồng đạo. Xe của Đức
Thầy đi trước, còn xe của ông Vọng đi sau.
Xe vừa đến thị xã Mông Thọ, Đức Thầy
gọi ông Bác Sĩ Lũy dừng xe lại, Thầy mở cửa bước xuống, Ngài bước vào quán bên
vệ đường rồi ôn tồn nói với người chủ quán:
– Này cô chủ quán! Cô vui lòng cho
tôi gởi bánh xe lại đây, nếu một lúc nữa có chiếc xe Traction nào ngừng tại
đây, xe bị bể bánh, thì cô nói cho họ biết là tôi có gởi cái bánh xe để cho họ
thay.
– Anh nói như vậy thì tôi biết ai
đâu mà nói cho họ thay bánh xe, còn xe cộ chạy dập dìu thì biết ai đâu bị bể
bánh mà hỏi.
– Không! Xe chạy thì nhiều, nhưng
khi có xe nào bể bánh ngừng tại đây, thì cô chịu khó lăn bánh xe này ra để cho
họ thay, rồi cô lấy tiền công.
– Thôi! Anh nói vậy thì hay vậy, anh
cứ để đó đi.
Cô không nói gì thêm nữa. Lúc bấy
giờ Bác Sĩ Lũy có thái độ giận ra mặt, liền theo đó Đức Thầy bảo:
– Thôi thì chúng ta lên đường.
Khi Thầy bước lên xe, lúc ông Lũy
chưa kịp mở máy thì Thầy nói:
– Cái chuyện nhỏ như vậy mà ông cũng
nóng giận nữa sao?
– Thưa Thầy không giận sao đặng! Cái
tuổi của con cở nào rồi, mà con còn kêu Thầy bằng Thầy, còn tuổi của nó bao lớn
mà gọi Thầy bằng anh. Vậy mà không giận sao được!
Đức Thầy cười mà rằng:
– Tuổi của tôi và tuổi của cô ấy gần
bằng nhau, người ta không quen biết thì kêu bằng anh là phải rồi, đâu có lỗi gì
trong cách xưng hô, còn giữa tôi với ông là tình thầy trò, ông là đệ tử, tôi là
thầy, ông gọi tôi bằng Thầy là phải, còn tôi đâu phải là thầy của người ta,
chuyện nhỏ như vậy mà cũng giận nữa sao? Thôi mở máy xe đi!
Ông Lũy lái xe trên đường đi Rạch
Giá.
Theo đây, nhắc đến chiếc xe đi sau,
gần đến chợ Mông Thọ thì xe bị nổ vỏ, xe giảm tốc độ và ngừng lại được thì đúng
ngay trước cửa cô chủ quán. Ông Phan Thành Vọng lo sợ vì biết không có vỏ nào
khác để thay, như vậy là phải nằm lại đây rồi, ông Vọng ngó trước, ngó sau,
trông có xe nào về Rạch Giá hoặc trở lại Long Xuyên để vá vỏ xe, ông lo lắng
chạy tới chạy lui.
(*) Ai mà biết ông Vọng, thì hiểu
với bộ tướng của ông trông phải tức cười, bởi ông là võ sĩ, khi nói chuyện hay
ra bộ tịch.
Lúc nầy cô chủ quán trông thấy có
chiếc xe xẹp vỏ đang dừng trước quán của cô thì cô mới bước ra gọi ông Vọng:
– Nè ông! Hồi nãy có anh Thanh niên,
dừng xe tại đây, anh có gởi cho tôi một bánh xe và bảo tôi, khi nào có chiếc xe
hư vỏ ngừng tại đây thì lăn bánh xe này ra cho họ đặng lấy tiền công. Vậy có
phải chiếc xe của ông hay không?
Ông Phan Thành Vọng nghe nói vậy thì
giật mình, ông châu mày lại, vội vàng hỏi người Thanh niên đó ra sao? Cô chủ
quán mới trả lời rằng:
– Anh nầy rất đẹp trai, trắng cao
ráo và tóc để gần ngang vai. Ông Vọng vô cùng mừng rỡ:
– Vậy là Thầy của tôi rồi! Sao Thầy
tôi biết mà gởi bánh xe cho cô!
Ông vội lăn bánh xe, thay xong, ông
lấy tiền trả công cho cô chủ quán. Cô chủ quán nói:
– Thưa ông! Tôi đâu có công cán gì
mà lấy tiền của ông, nhưng tôi có điều thắc mắc xin ông giải đáp cho, anh Thanh
Niên kia còn trẻ, ông thì lớn tuổi hơn, mà ông nói ông đó là Thầy của ông, theo
tôi thấy Thầy chùa thì cũng không phải Thầy chùa, Thầy thuốc thì cũng không
phải Thầy thuốc. Vậy chớ ông đó là Thầy gì của ông?
– Cô à! Từ trước tới giờ cô có nghe
nói đến ông Tư Hòa Hảo chưa? Đức Thầy của chúng tôi mà người đời thường gọi là
ông Tư Hòa Hảo đó! Tôi là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là đệ tử của Đức Thầy chúng
tôi!
– Vậy sao? Tôi đã nghe lừng danh ông
Tư Hòa Hảo mà tôi chưa biết mặt, đến hôm nay mới có cơ hội cho tôi được biết
mặt Ngài; nhưng thưa ông, vậy chớ ông Tư đi đâu vậy?
– Thầy tôi đi thuyết pháp Khuyến
Nông ở Rạch Giá.
– Thưa ông! Như tôi có thể được đến
nghe thuyết pháp chăng?
– Đó là điều tốt lắm chứ! Chúng tôi
còn phải cổ động bà con đi nghe Thuyết pháp, nếu cô muốn đi nghe thì sáng sớm
ngày mai, tôi sẽ ra đây đón cô đi nghe, để tôi đền ơn cô giữ bánh xe cho tôi.
– Nếu được như thế thì may cho tôi
quá.
Nói xong ông từ tạ cô chủ quán, lên
xe tiếp tục đi mà lòng của ông phát sinh cảm tình sâu xa với cô chủ quán. Khi
đến nhà riêng của Bác Sĩ Trần Lũy, ông gặp lại Đức Thầy, chắp tay xá Ngài và
tường thuật lại câu chuyện, ông nói tiếp:
– Thầy ơi! Nếu không có bánh xe Thầy
gởi, thì giờ này tụi con cũng còn ở nơi đó, chớ làm sao gặp được Thầy!
Đức Thầy cười, Ngài bước đến vỗ vai
ông mà rằng:
– Chuyện có một chút vậy mà ông cũng
đem lòng thương!
Rồi Ngài tiếp:
– Tôi cho ông biết nghe! Thương cũng
khổ, mà ghét cũng khổ đó nghe! Hai cái thương, ghét đều khổ cả.
– Cô đó có cảm tình quá mà không
thương sao được Thầy!
Đức Thấy mới nhấn mạnh:
– Thương cũng khổ, mà ghét cũng khổ.
Rồi Ngài tiếp tục giảng thuyết cho
mọi người cùng nghe, riêng ông Bác Sĩ Trần Lũy và ông Phan Thành Vọng thì thắm
thía gật gù suy nghĩ qua bài Pháp vô thượng của Đức Thầy.
Theo lời hứa, sáng hôm sau, ông Phan
Thành Vọng lái xe ra Mông Thọ rước cô chủ quán vô Rạch Giá. Tại sân vận động,
người ta đến nghe Pháp thật là đông. Sau buổi thuyết pháp Khuyến Nông, mọi
người tan dần ra về, còn cô chủ quán được theo đến nhà riêng của Bác Sĩ Trần
Lũy. Lúc đó cơm nước mới dọn ra, Đức Thầy chưa kịp dùng, thì cô chủ quán đến.
Thầy đưa mắt hướng về cô chủ quán với ánh mắt vô cùng từ dịu và lời nói ôn tồn,
Thầy hỏi:
– Hôm nay cô đến đây, có muốn bàn
thêm việc gì và cô cần việc chi?
Cô chủ quán chắp tay thưa:
– Bạch Thầy! Con đến xin phép Thầy
cho con được quy y.
– Quy y tu
hành là điều tốt! Cô hãy đến trước ngôi Tam Bảo, tôi đọc như thế nào thì cô đọc
theo như vậy, rồi y theo đó mà tu.
Sau khi làm
lễ phát nguyện quy y cho cô rồi, Đức Thầy kêu ông Bác Sĩ Lũy bảo cho cô chủ
quán một bức Trần Dà, một quyển sách nhỏ rồi dặn cô về coi theo đó mà tu. Xong
rồi, nhưng thấy cô do dự, như còn cần thêm điều gì, thấy thế Đức Thầy hỏi:
– Cô có cần
thêm gì nữa, cô cứ nói.
– Bạch Thầy!
Hôm nay quy y theo Phật là một điều hết sức may mắn cho con, còn riêng thân tộc
của con, chưa ai biết đạo đức chi cả, họ đang sống ở Chợ Lớn Bình Tây, có cách
nào chuyển họ đến diện kiến với Thầy để họ được quy y theo Thầy.
– Thôi! Phần
của cô, cô lo, còn phần của giòng họ để giòng họ lo, cô nên nhớ, đầu ai chí
nấy, cô khỏi phải bận tâm lo cho người ta. Làm việc giác ngộ cho đời là tốt đó.
Tôi nói cho cô biết, cả thân tộc của cô, họ không chịu quy y theo tôi đâu, họ
nói, chừng nào tôi nói được tiếng Tàu thì họ mới chịu quy y theo tôi.
Cô chủ quán
suy nghĩ, tại sao Đức Thầy biết rõ giòng họ của mình và mình là người Tàu. Cô
cáo từ ra về, thẳng đường cô đi luôn về Chợ Lớn.
Gặp thân
nhân cô tường thuật lại việc đã xảy ra, và khuyến khích mọi người nên theo đạo
Phật Giáo Hòa Hảo. Họ trả lời với cô: Họ có nghe nói đến Đức Thầy lâu rồi,
nhưng tất cả đều cho Thầy là người không có học nhiều, tuổi trẻ, sức hiểu biết
chưa chắc gì bằng được họ, và họ còn nói, chừng nào Thầy nói đươc tiếng Tàu là
họ chịu quy y theo Ngài.
Cô chủ quán
với một lòng tha thiết kêu gọi hãy cứ đến gặp Đức Thầy một lần thôi rồi có theo
Đạo hay không theo cũng không sao. Cuối cùng, bởi nể lời trong thân tộc, họ
miễn cưỡng đồng ý đi đến gặp Đức Thầy.
Dẫn đầu
trong đoàn 17 người là ông tên Nghí, họ tiến về xã Hòa Hảo. Dường như sẵn có
túc duyên với Phật, nên Đức Thầy có dịp ghé lại Tổ Đình trên chuyến đường đến
Tân Châu Thuyết Pháp. Họ đến nơi thì Thầy từ Tổ Đình bước ra, Ngài chắp tay cúi
đầu, người đi đầu là ông Nghí, tay ôm nhang đèn cũng như họ đi cúng chùa vậy.
Sau đó Đức Thầy đứng xuôi tay nhìn thẳng về phía họ, ôn tồn Ngài nói một tràng
dài tiếng Tàu. Ai nấy nghe xong, ông Nghí buông nhang đèn xuống đất, quỳ lạy
Đức Thầy giữa lộ nhiều lạy đến khi Thầy kịp đỡ họ dậy và mời họ vô nhà, trao
đổi câu chuyện hồi lâu, tất cả đều xin quy y theo Thầy. Riêng ông Nghí xin được
ở lại với Đức Ông một thời gian và sau đó ông đem cả gia đình về lập nghiệp tại
xã Hòa Hảo. Ông Nghí cũng là một người Tàu rất thân với Đức Ông thân sinh của
Đức Thầy.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Tâm của một
vị chứng đắc, tình thương lúc nào cũng ban rải khắp mọi nơi, tùy duyên mà hóa
độ cho muôn loài. Đức Thầy biết rõ tâm tính của người Tàu, có sự tự hào về
chủng tộc cũng như ngôn ngữ, muốn cho quy phục Phật Pháp thì Ngài phải dùng
ngôn ngữ của họ. Ngài không phân biệt chủng tộc, dưới mắt của Ngài, mọi người,
mọi sinh vật đều bình đẳng, Ngài nhìn cái tâm, cái Phật tánh đồng nhất thể của
mọi loài.
Người ta lấy
làm lạ giữa sự đối đáp của Đức Thầy với nhóm người Tàu, tại sao mới chỉ mấy câu
nói của Ngài mà làm cho tất cả những người Tàu này đều quỳ lạy tín phục, trong
khi Ngài là một người hết sức trẻ tuổi và thật là quá xa lạ đối với họ.
Nguyên khi
được cô em gái cho biết là đã có vị Phật ra đời, kêu gọi họ quy y tu hiền theo
Phật Đạo, thì trong nhóm mới thảo luận với nhau: “Mình đã có Đạo Nhân của Đức
Khổng Tử, vang danh khắp thiên hạ, hơn thế nữa, đạo Nhân đã ra đời từ lâu thì
cần gì học theo Đạo Phật. Họ cho đạo Nhân đã quá đủ rồi và còn hơn cả đạo Phật,
tại sao lại phải bỏ cái cao để đi tìm cái thấp, chỉ vì nể tình cô em gái mà
cùng nhau đến gặp Đức Thầy”.
Nhưng khi
gặp Đức Thầy rồi, lời nói đầu tiên của Ngài đã giải tỏa cho họ cái cao ngạo, dị
biệt cố hữu ở trong lòng và cùng lúc Đức Thầy vạch rõ cho họ con đường Phật Đạo
mà họ cần thiết phải bước đi, và chỉ có con đường duy nhứt nầy mới mong đạt
được quả vị Phật, mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Ngài thấu
hiểu tâm tư, giải đáp tất cả uẩn khúc trong lòng họ cùng một lúc, trong khi họ
chưa một lần mở lời cùng Ngài, thì thử hỏi làm sao họ lại không tín phục cho
đặng.
Chúng ta đã
theo Phật Đạo, tức là chúng ta theo con đường của Phật đã đi qua, chắc ít nhiều
gì hành giả cũng rõ biết đâu là túc duyên với Phật Pháp. Kể từ chuyện Đức Thầy
biết rõ xe của ông Phan Thành Vọng bể vỏ trước quán của cô gái người Trung Hoa
mà cô và tộc họ của cô có túc duyên cùng Ngài, họ sẽ quy y theo Đạo Phật.
Ngài biết rõ
con đường của chúng sanh đang đi và sẽ đi và với Lậu Tận Thông thì Ngài hiểu rõ
từ nhiều tiền kiếp những người Tàu này đã có duyên nghiệp cùng Ngài, nên Ngài
đã ra công độ cho họ vậy.
Duyên lành
rõ được Khùng Điên,
Chẳng qua
kiếp trước thiện duyên hữu phần.
(Viếng Làng
Mỹ Hội Đông) SG TT TB Trang 243
Mẩu chuyện
được chép từ băng nhựa theo lời thuật của Tu Sĩ Nguyễn văn Điềm.
(*) Ông Phan
Thành Vọng người gốc Rạch Giá, sau khi Đức Thầy ra đi. Ông về ở Long Xuyên. Ông
Vọng có lập Đại Đội Bổ Túc ở Long Xuyên.
Mẩu chuyện thứ 8
CẢI TỬ HUỜN SANH
Sau ngày 18
tháng 5 năm Kỷ Mão, Đức Thầy vừa Thuyết Pháp độ đời, vừa dùng huyền diệu của
Tiên gia độ bịnh, khiến nhiều người được mạnh mà cảm đức từ bi cao cả của Ngài
và phát tâm tu niệm. Họ đã được Pháp Vũ rưới mát cõi lòng, nên sự phát tâm càng
lúc càng thêm đông đảo, khiến nơi Tổ Đình người người vào ra tấp nập. Lúc ấy ở
Tân Châu có người tên Sinh, anh nầy rất nghèo nhưng hiền hậu. Một hôm vợ anh
mắc bịnh dịch tả nặng, anh chạy chữa hết phương mà bệnh càng nặng thêm. Nghe
người chỉ ở Hòa Hảo có ông Tư mới ra đời trị bịnh rất hay, trị đâu hết đó.
Anh sinh bèn
chèo ghe đưa vợ đi xuống Hòa Hảo. Vì thấy bịnh vợ quá nặng nên anh rán hết sức
chèo nhanh cho mau tới. Ghe cặp bến Tổ Đình, anh lập tức vô mui cõng vợ lên, nhưng
anh hoảng hốt vì chị đã chết.
Còn nỗi khổ
nào hơn cảnh tử biệt của người vợ son trẻ, anh buồn tuyệt vọng. Ra lái ghe định
nhổ sào lui về lo ma đám cho vợ. Bỗng nghe tiếng gọi từ trên bờ:
– Thôi! Anh
khoan về, hãy đem vợ lên đây tôi trị cho.
Anh Sinh trả
lời với vẻ thất vọng:
– Vợ tôi đã
chết rồi ông à!
– Không sao,
cứ đem vợ anh lên, tôi cứu cho.
Không nỗi
mừng nào hơn, anh Sinh đã được Tiên Phật cứu khổ cho gia đình mình, nên anh đem
vợ anh lên nhà sau, đặt chị vào bộ ván.
Mọi người có
mặt nơi Tổ Đình lúc này đều đổ xô tới nhìn. Họ rất ngạc nhiên, không hiểu Đức
Thầy cho đem cái xác chết vô nhà làm gì, nhứt là Đức Ông. Bởi nhà đương cuộc
Pháp thuộc thời ấy vốn là con chim sợ tên, chuyện quần tụ đông đảo ở Tổ Đình và
cử chỉ vượt hẳn với kẻ tầm thường của Đức Thầy, làm sao họ không khỏi lo sợ cho
địa vị của họ bị lung lay. Nên uy tín của Ngài càng tăng cao là họ xem như
chiếc gai trước mắt, lúc nào họ cũng muốn nhổ. Thế mà hôm nay Đức Thầy lại đem
xác chết vô nhà, sao khỏi chuốc họa vào thân. Đức Ông tỏ vẻ khó chịu, đi tới đi
lui, muốn nói lên chỗ dị đồng này, nhưng dường như có một mãnh lực nào khiến
ông không thể nói. Còn Đức Thầy thì rất tự nhiên, Ngài lấy cái tô đưa cho anh
Sinh, bảo:
– Anh hãy
xuống mé sông, niệm Phật rồi múc xuôi theo giòng nước một tô đem lên đây.
Vì quýnh
quá, anh Sinh quên nên múc ngược nước đem lên.
Ngài bảo:
– Anh múc tô
khác đi, vì tô này anh múc ngược nước rồi.
Anh Sinh nhớ
lại giựt mình, liền tiếp lấy cái tô chạy nhanh xuống mé sông, niệm Phật rồi múc
xuôi nước đem lên.
Đức Thầy
phun từ đầu đến chân chị Sinh. Lạ thay, màu da xám của chị bỗng trở nên hồng
hào, rồi chị từ từ thở nhè nhẹ. Thế là chị Sinh sống lại và lành mạnh như
thường.
Anh Sinh
mừng ríu rít. Vợ chồng đồng tạ ơn Thầy, và phát nguyện quy y.
Thuật theo
lời của ông Lê Văn Phú tự Tho.
Mẩu chuyện thứ 9
DẠY ĐẠO CỨU ĐỜI
Vào khoảng
mùa hè năm Canh Thìn (1940), Đức Huỳnh Giáo Chủ đang lưu trú tại nhà ông Hương
Bộ Võ Mậu Thạnh ở Rạch So Đũa, thuộc làng Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ.
Tại đây Ngài
tiếp tục phát phù trị bệnh, bá tánh và tín đồ xa gần tới lui tấp nập.
Hôm ấy có
quý ông Hương Quản Chiến xã Phú Thành, Hương chủ Lâm Thơ Cưu xã Mỹ Hội Đông và
ông Cả Hân ở xã Long Kiến, cùng một số tín đồ từ Long Xuyên, Châu Đốc đến viếng
Đức Thầy. Suốt ngày người ta kéo đến nhờ Đức Thầy trị bịnh không ngớt. Sau đó
Ngài đem lời đạo lý ra bày giải, khuyến khích mọi người lo tu hành để thoát
khỏi sự khổ triền miên từ kiếp này qua kiếp khác. Có đoạn Ngài nói:
– Tôi có bổn
phận dạy đạo để cứu đời, chớ không phải trị bịnh cứu đời, nhưng bá tánh không
hiểu cứ kéo lại xin thuốc, xin bùa mãi, buộc lòng tôi tạm dùng ít giấy vàng, lá
cây, nước lạnh mà giúp đỡ họ, để họ có dịp gần gũi và nghe lời đạo lý mà tu
hành, thoát khổ, chớ sau này số người mắc bịnh có lúc đông không thầy thuốc nào
cứu kịp.
Nói đến đây
Ngài đưa bàn tay trái lên và điểm từ ngón mà nói rằng:
– Nếu bây
giờ bá tánh không tu, chừng sau đúng thời kỳ rồi con Phật Phật dắt, con Ma Ma
bắt, con Quỉ Quỉ diệt.
Thuật theo
lời ông Huỳnh Hữu Hạnh, tự Hương Quản Chiến.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Đức Thầy cho
biết nhiệm vụ của Ngài là dạy Đạo để cứu đời. Thật vậy, các Đấng cứu thế bao
giờ cũng chú trọng vào việc đưa chúng sanh ra khỏi sông mê trở về bờ giác, mới
vĩnh viễn an vui. Thế nên lòng từ ái chứa chan của bậc Đại Giác như Ngài thì
bao giờ cũng muốn cắt đứt cái khổ sanh tử triền miên mà đưa con người đến chân
hạnh phúc.
Ngài đã từng
phán dạy:
“Dìu
nhơn-sanh khỏi chốn mê lầm,
Bờ giác ngạn
kiên tâm lần bước tới”
(Gởi Bác Sĩ
Cao Triều Lợi ở Bạc Liêu)
Nhưng vì
chúng sanh mê nhiễm quá nhiều, họ luôn chú trọng đến bản thân, muốn có được
trường tồn, nên rất sợ sự chết chóc, ốm đau. Còn về tâm linh thì không biết vun
bồi đức hạnh.
Biết rõ tâm
bịnh của chúng sanh nên Ngài tùy cơ hóa độ, thật vậy, bởi biết dùng pháp Tam Độ
Nhứt Như mà đã đưa họ từ chỗ khỏi bịnh khổ mới cảm kích đức ân của Ngài. Có cảm
kích đức ân, họ mới dễ thắm nhuần Pháp vũ. Bởi Ngài khéo dùng phương tiện nhiếp
hóa nhơn sanh, nên chỉ một thời gian ngắn mà số chúng sanh được Ngài hóa độ
không sao đếm tính, và Ngài còn cho biết ở đoạn sau này, nếu ai tu hành chơn
chánh sẽ được Phật dắt dìu vì là con của Phật. Còn người chạy theo dị đoan mê
tín, tin tưởng tà mị sẽ về với cõi Ma, và sẽ không có lòng nhân, tạo nhiều điều
ác, thì là con Qui sẽ bị Quỉ diệt.
Nói tóm lại,
Ngài khai minh Chánh Giáo là gì một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả, đem Chánh
Pháp để độ chúng sanh thoát khỏi vòng trầm luân oan nghiệt.
Còn việc
chữa bịnh giúp đời là phương tiện để độ kẻ nghiệp nặng tình sâu. Bởi người được
độ thoát sanh tử mới hoàn toàn hết khổ, còn kẻ được cứu khỏi bịnh thân thể chỉ
là một giai đoạn tạm thời chớ làm sao mà hết khổ được.
Tuy nhiên
Ngài phải dĩ huyễn độ chơn, về điểm này Ngài có dạy ở bài Sứ Mạng:
– Trên thì
nói Phật Pháp cho kẻ có lòng mộ đạo qui căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ,
dưới dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà
cảm lòng từ bi của chư vị với Trăm Quan.
Ta có phúc
duyên nên mới gặp Giáo Pháp của Ngài, vì đó là một Đại Chu Thoàn, có hiệu năng
đưa người qua bể khổ. Thế nên ta gấp rút tu hành kẻo tử thần không hẹn.
Mẩu chuyện thứ 10
LỜI DẶN DÒ CỦA ĐỨC THẦY
Ông Út (Ông
Út là chú ruột của Đức Thầy tên Huỳnh văn Quốc) có kể mẩu chuyện lúc Đức Thầy
còn ở Tổ Đình.
Đức Thầy dắt
ông Út ra cây dầu sau hè Tổ Đình. Ngài Nói:
– Sau này
tôi vắng tín đồ tôi thời gian rất lâu. Chừng nào chết chôn không kịp tôi mới
về.
Đức Thầy nói
tiếp:
– Lúc ấy Ông
hãy dùng lu mái giú để đựng nước, tôi múc cho bịnh nhân uống, nước gánh không
kịp, múc không xiết. Tôi múc nước rưới trúng ai thì hết đó. Đây là giai đoạn
tôi cứu tín đồ tôi, sau đó tôi vắng mặt mười ngày cho tín đồ tôi trả quả. Lúc
ấy trời đất tối thui, Năm Chèo xuất hiện, trên rừng núi thì thú dữ tràn xuống
ăn thịt người không xiết.
Thú thì con
xé con lôi,
Con giành
con giựt ăn thôi muôn trùng.
Ông Út hỏi:
– Như vậy
thì ai nó cũng ăn sao Thầy?
Thầy đáp:
Người tu thú
ấy cúi đầu,
Người không
tu niệm ngõ hầu nó ăn.
Thầy nói
tiếp:
– Nữa nước
ngập tới hai cây dầu này.
– Như vậy
chết hết sao Thầy?
– Không sao,
chừng ấy Văn Thù Bồ Tát xuống cứu vớt. Sau đó Trời đốt lửa tẩy trần cháy lụn
xuống ba tấc và đất đỏ như gạch. Sau ngày tận thế Hạ Ngươn, Phật Trời sẽ dùng
phép mầu lập lại Thượng Nguơn.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Mỗi vị Phật
hay vị Giáo Tổ lâm phàm đều có sứ mạng thiêng liêng, mà sứ mạng đó không ngoài
sự cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Bởi vì Phật thì lúc nào cũng đầy lòng từ bi
bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ. Mặc dù có sẵn lòng bác ái, vị tha
chứ không thể bôi xóa được ác nghiệp quá nhiều của chúng sanh ở vào thời cùng
cơ tận pháp. Bài Sứ Mạng, Ngài có dạy:
– Ta đây tuy
không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài
người tàn bạo gây nên.
Tuy nhiên
Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử, có bà mẹ nào lại muốn cho con phải khổ, nhưng
nếu con không nghe lời mẹ cứ làm quấy, để phải tội thì mẹ cũng không thể bênh
vực được. Cũng như trường hợp của Đức Thầy, dù rằng Ngài quá thương chúng sanh
mà phải lâm phàm độ thế, nhưng Ngài chỉ báo trước cái khổ phải đến với chúng
sanh, và chỉ con đường giải khổ bằng cách là phải tu thân hành thiện.
Bởi vì:
Cứu lương
hiền chẳng cứu người hung,
Kẻ gian ác
đến sau tiêu diệt.
Và:
Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời thượng cổ.
(Quyển 2: Kệ Dân Của Người Khùng)
Nếu chẳng tu thân hành thiện hoặc tu
mà chẳng thiệt tâm trau sửa thì dù Ngài có quảng đại thần thông cũng không sao
cứu được. Huống chi đây là cơ tận diệt, cuộc diễn biến của đại tam tai, mà mình
không lo tu tỉnh thì có Phật nào sửa luật nhân quả cho mình.
Về điểm này, Đức Thầy khuyến nông
tại Châu Đốc, thuyết pháp xong, ông Viễn liền hỏi Đức Thầy:
– Thưa Thầy, Hội Long Hoa thì Thầy
chọn lựa những người hiền, nhưng sao con thấy hiện giờ, hung hiền lộn xộn quá
thì làm sao mà chọn?
Thầy nói:
– Đến chừng đó quả đất này sẽ là:
Cảnh hồng trần tợ biển mênh mông.
– Bạch Thầy! Vậy hung hiền chết hết
sao?
Đức Thầy đáp:
– Đừng lo, cứ tu đi, vì đến chừng đó
người tu thật sẽ có:
Văn-Thù Bồ-Tát từ-bi,
Chèo thuyền Bát-Nhã cứu thì trần
gian.
Gió đưa lướt sóng buồm loan,
Rước người tu niệm xê-xang phỉ tình.
(Quyển 3: Sấm Giảng)
– Vậy các ông hãy lo tu tập thật đi,
thì sẽ có ngày Văn-Thù rước chớ lo gì.
Là tín đồ ngoan đạo ta phải tuân thủ theo lời
vàng ngọc của Đức Tôn Sư, thì lo chi ngày Long Hoa không có mặt.Mẩu chuyện thứ 11
CON THEO THẦY
Vào năm 1987 tôi có đến Bạc Liêu để
viếng lại ngôi nhà của bà Ký Giỏi và quí bà, quí cô. Lúc ấy tôi được nghe bà Ký
Nhu kể lại chuyện như sau:
Lúc Đức Thầy đi Khuyến nông năm
1945, sau buổi Thuyết Pháp tại Tân Châu, anh em tín đồ tụ họp quanh Đức Thầy
khá đông. Bỗng Thầy đưa tay lên hỏi lớn:
– Ai muốn theo Thầy?
Tất cả đồng thanh ứng tiếng:
– Con theo Thầy, con theo Thầy!
Đức Thầy không nói gì hết, bỗng 15
phút sau có tiếng còi báo động. Vì lúc đó lộn xộn lắm, mỗi lần có tiếng còi báo
động thổi, thì có giặc, hoặc đồng minh dội bom. Thế nên nghe tiếng còi báo
động, mạnh ai nấy chạy trốn. Lúc này anh em đồng đạo chạy tản lạc hết, chỉ còn
lại bà Ký Nhu và ba bốn đồng đạo còn ngồi chung quanh Đức Thầy. Đức Thầy hỏi:
– Sao mấy bà con không chạy theo
người ta đi?
Cô Ký Nhu bạch:
– Bạch Thầy! Chúng con theo Thầy,
Thầy ở đâu chúng con ở đó.
Đức Thầy cười mà nói:
– Mấy bà con biết không, mới lúc nãy
theo Thầy đông quá, mà bây giờ có chuyện bỏ Thầy cũng đông.
Thuật theo lời bà Ký Nhu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Thật câu nói của Đức Thầy rất sâu
xa. Bởi biết trước là Ngài sẽ vắng mặt và khi đó, các tín đồ phải chịu nhiều
trận phong ba. Câu nói của Thầy tuy ngắn gọn mà hàm chứa ý nghĩa rất sâu xa.
Thật vậy, nước có loạn mới biết tôi trung, nhà có nguy mới hay con thảo. Thời
gian vắng mặt khá dài của Đức Thầy là một cuộc thi cử có giá trị vô cùng. Bởi
Ngài vắng mặt chớ Giáo Lý của Ngài vẫn còn đây. Thế mà cũng có nhiều người chạy
đi nơi khác, hoặc gặp thời pháp nạn thì thối chí nãn lòng, rồi không giữ dạ
trung kiên cùng đạo cả, nỡ phụ ơn khai hóa của Tổ Thầy, mà để mặc cho danh,
lợi, tình quyến rủ, đành bỏ cội quên nguồn, đến khi biết mình sa hầm sập bẫy
mới hối tiếc thì đã quá muộn màng.
Vậy hỡi ai là người sáng ngoan và
trí giác, khi đã gặp Giáo Lý cùng đấng Từ Bi, nên cố gắng thi hành câu:
Chánh Tinh-Tấn dù thành hay bại,
Cứ một đường tín-ngưỡng của mình.
Dầu cho ai phá rối đức tin,
Ta cũng cứ một đàng đi tới.
(Quyển 4: Giác Mê Tâm Kệ)
Mẩu chuyện thứ 12
ĐỨC THẦY UỐNG NƯỚC ACID
Vào khoảng cuối năm Canh Thìn nhà
cầm quyền Pháp dời Đức Thầy đến nhà thương Chợ Quán. Chúng ác tâm muốn ám hại
Đức Thầy bằng cách ném đá giấu tay.
Một hôm tên quan Ba Pháp kêu Bác Sĩ
Trần văn Tâm mà trao ly nước acid bảo cho Đức Thầy uống. Ông Tâm tiếp ly nước
acid, đến gần Đức Thầy rồi nhìn ly thuốc độc ấy, có vẻ buồn vô hạn. Ông dư hiểu
là không một ai có thể uống một phần mười của ly thuốc này mà sống được, nên
ông không nỡ xuống tay, nhưng cũng không có cách nào cãi lịnh của kẻ cường
quyền. Đức Thầy muốn cởi mở sự khổ tâm của ông Tâm, liền tươi cười bảo:
– Ông đem thuốc bổ cho tôi uống đấy
à? Được! Cứ đưa tôi uống.
Vừa nói Ngài đưa tay tiếp nhận ly
acid, ông Tâm miễn cưởng đưa cho Thầy, với một tâm hồn đau khổ hiện ra mặt.
Uống xong Đức Thầy nằm ngủ một giấc.
Thức dậy nhìn ông Tâm và cười nói:
– Bác sĩ cho tôi ly thuốc bổ khi nãy
thấy trong mình tôi khỏe quá.
Ông Tâm rất đỗi ngạc nhiên và kính
phục Ngài vô cùng, thật ngoài sức tưởng tượng của nhà khoa học. Còn đang miên
man suy nghĩ thì Đức Thầy kêu ông Tâm nói tiếp:
– Bác sĩ, ông đi trị bịnh cho người
ta chớ vợ của ông ở nhà đang mắc bịnh nan y, chẳng những ông không trị được, mà
các Bác sĩ khác cũng đều bó tay. Thế nên tôi không nỡ uống hết, mà còn chừa lại
một phần tư đây, ông cứ đem về cho vợ ông uống thì mạnh liền chứ không sao đâu.
Vì quá khâm phục Đức Thầy, ông Tâm
liền tiếp nhận ly nước acid đem về. Đứng bên cạnh giường bịnh của vợ, ông gọi:
– Bà ơi! Ngủ thức?
Với giọng nói yếu ớt mệt nhọc, bà
Tâm trả lời:
– Thức!
– Thuốc đây bà uống đi!
Bà Tâm vừa đưa tay nhận thì ông Tâm
giựt lại. Với giọng nghẹn ngào ông nói:
– Bà ơi! Giữa tình nghĩa vợ chồng,
từ khi bà lâm bịnh đến nay, tôi cũng hết lòng lo chạy chữa, nhưng kết quả chỉ
thất vọng mà thôi. Hôm nay tôi đi làm việc, vừa chứng kiến cảnh kỳ lạ. Bà biết
ly này là ly gì không? Không đợi bà trả lời, ông nói:
– Đó là nước acid!
Bà Tâm lặng lẽ nhìn chồng để chờ
nghe rõ câu chuyện, ngừng một lúc ông tiếp:
– Bà biết không, hồi sáng này, tên
quan ba Pháp đưa ly nước acid, bảo tôi phải cho ông Đạo ở tỉnh Châu Đốc, thôn
Hòa Hảo phải uống, mà chúng bảo là bịnh thần kinh, nhưng theo dõi ông, thì tôi
không thấy ông bịnh chút nào cả, chỉ thấy ông có một phong độ khả kính, những
nét thông minh và sắc thái vượt hẳn người thường. Ngoài những điểm ấy ông lại
làm nhiều việc tôi nghĩ không phải là hạng phàm tình. Bà biết không, khi ông
uống nước acid vô chẳng những ông không chết như kẻ khác, còn cho là bổ khỏe và
biết là ở nhà Bà bị bịnh nan y, bảo tôi đem về cho bà uống sẽ hết. Nhìn vợ, ông
Bác sĩ tiếp, ai cũng biết thứ này là thứ giết người, nhưng bịnh của bà thì tôi
thấy không thể sống được nên tôi muốn cho bà uống, may ra Trời Phật nhỏ phước
cho bà hết bịnh thì hạnh phúc biết bao. Vì tôi tin rằng ông Đạo ấy là bậc Tiên
Phật thị hiện để cứu khổ cho gia đình mình. Tuy nhiên, cầm ly thuốc độc đưa cho
bà, tôi thấy lòng còn lo sợ. Vậy theo ý bà thì sao? Cho tôi biết với!
Bà Tâm tỏ vẻ vui tươi:
– Nếu vậy ông cứ đưa tôi uống đi, có
lẽ Trời Phật ban phước cho gia đình ta. Tôi uống ly thuốc này có chết cũng vui,
chớ ông nghĩ coi, sống làm chi để kéo dài sự đau khổ cho thân mình luôn cả
chồng con. Thà uống, theo tôi thấy đây là cơ hội ngàn năm một thuở, nếu có chết
linh hồn cũng được an vui.
Nói xong bà Tâm tiếp lấy ly thuốc
đưa lên trán khấn nguyện rồi uống vào, trong khi ông Tâm nhìn vợ có vẻ bồi hồi
lo sợ. Một lát sau ông hỏi vợ:
– Có gì lạ không bà?
Bà Tâm nói:
– Thấy khỏe lắm, bịnh của tôi giảm
nhiều rồi.
Ông Tâm mừng rỡ vô hồi. Rồi sau bà
Tâm hoàn toàn lành bịnh hẳn.
Thuật theo lời Ông Lê văn Phú.
*- Lời phụ chú của nhóm kết tập: Về
việc Đức Thầy uống nước Acid, có một vài người chứng kiến và xác nhận, đó là
con ông Thầy thuốc Tâm đang cư ngụ tại Pháp Quốc và cháu ngoại cô Ba Bắc (cô Ba
Bắc là người đã chăm sóc cho Bà Thầy thuốc Tâm trong lúc Bà đang bệnh) Con ông
Thầy thuốc Tâm và cháu ngoại cô Ba Bắc có đến Hội Quán Miền Nam California xác
nhận việc Đức Thầy uống nước Acid.
Mẩu chuyện thứ 13
CẤM THỌ THỰC BA NHÀ
Theo lời ông Lê văn Lưu ngày 22
tháng 9 Tân Tỵ (1941). Chính ông được nghe ông Cao Bá Hấn thuật lại.
Ông Cao Bá Hấn là tín đồ thường gần
gũi Đức Thầy với nhiệm vụ thơ ký. Một hôm ông Hấn ngỏ ý hỏi Đức Thầy về vấn đề
xử thế tiếp vật. Phải làm thế nào cho đúng với tư cách của người tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo, và nên giao tiếp với những hạng người nào trong xã hội?
Lúc ấy đến buổi dùng cơm. Đức Thầy
nghiêm nghị nhìn ông Cao Bá Hấn phán dạy:
– Tôi cấm ông không được dùng cơm ở
ba nhà.
Ông Hấn ngạc nhiên nói:
– Bạch Thầy, có biết bao nhiêu nhà
trên đất này, Thầy cấm có ba nhà thì làm sao con tránh.
Đức Thầy dạy:
– Ông nhớ nghe, ba nhà là: Một nhà
buôn bán súc vật, hai nhà chuyên nuôi súc vật, ba nhà làm nghề hạ bạc. (chài,
câu, lưới bắt tôm cá).
Thời gian ít lâu sau, ông Cao Bá Hấn
ghé thăm nhà một người bạn làm nghề đóng đáy (giăng lưới chận cá dồn lại để bắt
ở sông hay rạch). Ở mãi mê trò chuyện khá lâu, đến buổi dùng cơm, gia đình dọn
mâm lên mời ông dùng bữa. Ông chợt nhớ lại lời Thầy dạy, ông Hấn liền từ chối
không dùng bữa.
Thấy hành động bất thường của ông,
chủ nhà ngạc nhiên hỏi:
– Từ trước đến giờ mỗi lần anh ghé
thăm, không bao giờ từ chối những bữa cơm thường nhựt. Hôm nay có điều gì phiền
muộn, hay tôi có lầm lỗi gì chăng, mà anh lại từ chối với gia đình tôi vậy?
Ông Hấn xua tay đáp:
– Không! Không! Không có việc chi
buồn phiền mà gia đình anh cũng không có gì làm tôi phật ý cả, chẳng qua tôi
giữ theo lời Thầy cấm đó thôi.
– Thầy cấm thế nào? Ông chủ nhà hỏi.
Ông Cao Bá Hấn đáp:
– Thầy cấm tôi không được ăn cơm ở
ba nhà. Một nhà buôn bán súc vật, hai là nhà nuôi súc vật, ba là nhà làm nghề
hạ bạc, mà nhà anh lại làm.
Chủ nhà nghe nói ngắt lời:
– Nếu Thầy đã cấm anh như vậy, tôi
không ép. Nhưng anh là tín đồ Thầy, tôi cũng là tín đồ của Thầy, Thầy cấm anh,
tôi cũng phải chừa nữa chớ. Thôi anh hãy dùng với tôi bữa cơm này, tôi hứa với
anh sẽ không làm nghề này nữa.
Ông Hấn nghĩ, biết đâu Thầy dạy mình
để hóa độ bạn này. Nghĩ xong ông liền nhận lời dùng cơm với gia đình. Người bạn
và ông thầm khấn nguyện Đức Thầy sẽ chứng giám cho việc làm của mình. Thật thế,
sau khi bạn của ông Cao Bá Hấn dùng bữa cơm xong, ông liền đem lưới, đụt ra.
Lưới ông bằm to bằm nhỏ, đụt ông chặt bỏ ráo trơn. Xong ông xoay qua nói với
ông Cao Bá Hấn:
– Thầy đã cấm mình không làm, mà mình
để cho người khác làm thì mình cũng có một phần lỗi lớn.
Thuật theo lời ông Lê văn Lưu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Câu chuyện này Thầy dạy ông Hấn, mà
cũng là huấn từ để dạy chung cho tất cả tín đồ. Bởi vì trong mười điều ác sát
sanh là đứng đầu và trong năm giới, giới sát cũng là vi thủ. Bởi nhà buôn bán
súc vật và nuôi súc vật cũng như làm nghề hạ bạc, đều là gây tạo quá nặng nề
sát nghiệp, nên chẳng những Thầy cấm, mà Đức Phật xưa kia cũng cấm chư đệ tử
không cho gần gũi và thọ thực ở nơi có tạo ác nghiệp nói trên. Đức Thầy cũng đã
từng phán dạy, sinh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ
sống còn như nhơn loại vậy.
Lời Thầy cấm ông Hấn thọ thực ba nhà
là một tiếng chuông buổi sớm để thức tỉnh những ai có duyên với Thầy mà còn
nặng mang sát nghiệp, hoặc nuôi hoặc mua bán có tính cách cộng đồng sự sát
nghiệp, là tín đồ biết nghiệp sát là một thứ nghiệp không nhỏ. Hơn nữa, người
tu hành ai lại quên câu:
Đạo Phật là Đạo Từ bi, Bác ái, dĩ
đức háo sanh, khoan hồng đại độ.
Thế thì người chơn tu lúc nào cũng
trong đức hiếu sanh làm căn bản. Ông bạn của ông Cao Bá Hấn quả là người có
thiện căn, đại trí, nên vừa nghe ông Hấn kể lại liền giác ngộ rất nhanh, lại có
đủ dũng lực mới thắng nổi con ma lợi, mà chặt bỏ lưới đụt và kết luận bằng câu:
“Thầy đã cấm mình, mình không làm mà để cho người khác làm thì cũng có phần tội
lỗi lớn”. Câu nói tuy thông thường mà hàm chứa ý nghĩa thanh cao, rất xứng đáng
là một tín đồ ngoan đạo. Thật vậy, nếu một tín đồ biết tuân thủ quy luật của
Thầy Tổ như ông Hấn và người bạn ông, thì có lo gì không chóng đạt đến kết quả
thanh cao để đến nơi đầy an lạc.
Mẩu chuyện thứ 14
CHẾT ĂN KHÔNG ĐƯỢC
Vào khoảng tháng 4 năm Canh Thìn
(1940), một buổi chiều nọ, ông Lê Phát Khuynh đi xuống Tổ Đình để nghe Đức Thầy
Thuyết Pháp.
Sau khi giải bày tường tận cho đồ
chúng nghe về Giáo Lý nhà Phật, khi bàn đến việc quảy đơm cúng tế, Đức Huỳnh
Giáo Chủ Ngài hướng về ông Lê Phát Khuynh bảo:
– Này ông Hương Trưởng, lúc mạnh ông
ăn được mấy chén?
Ông Khuynh vội vàng đáp:
– Bạch Thầy, khi mạnh giỏi tôi ăn
được năm bảy chén.
Đức Thầy lại hỏi:
– Còn lúc đau ông ăn được mấy chén?
– Bạch Thầy, lúc đau tôi ăn được một
hai chén là quá rồi.
Đức Thầy hỏi dồn:
– Lúc chết ông ăn được mấy chén?
Với câu hỏi đột ngột, ông Khuynh
lặng thinh không đáp, vì chẳng biết Đức Thầy muốn dạy gì.
– Tôi hỏi thật đó!
Và Ngài lập lại một lần nữa.
Ông Khuynh có vẻ lúng túng, gượng
trả lời:
– Bạch Thầy, lúc chết ăn sao được mà
ăn.
Đức Thầy liền nhỏ nhẹ:
– Đúng thế ông à! Khi chết con người
không bao giờ ăn được. Sở dĩ con cháu cúng giỗ là để tưởng nhớ đến công ơn bậc
sanh thành dưỡng dục và để nhớ ngày chia cách đời đời. Tưởng câu: Sự vong như
sự tồn vậy thôi. Nhưng nếu sát sanh gà vịt nhiều thì linh hồn của người chết sẽ
khó được siêu thoát.
Ngài giảng luận một hồi lâu rồi vào
trong, lát sau Ngài đi ra. Ngay lúc đó anh em đồng đạo đang bàn bạc nhưng chưa
ngã ngũ được vấn đề. Thấy Đức Thầy ra, một đồng đạo đứng lên bạch:
– Thưa Thầy, chúng con đến ngày quảy
đơm, muốn cúng phải làm sao, mong Thầy chỉ dạy.
Đức Thầy đáp:
– Cúng ít tội ít cúng nhiều, tội
nhiều.
Có vị đồng đạo lẹ miệng:
– Không cúng được không Thầy?
– Không cúng sa địa ngục.
Lời Ngài như có vẻ quả quyết. Sau đó
Ngài xuống đọc bài thi: Báo Hiếu Đạo Nhà cho tất cả mọi người nghe, và khuyên
nên cúng chay:
Quảy đơm cúng tế lệ xưa nay,
Sát vật trâu heo đứa mị bày.
Kẻ chết cho ăn suy khó hiểu,
Người còn bạc đãi lạ lùng thay?
Cháu con báo hiếu theo nhà Phật,
Cha mẹ qua đời thủ lễ chay.
Trong sạch nghĩa nhơn vầy mới đúng,
Hồn linh siêu thoát nhẹ cao bay.
Thuật theo lời ông Nguyễn văn
Thượng.
PHẦN NHẬN XÉT:
Cây có cội nước có nguồn, đã là con
người thì ai lại chẳng có cha mẹ tổ tiên và biết ân sâu nghĩa nặng. Muốn đáp ơn
nghĩa sâu rộng đó, họ cũng không làm gì hơn là kẻ trọng ơn còn sống thì nuôi
dưỡng báo đền, lúc chết thì lo quảy đơm cúng tế. Đó là thông lệ xưa nay, nhưng
phần đông người ta quan niệm sự cúng kiếng là để cho ông bà ăn như khi còn
sống, chớ không ngờ ai cũng là thân tứ đại, khi chết phải trả về cho tứ đại,
thì làm sao mà ăn cho được. Còn linh hồn thì theo đường tội phước. Hơn nữa thần
thức không có hình tướng thì đâu ăn uống như người sống được. Thế mà người ta
cứ lo sát sanh hại vật cúng kiếng, làm cho vong nhơn phải chịu quả báo khổ đau
mà không sao nói được.
Thế nên Ngài bảo: “Cúng tội ít”, vì
cúng ít là sát sanh ít. “Cúng nhiều tội nhiều”, tội nhiều là vì sát sanh nhiều.
Còn không cúng thì con người không nhớ nguồn cội, nên tội lại nặng hơn.
Để phá tan sự ngộ nhận của người
đời, Ngài mới đưa ra tám câu thi, hầu vạch rõ lối đi cho mọi người được thức
tỉnh mà làm tròn chữ hiếu. Nghĩa là muốn báo hiếu cho cha mẹ tổ tiên thì nên
cúng chay, vừa tránh được sát nghiệp, vừa hiếu đạo vẹn toàn.
Xưa có ông Trưởng giả, ông này bình
sanh thường làm việc thiện, rất tin luật nhơn quả. Khi lâm trọng bịnh ông gọi
các con lại dặn:
– Khi cha chết các con phải nhớ cúng
chay từ ma đám tuần, từ quảy đơm, nhứt định không được cúng mặn cho cha.
Khi ông từ trần con cháu y lời cúng
chay, đến thất thứ Bảy, chúng mới bàn tán, cha mình khi sống không ăn chay
trường, nay chết mình cứ cúng chay hoài làm sao cha ăn ngon miệng. Hơn nữa mình
mời bạn bè đến mà cứ cúng chay hoài, người ta nói mình hà tiện, cúng cha không
dám cúng thịt cá. Thôi còn một tuần để mình làm heo cúng cha, trước cúng, sau
mời bà con đến để đãi đằng. Thế là họ làm heo, gà, vịt, cúng tuần trùng thất
cho ông rất linh đình.
Còn đang ăn uống, bỗng có đứa bé độ
mười tuổi dẫn con trâu đến ngay trước cửa, tự nhiên con trâu ấy ngã ra chết
tốt. Đứa bé liền lấy nắm cỏ đút vô miệng bảo:
– Ăn đi trâu, ăn đi trâu!
Thấy hành động kỳ lạ, những người
trong nhà liền nói:
– Thằng nhỏ nầy bộ điên rồi sao chớ,
con trâu đã chết rồi cứ đút cỏ, kêu ăn hoài, làm sao ăn được?
Đứa nhỏ nói:
– Trâu tôi mới chết còn nóng hổi,
tôi cho nó ăn cỏ, các ông nói tôi điên, còn cha các người đã chết 49 ngày rồi
mà các người còn đòi cúng cho ông Trưởng giả ăn, như vậy các người mới là điên
hơn tôi chớ!
Con ông Trưởng giả hỏi:
– Ê mầy ở đâu, con nhà ai mà dám nói
tụi tao điên vậy?
Đứa nhỏ đáp:
– Ta là Trưởng giả, cha của các
ngươi đây. Bởi các ngươi không nghe lời dạy của ta mà sát sanh cúng kiếng,
khiến cho ta phải chịu tội khổ, nên ta hiện đến để cho các ngươi biết, các
ngươi là con bất hiếu, chớ không phải là báo hiếu ta đâu. Nói xong, con trâu và
đứa bé biến mất.
Bây giờ các con ông Trưởng giả đều
sám hối phát tâm tu hành.
Mẩu chuyện thứ 15
CHUYỂN ĐIỂN LÀNH
Năm Bính Tuất (1946), Đức Thầy ở
Miền Đông về Sài gòn, để vận động duy trì nền độc lập, vì thực dân Pháp đang
thực thi tái chiếm Miền Nam lần thứ hai.
Một hôm được thư của Nguyễn Bình xin
diện kiến Đức Thầy. Xem xong Ngài hồi âm chấp thuận, và ghi rõ ngày giờ, địa
điểm hội kiến. Theo sự hướng dẫn trong văn thư hồi âm của Đức Thầy, Nguyễn Bình
và phái đoàn đến địa điểm một cách dễ dàng.
Sáng hôm ấy khi tiếp đón Nguyễn Bình
và phái đoàn y xong. Đức Thầy phân ngôi chủ khách và trà nước đãi đằng. Nguyễn
Bình mở đầu câu chuyện:
– Thưa ông Tư, tôi có vài điểm muốn
hỏi ông, vậy có điều chi sơ xuất, xin ông thứ lỗi cho.
Thưa ông, theo nhận xét của tôi, kể
từ ngày Pháp thuộc đến nay, đất nước ta bị ngoại xâm đô hộ, vì thế nên có biết
bao tôn giáo, đảng phái ra đời để mưu đồ độc lập. Họ ra đời trước nên đã gom
hết phần tử tinh hoa, chỉ còn lại đa số đều là chất phát, thật thà. Đến nay ông
mới ra đời thu thập quần chúng, như vậy quá muộn rồi. Tôi nghĩ một xưởng rèn
đúc đồ, có nhiều người vào trước, đã lựa hết sắt thép tốt, còn lại sắt vụn. Ông
là người tới sau, tôi không biết ông lấy sắt vụn để làm gì?
– Sự nhận xét của ông rất đúng, việc
ra đời của tôi là sau rốt, nhưng không muộn mà lại đúng lúc. Ông có biết đâu
tôi có sẵn lò nấu, tôi mới gom lại số sắt vụn này cho hết, chừng ấy tôi sẽ đem
nó vào lò nấu, lọc rồi đúc những dụng cụ tinh xảo hữu ích để giúp cho nhơn
loại. Nếu ông cứ nhìn vào quá khứ, chưa thực nghiệm hiện tại và tương lai mà
vội phê bình thì e có điều sai biệt.
Qua câu trả lời ngắn gọn đầy ý vị
siêu nhiên của Đức Thầy, Nguyễn Bình và đồng bọn không thỏa mãn. Sau cuộc biệt
đàm của chúng, Nguyễn bình đứng lên hỏi tiếp:
– Thưa ông Tư, câu trả lời của ông
làm cho chúng tôi đang thắc mắc, càng thêm thắc mắc. Vậy xin ông có cách nào
thực nghiệm để chúng tôi vững niềm tin, chắc đây là sự thực.
Đức Thầy từ tốn đề nghị:
– Nếu quí vị muốn thực nghiệm, cần
phải khảo thí cấp tốc.
– Thưa ông Tư, thế nào là khảo thí
cấp tốc, và ai mới đủ tư cách dự thi?
– Muốn dự thi cần phải có những
nguyên tắc này:
1- Thành lập một Ban Giám Khảo, mỗi
bên một hoặc hai vị.
2- Cuộc thi trong thời gian mười
phút và đề thi tự do.
3- Bốn hồi kiểng đổ:
a- Báo tin làm bài.
b- Báo tin
qua chín phút.
c- Báo tin góp bài thi.
d- Chấm dứt cuộc thi.
4- Khi chấm bài và cho điểm phải
được mười điểm là xuất sắc nhứt.
Để tìm cách hạ bệ ông Tư Hòa Hảo,
thế là cuộc thi được tổ chức tại văn phòng. Muốn chắc ăn thêm, Nguyễn Bình phát
biểu ý kiến:
– Tôi đến đây tất cả mười người, tôi
và ông Tư làm Giám khảo, còn chín người kia thi hết cho vui.
Đức Thầy mĩm cười và tỏ lời chấp
thuận, liền đó Ngài giục Nguyễn Bình:
– À, sao ông chưa lựa bên tôi một
thí sinh để vào thi, vì chín đồng chí của ông đang chờ kia.
Không chút ngần ngại, Bình liền chọn
một thí sinh trong số sáu mươi người có mặt, nắm tay dắt lại chỗ ngồi.
Thì ra, anh này là một tín đồ ở Lục
Tỉnh vừa đến thăm Thầy, hai hôm trước đây và được Thầy lưu lại. Anh ta quần áo
lam lũ, tướng hình cằn cỗi, tóc râu lượt thượt, vẻ mặt sợ hãi, anh nói:
– Bạch Thầy! Bạch Thầy! Con có biết
gì đâu mà thi!
– Thầy dạy sao chẳng nghe lời, hãy
đến thi đi, biết gì thi nấy.
Anh ta lủi thủi đến chỗ ngồi. Tất cả
tín đồ đều lo sợ cho anh chàng thí sinh quá chất phát này mà thi với chín vị
thức giả kia.
Bình ngồi thản nhiên không giấu nỗi
nụ cười tự đắc.
Đoạn Đức Thầy kéo học tủ lấy ra một
mảnh giấy, một bình mực, một cây viết ngòi lá tre trao cho tín đồ đem đến cho
vị thí sinh đồng đạo. Bình cũng lo giấy viết cho đồng bọn.
Đến phần Ban Giám Khảo tuyên bố
nguyên tắc thi. Đồng hồ nơi bàn chỉ mười giờ, cuộc thi bắt đầu. Kiểng đổ lần
một, thí sinh bắt tay vào việc. Bầu không khí lúc này càng sôi động hơn lên, vì
tất cả tín đồ ở ngoài đều hồi hộp theo dõi và không ngớt lo sợ cho anh đồng đạo
thí sinh của mình có đậu hay không đây?
Khi ấy chín vị thức giả kia đang hân
hoan, nét mặt thản nhiên, phát họa thi bài đủ kiểu, duy có anh thí sinh Hòa Hảo
thì khoanh tay trước ngực, mắt đăm chiêu nhìn ra cửa, như thả hồn vào cõi hư
không. Đã năm phút qua rồi mà anh vẫn ngồi im trong tình trạng ấy. Trên bàn Giám
Khảo, Nguyễn Bình đầy vẻ tự đắc, chắc thắng trăm bề khi nhìn diện mạo anh thí
sinh Hòa Hảo. Còn Đức Thầy thản nhiên hình như không có gì xảy đến.
Đến phút thứ sáu, bỗng anh chàng thí
sinh ấy đứng lên, làm toàn thể mọi người hồi hộp, vì sợ anh bỏ cuộc. Không ngờ
anh lại ngồi xuống như cũ và giữ y tình trạng ban đầu. Nếu anh nhắm mắt lại thì
trông như một thiền gia ngồi thiền.
Đến phút thứ bảy anh lại đưa thẳng
tay lên, mọi người giựt mình vì tưởng đã đầu hàng.
Ban Giám Khảo hỏi:
– Anh muốn gì?
– Xin thêm giấy mực.
Đến phút thứ tám, anh chàng thí sinh
tỏ ra rất bình tỉnh và an nhiên.
Tiếng kiểng bắt đầu đổ lần thứ hai,
mọi người gần như tuyệt vọng, nhưng bất thần anh trải thẳng mảnh giấy lên bàn,
lấy bình mực đổ vào lòng bàn tay, rồi thoa đều lên giấy, đen gần hết mảnh giấy.
Sau đó anh đứng lên, xếp giấy lại và mang đến bàn Giám Khảo nạp bài thi, rồi
anh ta trở về chỗ cũ xem rất tự nhiên. Thế là mười vị thí sinh hôm nay, chỉ anh
chàng thí sinh chất phát này nạp bài lên trước, còn lại chín vị kia ngồi thừ ra,
vì chắc chắn mình sẽ thắng cuộc trước anh chàng thí sinh này, nên rất tự hào
khinh dễ. Cho nên khi chuông đổ lần thứ ba chín vị mới xem lại bài của mình.
Văn sĩ thì bài văn chưa kết luận. Thi sĩ, thì bài thơ bát cú chỉ có thất hoặc
lục cú. Họa sĩ, thì vẽ rồng, cọp thiếu gạc, thiếu chân. Nhưng vì nguyên tắc,
nên phải đem nạp bài. Góp bài xong Nguyễn Bình đề nghị xét bài nhiều trước, Đức
Thầy đồng ý.
Khi xét bài Nguyễn Bình không khỏi
ngạc nhiên vì không bài nào được trên năm điểm. Tuy nhiên, ông cũng còn hy vọng
thắng cuộc. Đến bài sau cùng, Bình lật tờ giấy xếp hai ra, thấy mảnh giấy bị
bôi đen gần hết. Tỏ vẻ ngạo nghễ, quay sang hỏi Đức Thầy:
– Chẳng biết tín đồ của ông làm cái
gì?
Đức Thầy ung dung nói:
– Tôi cùng ông đều làm Giám Khảo,
sao đề thi ông không hỏi thí sinh?
Nguyễn Bình hơi sượng và gọi anh
chàng thí sinh lên hỏi:
– Tôi không biết anh làm cái gì như
vầy?
Ông vừa nói vừa cầm mảnh giấy đưa
lên, cả hội trường xôn xao lên. Anh thí sinh nghiêm nghị trả lời:
– Thưa Ban Giám Khảo, đây không phải
là cuộc thi cấp tốc với đề thi tự do hay sao?
Nếu phải sao ông không hỏi tôi làm
đề thi gì, mà hỏi tôi làm cái gì. Câu hỏi như vậy có được coi là hợp lý chăng?
Im lặng giây lát anh tiếp:
– Thưa ông, bài làm của tôi hôm nay
mang tên đề thi Vân Long. Vân long nghĩa đen là mây rồng. Đề thi này có nhiều ý
nghĩa, nhưng tôi chỉ trình bày vài ý thôi:
– Theo
truyền thuyết rồng rất quan trọng vì là một trong tứ linh, nhưng truy nguyên
rồng phải trải qua nhiều giai đoạn. Như từ kiếp rắn có tu, rắn mới thành cù, cù
có tu mới thành rồng, rồng nhờ tu luyện mới có thần thông. Khi bay lượn trên
không, vận hành trong vũ trụ, rồng hóa tường vân bao phủ che bọc thân mình, mắt
phàm phu không bao giờ trông thấy nguyên hình con rồng được. Nếu họa hình mà
không họa mây che là còn khiếm khuyết, vì rồng không ở ngoài mây. Biết rồng là
vật tưởng tượng, mây mới là hiện tướng, họa mây hàm xúc rồng.
Ý thứ nhì,
mực đen giấy trắng là hai vật liệu dành cho văn nhân, thi sĩ dùng để diễn tả
tâm sự của mình, và cũng là vật tượng trưng tuyệt hảo để giúp cho tao nhân mặc
khách biểu lộ nhiệt tình đối với nước non vậy. Giấy màu trắng tiêu biểu cho
lòng trong trắng của hiền nhơn. Căn cứ vào lịch sử trên bốn ngàn năm văn hiến,
tổ tiên ta với một tấm lòng trong trắng can cường, hy sinh xương máu chống lại
ngoại xâm để có nền móng gấm vóc hôm nay.
Mực màu đen
tượng trưng cho vô minh che khuất lương tri sanh ra sân hận, thù hiềm, ích kỷ
làm điều gian ác, bán giống, buôn nòi, quên mình là con cháu Rồng Tiên. Thế nên
tôi mượn mực thoa đen giấy trắng.
Đến đây anh
thí sinh cúi chào rồi lui ra.
Bầu không
khí rất là sôi động, Nguyễn Bình và các đồng chí của y ngạc nhiên tột độ trước
một điển lành chưa từng thấy, Nguyễn Bình bỗng đứng lên thay mặt Ban Gám Khảo
tuyên bố kết quả:
– Cuộc khảo
thi cấp tốc hôm nay, anh thí sinh Hòa Hảo được chấm đậu với số điểm mười.
Lời ông ta
vừa dứt thì một tràng pháo tay vang dội. Kiểng đổ lần bốn.
Nguyễn Bình
và đồng chí của ông đứng lên gĩa biệt.
Thuật theo
lời ông Lê văn Phú tự Tho.
Mẩu chuyện thứ 16
TRUYỀN PHÉP LINH
Một buổi chiều
đầu năm Canh Thìn (1940), Đức Thầy sau khi đi thăm các danh lam thắng cảnh trên
ngọn núi Tà Lơn hùng vĩ, Ngài trở về xã Thới Sơn thuộc quận Tịnh Biên. Đêm ấy
Ngài tạm trú tại nhà bà nhạc mẫu ông Hương Giáo Tập, một bà lão rất ngưỡng mộ
Đạo Pháp.
Nghe tin Đức
Thầy về đây, tất cả tín đồ quanh Nhà Bàng lũ lượt đến nghe Đức Thầy Thuyết
Pháp, có một người đứng lên cung kính bạch với Ngài rằng:
– Bạch Thầy,
mấy ông đạo trên núi thường luyện phép để phò vua giúp nước, còn Đức Thầy sao
không dạy đệ tử luyện phép như bên đạo Tiên?
Đức Thầy
đáp:
– Đạo Phật
chỉ dạy con người tu tâm sửa tánh cho được trọn lành, trọn sáng, còn pháp thuật
là tà giáo. Nếu còn ham luyện phép tức còn nuôi óc cạnh tranh và cầu danh lợi.
Phép linh cũng như con cá linh, nước vừa chớm giựt. Loài cá linh này đua nhau
lên trước, nên phải chịu chết sớm.
Thuật theo
lời ông Ngô Thành Bá.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Nhiều người
đứng ngoài ngưỡng cửa của Đạo Phật, không nhận xét rõ cái mục đích chính của
Đạo ra sao, nên họ chỉ nhìn qua loa rồi kết luận rằng, Đạo Phật là một đạo, chỉ
dành cho người ta van xin cầu đảo, hoặc làm nhiều sự linh ứng có tính cách thần
kỳ. Chính ông đồng đạo kể trên cũng ham linh như bao nhiêu người khác, nên mới
đem chuyện phép linh hỏi Đức Thầy. Đức Giáo Chủ tức nhiên là đã dư hiểu tâm
niệm của tín đồ mình, và tâm lý chung của quần chúng, nên Ngài lột bỏ óc cạnh
tranh và mê tín của con người để gọi họ trở về với chơn lý.
Thật vậy,
chỉ có chơn lý là bất diệt và có đủ hiệu năng đưa con người vượt khỏi vòng tiếp
nối sanh tử. Đó là tự trau tâm, sửa tánh cho đến trọn sáng trọn lành là điều
căn bản mà Ngài đã từng phán dạy:
Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho
trơn.
(Quyển 5: Khuyến Thiện)
Còn việc bùa phép thì kẻ tà mị làm
cũng được, nên Thầy ví nó như cá linh. Họ có thể hô phong hoán võ, sái đậu
thành binh mà biến hóa Phật Thánh v.v…
Xưa Tổ Ưu Ba Cúc La đã vào ngôi vị
Tổ mà khi Ma Vương biến ra Phật còn phải lễ bái, dù rằng Tổ bảo Ma hiện cho
Ngài xem. Thế mà khi chúng hiện, Ngài còn ngỡ là Phật đến, nhưng sở dĩ chúng
thua Phật là bởi chúng không có chơn lý vững chắc, cũng không có Từ Bi Hỉ Xả,
cũng chưa đạt Vô Lậu Thần Thông. Nên chi chúng ta hôm nay ở vào buổi cùng cơ
tận pháp, nghiệp nặng, tình dày, chướng sâu, huệ cạn. Trí mờ ám, lại phải đương
đầu với mọi nỗi khó khăn. Mắt lờ lệch phải dò đi trên đường nhiều lối tẻ, thế
mà còn ham linh, ham nghiệm, sao tránh khỏi sợ e mang nghèo, chẳng khác nào
người bị bịnh quá nặng mà không lo uống thuốc theo lời chỉ dạy của lương y, lại
đi tìm tòi coi thuốc từ đâu có, của ai làm ra, mùi vị ngon dở thể nào, thì
tránh sao khỏi chết. Bởi người ham linh có nhiều điểm tai hại chẳng nhỏ như:
1- Còn cạnh tranh, mà cạnh tranh là
hình thức tạo ra danh, mà danh là một trong ba thứ trở ngại lớn của người tu
giải thoát.
2- Khó tránh khỏi nẻo tà. Bởi bọn tà
sư ngoại đạo thường dựa vào sự linh ứng mà khuyến dụ ta, hoặc bỏ chánh đạo mà
theo chúng, hoặc đem tiền bạc của cải cúng dưng cho họ. Hơn nữa, Thầy Tổ vắng
bóng, chúng sẽ làm một vài trò ảo thuật hoặc kỳ hạnh rồi đoán chuyện nọ chuyện
kia và tự xưng là Đức Thầy trở lại, hoặc đệ tử số một số hai đã được Đức Thầy
sai về cứu dân độ thế.
Đã biết rõ chuyện đó nên Ngài đã
từng khuyên dạy trước lúc ra đi:
Ra đi dặn lại ít lời,
Khuyên trong bổn đạo vậy thời rán
nghe.
Dầu ai tài phép bày khoe,
Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
(Dặn Dò Bổn Đạo)
Và:
Phật Trời đâu dụng phép linh,
Chỉ dùng đạo đức mặc tình ghét ưa.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
Vậy! Ai là người muốn vượt bể trầm
luân để trở về nguồn chân hạnh phúc, phải nên thông suốt Giáo Lý của Tổ Thầy,
lo trau tâm luyện tánh, không nên ham linh ứng bên ngoài mà phải thấu triệt yếu
tố căn bản. Điều cần yếu là phải làm hết các việc từ thiện, tránh tất cả những
điều độc ác, quyết rửa tấm lòng cho trong sạch thì nhứt định sẽ kết quả dễ
dàng.
Mẩu chuyện thứ 17
TU TIẾN CHỚ TU LÙI
Lúc Đức Thầy
ở Saigòn có hai bà Huỳnh thị Cưởng và em thứ tư là Huỳnh thị Lịnh ở Tòng Sơn.
Sau khi được quy y với Đức Thầy, hai bà về nhà cố gắng lo tu thân hành thiện.
Hằng ngày thường xem Sấm Giảng của Đức Thầy là một quyển kinh nhựt tụng, khi
đọc đến câu:
Chay bốn bữa
ấy là quy tắc,
Của kẻ Khùng
chỉ dắt chúng sanh.
(Quyển 4
Giác Mê Tâm kệ)
Thì hai bà
bàn tán với nhau. Bà Hai nói với bà Tư:
– Dì Tư à!
Thầy bảo “Chay bốn bữa ấy là quy tắc”, mà mình ăn sáu ngày, lại ăn thêm mỗi năm
ba tháng nữa, sợ e trái lời Thầy có lỗi.
Bà tư nói:
– À! Tôi
cũng nghĩ như vậy, nhưng từ khi chưa quy y mình ăn theo truyền thống của cha mẹ
theo Thiền Lâm, bây giờ đã quy y với Đức Thầy thì phải ăn lại bốn ngày, chứ ăn
dư sợ có lỗi quá chị.
Hai bà ngẫm
nghĩ rồi nói:
– Muốn biết
rõ hơn, chị em mình nên đi lên Sài gòn, trước thăm Đức Thầy, sau nhờ Thầy dạy
cho mình biết, coi nên để y hay sửa lại.
Bàn tán
xong, vài ngày sau hai bà đi đến Sai gòn. Khi ra mắt Đức Thầy, bà Tư lẹ miệng
bạch:
– Bạch Thầy,
chị em con lên thăm Thầy và nhờ Thầy dạy cho chúng con biết một việc. Nguyên
trước kia chưa quy y với Thầy, chị em con ăn chay theo Thiền Lâm, một tháng sáu
ngày, với ba tháng Tam Nguơn. Nay Thầy dạy ăn bốn ngày, vậy bây giờ chúng con
ăn bớt lại hay là ăn luôn, nhờ Thầy chỉ dạy.
Nét mặt từ
bi, Đức Thầy mĩm cười bảo:
– Thuở nhỏ
cô đi học lớp mấy trước nhứt?
– Dạ Bạch
Thầy, đầu tiên con học lớp Năm.
Đức Thầy
hỏi:
Rồi năm sau
cô học lớp mấy?
Bà Tư bạch
Thầy:
– Năm sau
con học lớp Tư.
Đức Thầy
dạy:
– Ờ! Mới thì
học lớp Năm, sau lớp Tư, rồi đến lớp Ba, Nhì, Nhứt. Nên nhớ là càng học càng
lên, chớ không ai học xuống bao giờ. Sự tu cũng vậy, các cô ăn mỗi tháng sáu
ngày, một năm ba tháng là tốt lắm, cớ sao đổi ăn bớt lại? Sở dĩ Thầy dạy chay
bốn bữa đó là nguyên tắc đầu tiên của người sơ học, phải tùy trình độ của họ mà
cho họ tập sự theo điều kiện tối thiểu. Rồi khi trình độ giác ngộ khá thêm sẽ
từ từ tiến, chớ chẳng lẽ ở một chỗ hoài sao? Nên nhớ tu là phải tu lên chớ đừng
tu xuống nhé!
Thuật theo
lời của cô tu sĩ Lý Mỹ Phước, con gái bà hai Huỳnh thị Cưởng.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Các đấng cứu
thế bao giờ cũng tùy duyên hóa độ, cũng như đấng cha lành lúc nào cũng phải
biết rõ ố tật của con thơ. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày xưa khi hóa độ
đệ tử, trước tiên Ngài cũng dạy cho hàng đệ tử tại gia ăn chay mỗi tháng có hai
ngày là mùng Một và ngày Rằm. Khi trình độ giác ngộ của họ tiến hóa, thì lòng
từ bi cũng theo đó mà phát sinh và từ từ ăn sáu hoặc mười ngày, hoặc trường
chay. Đó là diệu dụng của bậc Đại Giác thường hành tới phương diện giác tha về
điểm này.
Một hôm ông
Cò Tàu Hảo trong câu chuyện đàm luận đạo đức vói Đức Thầy, ông nói:
– Tôi thấy
Pháp môn của Ngài dạy tu giải thoát, còn bên Tam Kỳ người ta dạy tu Tiên nhưng
ăn chay trường rất nhiều, còn Ngày dạy có bốn ngày sao giải thoát được?
Đức Thầy trả
lời:
– Mình là
người Đạo Phật rồi. Sở dĩ tôi dạy tín đồ tôi ăn chay bốn ngày đó là quy tắc,
tối thiểu là bốn ngày, rồi tự họ nhận thức cho rõ ràng sẽ tiến lên chứng bốn
bực Thinh Văn, Viên Giác, Bồ Tát, Phật, vô số tính đếm. Còn nếu tôi bắt người
ta ăn chay trường thì người ta làm không nỗi vì họ chưa nhận thức rõ từ chỗ bốn
bữa, rồi họ nhận thức được từ từ tiến lên, Cái đó mới là kết quả, còn bắt buộc
sẽ không có kết quả ông ạ!
Qua câu
chuyện trên, ta thấy Đức thầy cũng như Đức Phật bao giờ cũng tùy duyên hóa độ.
Cũng như phương pháp tập bơi lội của đứa trẻ, khi nó chưa biết lội, nó cảm thấy
sợ nước lắm, nên mẹ phải dùng phù phao và theo sát bên nó, đôi khi nó còn không
chịu lội nữa. Nhưng đến lúc lội giỏi thì nó thấy ham thích, dù không được mẹ
bảo, chúng vẫn đòi tắm bơi lội.
Chúng ta có
phúc duyên được gặp chân lý siêu mầu của Thầy Tổ, nên cố gắng tu tiến chớ tu
lùi.
Mẩu chuyện thứ 18
BÀI TÀ HIỂN CHÁNH
Ngày 18
tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), Đức Thầy khai Đạo tại Hòa Hảo. Lúc ấy Tôi (Nguyễn
Hữu Hạnh) chưa biết gia đình của Đức Ông và cũng chưa biết Đức Thầy.
Gia quyến
tôi trước kia thọ pháp với một ông Sư tên Hai Cung ở Mỹ Luông cũng căn gốc của
Đức Phật Thầy và Đức Cố Quản.
Bỗng nhiên
một hôm Đức Thầy gởi cho ông Sư Cung hai quyển Giảng, quyển Nhứt và quyển Nhì.
Ngày Chín tháng Tư năm Kỷ Mão người anh tôi có bịnh, rước ông Hai Cung đến nhà.
Ông mang theo hai quyển Giảng Đức Thầy gởi cho ông. Nhơn lúc trị bịnh cho anh
tôi, tôi đem ra đọc và giải nghĩa cho ông nghe. Tôi đọc xong hai quyển Giảng,
nhận xét chơn lý, tâm hồn tôi vừa phục, vừa kính mến Đức Thầy và nghĩ rằng: Đức
Phật Thầy Tây An tái sanh. Liền khi ấy, đêm mùng Chín tháng Mười một, gặp dịp
may có người ở xóm đem vợ đến Đức Thầy trị bịnh, tôi liền quá giang đến Tổ
Đình, lúc bấy giờ sáng ngày mười một tháng mười một, khi đến Thầy đang Thuyết
Pháp quyển Giảng thứ Tư. Thầy ngừng lại hỏi tôi:
– Mới qua Hương Quản!
Và Đức Thầy nói luôn những chuyện
ông Sư Cung, thầy trước của tôi, làm cho tôi sửng sốt. Tôi nhận Thầy là một
Đấng Tiên Tri. Liền đó tôi xin Thầy được chép quyển Tư tức quyển Giác Mê Tâm
Kệ. Khi đang
chép, Thầy tới lui coi tôi chép và Thầy dặn chép cho thật kỹ từ nét, từ dấu,
đừng để trật dấu, trật một chữ mất nghĩa một câu. Đây là lần đầu tiên tôi đặt
cả đức tin nơi lòng.
Qua ngày
mười hai tháng mười một, tôi trở về gia đình, trình với Cữu Huyền cùng thân mẫu
và yêu cầu ông Sư cho phép tôi được quy y với Đức Thầy. Được sự đồng ý của gia
đình và Sư Cung, tôi thọ giáo quy y Thầy. Đức Thầy biết cả hình thức gia đình
tôi, Thầy dạy rằng:
– Trước kia
Hương Quản còn mê, nay tỉnh ngộ nghe lời Thầy dạy. Bức Trần Điều mà Hương Quản
làm bàn thờ Chư Vị ở nhà để y như vậy, làm ngôi Tam Bảo thờ Phật. Bên hữu thờ
Bà độ mạng thì dẹp đi, bên tả thờ ông Táo cũng dẹp luôn.
Thầy giải nghĩa:
– Đúng là bà Cữu Thiên, bà chúa
Tiên, thời này mấy bà đã vào hàng Phật rồi. Vậy Hương Quản về kiếm bông hoa,
nước lã và cầu nguyện, vái như vầy: Hồi trước tôi còn mê nên thờ vậy, nay tôi
quy y theo Thầy, Thầy tôi dạy: Nếu thật là bà Cữu Thiên Huyền Nữ thì chúng minh
cho tôi thỉnh về ngôi Tam Bảo, thờ chung với Phật để tôi sùng bái. Còn ai ở đây
hưởng đồ cúng kiếng xin đi chỗ khác mà kiếm ăn, từ đây tôi không còn cúng kiếng
nữa. Trang ông Táo cũng vậy rồi dẹp.
Tôi vâng lời làm y theo lời Thầy
dạy, và từ đó tôi thường lui tới thăm viếng Đức Thầy. Đến ngày mười tháng mười
hai năm Kỷ Mão, tôi đến viếng Thầy lối bảy tám giờ sáng. Ngày đó làng Hòa Hảo
cúng cầu an tại đình Thần. Đức Thầy đứng ở mé sông trước Tổ Đình, bỗng đi thẳng
lên bước vào nhà, Thầy cười và nói:
– Thật tức cười các ông Hương Chức,
Hội Tề làng Hòa Hảo hết sức.
– Cười gì vậy Thầy Tư? Đức Ông hỏi.
Đức Thầy chỉ xuống đình và nói:
– Ông Cả không thấy sao? mười hai
Hương Chức Hội Tề xúm nhau đâm họng con heo, đem ngay trước bàn Thần, rồi ráp
nhau bận áo dài bịt khăn đóng lạy con heo mà đền tội sát sanh chưa xong, chứ
Thần nào chứng mà ăn.
Lúc đó tôi có đứa con thứ ba năm đó
đúng 12 tuổi. Tôi ký bán cho ông Táo một con heo, đúng mười hai tuổi sẽ cúng.
Tôi đã nuôi sẵn một con heo, định đến ngày hai mươi tháng Chạp năm Mẹo đúng lời
vái sẽ cúng trả lễ. Tôi đem chuyện ấy bạch với Thầy, Thầy cười mà nói rằng:
– Phật Táo Ngài làm việc với Đức
Ngọc Đế chớ không có ở dưới trần nuôi con cho chúng sanh đặng ăn thịt heo.
Hương Quản hãy bán con heo đó đặng chi độ trong gia đình và tránh tội sát sanh.
Nếu ai đòi thì nói Thầy không cho cúng, Thầy lãnh cho.
Và Thầy dạy thêm:
– Không nên cúng hạn, dưng căn đổ
đốt, thôi nôi, đầy tháng gì hết, chỉ cúng Cửu Huyền Thất Tổ mà thôi.
Nhờ ơn đức oai linh của Tổ Thầy, gia
đình tôi từ lúc theo Thầy học Đạo cho đến nay 30 năm khỏi tốn hao cúng kiếng
chè xôi, và gia quyến cũng không bịnh hoạn ốm đau chi cả. Từ đó cứ mười bữa nửa
tháng là tôi đến viếng thăm Thầy. Tôi có hỏi thêm nhiều chi tiết về ăn chay.
Thầy dạy:
– Ăn chay bốn ngày, còn ăn sáu ngày
hoặc mười ngày cũng được. Thầy dạy bốn ngày là những người chưa từng ăn chay
lạt, nên Thầy dạy bốn ngày cho hạng người ấy để tập ăn, còn ai dùng nhiều được
thì tốt.
Về việc niệm Phật tôi bạch với Thầy
được Thầy dạy:
– Chữ Lục Tự trì tâm bất viễn.
– Khi đi tiểu, ở trần có niệm được
chăng?
Đức Thầy cười và nói rằng:
– Hương Quản đi tiểu, đi cầu vẫn
niệm được. Đó là Hương Quản tưởng Phật chớ không phải Hương Quản rủ Phật lại mà
lỗi. Ngoại trừ khi gần gũi vợ chồng niệm không được.
Thuật theo lời ông Huỳnh Hữu Hạnh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đức Thầy dạy ông Huỳnh Hữu Hạnh tức
Hương Quản Chiến nên dẹp sự thờ cúng lễ mễ theo lối dị đoan, mà cũng là lời
khuyến cáo chung của hàng môn đệ. Hay nói một cách khác là một tiếng chuông
đánh thức kẻ mê mờ chưa hiểu rõ lý chơn. Bởi vì đấng vô hình chơn chánh thì
không ăn của hối. Kẻ tà thì ta không nên phượng thờ mà chúng ăn quen sẽ rước
họa cho gia đình ta. Thế nên cúng kiếng không thể mở mang trí tuệ và khó thoát
khỏi lưới ma. Ta hãy nghe lời từ huấn của Đức Tôn Sư:
– Còn hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm
hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
(Lời Khuyên Bổn Đạo)
Mẩu chuyện thứ 19
TRÁI BÍ ĐAO
Năm Kỷ Mão (1939), tại cù lao Ba, xã
Vĩnh Trường, quận An Phú, Châu Đốc, có một tín đồ Cao Đài tên là Hai Tạo. Ông
có người vợ tên là Nguơn, thọ bịnh rất nặng, đã điều trị nhiều thầy mà không
thuyên giảm, cả Bác sĩ cũng chạy luôn, lúc ấy cô Năm Công là người ở cùng xóm,
mới chỉ cho ông biết rằng ở Hòa Hảo có ông Tư trị bịnh hay lắm, nên chở bà Hai
xuống đó may ra đặng mạnh chăng?
Nghe lời Năm Công, ông Tạo cùng con
gái là cô Thêu và bà Thái thị Quy tự là Hai Giáo, là cháu gọi Hai Tạo bằng chú,
chở bà Hai Tạo ra đi. Khi đến Tổ Đình, ông Tạo liền lên ra mắt và nhờ Thầy cứu
độ vợ ông.
Đức Thầy bảo ông xuống sông múc xuôi
theo giòng nước cho bịnh nhơn uống. Rồi Đức Thầy buộc dây chuối cả tay lẫn chơn
cho người bịnh thì bịnh nhơn được thuyên giảm đôi phần. Ngài bảo thêm:
– Nếu muốn bệnh nhơn mau hết thì hãy
đem ba món đồ hiện có nơi đây liệng bỏ xuống sông thì bịnh sẽ hoàn toàn dứt
hẳn.
Lúc ấy Đức Thầy nhìn ngay cô Thêu vì
cô ấy có đeo ba món đồ là: Một sợi dây chuyền, một chiếc đồng hồ và một cái
khâu thảy đều bằng đồng cả, song thời ấy rất có giá trị. Vì thấy cô Thêu tiếc
của, còn mãi chần chờ nên bà Hai Giáo khuyên cô nên vì chữ hiếu mà làm cho mẹ
sớm bình phục. Cô Thêu liền mở ba món đồ ném xuống sông.
Khi ra về Đức Thầy bảo thêm:
– Cần một trái bí đao, một ít đường
phèn, nước mưa nấu cho bịnh nhân uống sẽ mau bình phục.
Trên đường về từ sông Tiền tới sông
Hậu, vượt qua nước xoáy Vàm Nao hướng Châu Đốc chừng vài mươi thước, bà Hai bơi
mũi, trông thấy trái bí đao trôi trên mặt nước liền vớt, nhưng bị trợt đi, cô
Thêu vớt được và để sau chót khoang xuồng. Khi đến nhà mọi người phân chia công
việc, kẻ kiếm nước mưa, người kiếm đường phèn, còn cô Thêu lo xẻ gọt trái bí
đao. Khi xẻ trái bí đao ra, cô Thêu xanh mặt, vì ba món đồ cô đã liệng xuống
sông Hòa Hảo nay lại nằm trong ruột trái bí đao. Lúc ấy mọi người nghe chuyện
đều ngạc nhiên kính phục sự huyền diệu của Đức Thầy, còn bịnh nhơn sau khi đã
uống thuốc xong, ngủ một giấc, khi tỉnh dậy thì trong mình bình phục hoàn toàn.
Nhờ cảm kích ơn đức của Đức Thầy đã
cứu bịnh và khâm phục diệu dụng thần thông cùng lời Thuyết Pháp vi diệu thậm
thâm của Đức Thầy, nên bà Hai Giáo âm thầm phát nguyện quy y theo Phật Giáo Hòa
Hảo. Sau đó bà có thỉnh được quyển Sám Giảng của Đức Thầy nên bà hoan hỉ đem
giới thiệu cho chú của bà là ông Hai, vốn sẵn lòng cảm kính nên khi đọc qua Sám
Giảng cả gia đình ông Tạo đều công nhận Đức Thầy là một vị Phật sống tái thế.
Do đó cả gia đình ông và một số thân thuộc khác đồng nguyện quy y theo Phật
Giáo Hòa Hảo cả hình thức lẫn tinh thần.
Mẩu chuyện này do bà Hai Giáo là
người trong cuộc kể lại. Lúc trước bà ở cù lao Ba, hiện nay bà ngụ tại ấp Long
Châu Một, xã Thạnh Mỹ Tây.
PHẦN NHẬN XÉT:
Câu chuyện này cũng như nhiều câu
chuyện khác, mục đích chính của Đức Thầy là dạy đạo để cứu đời. Nhưng đối với
kẻ ít căn lành, Ngài cũng phải dùng phép Nhứt Quán Lợi Hành để độ họ, chớ không
dùng huyền diệu của Tiên gia mà độ bịnh thì họ sẽ không có dịp cảm kích đức ân,
cũng đâu có dịp được thấm nhuần pháp vũ,
Vợ ông Tạo được mạnh tuy là quý,
nhưng đâu bằng cái quý của người đã gặp Phật Pháp và phát nguyện quy y tu tập.
Cứu bịnh chỉ là giải cái khổ nhứt thời, còn tu hành thì mới giải được cái khổ
triền miên. Đức Thầy đã ra đời như vầng thái dương rọi tan sương mù, dù đối với
kẻ độn căn hay lợi trí đều được nhuần gội đức ân.
Thật phúc duyên thay cho những ai là
người sanh vào thời mạt hạ mà được gặp giáo pháp của Tổ Thầy.
Mẩu chuyện thứ 20
THỂ HIỆN TỪ BI
Hồi Đức Thầy còn ở Sài gòn, ông Năm
Lửa tức Trần văn Soái thường gần gũi Đức Thầy, ông lo giũ mùng dọn chiếu để tạo
công đức. Bữa nọ ông Năm vạch ra trong cái gối tay bèo của Đức Thầy nằm, thấy
ba con rệp cắn máu no tròn. Ông đem ra giết hết ba con. Tay vừa giết miệng ông
vừa nói:
– Cắn, cắn, cắn.
Tối Đức Thầy về, vừa nằm xuống thì
Ngài liền ngồi dậy và bảo:
– Ông Năm, ông Lửa đâu?
Ông Lửa dạ và đứng khoanh tay, Thầy
mới tiếp:
– Con rệp nó cắn tôi, chớ căn ông
sao mà ông giết nó?
Lúc đó ông Năm không nói gì. Qua bữa
sau, khi ông giũ mùng cho Đức Thầy cũng thấy ba con rệp cắn no tròn như ngày
hôm qua. Lúc bây giờ ông không giết như lần trước nữa. Ông mới nghĩ trong tâm
rằng: Chắc mấy người trong nhà mét với Thầy. Nghĩ xong ông mới lấy cái chung
bắt ba con rệp bỏ vào, bịt miệng lại và rình coi không có ai hay mới bỏ ra đồng
phơi nắng. Sau đó Đức Thầy về, tối lại mới vừa nằm xuống thì Ngài cũng liền
ngồi dậy và kêu:
– Ông Lửa!
Ông Lửa chạy lại khoanh tay:
– Bạch Thầy kêu con chi?
– Đã tôi nói với ông là con rệp nó
cắn tôi, chớ cắn ông sao mà ông giết người ta hoài vậy. Lần trước ông giết
người ta một cái chết tốt còn đỡ, lần này ông đem phơi nắng. Thật tội nghiệp
cho chúng quá.
Đức Thầy nói vậy rồi thôi cũng bỏ
qua. Đến ngày sau, chiều lại ông Năm Lửa giũ mùng như thường bữa. Hôm sau cũng
gặp ba con rệp máu no tròn như hai bữa trước, ông lấy làm lạ vô cùng, ông mới
nói:
– Được rồi, bữa nay tao cho mày cắn
nghen.
Ông nói vừa dứt lời thì ông há miệng
ra bỏ ba con rệp vào trong miệng nuốt tuốt và nói:
– Mầy vô trong bụng tao cắn đi!
Tối lại cũng y như hai lần trước,
Đức Thầy vừa nằm xuống thì ngồi dậy mà kêu ông Năm Lửa:
– Ông Năm Lửa đâu ra biểu coi.
Ông Năm Lửa ra Đức Thầy mới nói:
– Chà! Lần trước thì giết, lần kế
thì phơi nắng, rồi bấy giờ ông nuốt luôn. Ông uống lần thuốc này mạnh dữ à!
Lần sau chót Đức Thầy lại vui chớ
không rầy như hai lần trước, vì thấy ông Lửa quá tôn kính Đức Thầy.
Thuật theo lời bà Ký Giỏi.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ai cũng biết ông Năm Lửa trước kia
là một tay ngang dọc lẫy lừng, bình sanh ông không hề khuất phục một ai. Ông
tên là Trần văn Soái, mà tánh quá nóng nảy nên người ta gọi thành danh là Năm
Lửa. Sau khi quy y với Đức Thầy, vì quá kính phục đức độ cao cả của Ngài, nên
nguyện theo bên cạnh Ngài và sớm hôm hầu hạ.
Tuy đã được Thầy chỉ dạy, không cho
sát giết mà mang nhiều tội lỗi và mất đức từ bi, nhưng bởi thương kính Thầy nên
ông nóng ruột ba con rệïp cắn Thầy mình. Tuy biết lòng thành kính của đệ tử như
vậy, nhưng Ngài vẫn rầy ông Năm Lửa, bởi vì:
“Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật
tánh”. Nghĩa là mỗi chúng sanh đều có tánh Phật, nên lúc nào Ngài cũng không
muốn chúng sanh giết hại lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại.
Có lần ở trong bưng biền vì thấy
muỗi cắn Đức Thầy quá nhiều mà Ngài chỉ đuổi chớ không đập. Anh em tín đồ thấy
thế, đợi đến lúc Thầy ngủ, các ông lén đập muỗi cho Ngài, thì Thầy quở và dạy:
– Ai biểu các ông làm vậy? Nó nhờ
máu người mà nó sống, ta nếu không cho thì đuổi đi, hơn nữa nó cũng có Phật
tánh, nó cùng ta không khác, nhưng sở dĩ nó chưa bằng là vì nghiệp còn nhiều.
Vậy lòng từ bi chúng ta sẵn có, cấm anh em chẳng nên sát hại chúng mà mang tội
lớn.
Cao quý thay lòng từ bi của bậc Đại Giác bao giờ
cũng ban tình thương của tâm từ và bình đẳng. Dù loài vật nhỏ nhưng vẫn thương
yêu, không nỡ sát hại. Chúng ta hôm nay nên cố gắng noi theo đức độ cao cả của
Ngài mà tế nhân độ vật để nuôi lớn từ tâm hầu có tăng cao công đức.
Đăng nhận xét