BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Thất Sơn Mầu Nhiệm (Phần 3 Hết)

THẤT SƠN MẦU NHIỆM PHẦN 3 Lược Sử Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hoà Hảo và nói về sự Mầu Nhiệm của Thất Sơn được các Vị trong phái Bửu Sơn Kỳ Hương nói lại



Mục lục

CHƯƠNG V Lược sử của Đức Huỳnh Giáo Chủ

I- Thân thế

Bậc vĩ-nhân ấy là ông HUỲNH-PHÚ-SỔ mà người đời gọi là ÔNG TƯ HÒA HẢO hay ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ, còn anh em tín-đồ thì tôn xưng là ĐỨC THẦY. Ngài sanh năm Kỷ-Mùi (1919) và là con trai của ĐỨC ÔNG HUỲNH-CÔNG-BỘ và ĐỨC BÀ LÊ-THỊ-NHẬM, gia-cư tại thôn Hòa-Hảo, gần Vàm-Nao lối 3 cây số ngàn.
Xưa kia, khi Đức Phật Thích-Ca giáng-sinh thì trước hết Ngài có quan-sát năm việc như dưới đây:
1. Quan sát cơ-duyên của chúng-sanh đã thuần thục hay chưa thuần-thục.
2. Quan-sát thời-kỳ đã đến hay chưa đến.
3. Quan-sát hết thảy trong các quốc-độ coi nước nào là trung tim cõi Ta-bà nầy.
4. Quan-sát chủng tộc nào quí-thạnh hơn hết.
5. Quan-sát nhơn-duyên trong đời quá-khứ coi người nào chơn-chánh đáng làm cha mẹ.
Ngày nay, muốn hiểu rõ Đức Thầy, hãy xem những điều Ngài đã quan–sát như dưới đây: 1. Nghiệp-quả của chúng-sanh đã mùi rồi, vì Đức Thầy có nói: “Đến ngày trả quả ầm-ỳ biết bao”, 2. Trong bài “Lịch-sử của Thầy” Đức Thầy có câu: “Vì thời-cơ đã đến, lý Thiện-Đinh hoạch-định…”, 3. Trong bài “Diệu-pháp quang-minh” Đức Thầy viết: “Cõi Trung-Ương luân-chuyển phương Nam”, 4. Trong bài “Nang thơ cẩm tú” Đức Thầy có câu: “Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp”, 5. Xưa kia vua Tịnh-Phạn vương và Hoàng-hậu Ma-Da đầy lòng nhân-đức mới sanh được Đức Thích Ca thì ngày nay Đức Ông và Đức Bà hẳn cũng phải là bậc nhân từ đức-hạnh mới sanh được Đức Thầy. Vả lại, nếu không thế thì sao toàn-thể anh em tín-đồ và người ngoài tôn-giáo lại tôn xưng là Đức Ông, Đức Bà?
——————
I. XIN LƯU Ý : Đây chỉ là LƯỢC-SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển “TIỂU SỬ của ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ” đầy đủ hơn.

II- Từ lúc bé thơ đến tuổi trưởng thành

Sau khi đậu cấp-bằng tiểu học (Certificat d’études élémentaires) tại Tân-Châu, Ngài đã phải thôi học trở về nhà giúp-đỡ mẹ cha trong công việc cày bừa ruộng rẫy.
Về đức-tính thì Ngài có chỗ hơn người trong mọi trường-hợp. Từ lúc bé thơ đến lúc vị-thành niên, Ngài không bao giờ thích đờn-địch ca-xang, cải-lương, hát-bộ. Ngài ít trửng-giỡn nói cười, thường tìm nơi thanh vắng để mặc tưởng trầm tư.
Khi gần đến tuổi thành-niên, Ngài rất hổ-thẹn và phản-đối ngay khi nghe nói chuyện kiếm người nội-trợ cho Ngài.
Lại nữa đã từ lâu,nhiều cơn sốt-rét dữ-dội làm cho Ngài ẻo-lả xanh-xao, mất ăn mất ngủ. Thỉnh-thoảng bịnh nầy trở lại với chứng di-tinh làm cho thân hình Ngài trở nên mảnh-khảnh tiều-tụy, da mặt mét xanh.
Đức Ông và Đức Bà đã hết phương chạy chữa. Nghe lương-y, phù-thủy nào hay cũng đến, biết đạo nhân, đạo-sĩ nào giỏi cũng tìm. Trong số những ông thầy ấy có ông Lê-hồng-Nhựt tục gọi Thầy Xom hay Đạo Xom ở núi Trà-Sư, một tu-sĩ pháp thuật cao-cường và ông Trương-anh-Tuấn tức Ba Ngoan, một tay lão-luyện về khoa bùa-ngải của Thổ và Xiêm, đã từng để dấu chân trên núi Tà-Lơn và các núi ở Cao Miên giáp ranh Xiêm-quốc. Nhưng hai ông nầy đều đành thúc thủ khi gặp trường-hợp của Đức Thầy.
Thế là trong mấy năm trường (từ 15 đến 21 tuổi) Đức Thầy mắc một chứng bịnh trầm-kha mà không lương-y ở vườn, ở chợ hay một ông tu sĩ ở núi, ở am trị được. Thì ra đó là những cơ hội cho các đấng thiêng-liêng dọn xác Đức Thầy để cho Ngài tiếp những-điển-quang mạnh-mẽ tinh-khiết sau nầy. Ngài có nói với một tín-đồ trọng yếu ở Bạc-Liêu câu nầy: “Ơn trên” làm như mình súc ve cho sạch vậy !

III- Đức Thầy dạy Đạo độ Đời

Thế rồi ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão (1939), ngày đáng ghi trong lịch-sử cách-mạng nước nhà một cuộc lễ đã cử-hành tại nhà Đức Ông để cho Đức Thầy “đền Linh-Khứu Sơn-Trung thọ mạng”.
Lúc ấy lối 6 giờ chiều. Đức Thầy sắp hai hàng ghế bên bàn thông-thiên. Xong rồi Đức thầy mời Đức Ông ra chứng-kiến cho Ngài thắp nhang mời thỉnh các đấng Thiêng-Liêng về chứng cho Ngài “chịu lịnh Tây-Phương thọ ký “. Đoạn Ngài lạy bốn hướng. Sau rốt, Ngài day qua hướng Tây lạy 4 lạy.
Thuở ấy, Đức Thầy được 21 tuổi. Mặc dầu còn bịnh, Ngài vẫn đẹp-đẽ khôi-ngô và trở thành một bực thông-minh đĩnh-ngộ, văn võ song toàn, quán thông mọi việc. Ta có thể nói rằng Ngài là một bực “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung quán nhân sự”. Kể từ ngày ấy, Đức Thầy khởi sự chữa bịnh, thuyết pháp và ra kệ giảng. 
A. CHỮA BỊNH
Nhiều bịnh dị kỳ, nhiều bịnh tà, bịnh điên hoặc bịnh nan y đã được Đức Thầy chữa lành hẵn, chẵng khác nào Đức chúa Jesus hay Đức Thầy Tây An thuở xưa. Vì vậy mà số người đến xin trị bịnh càng ngày càng đông. Kẻ ở xa xôi như Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bạc Liê, Sóc Trăng, cũng như những người ở mấy tỉnh gần (Long xuyên, Sa Đéc, Rạch Giá, Cần Thơ, Vĩnh Long), đua nhau đi đến nhờ Ngài trị bịnh. Nhà của Đức Ông và của Đức Bà không bao giờ ngớt khách.
Phương pháp của Đức Thầy dùng để trị bệnh không có chi phiền phức. Tùy theo người bịnh, Ngài cho uống nước lã, cho phép huệ linh bằng dây chuối hoặc bằng chỉ xe nhiều tao gọi là “niệt”, cho bùa uống bằng giấy nhựt báo hay giấy vàng, cho uống thuốc thang bằng vài thứ lá cây (lá xoài, lá ổi, lá mít, lá bưởi, vân vân… hoặc vài thứ bông (bông trang, bông vạn thọ) hay vài thứ rễ (rễ chanh, rễ chòi mòi).
Điều đáng để ý là mỗi khi trị bịnh cho người nào là Ngài khuyên họ nên niệm Phật tưởng Trời và van vái Thần, Thánh, tin tưởng các đấng Thiêng Liêng , bởi vì ” Thành lòng nước lã nên hồ, hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban”.
Số người được Đức thầy chữa bịnh kể sao cho xiết! Chỉ nhắc lại vài trường hợp đặc biệt dưới đây cũng đủ làm cho giới y học suy nghĩ nhiều:
 
1- Chữa bịnh trùng ở Hưng Nhơn.
Ai ở Hưng Nhơn, Hòa Hảo và Phú An cũng biết rằng gia quyến ông Hương chủ Hùng ở làng Hưng Nhơn rất lấy làm khổ tâm vô phước bởi 31 người trong thân tộc đều chết yểu vì bệnh “Trùng”. Bịnh nầy do hồn ma về nhập xác bà con phá quấy, làm đau ốm để cướp hồn! Thầy Sành ở làng Hiệp Xương và ông Đức Minh ở núi Cấm cũng phái bó tay chịu là bất lực.
Những Pháp sư nào cao tay ấn mà lại đây chữa bịnh thì sẽ thấy. Thay vì sợ sệt trước mặt Pháp sư, người bịnh “lên” liền. Pháp sư nào cả gan dám đụng tới cái trang thờ bà Phạm Thị Hiền là “chúa trùng” của gia quyến này thì lập tức bị ngã lăn, chết giấc!
Muốn làm chấn động dư luận mấy vùng lân cận, Đức Thầy nhứt định chữa cho người con gái của ông Hùng hiện đang mắc chứng bịnh ác nghiệt ấy. Ngài bèn lấy vành thúng vấn vải tây đỏ ở ngoài, làm một cái “càn khôn quyện” bảo ông Ngô Ngọc Chơn đem tròng vào đầu người bịnh (lúc đó đã được đem ra nhà bà Hai Đào ở Hòa-Hảo). Tức thì cô gái nầy ríu-ríu đi ngay lại nhà Đức Ông.
Thuở ấy, Đức Ông thấy có nhiều sự thượng đồng cỡi xác nên chưa hoàn-toàn tin-tưởng vào Đức Thầy. Vì vậy Đức Ông rầu buồn lắm và không bằng lòng chứa bịnh tại nhà. Đức Thầy phải gởi bịnh-nhơn tại nhà bà Hai Đào, rồi mỗi bữa người bịnh đi lại cho Đức Thầy chữa.
Khi cô gái nầy đến, Đức Thầy ra sân giậm chơn kêu: “Mấy ông lục ở đâu ?”. Một chập sau, như được tin vô-tuyến truyền-thanh, mấy phần xác ông lục ở các vùng lân-cận (cách ba, bốn trăm cây số) hối-hả chạy đến. Đức Thầy quất roi điều binh khiển tướng sai mấy ông lục vô chữa bịnh. Ngài lấy dây chuối làm bùa đeo và lấy nước lã cho bịnh nhơn uống.
Thế là cô gái nầy được lành mạnh.
Cô ở tại Hòa-Hảo ba bữa rồi lại nhà cảm tạ và từ giã Đức Thầy. Nhưng, vừa tới cửa, cô ta “lên” lại. Thì ra, trong lúc đi ngang qua một vũng nước, cô ấy ngó vào, thành ra vì tinh thần còn yếu nên bị “Đàng-Bố “ nhập vào khuấy phá !
Đến đây chúng tôi xin mở dấu ngoặc để kể lại chuyện Đàng-Bố mà Đức Thầy đã thuật cho nghe.
Đàng-Bố là một trong những tướng-sĩ nhà Minh bị quân nhà Thanh uy-hiếp nên phải trốn sanh Việt-Nam, đậu thuyền tại Đà-Nẵng. Vua ta không bằng lòng cho trú-ngụ tại đó và ra lịnh cho xuôi thuyền vào vùng Phú-quốc. Đàng-Bố, sau khi được yên thân bèn trở về Tàu dắt bè lũ của hắn qua để toan mưu xâm-chiếm Việt-Nam. Chàng ta bị bắt và đem ra giết. Vốn là một phù-thủy đại tài, Đàng-Bố bèn dùng pháp-thuật của mình để tự-vệ nên triều-đình giết y không được. Sau có người biết chuyện, mách rằng nên đem y xuống nước mới xử trảm được. Chàng ta vong mạng bẳng cách xử ấy. Tuy vậy, hồn còn phẩn-uất nên vẫn theo phá-khuấy, làm dật-dờ, đau-ốm, xanh-xao những phụ-nữ yếu tinh-thần đi tắm hoặc giặt quần-áo dưới sông.
Bây giờ chúng tôi xin đóng dấu ngoặc lại để nói tiếp vụ con gái Hương-chủ Hùng bị Đàng-Bố nhập.
Thấy vậy, Đức Thầy bèn kêu ông Ngô-ngọc-Chơn tục gọi “ Đạo Năm “ lại dể sai “ tướng núi “ trị bịnh nầy. “ Sơn-thần độc tướng” nghe lịnh Đức Thầy liền “vào” chữa bịnh cho cô gái ấy bằng các đánh võ với Đàng-Bố. Đàng-Bố chạy đi mất. Nhưng sau khi đó, tay Chúa trùng Phạm-thị-Hiền lại kéo “binh âm” đến ! Đức Thầy phải ra sức với họ một hồi. Sau khi “binh gia” của Phạm-thị-Hiền rút mất, Đức Thầy đem linh phù bằng giấy vàng-bạc để trên trang thờ Phạm-thị-Hiền và trên bàn thông-thiên, bảo Phạm-thị-Hiền quy-y đầu Phật. Xong xuôi, Đức Thầy ra lịnh dẹp miễu Thổ-thần, đem trang-khánh tại nhà ông Hùng xuống đốt hết.
Thế rồi từ năm 1939 đến nay, cô gái nầy vẫn mạnh giỏi như thường. Trong thân-quyết ông Hùng mọi người đều quy-y đầu Phật và không còn ai đau bịnh trùng nữa. 
2. Chữa bịnh tê liệt, thổ tả
Danh tiếng Đức Thầy càng vang lừng thì bịnh-nhân càng đến nhiều. Bữa nọ, một người đau bịnh hết sức trầm-trọng (ngồi dậy không nổi, thổ-tả liên-miên) được chở lại. Đức Bà tỏ ý không vui vì sợ e Đức Thầy làm không xong. Vả lại ai mà chẳng nhờm gớm sự dơ-dáy ?
Đức Thầy bèn lên nhà trên, ra trước bàn Phật, nghiêm mình hét: ” Quan Thượng-Đằng Đại Thần ! Hết…! ” Ở dưới nhà dưới, người bịnh lồm-cồm ngồi dậy, riu-ríu đi xuống ghe, rồi lần lần dứt bịnh. 
3. Chữa bịnh ngoài da
Ông Tạ-quốc-Bửu, cựu Hương-cả làng Hòa-Bình (Bạc-Liêu) mắc không biết chứng bịnh gì mà phân nửa cái mặt nổi sần lên và lở như lác. Nhiều phương thuốc Đông, Tây đã được dùng mà không hết bịnh.
Lúc Đức Thầy ở tại nhà ông Hương-bộ Thạnh (làng Nhơn-Nghĩa, tỉnh Cần-Thơ) ông cả Bửu có đến viếng Ngài. Đức Thầy chỉ cho ông uống một ly nước lã. Vài ngày sau, mặt ông liền da như xưa. Cách một ít lâu, ông Ngô-phong-Điều (Hội-đồng Điều) ở Bạc-Liêu lên thăm Đức Thầy. Thấy ông, Đức Thầy liền hỏi: ” Ông cả Bửu đã lành bịnh rồi phải không ? “ 
4. Chữa bịnh dư ruột
Bà Chung-bá-Khánh, tín đồ ở Bạc-Liêu, đau bịnh dư ruột. Bác-sĩ Cao-triều-Lợi bảo phải lên Sài-Gòn lập tức đặng mổ.
Khi đến Sài-Gòn, bà nằm nhà thương Saint-Paul. Mấy vị Bác-sĩ ở đây đều công-nhận là bịnh dư ruột và phải mổ. Người ta tiêm thuốc cho gom mủ đặng bữa sau mổ.
Lúc ấy (1943) Đức Thầy ở Sài-Gòn hay được nên phái người vào thăm bà Khánh và gởi cho một trái cam, dặn rằng ăn hết trái cam nầy thì hết bịnh. Thần diệu thay ! Bữa sau cái quầng đỏ có gom mủ nơi bụng hôm qua tiêu mất ! Thế là bà khỏi bị mổ và lành mạnh như thường trong khi các vị bác-sĩ bóp trán nghĩ suy, băn-khoăn tự hỏi ! 
5. Chữa bịnh câm
Đức Thầy lại còn trị được bịnh câm mới là thần-kỳ chớ !
Số là lúc Đức Thầy còn ở Bình-Hòa (miền Đông), Ngài có làm cho một đứa trẻ gái hết câm. Đứa bé nầy (là cháu của ông chủ nhà mà Ngài tạm trú) đã bốn tuổi rồi mà nó không biết nói chuyện. Nó chỉ biết « ư, ư » mà thôi !
Muốn đền ơn ông chủ nhà, Đức Thầy nhứt định chữa bịnh cho nó. Bữa nọ, Ngài lấy roi dọa nó, chận đón nó. Sợ quá, nó chạy vô kẹt bồ lúa. Đức Thầy hét lớn làm cho nó hoảng-kinh la lên, và tiếng nói đầu tiên của nó là tiếng kêu “má”. Sau khi đó thì nó biết nói luôn. Nó biết kêu “máy bay” chỉ những phi-cơ của quân-đội Pháp bay ngang qua đó.
Mẹ đứa trẻ mừng vui chẳng xiết và nói: “Ông Tư giỏi quá !”
– Không phải ! Đức Thầy đáp lại. “Tại nó sợ tôi, và cũng tại thiếm không biết cách dạy nó “.
Ngoài ra những chứng bịnh trên đây, Đức Thầy còn dùng huyền-diệu để bỏ (cai) á-phiện và rượu cho những người ghiền hai độc-được nầy (người bịnh cũng chỉ van-vái Phật Trời và uống nước lã).
Về việc trị bịnh, Đức Thầy có cho biết rằng bây giờ trị bằng cách cho giấy vàng cũng chưa mấy gì thần hiệu. Ngày sau chỉ rảy nước vào mặt người bịnh là đủ và như thế mới kịp ! Độc-giả nên suy-nghiệm lời tiên tri nầy…
Đọc đến đây, chắc có người sẽ tự hỏi: Tại sao Đức Thầy không dùng toàn huyền-diệu của tiên-gia để trị bịnh trùng ở Hưng-Nhơn mà lại lập đàn bố trận như một ông đạo-sĩ (thầy pháp) hay một nhà phù-thủy?
Sở dĩ Ngài phải làm như thế là vì có vậy mới kích-thích được tánh háo-kỳ của quần-chúng, thường “trông cho lâm bịnh dị-kỳ nó coi “, mới lôi cuốn họ tới cho đông để tùy duyên mà hóa độ. Vả lại, có làm như thế mới giúp sức cho sự tin-tưởng của người ít thiện-căn và mới làm cho nhà chức-trách Pháp thời ấy lầm tưởng Đức Thầy chỉ là một đạo-sĩ hoặc một thầy phù- thủy mà không vội làm khó dễ cho Ngài. Chớ thật ra, nếu người đau hay kẻ nuôi bịnh (trường- hợp cha mẹ nuôi con đau ốm) có đủ đức tin nơi sự ủng- hộ của các đấng Thiêng-Liêng thì họ chỉ tự lấy giấy vàng uống với nước lã sau khi khấn vái là được rồi (Có mang bịnh tật vào thân, giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô).
Thế mà có nhiều người không chịu hiểu như vậy. Họ cố nài-nỉ Đức Thầy mó tay vào những mảnh giấy vàng đã rọc sẵn hoặc “chứng” vào mớ giấy vàng nầy (bằng cách ngó sơ qua) mới được. Một vài khi chúng tôi thấy Đức Thầy tỏ vẻ bức-rức vì có một số tín-đồ không hiểu ý-nghĩa lời dặn-bảo của Ngài.
Chính Ngài đã nói với chúng tôi rằng có hai hạng người đau: người thì đau căn, kẻ lại đau quả. Đau căn thì chữa được chớ đau quả thì không có ông thầy nào trị nổi khi quả báo đã mùi (karma mur).

B. THUYẾT PHÁP

Sau ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mảo, Đức Thầy nói nhiều hơn xưa. Gặp ai là Ngài nói nấy. Ngài nói về sắc diện, tánh-tình và tương-lai. Sau rốt Ngài khuyên người làm lành lánh dữ, trau sửa tâm lành, kỉnh-tin Trời Phật.
Ngài nói thật trúng, thật hay. Rất khiêm-tốn, rất bình-dân, Ngài không bao giờ chịu phân-biệt kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn. Đãi-ngộ họ như nhau, Ngài không hề khuất-phục kẻ cường quyền nào và bỉ-bạc một người khốn khó nào…Vì vậy nên thuở ấy người ta kêu Ngài là “Ông tướng bình-dân”.
Nhiều người có xu-hướng cộng-sản lại chất-vấn Ngài. Họ lấy làm khâm-phục vì Đức Thầy nói thấu ” ruột gan ” họ, và nói đến những việc ở bên cái xứ xa-xôi kia, ở tại cái xứ phát-huy những tư-tưởng khuynh tả ấy…
Thế là trong số bá tánh thập phương tới viếng Đức Thầy, ngoài những người xin thuốc, xin bùa, xin trị bịnh lại còn có nhiều người đến để nghe Ngài giảng-giải giáo-lý của Đức Thích-Ca mà Ngài có sứ-mạng truyền bá :
” Ta thừa vưng sắc-lịnh Thế-Tôn,
Xuống hạ-giới truyền khai Đạo-pháp “.
Nhiều khi Ngài phải thuyết-pháp cả ngày lẫn đêm. Thính-giả tựu họp để nghe đông vô số kể. Như thế cho đến ngày 12 tháng tư năm Canh-Thìn (1940) là ngày mà nhà đương-cuộc Pháp ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc. Ngôi nhà Đức Ông bỗng nhiên biến thành một ngôi chùa. Vì thế nên có lần Đức Thầy nói với Đức Ông đi lên quận xin phép đổi nó ra làm cái chùa, lấy danh-hiệu là ” Kim-Sơn tự “.
Với một giọng nói thanh-tao êm-dịu, khi bỗng lúc trầm, lưu-loát mà rõ-ràng, khi cao-siêu khi giản-dị, Ngài giảng-giải cho quần-chúng nghe giáo-lý nhà Phật và phương-pháp tu hành. Ngài thuyết-pháp không vấp không ngưng. Thật là : ” miệng nhích môi đầy văn tao nhã, hạ búi thần thơ đã đề khai “.
Một nhà viết báo ở Sài-thành (ông Hiền-Sỉ) nói về Đức Huỳnh Giáo-Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê-bình tài hùng-biện và khoa ngôn-ngữ của Ngài bằng câu « thao thao bất tuyệt » và cho rằng Ngài ” chiếm giải quán-quân về phương-diện diễn thuyết “. Nhà lãnh-tụ ” Nhóm Tranh-Đấu ” là Tạ-thu-Thâu chưa chắc có thể so-sánh với Đức Thầy về môn diễn-thuyết và nói chuyện trước công-chúng được !
Lại-nữa, lời văn của Đức Thầy còn có mãnh-lực hấp-dẫn quần-chúng một cách phi-thường nên thính-giả nhiều khi mủi lòng rơi lụy, liền phát bồ để tâm, quy-y đầu Phật.
Nhiều nho-sĩ văn-gia, nhiều trí-thức tân học đỗ cao (cử-nhơn, tấn-sĩ) đều bái phục Đức Thầy vì tài-ba, vì đức-hạnh. Thật Ngài là một bực thượng-trí anh tài, một bực « sinh nhi tri » vậy !
Trong số những tay cự-phách của làng nho hoặc những nhà quyền-quí thời Pháp thuộc đã đến đọ sức thử tài hoặc tìm hiểu sở năng sở kiến của Đức Thầy, chúng tôi thường nghe kể những vị dưới đây:
 
1. Thầy Ba Thận
Ông nầy ở làng Phú-Lâm (Tân-Châu) và là học trò của ông Tú-tài Thường (cựu học) ở làng Phú-Thuận (Tân-Châu). Ông có làm hai bài thơ mà ông tự cho là khéo-léo vừa ý lẫn văn, tính đến thử Đức Thầy. Khi ông vừa đến thì Đức Thầy đã biết ý-định của ông và trả lời ngay những điền mà ông muốn hỏi mặc dù ông chưa kịp xuất-trình hai bài thơ ấy cho Đức Thầy. 
2. Ông Lương-văn-Tốt tức Thầy bảy Tốt
Ông nầy ở làng Mỹ-Hội-Đông (Long-Xuyên). Lúc ấy, ông thường đến làm thi bằng Hán-văn với Đức Thầy. Bữa nọ, làm không kịp Đức Thầy và nột quá ông phải rút trọn một câu trong sách thuốc Thọ-Thế. Điểm mặt ông, Đức Thầy vừa cười vừa nói rằng: ” Ông hết rồi nên mới rút tới câu đó !”
Một hôm nọ, nhơn đọc bài ” Diệu pháp quang minh ” (của Đức Thầy) thấy câu ” Trần-Di ngủ say câu thành tựu ” ông bèn nói với Đức Thầy: ” Bạch Ngài, tôi e cho chữ thành tựu chưa có ai dùng. Phải chăng Ngài đã lầm-lộn ? ” Đức Thầy bảo ông về xem lại bộ ” Tứ Thơ ” sẽ thấy chữ thành tựu. Ông về tìm kiếm tở-mở nhưng không không thấy. Sau Đức Thầy có cho ông biết chữ thành tựu rút ở trong hàng chữ châu con nhứt nhứt thành tựu (thuộc đoạn nào, bài nào Ngài có chỉ rõ). 
3. Ông Huỳnh-Hiệp-Hòa
Ông Hòa ở làng Bình-Thủy (Long-Xuyên) và cũng là một bực đại-gia văn-chương. Ông có làm thơ dưới đây mà nếu chiết-tự sáu câu đầu, chúng ta sẽ thấy ông có ẩn-ý hỏi coi Đức Thầy có phải là Trạng-Trình, Cử Da, Đề-Thám chăng?
Đây là bài thi của ông Huỳnh-hiệp-Hòa:
Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương,
Khẩu tụng Văn-vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tùng nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
Thị vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn-chương.
Liền đó, Đức Thầy đáp họa như dưới đây:
Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp,
Phật-lý vi khai đại-hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn-lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.
Bài thơ của Đức Thầy đáp họa có hàm súc một cách khéo-léo danh hiệu của Ngài. 
4. Ông Nguyễn-Kỳ-Trân tức Chín Diệm
Ông nầy ở làng Định-Yên (Long-Xuyên), và là một bực túc nho đầy lòng ưu-ái giang-sơn. Thấy nước nhà đang bị nạn xâm lăng mà Đức Thầy lại đem mùi tôn-giáo khuyến dụ nhơn-sanh nên ông lấy làm hoang-mang khó hiểu. Ông mới làm bài thi dưới đây, đại ý nói với Đức Thầy như vầy: Giặc mạnh xâm-lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy chẳng biết Ngài vị Tiên chi xuống trần? Chứ ngày nay những bực như ông Trần-Hi-Di (Trần-Đoàn), ông Khương-Thượng Tử-Nha v.v…đều ẩn khuất tất cả nơi đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi (ám chỉ lá cờ tam sắc) ở cùng khắp đất nước. Nếu Ngài thật là bực anh-triết thì xin Ngài hãy đả nó một cây roi thần (1).
Cường khấu xâm-lăng kỷ thập niên,
Vị trí đại-đức giáng, hà tiên ?
Hi-Di ngũ quí kim an tại,
Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc-Nhãn sa-đà tàng Bắc-địa,
Liên-Mi chơn mạng ẩn Nam-thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ Tổ tiên (2)
—————–
(1). Phải chăng là cây roi của ông Tổ-Địch?
(2). Ông Nguyễn-Kỳ-Trân còn làm một bài nữa và Đức Thầy cũng có đáp họa đủ, nhưng ở đây chúng tôi chỉ chép bài thứ nhứt thôi.
—————– 
Đức Thầy mới lập tức đáp họa như dưới đây:
Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên,
Sơn-Trung hồi dả bí danh tiên.
Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Dị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.
Đại ý bài thơ nầy Đức Thầy trả lời từ câu bài thơ trên và có nói rõ danh-hiệu của Ngài. Trong hai câu chuyện kết, Ngài còn nói rằng: Thời-kỳ của minh-đế chưa tới, chớ khi ngày giờ đã đến thì chẳng những có một cây roi, mà sẽ có biết bao nhiêu cây… 
5. Ông Nguyễn-Văn Lễ ở Tân-Châu
Ông nầy là chủ-quận Tân-Châu thời ấy.
Khi ông vừa đến để nghe Đức Thầy thuyết-pháp thì Ngài chào và nói một cách thẳng-thắn rằng: ” Tôi chào đây là tôi kỉnh cái đức của song thân ông (Đức Thầy kêu ông quận bằng ông chớ không kêu bằng quan lớn như người khác) vì song-thân ông có tu nhơn tích đức nên nay ông mới được chức trọng quyền cao. Vậy ông nên lập công bồi đức nếu ông muốn hưởng phước được lâu dài, cũng như ông chỉ có 100 đồng bạc mà muốn đi nghe đến Saigon thì dọc đường phải lo sanh phương kiếm lợi mới có thể đi đến nơi đến chốn, chớ nếu không làm gì hết sợ e ghe vừa tới Chợ-Mới là tiền đã hết rồi ! “
Xin nói thêm rằng trước khi đến Hòa-Hảo nghe Đức Thầy thuyết-pháp, ông Chủ-quận có cho người đem xe hơi đến rước Đức Thầy lên Tân-Châu thuyết Đạo cho ông nghe. Gặp một ông thầy khác có lẽ người ta sẽ hãnh-diện tự-đắc vì có mấy khi được quan Chủ-quận mời rước bằng xe hơi. Nhưng Đức Thầy lại khác. Ngài từ nan (mặc dầu bà Chủ-quận đã là tín-đồ từ lâu rồi), nói rằng: ” Nếu ông quan đem xe hơi lại rước mà tôi đi thì tôi phải làm thế nào đối với những người đem ghe xuồng lại mời tôi? Tôi đâu có thể thiên-vị kẻ giàu mà phụ bạc kẽ nghèo !”. 
6. Ông Chủ-quận Chợ-Mới (Lê-tấn-Nầm)
Ông nầy cũng có phận sự đến Hòa-Hảo tìm hiểu về Đức Thầy.
Sau khi chào sơ ông Chủ-quận, Đức-Thầy ngồi dựa ngửa trên ghế cố ý làm cho ông khách bực-tức.
Ông quận Chợ-Mới làm vẻ bình-tĩnh họi Đức Thầy: ” Ông đã dạy bổn-đạo tu vô-vi mà tại sao còn bảo họ uống giấy vàng ? ” – Đức Thầy đáp bằng một câu vừa để trả lời câu hỏi vừa để nói ngay tâm-lý người đối thoại: ” Tại họ thiếu đức-tin ! “
Mà thật đấy, vì họ thiếu đức-tin nên phải dĩ huyễn độ chơn.
Sau khi ra về, ông quận Chợ-Mới gởi lên Thượng-cấp của ông một bản phúc-trình do đó Đức Thầy phải bị dời khỏi làng Hòa-Hảo, điều mà Đức Thầy mong ước vì:
Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn-lý tuyệt vời phổ thông.
Ngoài những bực trí thức muốn đến dò-xét học-lực và sở-kiến của Ngài, có nhiều nhà thân-hào hoặc nhiều người đã tu niệm từ lâu cũng đến coi Ngài là ai và có quyền-năng gì? Trong số những vị nầy ta có thể kể: 
1. Ông Cả Đô ở làng Tân-An (Tân-Châu)
Thầy Đức Thầy chỉ ngồi trên 2 cái ghế trong số 8 cái để hai bên chiếc bàn dài nên thừa lúc Đức Thầy đi ra ngoài đường, ông nầy liền đổi cái mà Đức Thầy thường ngồi (cũng giống hệt mấy cái ghế kia). Xong, ông đi theo Đức Thầy ra ngoài lộ và hỏi: ” Bạch Thầy, người ta phải dùng nhiều tôi lương-đống mời an bá-tánh được, tại sao Thầy lại nói:
Như đời xưa có-gã Tử-Phòng
Xem thời-cơ người đã rõ thông,
Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh.
-” Tôi nói láy đấy ! Tôi thiểu là tiêu thồi ! ” Đức Thầy đáp lại.
Thầy trò nói chuyện một chập lâu liền trở vào nhà, đi lại hai hàng ghế. Đức Thầy dòm ông Cả Đô và vừa nói chuyện với ông, Đức Thầy cũng vừa nhắc cái ghế mà Đức Thầy thường ngồi, đổi lại cái ghế mới thay vào khi nãy, và sau khi dứt câu chuyện, Đức Thầy ngồi trên cái ghế quen một cách tự-nhiên như không có gì xảy ra. 
2. Ông Phan-văn-Cơ ở làng Phú-Lâm (TânChâu)
Thấy trong Sấm-Giảng của Đức Thầy có câu:
” Ngôi tam bảo phải thờ trần đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình ” thì ông này nghĩ rằng có lẽ Đức Thầy muốn nhắc-nhở Đảng Hồng-Nhựt của cụ Trạng Trình khi xưa. Ông định đến hỏi Đức Thầy coi có phải như vậy chăng? Khi gặp Đức Thầy ông chưa kịp hỏi thì Ngài đã trả lời với ông như vầy: ” Ông đã biết rồi. Tưởng như vậy là phải rồi, hỏi làm chi nữa? “ 
3. Ông Nguyễn-duy-Hinh (tức xã Hinh) ở Hòa-Hảo
Ông nầy ở cách nhà Đức Thầy không đầy 300 thước và thường tới lui nhà Ngài.
Ông thuật lại rằng ông có nghe nói trong một đêm thanh-tịnh nọ, Đức Thầy, sau khi ngồi kiết-dà, có tụng kinh (tụng thuộc lòng) bằng tiếng lạ (có lẽ là tiếng Nam-phạn, Bắc-phạn hoặc tiếng Tây-Tạng) nhưng ông chưa đủ tin.
Một đêm kia, ông nói với Đức Thầy: ” Ông làm sao cho tôi tin thì làm thử coi ! “. Không cần trả lời, Đức Thầy giơ một cánh tay lên trước tấm kiếng treo gần đó. Lạ kỳ thay ! trong kiếng lại hiện ra tới hai cánh tay. Đức Thầy nói với ông Xã Hình: ” Ông coi có phải khác hơn người ta chăng? “ 
4. Ông hai Dùng (1) ở Hòa-Hảo
Bữa nọ ông Dùng (ở phía dưới nhà Đức Ông, lại nhà Đức Thầy và trong một câu chuyện về mùa màng, ông có nói: ” Lúa năm nay (1939 – Kỷ-Mão) tốt quá, lên cao nghệu ! Chắc sẽ trúng mùa.
– Coi vậy mà ít ngày nữa sợ e xuồng đi trong đồng không được ! Đức Thầy đáp lại.
– Phải mà ! Xuồng đi sao được vì lúa tốt quá đã cao mà còn dày đặc ! ông Dùng đáp lại với một giọng ngạo-nghễ.
Thế rồi, trong một ít lâu, nước lên mau quá làm ngập lút cả lúa. Đồng ruộng linh-láng như biển cả thành-thử xuồng nhỏ không dám mạo hiểm đi trong đồng sợ sóng gió nhận chìm (Năm ấy có một ghe đi đám cưới bị sóng đánh chìm, làm thiệt mạng hơn 10 người trong đồng).
—————–
(1). Xin lưu ý. – Ông nầy không phải là ông Đạo Dùng ở Phú-Lâm. 
5. Ông Nguyễn-văn-Vàng tức cựu Hương-sư Vàng ở Hòa-Hảo
Một bữa nọ, ông nầy có khoe với Đức Thầy rằng: ” Tôi có cuốn giảng 11 hồi (1), xin đọc cho ông nghe “. Đức Thầy bảo ông cứ đọc. Sau khi ông đọc một đoạn, Đức Thầy nói: ” Bây giờ để tôi đọc tiếp cho ông nghe “. Nói xong, Ngài dang ra xa đọc một hồi như trước mắt có cuốn giảng ấy, và nói tiếp: ” Tôi viết cuốn nầy mấy chục năm về trước hồi còn ở trên Cao-Miên ! “
—————–
(1). Ấy là quyển ” SẤM-GIẢNG NGƯỜI ĐỜI ” của ông Sư-Vãi Bán Khoai.
—————– 
6. Ông Đạo Dùng ở Phú lâm
Ông Dùng là người tu niệm khá lắm. Thuở ấy (1939) tuổi ông lối 25. Lúc ông đến viếng Đức Thầy thì Ngài cười và nói với ông rằng: ” Bộ bị Nhựt-Bổn rượt nên mới chạy qua đây chớ gì ! “.
Trong khi đàm-luận về việc tu hành, ông rất khâm-phục Đức Thầy. Sau rốt, Đức Thầy dặn ông: ” Ông hãy cố-gắng tròn chớ đừng làm méo thì ngày sau gặp tôi ! “
Sau khi ông ra về, Đức Thầy nói cho những người có mặt lúc đó biết rằng ” phần ” của ông khi trước có đi qua bên Tàu ở tu và bỏ xác luôn bên ấy cho nên lúc đến viếng Đức Thầy ông mặc áo chệt. 
7. Ông Nguyễn-phước-Còn tức Bảy Còn ở làng Long Kim (Long Xuyên).
Ông nầy ở gần chợ Cà-Mau, thuộc làng Long-Xuyên (cù-lao Ông-Chưởng) và là cháu nội của ông Đạo Thắng (đệ-tử của Phật-Thầy Tây-An).
Lần sau, ông nằm chiêm-bao thấy chư Thần cho biết: Ngày nay Thầy đã trở về Hòa-Hảo rồi, sao không lên tìm? Thế mà ông vẫn chưa chịu tin.
Trong lúc đó thì ở Hòa-Hảo Đức Thầy khuyên ông Huỳnh-văn-Quốc tức Út Quốc (chú của phần xác Ngài) nên tu hiền như Đức Thầy đã dạy. Ông Út vì khi trước thường nhờ ông Bảy Còn trị bịnh cho mấy người con và đang tu theo giáo-lý mà ông Bảy Còn đã được nội-tổ truyền lại nên trả lời với Đức Thầy: để thủng-thẳng sẽ tính. Đức Thầy nói quả-quyết: ” Ông cứ lo tu đi ! Ông Bảy Còn sẽ lên đây cho mà coi ! “
Quả thật, trong một buổi đi dạo sáng, ông Bảy Còn buồn ngủ một cách lạ kỳ. Khi trở về nhà, ông nằm mê, chiêm-bao thấy như lần trước. Và lần nầy ông bị chư Thần quở trách. Ông nhứt định lên Hòa-Hảo một chuyến để thử Đức Thầy.
Ông Bảy lên nhà ông Út trước. Đức Thầy bước qua nắm tay ông và nói: ” Ông đợi chư Thần đòi ba lần mới chịu lên ! Thôi mời ông qua nhà và đêm nay ngủ với tôi “.
Ông Bảy theo Đức Thầy qua nhà Đức Ông. Đức Thầy lấy viết, viết ra bài thơ bát cú dưới đây:
Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận
Đạt Đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
Nga-Du thế-giới hoàn sanh-chúng,
Quí tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
Châu Di phục thỉ an bá tánh,
Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
Viễn Cận chư châu qui nhứt thống,
An cư lạc nghiệp phước vô biên.
Sau khi nghe Đức Thầy đọc bài thơ nầy, ông Bảy vừa sửng-sốt vừa thán-phục, bởi vì Đức Phật-Thầy Tây-An có dặn kín nội-tổ ông Bảy là ông Thắng rằng sau nầy nếu có ai viết lại được bài thơ khoán thủ cách cú: Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận (viết ra chữ Hán thì tất cả 8 chữ nầy đều thuộc bộ xước) thì là Ngài trở lại.
Đức Thầy lại còn viết thêm bài ” Bát nhẫn ” mà Đức Phật-Thầy Tây-An đã dán ở đầu giường và nội-tổ ông Bảy chép lại trong khi vào phòng Phật Thầy để qué dọn.
Bài thơ ” Bát Nhẫn ” ấy như vầy:
Bát Nhẫn (1)
Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
Nhẫn giã hương lân hòa ý hỷ,
Nhẫn thành phu phụ thuận phì duyên.
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn đức bình an tiêu vạn sư,
Nhẫn thành phú quí vĩnh miên miên.

—————–
(I). Trong quyển « GIÁC MÊ TÂM KỆ », Đức Thầy cũng có giảng giải về Bát Nhẫn.
—————–
Sáng lại, ông Bảy thức sớm, và lời mà ông nói trước nhứt với ông Út là câu nầy: ” Phải rồi ! Không còn ai khác nữa ! Không còn nghi-ngờ nữa được ! Từ đây sẽ qui nhứt thống “.
Nói về đoạn Đức Thầy thuyết-pháp giảng đạo mà không nói đến việc Ngài hay dùng cách nói láy và đồng âm dị tự tức là còn-sơ-sót vậy. Nếu cụ Trạng Trình ngày xưa có dùng cách nói láy trong lời tiên-tri của cụ (1) thì ngày nay Đức Thầy cũng ưa dùng cách nầy trong những câu chuyện hay trong sấm-giảng của Ngài.
—————–
(1). Ví dụ: Tiên-tri rằng cha con thằng Khả ngày sau sẽ làm ngã mộ-bia của Ngài, cụ Trạng có viết sẵn phía sau tấm bia câu nầy: Cha con thằng Khả làm ngã bia tao; làng bắt đền tam quán. Chừng bia ngã, hàng chữ lộ ra, người ta mới biết là Cụ Trạng đã tiên-tri việc nầy. Suy ra họ biết Cụ Trạng nói láy và dặn bắt đền một quan tám.
—————–
Với cách nói láy trên đây, Đức Thầy đã dùng chữ: thầy tăng, tối thiểu và nhứt là câu ” Tôi là thầy tu ” để nói chuyện với viên Tham-biện, Chánh Chủ-tỉnh Cần Thơ (tất nhiên là người Pháp) năm 1940.
Về sự dùng đồng âm dị tự, chúng tôi xin kể sau đây vài giai-thoại.
2. Lúc Đức Thầy ở Sài-Gòn, gần sở Hiến-Binh Nhựt, có vài tín-đồ ỷ-lại nơi sư che-chở của quân Phù-tang nên dường như không dè-dặt trong mọi hành-động. Đức Thầy nói: ” Hễ ỷ thì ướt ” (ỷ-lại thì mang tai).
3. Ra kệ-giảng. Đã thuyết-pháp, chữa bịnh, Đức Thầy còn lại còn viết ra nhiều cuốn sấm-giảng. Những tác-phẩm ấy, phần nhiều thuộc loại văn vần. Ngài viết một mạch không cần suy nghĩ và khỏi dùng giấy nháp. Ta có thể nói rằng Ngài viết mau lẹ và dễ-dàng hơn ông Alcyone Krisnhamurti viết cuốn ” Aux Pieds du Maitre ” (1).
Dưới đây, xin kể sơ những tác-phẩm của Đức Huỳnh Giáo-Chủ:
1. Cuốn thứ nhứt nhan đề « Sấm-giảng khuyên người đời tu niệm » viết theo điệu thượng lục hạ bát hồi tháng 9 năm Kỹ-Mão (1939) tại Hòa-Hảo và gồm 910 câu, khởi đầu bằng câu:
” Hạ-ngươn nay đã hết đời “.
Trong quyển nầy, Đức Thầy đánh thức bá-tánh vạn dân bằng cách tiên-tri những cảnh lầm-than khốn-khổ mà nhân-loại phải trải qua trong thời-kỳ can-qua binh-lửa. Ta hãy đọc mấy câu sau đây thì rõ:
Thấy đời ly-loạn bất an,
Khắp trong các nước nhộn-nhàng đao binh.
Ngồi buồn nói chuyện bông-lông,
Khắp trong trần-hạ máu hồng nhuộm rơi.
Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.
Mèo kêu bá-tánh lao-xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần-hạ nhiều bề gian-lao.
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
Đời còn chẳng có mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.

—————–
(1). Ông A.Krisnhamurti mỗi đêm phải xuất vía đến cho Thầy (một vị chơn Tiên) dạy một đoạn. Sáng ra ông chép lại những lời dạy ấy. Nhiều lần như vậy mới rồi quyển sách nói trên.
—————–
Dưới đây, xin kể vài người (trong số nhiều người) đã chứng minh những sự hóa-hiện nói trong quyển sấm-giảng trên đây:
1.Ông Cựu Hương-chánh Cao-văn-Viết ở thôn Bình-Thạnh-Đông (Châu-Đốc) nhìn-nhận có thấy người cùi gây lộn bằng tiếng Tây tại Châu-Đốc y như câu ” Giả ra gây lộn nói tiếng tây ! ” trong quyển thứ nhứt.
2. Anh Tôi ở Hòa-Hảo bơi xuồng theo không kịp một ông già chèo ghe khẳm mà đi nước ngược. Ông già nầy có kêu anh mà nói: ” Mầy ăn thịt trân nhiều quá, chèo theo tao sao nổi !” Xem lại quyển thứ nhứt, ta thấy những câu:
Ghe điên vốn thiệt ghe be,
Mà lại Điên nhè nước ngược thẳng xông.
Ra oai thuyền chạy như dông,
3. Cô Lê-thị-Cứng tức tư Cứng ở gần nhà Đức Thầy, có mất một cây lãnh và rất nhiều quần áo. Cô khóc lóc buồn rầu. Khi đó có một chiếc ghe (trong có bốn người) ghé lại nhà cô để coi bói. Một trong bốn người nầy (tức là ông thầy bói) sau khi xem xong bèn nói với cô: ” Của đã mất thì thôi, cô không nên buồn rầu; vụ trộm nầy do bà con của cô điềm chỉ. Cô rán làm rồi sau sẽ khá bằng hai ” (1).
—————–
I. Quả thật: hiện giờ cô tư Cứng khá lắm vì nhờ mua bán vải tại chợ Mỹ-Lương (Hòa-Hảo).
Ở làng Hòa-Hảo, ai cũng biết rằng mấy câu dưới đây (trong quyển nhứt) nói về trường-hợp của cô tư Cứng:
Có người ở xóm bằng nay
Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn.
Du-thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đang hờn phận-duyên.
Điên nghe vội-vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ nguồn cơn,
Xin cô đừng giận đừng hờn làm chi.
Sau lại, Đức Thầy sai bào-đệ của Ngài là cậu út Huỳnh-Thạnh-Mậu đem trao cho cô tư Cứng hai bài thi tứ cú dưới đây Ngài dặn nói rằng là của Ông thầy coi bói hôm nọ cậy đưa cho cô:
Kích động thiện tâm lụy xót-xa,
Thoàn loan trở gót dụng tiên khoa.
Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn,
Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra.
Thương đó lòng đây rất thiết-tha,
Thiên định số căn mới xảy ra
Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét,
Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra
4. Ông Tài-công Hợi ở Hòa-Hảo cũng nhìn-nhận có hai người lạ mặt lại nhà ông, một người thì giã gạo, một người thì bán thuốc Sơn-đông. Ông bán thuốc Sơn-đông mời, cô tư Cơ mua một ve thuốc bổ trị phong và dặn nên pha với nước nóng chớ đừng pha với rượu vì nó kỵ thai. Khi đó có anh Huỳnh-văn-Gọn (sau nầy là Đại-Đội Gọn) và một người bạn của anh là anh Khâm lại coi, bảo cô nầy đừng mua vì anh nói thuốc Sơn-đông đi bán dạo mà hay-ho gì. Lúc đó, thân-phụ của anh Gọn là ông út Huỳnh-văn-Quốc lại rầy anh (1). Người bán thuốc Sơn-đông có nhổ răng cho một người ở xóm đúng như những câu nầy:
Rồi đi dạo xóm một khi,
Đi lên nhà thì giã gạo mà chơi.
Hai thằng ở xóm bằng nay.
Nó nói ngày rày thuốc chẳng có hay,
Người cha đi lại thấy rầy,
Thiệt mấy đứa nầy cãi-cọ làm chi
. . . . . . . .
Xóm nầy kẽ ghét người ưa.
Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.
—————–
(1). Theo lời ông Út thuật lại thì sáng hôm ấy, đức Thầy có dặn ông coi chừng phần xác Đức Thầy. Sau khi căn-dặn, Đức Thầy nằm dài trên một cái ghế bố (đầu day vô nhà, chơn đuổi thẳng ra ngoài đường lộ) từ sớm mai đến lối 11 giờ sáng. Lúc đó Đức Thầy nằm im lặng, ngực chỉ thoi thóp với những hơi thở yếu-ớt và đều đều. Có một lần Đức Thầy mở mắt ra bảo ông Út đi hái một mớ bông trăm-ổi rải chung quanh chổ Đức Thầy nằm.
Trong khi ông Út làm phận-sự ” coi chừng ” nói trên, ông có lẻn bước ra ngoài đường tiểu-tiện. Chính trong lúc đó là lúc ông gặp anh Gọn và anh Khâm trong vụ bán thuốc Sơn-đông và có rầy hai anh nầy.
—————–
Mình người tu niệm vậy mà
Nói chi lớn tiếng người mà khing-khi !
Chính ông Hẳng cũng có quả-quyết rằng ông có cúng tiền đi non Bồng.
Mấy chuyện ấy quả thật ăn-khớp với những câu dưới đây trong quyển thứ nhứt:
Có người xưng hiệu ông Quan;
Tên thiệt Vân-Tràng ở dưới Dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.
Nói chi lớn tiếng mà người khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.
Điều nên để ý là:
Trong lúc mà Đức Thầy gọi là ” Đi dạo lục-châu ” thì Đức Ông mất chiếc ghe lường có mui. Đức ông cố tìm mãi mà không được. Đức Thầy cười và cho Đức ông bài thơ dưới đây:
Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu-sanh du lịch lục-châu giang.
Kim-Sơn thương mãi toàn lê-thứ,
Thức-tỉnh bá-gia giấc-mộng tràng.
—————–
I. Bởi vì ông thường xưng là phần xác của ông Quan-Vân-Trường.
—————–
2. Cuốn thứ nhì nhan đề ” Kệ dân của người Khùng ” viết tại Hòa-Hảo theo điệu thất ngôn ngày 12 tháng 9 Kỷ-Mão (1939), và gồm 476 câu, khởi đầu bằng câu ” Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế “.
Cũng như trong quyển nhứt, ở đây Đức Thầy vừa tiên-tri những tai-nan sắp đến, vừa khuyên bá-tánh lánh dữ làm lành:
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết-thiết tha-tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ ma-ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa…
Trung với hiếu ta nên trau-sửa,
Hiền với lương bổn-đạo rèn lòng.
Thường nguyện-cầu siêu-độ Tổ-tông,
Với bá-tánh vạn-dân vô sự.
Đời Nguơn-hạ nhiều người hung-dữ,
Nên xảy ra lắm sự tai-ương…
Ngoài ra, Đức Thầy không ngần-ngại đánh-đổ những sự mê-tín dị-đoan của những nhà sư chỉ dụng thinh âm sắc tướng và bồ đề chuổi hột để mê hoặc bá-tánh thập-phương. Dưới đây là vài lời thơ giản-dị, lưu-loát và đầy lương-tri của Ngài:
Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,
Mà xưa nay có mấy ai thành…
Làm hiền lành hơn tụng hơ-hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó-ré…
Nếu làm đám được về Cực-Lạc,
Thì giàu sang được trọn hai bề.
Ỷ tước-quyền làm ác ê-hề,
Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót…
Những giấy tiến vàng bạc cũng thôi.
Chớ có đốt tốn tiền vô lý…
Tu vô-vi chẳng cúng chè xôi.
Phật chẳng muốn chúng-sanh lo-lót.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng.
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao ?
Hơn thế nữa, Đức Thầy không quên những bực thượng trí thượng căn nên Ngài cũng giáo-thuyết thêm những điều vừa cao-siêu, vừa đầy chơn lý:
Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở nơi non núi…
Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,
Phải tìm kiếm cái không mới có.
 

3.- Cuốn thứ ba nhan đề ” Sấm Giảng ” viết tại Hòa-Hảo hồi năm Kỷ-Mão (1939), dài 612 câu thượng lục hạ bát, khởi đầu bằng câu: ” Ngồi trên đảnh núi liên-đài “.
Trong quyển nầy, Ngài dạy tu nhân-dạo một cách hoàn-bị.
Theo Ngài, thì chúng ta phải:
Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi.
Quốc-vương thủy-thổ chiều mơi phản hồi.
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Ngài cũng khuyên trai thì giữ tam cang ngũ thường, gái thì gìn tam tùng tức đức.
Đức Thầy lại cũng chỉ cách đối-đãi với bà-con nội-ngoại, cô-bác anh-em, xóm giềng lân-cận.
Trong lúc kêu gọi giáo-viên, các sở các thầy hãy ” giúp đời đừng đợi trả ơn, miễn tròn bổn-phận hay hơn bạc vàng “, Ngài không quên nói đến những vị tây y-sĩ:
Mấy anh thầy thuốc lang-sa,
Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.
Khuyên trong anh chị đừng phiền,
Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.
Về việc hiếu-đạo khi cha mẹ lâm-chung, Ngài dạy bỏ bớt cốc keng, trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì:
Bỏ bớt rình-rang một khi,
Nếu cha mẹ chết, làm y lời nầy.
Là lời truyền giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.
Đức Thầy lại nhiệt-liệt bài xích-hạng người
Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo-quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.
Tại sao thế? Vì hạng người nầy chỉ biết chạy theo cái mới, để hào-nháng bề ngoài rồi trở lại chê-bai hạng người xưa mà họ cho là ngu-tối cũ-kỹ:
Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ-bại u-mê hơn mình.
Nhưng mà, Ngài quả quyết:
Ông cha thuở trước ngu-si,
Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.
 

4. Cuốn thứ tư nhan đề ” Giác mê tâm kệ ” viết tại Hòa-Hảo ngày 20 tháng 10 năm Kỷ-mão 1939, dài 900 câu viết theo điệu thất ngôn, mở đầu bằng câu ” Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện “.
Như trong ba cuốn đã kể trên, ở đây Đức Thầy cũng nói trước những tai-họa hãi-hùng mà chúng sanh sẽ phải trải qua trong đời Nguơn-hạ:
Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà-gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha-thiết.
Chừng lao-xao dân-chúng nước Tần
Thì Nam-quốc lương dân mới biết.
Đức Thầy lại giảng-giải thế nào là tứ-đổ-tường, tứ khổ, ngũ-uẩn, lục-căn, lục-trần, tứ-diệu-đề, bát-chánh-đạo và bát-nhẫn.
Còn gì biểu-lộ lòng từ-bi bỉ-xả của Đức Thầy bằng những câu sau đây mà chúng ta có thể dùng làm châm-ngôn ?
Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán.
Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù-oán tiêu-tan mất hết.
Thương quá sức nên ta bịn-rịn,
Quyết độ đời cho đến chung thân.
Nếu thế-gian còn chốn mê-tân,
Thì ta chẳng yên vui Cực-Lạc.
Và, điều cần phải chú ý nhứt là trong quyển nầy Đức Thầy cũng không quên tuyên-dương những lời cao-siêu về Phật-pháp:
Đẹp năm tên (1) được mới mừng cười,
Vô pháp-tường mới là thiệt tướng.
Địa ngục cũng tại tâm làm quấy,
Về thiên-đàng tâm ấy tạo ra.
Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
Tiên hay Phật cũng là tại nó.
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp quá rành.
Lựa làm chi cao chữ học hành,
Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo
Nếu ai mà biết chữ tu-tri,
Tâm bình-tịnh được thì phát huệ.
____________________________
(1). Đức Thầy ám chỉ NGŨ-UẨN.
____________________________________
Trong quyển nầy, Đức Thầy nhắc sự tích Đức Phật Thích-Ca và luận-giải về tám sự khổ trong cõi Ta-bà, – pháp-môn Tịnh-độ – sự diệt ngũ-trược, trừ thập ác và hành thập thiện.
Sau rốt, Ngài kêu gọi lòng hy-sinh với sự thành thật của tăng-đồ nhà Phật và sự hưởng-ứng của tín-nữ thiện-nam:
Nếu xuất gia thì phải hy-sinh,
Cả vật-chất tinh-thần lo Đạo.
Chớ giả-dối mà mang sắc áo,
Mượn bồ-đề chuổi hột lòe người.
6. Cuốn thứ sáu nhan đề ” Những điều sơ-lược cần biết của kẻ tu hiền “. Quyển nầy Đức Thầy viết hồi năm 1945, trong vòng tháng 5 dl, theo lối văn xuôi (tản văn). Tuy là văn xuôi nhưng lời văn lưu-loát âm-hưởng khéo dùng nên có lắm đoạn đọc lên như khúc nhạc khi bổng lúc trầm…
Trong quyển nầy, Đức Thầy minh giải về tứ-ân, tam-nghiệp, thập-ác và bát chánh, Ngài lại chỉ cách thờ-phượng, cúng lạy, cách hành-sự lúc tang-lễ, hoặc cách cư-xử lúc có cuộc hôn-nhơn, cách đối-đãi với các tăng-sư, chùa-chiền, với các tôn-giáo khác và nhân-sinh. Ngài cũng khuyên tất cả mọi người: nên chăm-cần học-hỏi để mở-mang trí-tuệ, nên luyện tập thể-dục, giữ phép vệ sinh để tạo cho mình một sức-khỏe dồi-dào ngõ hầu làm việc đạo-nghĩa một cách đắc-lực, nên làm những nghề lương-thiện và trách những sự tráo đấu lường cân, đầu cơ buôn lậu…
7. Ngoài ra 6 quyển kể trên đây, Đức Thầy còn viết rất nhiều bài thi, bài văn mà chúng tôi đã gom-góp để in thành quyền ” Sưu-Tập Thi-Văn Giáo-Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ “. Quyển sách nầy dày hơn 350 trang và gồm từ những bài thi tứ cú, bát cú, ngũ ngôn, thất ngôn đến những bài trường thiên, điệu thượng lục hạ bát, lục bát gián thất – thất ngôn hay những bài văn lời-lẽ hùng hồn cảm động, ý-tứ bí-ẩn sâu-xa…
Sau khi nghiên-cứu và phân-tách tất cả các tác-phẩm của Đức Thầy, chúng ta có thế kết-luận như vầy:
Trước hết Ngài thức-tỉnh người đời rằng tuồng đời sắp hạ và mách bảo vô số tai họa thảm-khốc sẽ xảy ra. Ngài nói Phật-pháp cho kẻ thượng căn và chữa bịnh cho người hạ trí đặng dẫn họ trở về chánh đạo, học Phật tu Nhân, giải-thoát thân-tâm và giải-thoát cho non sông đất nước.

IV- Về việc Đức Thầy đi núi.

a. Đăng sơn kỳ nhứt. – Lần đầu tiên nầy Đức Thầy đi núi Tà-Lơn với Đức Ông để cho Đức Ông đảnh lễ chư-vị Phật, Tiên và cảm thấy sự linh-thiêng huyền-diệu của chư-sơn liệt vị, và cũng để cho Đức Ông hoàn-toàn tin-tưởng rằng: Đức Thầy là một bực siêu-nhân chớ không phải thượng xác cỡi đồng như trước kia đã tưởng…
Núi Tà-Lơn (Bokor) nằm trên địa-phận tỉnh Cần-Giọt (Kampot) thuộc xứ Cao-Miên, giáp giới Hà-Tiên. Từ trước đến giờ Đức Thầy chưa hề có dịp bước chơn đến vùng nầy. Thế mà khi còn ở tại nhà, Đức Thầy đã kể cho Đức Ông nghe cuộc hành-trình phải từ đâu đến đâu. Đức Thầy cũng biết từ chặng nào tới chặng nào phải trả bao nhiêu tiền xe hơi hay xe ngựa.
Dọc đường, khi đến Sóc-Mẹt (Tuc-Méak) Đức Thầy có trị bịnh cho một đức trẻ đau nặng. Cha mẹ nó là người Miên và không biết nói tiếng Việt. Đức Thầy bèn nói chuyện bằng tiếng Miên với họ (1) rồi trị bịnh đứa trẻ ấy bằng cách mà Ngài đã dùng lúc ở nhà.
——————-
(1). Chẳng những Đức Thầy biết nói tiếng Miên, – một thứ tiếng Ngài chưa học – mà Ngài còn biết nói tiếng Tàu, tiếng Pháp, tiếng Nhựt v.v… mặc dù không có học các thứ tiếng ấy. Ngài lại còn đọc kinh bằng 18 thứ tiếng khác cho Đức Ông và ông Út đếm.
——————-
Đêm đến, Đức Ông nhớ lại rằng ở trên núi to thường có cọp mà người ta kêu là ” sơn thần ” hay ” ông hổ “. Một chập sau, hai ” Thần hổ ” to tướng lại nhìn Đức Ông với hai cặp mắt sáng ngời, Đức Thầy nói: “Thôi, hãy đi đi, đừng để ông cả sợ !” Cặp chúa sơn-lâm bèn ríu-ríu rút lui.
Lúc đi ngủ, Đức Ông lạnh run vì sương gió và khí lạnh của đá núi. Đức Thầy để hai bàn tay trên ngực Đức Ông, làm cho ấm-áp như đắp mền. Nhờ vậy Đức Ông ngủ một giấc ngon lành cho tới sáng. Càng lạ hơn nữa là lúc thức dậy, Đức Ông thấy mình ở trên chỗ khác rất xa và đối diện với chỗ mà Đức Ông nằm ngủ đêm rồi.
Trong cuộc đăng sơn nầy, có lúc Đức Ông được Đức Thầy dẫn lên những cảnh cao tột bực, mặt bằng phẳng, ít cây, có suối trong veo, có cát trắng phích, có tòng bá xinh tươi… thì, trái lại, cũng có rất nhiều khi đường đi hiểm-trở, đầy-dẫy gốc-gai, có lúc phải bò, lắm phen phải mọp, khi lên vồ núi, lúc xuống triền non làm cho Đức Ông vô cùng mệt-nhọc và mặc dù có tinh-thần dũng-cảm chớ cũng có lúc phải rởn ốc ghê mình..!
Sau khi qua cuộc thử lòng (thử đức-tín), Đức Ông được nghe Đức Thầy giảng giải: “Ông đi kỳ nầy là để giải quả căn, cũng như các vị hòa-thượng đã mấy chục năm công-phu bái sám “.
Cuộc đăng sơn nầy đáng lẽ phải được 8 ngày như đã định, nhưng đến ngày thứ ba Đức Ông nguyện xuống non để kịp trở về Hòa-Hảo nơi mà Đức Ông còn một bà mẹ già cần phải phụng-dưỡng. (Theo lời Đức Ông nói lại thì vì đi non còn thiếu 5 ngày nên khi về đến nhà Đức Ông bị đau bàn chơn trái 2 tháng mới lành),
Thế là Đức Thầy và Đức Ông xuống núi trở về Hòa-Hảo.
Khi về đến Tân-Châu, Đức Thầy nghỉ đêm tại nhà Ba sánh, nơi mà khi trước Ngài ở trọ đặng đi học.
Sáng ra, đức Ông trở về Hòa-Hảo, Đức Thầy còn ở lại, Ngài đi thẳng vô chùa cô Năm Hí, ở làng Long-Phú, cách đó hơn 1 cây số ngàn, ở về phía tả con lộ Tân-Châu – Châu-Đốc. Khi vô đến đó. Ngài có gặp một bà tuổi độ tứ tuần, ở vùng rạch Ông-Chưởng (Long-Xuyên) mà xác-thân Ngài chưa biết lần nào.
Và đây là cuộc nói chuyện giữa Đức Thầy và bà ấy.
– Sao cô biết tôi đến đây mà chờ?
– Bạch Thầy, vì có chư Thần mách bảo.
– Ba tờ giấy bạch còn không?
– Bạch Thầy, vì có người nài-nỉ quá nên đã cho hết hai, chỉ còn một.
– Đó là dấu-tích của ” Người Xưa “. Khi về cô hãy xem lại. chừng nào có lộ chữ vàng thì được !
Sau cuộc nói chuyện nầy, Đức Thầy đi qua làng Phú-Thuận (phía bên bãi), đến nhà cô Hai Đê (là chị của Ngài) để cứu bịnh mấy đức con cô hai (vì Ngài đoán biết chúng nó đang đau). Ngài ở đó một đêm một ngày mới trở về Hoà-Hảo.
b. Đăng Sơn kỳ nhì. – Lần nầy, Đức Thầy đi với ông Ngô-ngọc-Chơn (tục gọi ông Đạo Năm) trong vòng tháng 7 năm Kỷ-Mão (1939).
Hai Thầy trò đi bộ qua vàm Cái-Đầm rồi xuống đò qua Năng-Gù đón xe đi xuống lộ tẽ Mặc-Cần-Dưng để sang xe khác đi Xà-Tón (Tri-tôn).
Sau khi đến chợ Xà-Tón, hai Thầy trò nhắm hướng núi Tô thẳng tiến, Đức Thầy và ông Chơn băng qua một cánh rừng rồi mới lên núi. Nhưng vì đường khó đi nên lại trở xuống kiếm đường mòn mà người đi núi nầy thường dùng. Gặp một người Miên (Thổ) Đức Thầy dùng tiếng Miên nói chuyện một người rồi mới khởi sự đi.
Hai thầy trò lần-lượt lên Sân-Tiên, Điện Năm Căn, Mũi Hải (tại đây có một chiếc thuyền chìm thành đá cả thuyền lẫn chèo) rồi lên chót núi là nơi có Điện Kín.
Nghỉ tại đây một đêm, Đức Thầy và ông Chơn trở xuống để đi qua núi Cấm.
Sau khi đến Rầy Đét, (một đường lên núi Cấm) Đức Thầy băng rừng vượt núi, vẹt phá chông gai mãi đến bữa sau mới tới vồ Bò-Hong. Đức Thầy nghỉ đêm tại đây. Trong đêm ấy, nhơn thấy một ông Yết-ma (ở Vĩnh-Long) chữa bịnh cho bổn-đạo của ông Đức Thầy kêu ông bằng ” con ” và cho biết rằng ông hiện còn giữ vật báu của ” Người xưa “. Ông bèn xuất trình một tờ giấy bạch có bốn chữ son Bửu Sơn Kỳ Hương và lạy Đức Thầy hai lạy để tạ lỗi gặp bực ” Trên-Trước ” mà không biết.
Đến 4 giờ khuya, Đức Thầy và ông Chơn đi về hướng Tây. Bữa sau, hai Thầy trò xuống núi (không đi Hà-Tiên như đã tính) về Châu-Đốc.
Khi đi ngang “Nhà Lớn ” (của gia-quyến Lê-Công ở Châu-Đốc), Đức Thầy gặp một lũ trẻ thảy đáo-lạc. Chẳng biết tại sao Ngài dừng chơn và ở xẩn-vẩn ngoài đường rất lâu. Sau rốt Ngài chọi vào hàng rào “Nhà Lớn” hai đồng xu rồi mới chịu đi…
Rồi đó Đức Thầy trở vô trại lính mã-tà kiếm Bếp Ngoan bảo đã đến thời-kỳ rồi đừng giúp việc cho ngoại-địch nữa, hãy lo việc lút lui và bỏ dứt việc phù-phép ngải-gồng.
Xong vụ nầy, Đức Thầy qua Tân-Châu đi xe hơi về Chợ-Vàm. Tới đây, Đức Thầy qua bên bãi (Phú-Thuận) một lần nữa. Nghỉ ở đó một đêm, sáng ra ông Chơn đi về Hòa-Hảo trước, Đức Thầy về sau, trưa mới tới nhà.
c. Đăng Sơn kỳ ba. – Lần nầy, Đức Thầy theo 5 tín-đồ: Ông Phan-văn-Báo (tức Hai Báo người làng Phú-An, hiện ở chùa Hòa-Hảo), ông Võ-văn-Gia (tức Ba Gia), ông Võ-văn-Ban (tức Sáu Ban) và ông Ngô-ngọc-Chơn (tức Đạo Năm) ở Hòa Hảo.
Khởi hành tại Hòa-Hảo ngày 21 tháng 8 năm Kỷ-Mão, sáu Thầy trò đến viếng núi Két nội trong bữa ấy và nghỉ đêm tại đó.
Sáng lại, sáu Thầy trò trở xuống và đi tuốt vô Cấm-Sơn, lại đường Rầy-Đét lướt xông lên núi. Thấy năm người tùy tùng quá mệt-nhọc trong lúc leo trèo, Đức Thầy nói:”Phải rán đi đặng giải quả”.
Trải qua lắm cuộc mỏi gối chồn chơn, mồ hôi như tắm, đoàn lữ-hành đến một vùng rộng hơn 100 công, có cây tòng, bá, và nhất là thiên-tuế mọc đều-đều, thỉnh-thoảng lại có những hòn đá mặt bằng-phẳng như cẩm-đôn và bốn cây thiên-tuế ở bốn góc. Ngoài ra, lại có rất nhiều cây le đọt bằng như đã hớt. Dừng trước cảnh thiên-nhiên kỳ-bí nầy, ai nấy đều có cảm-tưởng rằng mình đang ở giữa một cái vườn kiểng của những đấng vô hình. Càng tin chắc hơn nữa là Đức Thầy dặn 5 vị tín-đồ đi ra khỏi chỗ nầy mới được tiểu-tiện.
Lần lượt, Đức Thầy đến chùa Phật-lớn, điện Đá-Dựng. Tại đây, ông Ba Gia có thấy tận mắt một chúa sơn-lâm. Nghỉ đó một đêm, Đức Thầy trở xuống đường chùa ông Ba Đạo rồi qua thất Cao-Đài, điện Rau-Tần. Trong khi nghỉ đêm tại đây, Đức Thầy có trị bịnh tà cho một người mà ông Bảy Ngọc (một ông thầy phù-thủy) đang chữa không hết. Đức Thầy bảo người bịnh cầu nguyện rồi uống một chung nước lã. Uống vừa xong, người bịnh rên vang dội. Đức Thầy bảo: ” Vậy thì mi hãy ra, đừng phá cái xác nầy nữa ! “
Sáng lại Thầy trò trở xuống đi vô núi Tô, lên Điện Kín (1), trở ra Sân Tiên nghỉ đó một đêm. Tại đây, Đức Thầy mệt nên ở trần, ngồi trên một tảng đá có để một cái lư-hương. Vài người đàn bà thấy vậy nói: ” Cũng thời đi núi mà có người đi rồi về mạnh giỏi, có người đi rồi về phải chết là vì vậy đó ! ” Đức Thầy kêu 5 ông tùy tùng vừa cười vừa nói: ” Họ rủa tôi đó đa ! “.
Bữa sau, sáu thầy trò về Châu-Đốc để qua Tân-Châu trở về Hòa-Hảo.
d. Đăng Sơn kỳ thứ tư – Lần ầy Đức Thầy đi núi Tà-Lơn và dẫn theo có một mình ông Ngô-thành-Bá tức Biện Đài ở Hòa-Hảo (2).
Khởi hành ngày mùng 6 tháng giêng năm Canh-Thìn (1940), hai Thầy trò được chở đưa bằng xe đạp đến vàm Cái-Đầm. Sau khi đò cập bến nhà máy Năng-Gù (thôn Bình-Mỹ) Thầy trò lên xe hơi đò đi Châu-Đốc, rồi sang xe khác đi tới Tịnh-Biên vào lúc ba giờ chiều.
——————-
(1). Theo lời ông Chơn và ông Hùm thì tại Điện-Kín có đường hầm đi suốt qua tới núi Cấm. Ông Chơn có đốt đèn cầy đi thử một đỗi rồi trở lại.
(2). Ông Ngô-Thành-Bá có tường thuật cuộc đi non nầy trong quyển ” Dõi gót theo Thầy “.
——————-
Sáng bữa sau, Thầy trò lên xe đò đi Cần-Giọt và tới đó lối 3 giờ chiều. Đức Thầy lại nghỉ trọ nhà một ông lão tuổi ngoài 70, đệ-tử của ông Cử Đa và là em của ông Trần-bá-Lương tức là Hai Lương đã nói ở đoạn trước.
Đức Thầy có minh-giải về sự khai mở trực-giác cho ông chủ nhà và nhiều người lân-cận đến nghe. Ngài cũng có đọc thuộc lòng rồi giải nghĩa cuốn thứ ba (Sấm giảng) để khuyến-khích các vị ấy nên vững bước trên con đường đạo-hạnh.
Nghỉ đây một đêm, sáng lại Đức Thầy từ-giã ông lão để lên non.
Tới chơn núi hồi 8 giờ, hai Thầy trò xuống suối tắm rửa, thay đổi quần áo, mỗi người mặc một bộ đồ dà.
Tiến theo con đường “cam chại” (đường đi non) Thầy trò tới Trung-Tòa (hay là Long-Thuyền) lúc 1 giờ trưa, ghé vào một ngôi chùa nhỏ và tặng mấy nhà sư trong chùa 3 cuốn giảng của Đức Thầy (quyển thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba) rồi từ-giã ra đi.
Đến ngả tẽ, Đức Thầy bảo đi qua diện Cô Nhứt (gần hơn một phần ba đường lên điện Minh-Châu). Đường đi dốc ngược, gập-ghềnh bước tới muốn sụt lui, nên 3 giờ chiều mới đến điện Cô-Nhứt. Lối 5 giờ chiều, Thầy trò đi ngang qua lộ lớn (bề ngang trên 4 thước) rồi đi lần tới điện Cao-Vân. Đêm đó đoàn lữ-hành nghỉ trên một tảng đá cao khỏi đầu, rộng bằng 2 bộ ván ngựa, mặt bằng phẳng.
Sáng ngày mùng 9, Thầy trò đi lên ” Ruộng Năm dây “. Tại đây có đường mòn đi qua Bà-Ngự, nơi ông Cử đắc Đạo.
Rồi Thầy trò đi lần lên tới “Châu-Thiên “, một cảnh thiên-nhiên tuyệt đẹp nhờ tòng bá lộn chen không cao không thấp. Khi còn cách “Tứ Giao điện ” lối 100 thước, mặt trời vừa chen lặn. Đức Thầy dừng chơn bảo đừng nói chuyện. Chẳng có một bóng người ! Chỉ có chén bát, tương chao và những chiếc đủa nằm bừa-bãi trên bàn.
Sẳn có nồi nước tại đó và vì đói quá, ông Đài hốt cơm khô đeo theo bỏ vào nồi đun lửa nấu. Theo lời ông Đài thì bữa cơm ấy ông ta ăn ngon nhứt trong đời mặc dù thực-đơn chỉ gồm có một dĩa đọt khoai lang luộc.
Đêm ấy, Đức Thầy lên nóc điện thắp nhang đèn cầu nguyện, cúng lạy. Ngài nói với ông Đài: ” Thầy đây chỉ lạy Phật-Tổ thôi kỳ dư các bực khác Thầy được miễn “.
Sáng ngày mùng 10 tháng giêng, Đức Thầy bảo sửa-soạn đặng trở về, vì Ngài biết ở nhà có việc lộn-xộn (1).
Bận về, Đức Thầy có vào điện của quan Ngự-Sử cựu trào, đã vào đây tu đến đắc Đạo vì bất phục nhà-nước Pháp vừa mới thôn-tính Việt-Nam. Đức Thầy bảo ông Đài lên hương, đèn đảnh lễ. Ngài nói “tiếng trên” với quan Ngự-Sử.
Xong xuôi, Đức Thầy cầm một khúc cây đi trước dọn đường.
Trải mấy lúc xuống triền lên đỉnh, hai Thầy trò đến trước một cái miệng hang, dòm vô thấy tối đen, mùi hôi-bám khó chịu. Ấy là hang cọp ! Đức Thầy hỏi ông Đài.
– Mầy muốn coi cọp núi không? Đây mầy chun vào hang nầy sẽ gặp !
Nói xong, Đức Thầy đẩy ông Đài vô hang và nói:” Mầy chun vô đi ! “. Ông Đài thụt lại và bạch với Đức Thầy:
– “Úy, Thầy ôi ! Coi kìa, đầy-dẫy dấu chưn “ông thầy “. Trong hang tối nầy ” khềnh ” con ! Vô không được đâu !
– Sao mày nhát quá? Cọp kêu cọp, tượng kêu tượng “.
Ngồi nghỉ đây gần nửa giờ, Đức Thầy cứ bảo Ông Đài chun vô hang cọp mãi, nhưng ông ta cũng vẫn không dám. Rốt cuộc Đức Thầy nói:”Không chun vô thì thôi, ta hãy đi “.
——————-
(1). Khi về đến Cần-Giọt, mới hay tin ông Đạo Quốc làm giặc, chém người lấy máu tế cờ tại Tân-Châu nên bị Pháp bắn chết và bắt hàng ngàn người bị tình-nghi là tín-đồ của Quốc.
——————-
Rồi đó, Thầy trò xuống triền, gặp nhiều cái suối (có cái thật lớn, một vài nơi rộng trót trăm thước tây) rồi đi ngược lên non vào một cái điện cảnh rất xinh. Tại đây, một lần nữa, Đức Thầy có nói “tiếng trên” với các bực siêu hình. Ngài cũng thường nói lớn những câu nầy: “Hỡi các chư vị Thánh, Thần ! Hãy theo Thầy xuống núi cứu thế trợ dân ! Hôm này Thầy đã lâm-phàm rồi, sao các ông còn ở đây?”
Rời khỏi điện nầy, Thầy trò đi đến tối để rồi nghỉ đêm trên một tảng đá cao bằng phẳng.
Sáng ngày 11 tháng giêng, Thầy trò vẫn còn đi theo ngọn suối lớn hôm qua. Có một lần Đức Thầy đi trước ông Đài cả một công đất rồi đứng chờ ông ta đi tới. Khi ông Đài vừa đến gần Đức Thầy thì ông gặp một con cọp xuống uống nước gần chỗ Đức Thầy đứng. Trong lúc ông ta đang kinh tâm tán đởm thì Đức Thầy kêu ông mà nói: “Lại đây kiếm cọp, mùi nó bay khét quá !” Ông Đài nắm Đức Thầy và nói nho nhỏ:”Đi cho lẹ Thầy ôi ! Tôi thấy rồi !”
– Thấy giống gì ?
– Bạch Thầy, “ông thầy” xuống uống nước kia kìa !
– Mầy thật nhát quá ! Lên non sợ cọp, xuống thế sợ Thổ !
Đi đến 10 giờ trưa, ông Đài mệt quá mắt hết thấy đường, ôm cứng vào một thân cây. Đức Thầy vuốt ngực ông ta và đọc chú bằng “tiếng trên”. Đức Thầy cho ông nhai nuốt một thứ lá cây có chất ngọt. Vài phút sau ông ta được khỏe lại như thường.
Có lần Đức Thầy lội ngang một cái suối sâu chừng một thước tây. Ông Đài đi sau thấy có cây ngã nằm ngang suối bèn đi trên thân cây ấy cho khỏi ướt mình, đức Thầy nghiêm-nghị bảo:”Thầy đi đàng nào thì phải theo đàng nấy, cấm mầy không được đi như vậy nữa !”.
Cũng có lúc Đức Thầy tỏ ý muốn kêu cọp hoặc tượng đến đặng cỡi đi cho khỏe, nhưng lần nào ông Đài cũng trả lời không dám.
Sáng ngày 12 tháng giêng, hai Thầy trò phải băng ngang một trảng mây gai dài cả gang tay, tàu lớn như tàu cau. Xế qua, Thầy trò mới trổ ra lộ đá và về đến Cần-Giọt tới 6 giờ chiều.
Điều đáng để ý là kể từ ngày băng đường rừng trổ ra lộ thì hễ đi lối 100 thước là thấy vài nhánh cây bằng ngón tay cái chặt xéo, lá còn tươi xanh. Đức Thầy nói đó là những dấu hiệu của ” trên trước” dẫn đường.
Ba giờ chiều ngày 13 tháng giêng, đoàn lữ-hành về đến Nhà-Bàng dùng cơm tại nhà ông Hương-giáo Tập.
Tối lại, một ông lão hỏi Đức Thầy:”Bạch Thầy, mấy ông Đạo trên núi thường luyện phép để ngày sau phò vua giúp nước, còn Đức Thầy sao không dạy đệ-tử luyện phép như bên Tiên-đạo ?”
Đức Thầy ung-dung đáp lại:”Phép linh cũng như cá linh; nước vừa chớm hạ loài cá nầy đua nhau lên trước nên phải chịu chết sớm. Các ông đừng ham linh mà bỏ mình !”
Sáng ngày 14 tháng giêng, Đức Thầy đi núi Trà-Sư và chiều lai, Ngài đi núi Két, dẫn theo ông Đài và sáu, bảy người nữa. Đến “Sân Tiên”, Đức Thầy ngâm cho Hương-giáo Tập chép bốn bài thi dưới đây:
Non tiên gió mát toại lòng thay !
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mong về nhược-thủy,
Ngặt vì không cánh lấy gì bay ?
Dắt xác phàm-phu viếng non đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy Núi đồng qui tựu,
Thầy tớ kiểng Tiên rõ mặt mày.
Nhìn xem cây cỏ gió lung-lay
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay.
Lầu đài núi Cấm lộ nay mai
Thức tỉnh chúng-sanh mới trổ tài.
Khuyến dụ dân tình minh đạo-đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.

V- Đức Thầy giã từ làng Hòa Hảo.

Đã đoán trước công chuyện sẽ xãy tới cho mình nên ngày mùng 1 tháng tư năm Canh-thìn (1940), Ngài viết bài ” Từ-giã bổn-đạo khắp nơi “, trong đó có câu:
” Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy !
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,
Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa !”
Qua ngày mùng 10 tháng tư năm Canh-thìn, Đức Thầy lại viết bài ” Diệu-pháp quang-minh ” để biểu-dương tinh-thần ưu dân vị quốc, khuyến-khích kẻ trung-lương, mạt-sát quân phản-nịnh.
” Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
Dám thiết kế hại tôi lương-đống “.
a. Đi Châu-đốc. Ngày 12 tháng tư năm Canh-thìn, vào lúc 7 giờ sáng, nhà đương-cuộc Pháp đến Hòa-Hảo dời Đức Thầy qua Tòa-bố Châu-Đốc.
b. Xuống Sa-Đéc. Vài giờ sau, họ lập tức chở Ngài đi thẳng xuống Sa-Đéc, làm cho biết bao tín-đồ phải đau-thương bực-tức, ngơ-ngác xôn-xao…
Khi đến Sa-Đéc, Đức Thầy được giao cho Chủ sở Mật-Thám Bazin lãnh trách-nhiệm xét tra, dòm ngó. Thay vì bị khó dễ lôi-thôi, Đức Thầy lại được Bazin phu nhơn (lúc đó viên cò Bazin đi vắng) đem dâng một dĩa xoài và nói với Đức Ông rằng: ” Tôi biết mấy ông đạo ở trên núi thường ưa dùng trái cây “. Sau lại Đức Thầy được viên cò Bazin cho đến ở tại nhà ông thông phán Đặng.
Chính tại đây là nơi Đức Thầy viết bài ” Rằm tháng tư năm Canh-thìn ” hay là bài ” Sa-Đéc ” để trấn-tỉnh môn-sinh, nhắc câu thi đức… chớ Ngài “… cũng chẳng lấy chi buồn-bã; bởi sự thường của bậc siêu-nhân ” Ngài chỉ “… còn thương, thương trò lịu-địu; chớ cũng mừng được dịp phổ-thông ” lý-tưởng cao siêu của Ngài cho khắp nơi được biết.
c. Đến Cần-Thơ. Vì nhà cầm quyền ở Sa-Đéc cho hay rằng có lịnh cấm Đức Thầy truyền Đạo ở tỉnh nầy nên ngày 18 tháng tư năm Canh-thìn, anh em tín đồ thỉnh Ngài về lưu-trú tại nhà ông Hương-bộ Võ-mậu-Thạnh ở rạch So-đũa (hay là kinh xáng Xà-No) thuộc làng Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ) (1)
—————–
(1). Chính chiếc xe Renault số CL 609 màu da của ông phán Hồ-viết-Long (Sa-Đéc) mới mua về đã được dùng để đưa Đức Thầy qua Cân-Thơ. Chiếc xe nầy sau lại cũng đã được dùng để đưa Đức Thầy từ Hà-Tiên về Châu-Đốc trong dịp Ngài đi Khuyến nông (1945) tại Hà-Tiên, Đức Thầy có nói : ” Chiếc xe nầy có duyên với tôi “.
Thế rồi mùa thu 1945, chiếc xe ấy bị V.M. trưng-dụng. Khi quân Pháp lại Sa-Đéc V.M. lủi bỏ nó lại Cái-Tàu-Thượng. Lợi dụng sự ủng hộ của quân đội Pháp, ông Phạm-văn-Ngỡi đem nó về Sađéc sửa sang. Rồi ông Ngỡi lại phải bỏ nó trong một dịp chạy trên đường Vĩnh Long Sa-Đéc vì bị V.M tấn công bất ngờ. Sau vụ nầy, Ban Trị Sự P.G.H.H. tỉnh Sa-Đéc lấy lại được chiếc xe đã mấy lần thay chủ và gởi về Đức Ông để dành cho Đức Thầy xử-dụng.
Xem qua lịch sử chiếc xe Renault nầy anh em cũng thấy rõ lời Đức Thầy tiên-tri rất đúng.
—————– 
Tại Xà-No, Đức Thầy tiếp-tục phát phù trị bịnh, hoằng pháp độ nhân. Thiên-hạ xa gần tới lui nườm nượp. Chính tại đây Đức Thầy đã viết bài ” Nang thơ cẩm tú ” (ngày 29-5 Canh-thìn). Tiên đoán rằng Ngài còn phải đi xa nữa nên ngày rằm tháng 6 năm Canh-thìn, Ngài viết bài ” Từ giã làng Nhơn-Nghĩa ” để khuyên bổn đạo hãy:
“Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy.
Bớt lòng thương nhớ từ đây,
Chẳng còn bịn-rịn để thầy an tâm ” .
Tại sao Ngài khuyên bổn-đạo không nên bịn-rịn ? Là bởi vì Ngài đi đến đâu là ban rải nguồn ân đến đó:
Càng đem chơn-lý tuyệt vời phổ-thông “
Vả lại Đức Thầy là một bậc vĩ-nhân thánh triết, tự ví mình như:
” Cá to mà phải ở ao,
Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông “
Quả thật như Ngài đã tiên đoán, nhà đương cuộc Pháp không muốn cho Ngài ở làng Nhơn-Nghĩa nữa vì số người qui-ngưỡng Ngài gia-tăng không thể tưởng tượng được. Ngài bèn gởi một
” Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu,
Ngụ nơi gia-trạch Hội-đồng Điều ”
d. Bị dời về nhà thương Chợ-Quán – Ngày 29 tháng 6 năm Canh-thìn, Ngài ra Cần-Thơ. Đến đây Ngài bị nhà cầm quyền giữ lại và gởi vô Nhà thương Cần-Thơ khám-bệnh.
Để thử tài Ngài, viên Giám-Đốc Dưỡng-Đường Cần-Thơ (nếu chúng tôi nhớ không sai thì là Bác-sĩ Favot) bảo Ngài nói về đạo Lão (le Taoisme). Đức Thầy bèn giảng-giải một cách lưu-loát lối nửa giờ. Chẳng biết ông Thầy thuốc Chí (Y-sĩ ngạch Đông-Dương đang giúp việc tại đó) thông-ngôn cách nào mà sau lại, khi gặp ông Đỗ-văn-Viễn (Thú y-sĩ ở Cần-Thơ, hiện nay ở Châu-Đốc), Đức Thầy nói: ” Ông Thầy-thuốc Chí… thông ngôn không đúng ông à ! “.
Thế là qua ngày mùng 4 tháng 7 năm Canh-thìn, Đức Thầy bị dời về Nhà thương Chợ-Quán (Chợ-Lớn) để khán-nghiệm coi Ngài có mắc bịnh thần-kinh hay không ?
Tại đây, Đức Thầy thâu phục viên y-sĩ có phận sự xem-xét về bịnh-tình (!) của Ngài. Viên y-sĩ đó là ông Trần-văn-Tâm, lương-y ngạch Đông-Dương hồi thời Pháp-thuộc. Ông nầy kỉnh tin Đức Thầy vì Ngài đối-đáp trôi chảy những câu hỏi nan giải về Phật-học do ông đưa ra. Đức Thầy lại còn chỉ ông cho về nhà tìm bài ” Vô thường khổ não vô ngã ” ở trong một quyển sách về Phật-học của ông. Ông Tâm lại còn được Đức-Thầy cho thấy nhiều huyền-diệu nhiệm-mầu, nên không ngần-ngại quy-y thọ giáo.
Đức Thầy lại còn thâu-phục được anh gác cửa nhà thương bằng cách chữa lành bịnh đau mắt của thân-mẫu anh ta (chữa bằng một chai nước lã).
Nhờ vậy từ đây anh em tín-đồ muốn vô nhà thương thăm Đức Thầy thường được sự dễ-dãi. Nhiều người thuộc hạng trí-thức và danh-gia vọng-tộc có dịp đến đây trước để biết Đức Thầy sau để quy-y đầu Phật.
Trong thời-gian ở đây, Đức Thầy có viết bài ” Thu đã cuối ” (ngày 30-9 Canh-thìn), bài ” Trao lời cùng ông Táo ” (ngày 3-12 Canh-thìn), bài ” Tự thán ” (tháng chạp Canh-thìn) và rất nhiều bài khác nữa…
e. Lại được về Bạc-Liêu. Lúc còn ở Xà-No, Đức Thầy có xin về Bạc-Liêu. Lại nữa, vì khám-nghiệm đã lâu mà không thấy Đức Thầy có gì gọi là mắc bịnh thần-kinh nên nhà chức-trách Pháp bằng lòng cho Ngài về Bạc-Liêu.
Ngày 11 tháng 5 năm Tân-tị (1941), Ngài được đời ra ở 8 ngày tại sở Công-An Saigon (tục gọi là bót Catinat).
Qua ngày 19 tháng 5 năm Tân-tị (19-6-1941) Ngài mới được đi Bạc-Liêu.
Đến Bạc-Liêu, Đức Thầy được giao cho sở Cảnh sát tuần thành (Commissariat de Police). Chính bà Phùng-thị-Liên (tục gọi bà Cò-tàu Hảo) đã bàn tính với ông và bà Võ-văn-Giỏi (lúc đó là cựu Thơ-Ký Soái-Phủ Nam-Kỳ) để Đức Thầy được lưu- cư tại nhà hai ông bà. Mỗi tuần Đức Thầy phải đến sở Cảnh-sát trình-diện vào ngày thứ hai (buổi sáng).
Ở đây, Ngài không được phép phát phù trị bịnh hoặc thuyết pháp độ nhân. Nhiều người đến ngóng trông ngoài cửa song sắt của ông Ký Giỏi nhưng phải thất vọng trở về vì sở Mật-Thám Chính-trị (Police Spéciale) đang tò-mò dòm ngó. Vì lẽ đó nên Đức Thầy tức cảnh có làm mấy bài thi dưới đây (14-7-41):
Gặp lúc truân-chuyên lắm buộc-ràng,
Cảm-tình bổn-đạo tiếng riêng than.
Tạm ngưng lý-lẽ trong cơn túng,
Xin chớ ưu-sầu cuộc dở-dang.
Nghĩ cuộc đời lương-tâm càng cố-gắng,
Lòng ta rối-rắm cuộc tằm-tơ.
Vì đâu nên nỗi hẫng-hờ,
Với người tha-thiết đợi chờ ngoài song ? !
Những người đến viếng Đức Thầy nhưng vô nhà ông Ký Giỏi không được thì khi trở về tất phải đồn-đãi tin nầy .Bọn lính-kín lấy tin cho Pháp thấy vậy mới lơi sự dòm-dỏ. Nhờ vậy mà, sau lại, có nhiều người được đến vấn an, diện-kiến và quy-y.
Trong khi ở Bạc-Liêu, Đức Thầy có thâu phục nhiều tín-đồ quan-trọng như ông Dương-vĩnh-Phước (tức Cả Hốt), một tín-đồ tu theo Đức Bổn- Sư ở núi Tượng (1), ông Võ-văn-Giỏi, một tín-đồ chí thành chí chơn của Đức Thầy, – ông Chung-bá-Khánh, một đại điền-chủ đã từng du học bên Pháp và sau nầy (1945) có đại-diện cho khối P.G.H.H. để ký tên vào một tờ hiệu-triệu với Nguyễn-văn-Tây, Thanh-Tra Chính-Trị Miền Tây Nam-Bộ (V.M) v.v…
—————–
(1). Trước khi gặp Đức Thầy, ông cả Hốt đã có một cái chùa (chỉ thờ trần đỏ) và đã ” có phần thiêng-liêng “. Ông có lên Xà-No với ông Hội đồng-Điều để thử Đức Thầy. Ông mặc một cái áo tây (paletot) và ngồi ở đàng sau anh em bổn-đạo, nhưng Đức Thầy lại vỗ vai và nắm tay ông ra đàng trước mời ngồi với Ngài.
Trong lúc Đức Thầy ở Bạc-Liêu, ông Cả Hốt thỉnh-thoảng có đến thăm Đức Thầy. Có lần ông dùng ” tiếng trên “, ” hình vẽ ” hoặc ” chữ riêng ” (giống chữ Hán, nhưng người thường đọc không đươc mà trao-đổi tư-tưởng với Đức Thầy.
—————–
Ông bạn Lê-minh-Tòng, một cách mạng gia chơn thành, làm nghề nhiếp ảnh tại Bạc-Liêu (biết coi tay, coi tướng và có cảm tình với P.G.H.H.) có đến chụp hình và coi tay Đức Thầy. Ông ta nói: ” Theo bàn tay của Đức Thầy thì Ngài phải là một nhà đại cách-mạng hơn là một thầy tu ! ” Đức Thầy cười và đáp: ” Ông biết được chiếc xe hiệu gì, tốt hay xấu mà không biết người lái xe ấy là người thế nào !”
Ông Lê-minh-Tòng (bị đày Côn-đào năm 1943, được trở về xứ năm 1945, sau cuộc đảo chánh 9-3-45) có thú-thật với chúng tôi trong một cuộc gặp-gỡ hồi năm 1947 rằng: chính ông đã cảm hứng làm ra bức ảnh cở 9×12 (carte postale), chụp bản-đồ Đông-Dương trên đó có ba cái hình tròn bằng đồng xu. Ấy là ba bức ảnh của Chiêu-Hòa Thiên hoàng (ở đầu trên, ngay thủ-đô Hà-nội), Kỳ Ngoại-hầu Cường-Để (ở ngay kinh-đô Huế) và Đức Thầy (ở ngay thủ-đô Saigon). Vì có bức ảnh nầy nên ông Hiền-Sĩ trong số báo Phục-Hưng ngày 26-8-1916, đã lầm tưởng rằng Đức Thầy có mộng tranh bá đồ vương, mặc dầu từ trước ông Hiền Sĩ đã có lòng tín-phục Ngài.
Chúng tôi tưởng cần phải nhắc lại chuyện nầy:
Trong lúc Đức Thầy ở Bạc-Liêu thì tại làng Thới-Thạnh (Cần-Thơ) có xảy ra vụ Lê-văn-Nguyên mê-tín sát nhơn. Vụ nầy bị đưa ra Tòa Đại Hình Cần-Thơ. Vài tín-đồ H H. vô tình liên-can ít nhiều trong vụ nầy nên cũng bị bắt giam chờ ngày xét xử. Thân-nhơn mấy người nầy có đến khẩn-khoản cầu xin Đức Thầy cứu nạn. Đức Thầy bảo hãy kiếm Trạng-sư Thơi (mà Đức Thầy chưa hề biết danh và gặp mặt) để nhờ ông nầy biện-hộ, Trạng-sư Thơi (ở Sàigòn) khi được người đến xin bào-chữa giùm vụ nầy, cũng không có chút hy-vọng nào gỡ rối được cho thân-chủ. Nhưng may-mắn làm sao ! Vụ nầy lại được một quan Tòa ở Pháp mới qua và là bạn cũ của Trạng-sư Thơi xét xử. Trước khi xử, hai người có gặp nhau. Sau khi hàn-huyên han-hỏi, Trạng-sư Thơi có dịp nói sơ qua cho ông bạn của mình biết nội-dung vụ mà ông ta lãnh cãi. Thế là, vì muốn tỏ cảm-tình với người bạn cũ mới vừa gặp lại, quan Tòa nói trên cho mấy người thân-chủ của Trạng-sư Thơi được trắng án.
g. Lại được dời về Sài Gòn. Lúc ấy, người Nhựt đã chú ý đến Đức Thầy là người có sau lưng một khối quảng-đại quần-chúng. Họ định dời Đức Thầy về Sài-Gòn để lợi-dụng sự cộng-tác của Ngài. Biết rõ ý-định ấy, nhà cầm quyền Pháp tính dời Đức Thầy lên Lào, nhưng họ chưa kịp trở tay. Vài ngày trước khi họ thực-hành ý-định, viên đội Kimura trong Sở Hiến-Binh Nhựt (Kempetai) dùng xe hơi xuống Bạc-Liêu chở Đức Thầy về Sài-Gòn trong đêm mùng 2 tháng 9 năm Nhâm-ngọ (Octobre 1942).
Vì đi ban đêm và bởi lạ đường nên anh tài-xế nhè đường Cà-Mau thẳng tiến. Khi đến Tắc-Vân, xe hư máy nên Kimura phải mượn chiếc xe của ông Lâm-Canh, Bang-trưởng Triều-Châu ở đó để trở lại Bạc-Liêu rồi về Sài-Gòn. Về đến Trung-Lương (Mỹ-Tho) y bị sở Công-An Pháp chận lại và điệu tất cả những người ở trong xe về Sài-Gòn. Hay tin nầy, Bộ Tham-Mưu Nhựt phản-kháng kịch-liệt. Thống Đốc Hoeffel giành bắt Đức Thầy nhưng Bộ Tham-Mưu Nhựt không cho, việc lẽ Đức Thầy có liên-lạc với Chính-phủ Trùng-Khánh.
Sau một thời-gian hai tháng ở lại Sở Hiến-Binh Nhựt (tại Phòng Thương-Mãi Saigon) Đức Thầy được về ở căn phố lầu số 168 đường Lefèvre (sau dời qua căn kế đó, số 150).
Lợi dụng sự có mặt của quân-đội Phù-Tang trên đất nước Việt-Nam các nhóm quốc-gia khởi sự hoạt-động ráo-riết.
Dưới sự điều-khiển của ông Đinh-khắc-Thiệt, một cộng-sự viên đắc-lực của Nhựt, Việt-Nam Thanh-Niên Ái-Quốc Đoàn được thành lập. Đức Thầy có tặng viên Đoàn-trưởng một bài thi, mở đầu bằng câu:
” Vừa nghe nói Đoàn Thanh-Niên Ái-Quốc,
Lòng sĩ-tăng bỗng bật sự vui say !”.
Đức Thầy cũng có phái ông Hồ-nhựt-Tân đến tham dự các cuộc hội họp của Đoàn và giúp-đỡ Đoàn về mặt tinh-thần và tài-chánh. Ngài cũng giúp nhóm Nichi-Nan Shokai của ông Trần-văn-Ân, Ngô-đình-Đẩu trong Ủy–Ban Trung–Ương Việt Nam Phục Quốc Hội ở đường Chaigneau.
Mặc dù Nhựt có công giải cứu Đức Thầy khỏi sự câu thúc của thực-dân Pháp, Ngài cũng giữ một thái-độ dè-dặt với họ, không ỷ-lại bôn chôn, mà vẫn âm-thầm củng-cố lực lượng để chờ khi xử-dụng:
” Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại,
Của cọp rồng trên dải đất ta.
Một mai cọp đã lìa nhà,
Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng ?”
Để tỏ tinh-thần bất-khuất của Ngài, Đức Thầy có đọc hai câu đối:
“Trương Tiên tá Hớn phi thần Hớn,
Quan Thánh cư Tào bất đế Tào.”

VI- Thành tích tranh đấu của Đức Thầy

a. Việt-Nam Độc-Lập Vận-Động Hội. Sau cuộc đảo chánh 9-3-45, ông Hồ-vấn-Ngà và các đảng-phái đều vô cùng lạc-quan.
Trong cuộc lễ quốc-khánh tại Vườn Ông Thượng, họ tuyên-bố nước nhà đã thống-nhứt và độc-lập, và lấy làm lạ sao Đức Thầy lại đưa ra bài Hiệu-Triệu của Việt-nam Độc-Lập Vận-Động Hội, kêu gọi đồng-bào các giới đứng lên vận động cuộc độc-lập ? Đức Thầy cho các vị ấy biết rằng nước Việt Nam chúng ta chưa độc lập đâu ! Cần phải ráo riết vận động mới được ! Quả thật vậy: Hơn 24 năm chiến đấu gay go đã qua mà Nước Nhà vẫn còn trong vòng đau khổ.
Cũng sau cuộc đảo chánh nói trên, tình thế ở các tỉnh miền Tây Nam Việt có nhiều chỗ bất an vì sự thay đổi chánh quyền. Nhà binh Nhựt yêu cầu Đức Thầy đi trấn an dân chúng. Nhờ cơ hội ấy nên Ngài mới thăm viếng được các nơi theo bản hành trình dưới đây:
9-2 Ất-dậu (1945) : rời Saigon, ghé Mỹ-Tho, Cai-Lậy, Vĩnh-Long và đến Cần-Thơ ở đó ba hôm.
13-2 Ất-dậu: đến Long-Xuyên.
14-2 Ất-dậu: đi Châu-Đốc.
Rằm tháng 2 Ất dậu: Về Hòa-Hảo thăm Đức Ông và Đức Bà.
16-2 Ất dậu: đi Long Xuyên ở đó hai ngày.
19-2 Ất dậu: về Saigon (có ghé Sa đéc).
Trong kỳ Đức Thầy đi về miền Hậu giang nầy Ngài được toàn thể anh em tín đồ hoan nghinh nhiệt liệt. Người Nhựt vì muốn nắm trọn Việt Nam hay ít nữa là Nam Việt, và vì sợ lực lượng quần chúng của ĐứcThầy, nên họ yêu cầu Ngài chỉ giữ vị trí tôn giáo và đừng làm chính trị. Chương trình Việt Nam Độc-Lập Vận Động Hội vì thế mà chưa thực hiện được.
b. Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội. Đức Thầy liền kêu gọi “các tông phái Đạo Phật, các nhà sư, các tín-đồ, các nhà trí-thức có xu-hướng về Phật đạo để:
1.Tìm cách nâng cao tinh-thần đạo Phật;
2.Tìm những phương-tiện cứu giúp kẻ nguy-nàn vì thời cuộc gây ra;
3.Giúp-đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang-tế,
4.Binh vực lấy nhau trong sự tín ngưỡng tự do.”
Nhưng vì các nhà sư thiếu tinh-thần đoàn-kết chân-thành nên Hội Việt-Nam Phật-Giáo Liên-Hiệp phải ngưng hoạt-động.
c. Đức Thầy đi khuyến-nông. Vì thế-giới chiến tranh thứ hai làm cho hàng-hóa ngoại bang đắt đỏ mà giá lúa lại quá rẻ nên nông-gia thối chí nản lòng bỏ ruộng-nương lo làm nghề khác. Tình-hình nông nghiệp rất là nguy-khổn. Viễn ảnh của nạn đói (đã làm chết gần 2 triệu người ở Bắc-Việt) đang bao trùm non sông đất nước. Người Nhựt dư biết uy-tín của Đức Thầy ở miền Tây Nam-Việt (vựa lúa của Việt-Nam) rất nhiều nên yêu-cầu Đức Thầy đi khuyến nông.
Thừa cơ-hội độc nhứt vô nhị nầy, Đức Thầy đi khắp miền Tây khuyến-nông thuyết-pháp, thâu nạp tín-đồ và củng-cố hàng-ngũ để chờ cơ ứng dụng.
Trong vòng hai tháng, từ 10-6-1915 đến thượng tuần tháng 8 dl 1945, Đức Thầy diễn-thuyết 107 chỗ. Số thính giả có nơi đến 10 ngàn người. Chỗ ít lắm cũng là một hay hai ngàn người.
Không bút mực nào tả nỗi sự hân-hoan vô hạn của anh em tín-đồ khi gặp Đức Thầy sau hơn 2 năm xa cách. Nhiều khải-hoàn môn làm ở giữa đường và nhiều bàn hương-án được đặt hai bên lộ để tỏ lòng tín-đồ kính mến Thầy, còn hơn cuộc tiếp rước quan Toàn-Quyền đi kinh-lý. Hai bên đường, anh em tín-đồ nam phụ lão ấu đứng chờ cả buổi cả ngày để gặp mặt Đức Thầy đáng yêu đáng kính.
Giờ đây, ta thử xem Đức Thầy diễn-thuyết như thế nào ?
Bước lên diễn-đài (thường thường ở sân vận động, đình, chùa hay rạp hát) và sau khi chào thính giả, Đức Thầy khởi sự nhập-đề. Với một giọng nói trong-trẻo thanh-tao, rõ ràng hấp dẫn, khi bi-cảm lúc hùng-hồn, Đức Thầy dùng lối văn tả-chân để vẽ lại những cảnh chết đói rùng-rợn ở Bắc-Việt làm cho phần đông thính-giả mủi lòng rơi lụy. Đến lúc Ngài kêu gọi đồng-bào lo khuếch-trương nông-vụ thì thính giả lần lượt trở nên hân-hoan. Rồi đến khi Ngài khởi sự thuyết-pháp Phật với những lời văn châu ngọc thường có ẩn-ý hay-ho và những triết-lý huyên-thâm thì thính-giả lại vô cùng cảm kích, phát tâm tu-hành, quy-y Phật-pháp. Số tín đồ, vì có cơ hội nầy, đã gia tăng gấp năm gấp bảy.
Có khi mỗi ngày Đức Thầy phải lên diễn đàn 5 hay 6 chỗ. Có lần Ngài nói ngót 2 giờ, cố nhiên là không có nghỉ trưa. Tuy vậy, người ta không thấy Đức Thầy có vẻ mệt nhọc. Đáng chú ý là Ngài nói không vấp, không ngưng và luôn luôn có mạch lạc, bố trí hẳn hòi. Ai có đi theo Đức Thầy trong kỳ khuyến nông nầy cũng đã thấy không có nơi nào mà Đức Thầy diễn giảng giống nơi nào. Tùy theo trình-độ của toàn thể thính-giả (auditoire), Ngài nói khi thì cao-diệu văn-hoa, khi thì thông-thường giản-dị.
Nếu chúng tôi nhớ không sai thì cuộc hành trình của Đức Thầy trong lúc khuyến-nông đã diễn ra theo thứ tự lược kể dưới đây:
Khởi hành tại Sài-Gòn (nơi căn nhà số 38 đường Miche) ngày 10-6-45, Đức Thầy và ông Lương-trọng-Tường cùng vài đồ-đệ thân-tín xuống Cần-Thơ rồi trải qua Cái-Răng, Sóc-Trăng, Bãi-Xào.
Sau khi khuyến-nông thuyết-pháp tại Sóc-Trăng và Bãi-Xào, Đức Thầy đến Bạc-Liêu ngày mùng 6 tháng 5 Ất -dậu (1945), ở nhà ông Võ–văn-Giỏi.
Chiều bữa sau, Đức Thầy khuyến nông và thuyết-pháp tại đình Tân-Hưng (châu thành Bạc-Liêu). Thính-giả đông nghẹt làm cho mấy người đi sau không thể vô nghe được. Tỉnh-trưởng Truyện, Thẩm án Nguyễn-văn-Đây, Dược-sư Dương-thành-Quới, Trưởng-tòa Le Mons, tu-sĩ Trần-hữu-Lân và nhiều nhà trí-thức trong tỉnh lỵ có đến dự thính. Sau hai giờ chăm chú xem nghe, mọi người đều hoàn-toàn thán-phục tài hùng-biện của Đức Thầy.
Bữa sau, Đức Thầy đi khuyến-nông tại Vĩnh-Châu, chiều lại Ngài thuyết-pháp ở Sóc-Đồn (làng Hưng-Hội).
Ngày kế đó, Đức Thầy đi ghe vô chùa Linh-Quang-Tự của ông Chung-bá-Khánh dựng lên trong đồn-điền của ông tại làng Vĩnh-Lợi.
Chính Đức Thầy đã đặt tên cho ngôi chùa nầy và có làm hai đôi liễn (theo lời yêu cầu của ông Khánh) như vầy:
a.Phật-pháp khai-thông khổ-hải trùng-trùng tâm bất khiếp,
Trần-duyên bế-tắc, liên-đài điệp-điệp đạo vô cùng,
b.Phập-pháp hoằng-khai, chuẩn-tế thương–sanh đăng giác-ngạn.
Trần-tâm tịnh-tận, siêu-thăng cực-lạc tọa liên-đài.
Chùa nầy ông Chung-bá-Khánh giao cho một ông Giáo-Thọ ở Châu-Đốc xuống trụ-trì.
Khi Đức Thầy vừa đến thì trong chùa nổi trống sấm, gióng đại-hồng-chung, và gõ mõ tiếp nghinh trọng-thể. Thấy vậy, Đức Thầy hỏi ông Giáo Thọ có biết chuyện tích về chuông mõ chăng? Thấy ông lúng-túng, Đức Thầy liền tiếp:”Thôi, để lát nữa Thầy sẽ nói cho mà nghe “. Thế rồi trong khi thuyết-pháp, Đức Thầy có nhắc lại chuyện tích cái chuông, cái chày kình (có hình cá kình) và cái mõ có chạm hình con cá ngạc. Ở đây chúng tôi xin miễn thuật tích ấy để bớt sự dài dòng.
Nghỉ trưa tại đây, chiều lại Đức Thầy mới về nhà ông Ký Giỏi.
Trước khi rời khỏi Bạc-Liêu, Đức Thầy có đi Hòa-Bình (khuyến-nông tại nhà ông cả Hốt), Giá-Rai và Cà-Mau.
Trong thời gian còn ở Bạc-Liêu, Đức Thầy có lại nhà một vài tín-đồ như: ông Lâm-ngọc-Vàng, bà Trần-văn-Minh, ông Đoàn-văn-Hoe, ông Trần-văn-Nhựt (Dật Sĩ), ông Trần-văn-Thắng. Ngài cũng có đến thăm vài nhân-viên quan trọng trong Cao-Đài giáo như Y-sĩ Nguyễn-văn-Tiềng và ông Cao-triều-Phát.
Cũng trong dịp nầy, Đức Thầy có nói chuyện ” tam sách ” cho vài nhân-viên giúp việc trong Tòa-Bố và Tòa-Án Bạc-Liêu nghe. Đức Thầy luận-thuyết đại-khái như thế nầy:
Ở đời, làm chuyện gì cũng có tam sách là: thượng sách, trung sách và hạ sách. Người thượng trí thi dùng thượng sách, người trung trí dùng trung sách, người hạ trí thì dùng hạ sách.
Thượng sách là không phí công mà được chuyện, trung sách là có phí công mới được chuyện, hạ sách là phí đủ công đủ sức mà không được chuyện.
Nếu Pháp biết dùng thượng sách thì trong lúc Nhựt đóng quân trên đất Việt (thuở ấy chủ-quyền của Pháp vẫn còn trên đất nước của ta) họ cứ tuyên-bố cho V.N độc-lập. Một khi được độc-lập, dân Việt sẽ cảm ơn và ca tụng nước Pháp có thái-độ quân-tử. Chẳng những thế, hoàn-cầu thế-giới cũng sẽ ngợi-khen Pháp biết trọng tinh-thần tự-do dân-chủ. Đã vậy, quyền-lợi kinh-tế và văn-hóa của Pháp trong nước V.N sẽ được kính-nể. Đó là không phí công mà được việc.
Nếu biết dùng trung sách thì Pháp đã cộng-tác thành-thật với Nhựt. Như thế, sau khi Nhựt đầu-hàng, chủ-quyền và binh-lực của Pháp sẽ còn nguyên vẹn trên nước ta. Phong-trào quốc-gia sẽ khó bành-trướng.
Đó là phải phí công mới được việc.
Nhưng Pháp lại áp dụng chánh sách thứ ba, nghĩa là trong lúc giả-vờ cộng-tác với Nhựt, họ âm-thầm chuẩn-bị để cùng phe De Gaulle thi-hành chiến-lược nội công ngoại kích hầu tiêu-diệt lực-lượng của Nhựt trên bán-đảo Động-Dương. Mưu mô bại-lộ, chánh-quyền của Pháp bị lật đổ, quân-đội Pháp bị giải giới và giam-cầm. Đó là phí công mà không được việc.
Ngày 12 tháng 5 năm Ất-dậu, Đức Thầy từ-giã Bạc-Liêu đi qua Vị-Thanh, Giồng-Riềng và đến Rạch-Giá ngày 16-5 năm Ất-dậu, ở tại nhà ông Nguyễn-công-Hầu. Bữa sau, Đức Thầy đi Kinh xáng Cái-Sắn. Ngày kế đó, Ngài đi Tân-Hội, ở nhà ông Doãn-thiện-Kế (tức Chín-Cây). Rồi Ngài trở về Rạch-Giá ở đó ngày 19 và 20. Bữa sau có ca-nô đưa Đức Thầy đi Sốc-Xoài và Ba-Hòn.
Trong lúc ở Rạch-Giá, Ngài khuyến nông thuyết pháp tại rạp hát Hòa-Lạc. Sau khi Đức Thầy xuống diễn-đài, một giáo-viên hỏi Ngài: “Tại sao đi đâu ông cũng ở nhà những người giàu có chớ không thấy ở nhà kẻ nghèo nàn ? ” Đức Thầy ung dung đáp lại: ” Nhà giàu như cái gò, nhà nghèo như cái hố. Tôi ở nhà kẻ giàu cũng như để ban cái gò xuống cho cái hố nhờ vậy !”
Trong lúc ở Rạch-Giá, Đức Thầy có viếng đình làng Vĩnh-Thanh-Vân (tại tỉnh-lỵ) vì đình nầy có thờ quan Thượng-Đẳng Đại Thần Nguyễn-Trung-Trực và thủ-cấp quan Phó Cơ Điều (Ông Phó Cơ bị tử nạn trong một trận đánh với quân Miên tại Trà-Niên, Rạch-Giá).
Cũng tại Rạch-Giá, Đức Thầy đã trả lời trôi chảy nhiều câu hỏi về tôn-giáo, chánh-trị và khoa-học huyền-bí do các bậc trí thức đưa ra, làm cho họ tấm-tắc ngợi khen. Bác-sĩ Trần-Lũy hỏi thêm: ” Ông có thể cho tôi biết quan-niệm của ông về thuyết Darwinisme không ?” (1)
Đức Thầy ung-dung hỏi lại: ” Phải ông muốn hỏi tôi về vấn-đề ông Darwin cho rằng thỉ-tổ của loài người là con khỉ chăng? – Ồ ! Tưởng chuyện gì, chớ chuyện đó cũ mèm và dễ hiểu quá. Nếu quả thật khỉ là thỉ-tổ của loài người thì từ mấy chục ngàn năm nay nó đã thành người hết rồi, trong rừng sẽ không còn con khỉ nào. Còn như nói người là biến thân của khỉ cũng như con ếch là biến thân của con nòng-nọc thì khi sinh ra, loài người phải có cái đuôi như khỉ, đến lớn lên cái đuôi đó rụng như đuôi nòng-nọc mới phải chớ ! “
Khi Đức Thầy nói đến đây, ai cũng cười xòa và khen phục Ngài là một bậc sáng-suốt phi thường.
Từ giã Ba-Hòn (Rạch-Giá), Đức Thầy đi thẳng Hà-Tiên.
Ông phán Hồ-viết-Long và ông Thầy thuốc Đỗ-văn-Viễn (ở Châu-Đốc) đem xe vô Hà-Tiên rước Đức Thầy về Châu Đốc.
—————-
(1). Câu hỏi nầy khó trả lời vì tuy đã được nhiều nhà bác-học thế-giới nhiệt-liệt bàn-tán nhưng vẫn còn phân-vân bất nhứt.
—————-
Trưa lại, Đức Thầy đi Bình-Di (Benghi) thuộc quận Châu-Phú thuợng bây giờ là quận An-Phú đến tối mới về tới Châu-Đốc.
Lúc Đức Thầy thuyết pháp tại Khánh-Bình ông Đạo Nổi (1) vì cảm-phục quá bèn la lớn ” Hoan nghinh ” Đức Thầy day qua phía ông ta và nói lớn tỏ ý rầy: ” Đạo Nổi !” mặc dầu Ngài chưa biết ông ta lần nào.
Cũng trong dịp nầy, vài ông sãi ở Khánh-An có nằm mộng thấy Phật về thôn họ. Nhưng khi Đức Thầy đến (nhằm lúc dùng cơm), mấy ông sãi vẫn cứ tiếp-tục bữa cơm và không đứng lên thi lễ. Đức Thấy mỉm cười nói với ông Hồ-văn-Lang: ” Ngộ quá há ! Người ta trông Phật, nhưng khi gặp, lại chẳng biết nhìn !”
—————-
(1). Ông ta có cái đặc-tài ngồi xếp bằng dưới sông (chỗ sâu) mà không chìm.
—————-
Hôm sau, cuộc khuyến nông thuyết-pháp cử-hành tại chợ Cái-Dầu.
Biết ông phán Long có việc nhà (đám giỗ) tại Sa-Đéc, Đức Thầy bảo ông cứ đi về, và cho ông biết ngày Đức Thầy sẽ đến Long-Xuyên để ông đón Ngài tại đó.
Bữa sau, Đức Thầy qua Tân-Châu khuyến nông tại sân vận-động rồi đi Hồng-Ngự khuyến-thuyết tại nhà Hương-sư Sô (Chánh Hội-Trưởng Ban Trị-Sự quận Hồng-Ngự). Chiều lại, Đức Thầy về tới Hòa-Hảo (26-5 Ất-Dậu).
Đêm đó, anh em tín-đồ tựu lại quá đông, chen lấn bất kể hàng rào và kiểng-vật của Đức Ông. Anh em ấy ngồi sắp hàng ngoài lộ, từ nhà Đức Ông lên tới chợ Mỹ-Lương (Cái Tắc). Đức Thầy phải ra đường đi lên đi xuống, ngó qua ngó lại cho anh em thấy mặt Ngài nhờ ánh sáng của chiếc đèn măng-sông do một người cầm theo.
Sáng bữa sau (27-5 Ất-dậu), Đức Thầy lên diễn đài tại chợ Vàm (sân vận-động). Dọc đường Đức Thầy ghé nhà ông năm Hiệu, người làng Phú-An, có công đi theo Đức Thầy hồi Ngài ở căn-phố đường Lefèbvre (Sài-Gòn) vì ông nầy vừa mới tắt thở hôm qua. Đức Thầy cầu nguyện cho ông Hiệu và đưa linh cửa đến phần mộ (1) rồi mới đi Chợ-Vàm.
Chiều ngày 27 Đức Thầy thuyết-pháp khuyến-nông tại đình Hòa-Hảo.
Ngày 30-5 Ất-dậu Đức Thầy đem lư-hương từ Tổ-đình xuống chùa An-Hòa Tự (Hòa-Hảo).
Ngày mùng 1 tháng 6 Ất-dậu, Đức Thầy qua Năng-Gù. Ban Trị-Sự tỉnh Long-Xuyên đón Ngài tại đó và rước Ngài về Long-Xuyên. Tới tỉnh-lỵ nầy hồi 11 giờ trưa, Ngài lại ở trọ trong khách-sạn của tỉnh thành.
Chiều bữa đó, Đức Thầy dùng cơm tại nhà một bà Bang-trưởng, tín-đồ P.G.H.H.
Ngày 2-6 Ất-dậu, Đức Thầy đi Vĩnh-Trạch và núi Sập.
Ngày 3-6 Ất-dậu, Đức Thầy đi Chợ-Mới, ngày 4-6 Ngài đi Mỹ-Luông, ngày 5-6 Ngài đi Đốc-Vàng (Tân Thạnh). Chiều lại, Ngài về Mỹ-hôi-Động. Sáng bữa sau, Đức Thầy thuyết-pháp tại sân vận-động thôn Mỹ-hội-Đông rồi về Long-Xuyên.
—————-
(1). Đức Thầy dạy khiêng cái bàn Phật (đã đặt ngoài trời để cầu nguyện) đi trước. Anh em tín-đồ cầm nhang chắp trước ngực niệm “Nam-mô tây-phương Cực-lạc thế-giới, tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp-dẫn vong-linh A-Di-Đà Phật”. Linh cửu đi chót hết.
—————
-Bữa sau, Đức Thầy thuyết-pháp tại Công-sở làng Mỹ-Phước (châu-thành Long-Xuyên),hiện giờ cũng là công sở.
Ngày kế đó, Đức Thầy đi Cái-Sắn.
Bữa sau, Ngài đi Thốt-Nốt rồi trở về Long-Xuyên. Rồi 11 giờ tối ngày ấy Đức Thầy đi luôn xuống Cần-Thơ.
Diễn-đài ở Cần-Thơ là sân vận-động của tỉnh thành. Không cần phải nói, chư độc-giả cũng dư biết rằng số thính-giả ở Tây-đô phải nhiều hơn các chỗ.
Bữa sau, Đức Thầy đi Xà-No thăm gia-quyến ông Hương-bộ Thạnh rồi thuyết-pháp tại Cái-Tắc (nhà ông Hội-đồng Lý-khắc-Tính). Bữa sau nữa, Đức Thầy khuyến nông tại Phụng-Hiệp và Cái-Răng. Trong các ngày kế đó, Đức Thầy thuyết-khuyến tại Trà-Mơn, Ô Môn, Cờ-Đỏ. Có điều kỳ lạ là trong khi Đức Thầy khuyến nông tại Phụng-Hiệp, trời chuyển mưa, mây đen kìn-kịt rồi mưa tuôn xối-xả ở tại chợ, cách đó chừng 100 thước. Nói tóm lại là chung quanh đều mưa to, duy có vùng Đức Thầy đang thuyết-pháp không có mưa?
Sau Cần-Thơ là đến lượt Sa-Đéc, Cao–Lãnh Vĩnh-long, Tam–Bình, An-Trường, Trà–Vinh, Càng-Long, Bến-Tre tiếp rước Đức Thầy.
Chính tại Sa-Đéc, trong dịp đi khuyến nông nầy, Đức Thầy đã viết ra bài ” Phụ nữ ca diêu “.
Ngày 28-7-45, Đức Thầy đến Vĩnh-Long. Tại đây cũng như tại Sóc-Trăng, Cần-Thơ, Đức Thầy ở trong một khách-sạn. Các ông Hội-đồng Nguyễn-hữu-Lễ, Nguyễn-tiến-Hương và Thông-phán Nuôi túc-trực ở đó với Đức Thầy.
Sáng bữa sau, Đức Thầy thuyết-khuyến tại sân vận-động tỉnh thành. Trưa lại, anh em Thanh-Niên Tiền-Phong và anh em tín-đồ ở các thôn tụ họp lại để mong Đức Thầy thuyết nữa. Lúc đó, gương mặt Đức Thầy thật là khả ái. Toàn-thể thính-giả đều quì để nghe, trong lúc trời lâm-râm rớt hột.
Tại Bến-Tre, cô Võ-phụng-Kiều pháp–danh Diệu-Minh (một tu-sĩ đã từng tuyệt cốc, chỉ ăn ròng trái cây) có đến viếng Đức Thầy và được Ngài cho một bài thơ theo lời yêu-cầu của cô.
Trên đường về Sài-Gòn, ngồi trong xe với Đức Thầy, có thi-sĩ Việt-Châu mà Ngài vừa mới thâu-phục tại Sa-Đéc. Dọc đường, ông Việt-Châu có trình Đức Thầy một tập thơ nhan đề ” Lông ngỗng gieo tình “, vẽ lại, bằng những lời thơ chải-chuốt, du-dương, cuộc tình-duyên ngắn-ngủi giữa Trọng-Thủy và Mỵ-Châu. Để phê-bình tập thơ nầy, Đức Thầy ngâm:
Mỵ-Châu ơi hỡi Mỵ-Châu,
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha ?!
Rồi Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thơ tả cảnh ngồi trong xe trên đường về Sài-Gòn. Thấy ông ta nặn óc mãi mà chẳng ra thơ, Đức Thầy liền ứng-khẩu ngâm bài dưới đây:
Xe về chở theo chàng thi-sĩ,
Bảo làm thi mãi nghĩ không ra.
Vậy mà giữa chốn phồn-hoa,
Vang danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu.
Quen thói viết thơ sầu thơ cảm,
Không dìu dân hắc-ám qua truông.
Ngâm nga giọng quá u-buồn,
Làm cho độc-giả quay cuồng mê ly.
Theo dõi gót từ bi mấy bữa,
Phàm tâm kia đã rữa hay chăng?
Đương cơn sóng dậy đất bằng,
Thi-nhân đứng ngó để tăng-sĩ làm.
Tăng sĩ quyết chùa, am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông-pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền-môn trở gót Phật Đà nam-mô.
Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng-trần rứt sạch cửa không.
Chuông linh ngân tiếng đại-lồng.
Ta-bà thế-giới sắc-không một màu.
Sài-Gòn đến trống lầu đã trở.
Đề-huề nhau cửa mở xuống xe.
Khuyến nông chấm dứt mùa hè…

Nói về vấn-đề khuyến nông mà không nói đến bài ” Khuyến nông ” (1) của Đức Thầy đặt ra là một khuyết-điểm vậy.
—————-
(1). Hai câu đầu của bài ” Khuyến nông ” như vầy:
Hỡi đồng-bào, Hỡi đồng-bào.
Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc.
—————-
Muốn cho dân được lòng bền
Mua giùm canh-cụ là nền khuyếch-trương.
Kẻ phu-tá cũng là trọng-trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy-sinh dù thác cũng cam,
Miễn sao cho cánh đồng Nam
Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà.

Điều mà chúng ta cần phải chú ý là Đức Thầy có nói với ông Lương-trọng-Tường (thuở ấy Chánh Thơ-Ký Ban Trị-Sự Trung-Ương P.G.H.H. thành-lập trong vòng tháng 5 dl 1945) như vầy: Bây giờ tôi viết: ” Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc ” mà ngày sau người ta sẽ đọc ” Thằng chệt đã tràn vào Trung, Bắc ” cho mà coi !
Quả thật, ít tháng sau, khi Nhựt đầu-hàng Đồng-Minh đạo-binh của Lư-Hàn được lịnh chiếm đóng nước ta từ vĩ-tuyến 16 trở lên để giải-giới quân Nhựt. Chừng đó ông Tường mới hiểu ra là Đức Thầy tiên-tri.
Khi đi khuyến-nông về, Đức Thầy có cảm-tác làm một bài thi mà dưới đây chúng tôi xin chép bốn câu đầu:
Lìa Sài-Gòn trong vòng hai tháng,
Khi lộn về tiệm quán vắng tanh-banh.
Bởi chưng pháo-lũy phi-hành,
Quăng bom mù-quáng tan-tành còn chi.
đ. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt. – Sau khi về Sài-Gòn, Đức Thầy ra lịnh tổ-chức trước nhứt những đội Bảo-An để giữ việc trị-an trong làng, phòng ngừa trộm cướp, giải-tán những cuộc ấu-đả tìm bắt kẻ gian và các vụ cờ-bạc, giữ-gìn trật-tự (hương-thôn, bảo-vệ mùa-màng)
Thượng tuần tháng 8 năm 1945, bom nguyên-tử nổ ở Quãng-Đảo, Trường-Kỳ. Rồi tin Nhựt-Bổn đầu hàng vô điều kiện đã bắn ra.
Các đảng phái quốc-gia và các tổ chức chánh trị công khai hoạt-động.
Đức Thầy đặt trụ-sở Việt-Nam Độc Lập Vận-Động Hội tại căn nhà mới vừa dọn lại ở góc đường Sohier- Miche. Ngài gấp rút thành lập Đệ-tứ Sư đoàn Dân-quân (có Bác-sĩ Đào-tuấn-Kiệt coi việc quân-y và tuyển lựa quân-sĩ) để đối-phó với tình thế bất trắc.
Ngày 14-8-45, Mặt Trận Quốc-Gia Thống-Nhứt được thành-lập tại Sài-Gòn với bốn khẩu-hiệu:
Chống đế-quốc Pháp,
Chống họa thực-dân,
Bảo-vệ trị an,
Bài-trừ phản-động.
Mặt Trận nầy gồm có: Việt-Nam Quốc-Gia Độc-Lập Đảng (của các ông Hồ-văn-Ngà, Nguyễn văn
Sâm, Trần văn Ân.v.v…), Thanh niên Tiền Phong, Nhóm Trí Thức, Liên Đoàn Công Chức, Tịnh Độ Cư Sĩ, Cao Đài Giáo, Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội. Về sau nhóm “Tranh Đấu” (Đệ tứ Quốc tế) cũng gia nhập.
Ngày 21-8-45, Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt có tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ: Trên 200 ngàn người biểu diễn gần khắp các nẻo đường ở Sài gòn. Sau đó, Mặt trận thường hội họp mỗi đêm tại đường Léon Combes, người ta đã bắt đầu nói đến hai tiếng Việt Minh, nhưng chưa ai biết đại biểu VM ở đâu để mời họ gia nhập Mặt trận. Đức Thầy mỉm cưới và nói một cách có ý nghĩa mà không ai để ý: “Thì VM cũng có đâu đây chớ gì!” té ra Đức Thầy ám chỉ Trần văn Giàu.
e. Mặt trận Việt Minh. Ngày 24-8-45 có thông cáo cho hay các Đảng phái trong Mặt trận Quốc gia Thống nhứt đã thỏa thuận gia nhập Mặt trận Việt minh.
…biểu tình độc lập ngày 2-9-45 và sau khi quần chúng xôn xao vì nghe tin bốn Sư đoàn dân quân bị VM giải tán theo lời yêu cầu của Đồng minh.
minh ở Nam bộ trước nhứt là ai?” 
Ngày 7-9-45, theo chỉ thị Trung ương, Cao hồng Lãnh và Hoàng quốc Việt triệu tập một Hội nghị để cải tổ Ủy ban Hành chánh Nam bộ, Đức Thầy được đề cử vào Ủy Ban nhân dân. Nhưng sau khi hội nghị giải tán, Trần
văn Giàu cho cảnh sát bắt Đức Thầy lúc Ngài vừa bước xuống thang lầu. Ngài kháng cự nên họ không dám làm hổn. Trong số đại biểu các Đảng phái, có người lại can thiệp nên họ đành phải để cho Đức Thầy thong thả trở về.

Đứng trước những hành vi mờ ám, độc tài thế ấy, và trong lúc nền Đôc lập của nước nhà bị đe dọa, toàn thể tín đồ PGHH có bổn phận áp dụng quyền Tự do của người công dân sống dưới chánh thể Dân chủ Cộng hoà để phản
kháng trước dư luận quần chúng.

Vì thế, anh em tín đồ ở Cần thơ được lịnh tổ chức ngày 8-9-45 (mùng 3 tháng 8 năm Ất dậu) một cuộc biểu tình lớn lao để đưa ra ba khẩu hiệu:
–Võ trang quần chúng.
–Tẩy uế những phần tử thúi nát trong Ủy ban Hành chánh Nam bộ.
–Ủng hộ triệt để Chánh phủ Việt minh.
Ban tổ chức cuộc biểu tình nầy đã có xin phép trước với Ủy ban Hành chánh Cần thơ, thế mà, ngày nói trên đây, bọn độc tài không cho mấy vạn tín đồ HH đi biểu diễn.
Ba ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ của Đức Thầy), Nguyễn xuân Thiếp (tức Thi sĩ Việt Châu) và Trần ngọc Hoành (trưởng nam của ông Trần văn Soái, đương kim Tổng tư lịnh quân đội PGHH) điều đình mãi với họ mà cũng vô hiệu quả.
Anh em tín đồ nhẫn nhịn chờ đợi tới trưa, nhưng rốt cuộc họ đành tự giải tán ra về. Thình lình bên VM bắn xả vào đám quần chúng không võ trang, bắt ba ông Mậu, Thiếp, Hoành và cả vạn tín đồ ở Cần thơ và ở các tỉnh
miền Tây Nam bộ giam cầm, đánh đập và phao vu đủ điều… Trong số những người bị VM giam cầm, có các ông Lâm thành Nguyên (một ông Đạo đã từng tuyệt cốc, ăn ròng bông, trái và hiện nay là phó Tư lịnh Quân đội PGHH), Chung bá Khánh, Đỗ hữu Thiều và nhiều nhân viên trọng yếu của Ban trị sự PGHH ở các tỉnh.
Sau lại, ngày mùng 2 tháng 9 năm Ất dậu (7-10-45) bọn độc tài hành quyết ba ông Mậu, Thiếp, Hoành tại sân vận động Cần thơ.
Rồi ngày 24 tháng 9 năm Ất dậu, họ giết các ông Chung bá Khánh, Đỗ hữu Thiều, Võ văn Thời, Nguyễn hữu Giáp….tại vàm Láng Thé (Trà Vinh).
Ở Sài Gòn đêm mùng 4 tháng 8 năm Ất dậu (9-9-45) bọn thuộc hạ của Trần văn Giàu bao vây Văn phòng Đức Thầy tại số 8 góc đường Sohier-Miche (1) và bắt giam nhiều nhân viên trọng yếu, chỉ có một mình Đức Thầy
thoát thân dễ dàng, mặc dù trước khi bạo hành Trần văn Giàu có gọi điện thoại nói chuyện ngay với Đức Thầy và biết chắc rằng Ngài có mặt tại Văn phòng.
____________________________________
(1).
Đức Thầy dời Văn phòng về đây ngày rằm tháng 7 năm Ất dậu.

Bữa sau, Đức Thầy từ Gia Định đi Biên Hòa để ẩn lánh.
Ngài lại đi Long Khánh (Biên Hòa) với một tín đồ tại đây. Ngài ẩn thân trong một vườn trà Huế ở giữa rừng. Vì có việc lôi thôi cho mấy anh em theo hộ vệ Ngài nên Đức Thầy cùng họ phải di cư đến Cỏ May (Bà Rịa). Về sau, Ngài phải đi sâu trong rừng chà là. Thật là:
Từ ấy lao mình vượt khổn nguy,
Băng rừng lội suối giả man di.
Ngày mong ải Bắc, oan nầy giải,
Đem sức ra nâng lá quốc kỳ.
…bộ dời về chợ Đệm.
Việt gian phản quốc (?) trong hàng Nhân sĩ hay thường dân tản cư làm cho dân chúng phẩn uất chán nản.
Nam. Trong lúc đó, tướng Nguyễn hòa Hiệp, Trưởng Đệ tam Sư đoàn khởi xướng phong trào chống họa độc tài đỏ, giàn binh chận ngang trung tâm Cao Lãnh và Đồng Tháp Mười.
Ở miền Tây Nam bộ, có những cuộc xô xát lưu huyết xảy ra (giữa VM và HH) do sự phẩn uất của một nhóm võ sĩ mà Đức Thầy đã kết nạp vào hàng ngũ Bảo An đội.
Gần cuối năm Ất Dậu, tình hình ở Nam bộ trở nên vô cùng rối rắm. Bọn Trần văn Giàu đào tẩu ra Bắc bộ. Đức Thầy mới cùng anh em tín đồ ở Cần Giờ (đã đến lo liệu mọi việc ăn ở cho Ngài ờ rừng chà là) trở về
Chợ Lớn vào thượng tuần tháng chạp năm Ất dậu.
Sau lễ Tết năm Bính tuất, nghĩa là trong vòng tháng 2 dl năm 1946, Đức Thầy có vài liên lạc gián tiếp với anh em tín đồ. Những cuộc xung đột dữ dội ở miền Tây ngừng dứt một cách rõ rệt nhờ những lời lẽ cảm động
của Đức Thầy trong bài “Tiếng chuông cảnh tỉnh” mà chúng tôi xin chép dưới đây:
Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến-sĩ,
Mở lòng ra thương nghĩ sanh-linh.
Đồng-bào ai nỡ dứt tình,
Mà đem chém giết để mình an vui.
Dù lúc trước nếm mùi cay đắng,
Kẻ độc-tài đem tặng cho ta.
Sau nầy tòa-án nước nhà,
Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình.
Lúc bây giờ muôn binh xâm-lược,
Đang đạp vày non nước Việt-Nam.
Thù riêng muôn vạn cho cam,
Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công.
Khắp Bắc Nam Lạc-Hồng một giống,
Tha thứ nhau để sống cùng nhau.
Quí nhau từng giọt máu đào,
Để đem máu ấy tưới vào địch quân.
Đứng anh-hùng vang lừng bốn bể,
Các sắc dân đều nể đều vì.
Đồng-bào nỡ giết nhau chi,
Bạng duật tương trì lợi lũ ngư-ông.
Hỡi những kẻ có lòng yêu nước,
Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê.
Anh em lớn nhỏ quày về,
Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly.
Đả-đảo bọn Nam-kỳ nô-lệ,
Kiếp cúi lòn thế-hệ qua rồi.
Lời vàng kêu gọi khắp nơi,
Anh em chiến-sĩ nhớ lời ta khuyên.
(Viết vào lối tháng 2 tại Miền-Đông, năm 1946 để khuyên anh em tín-đồ Hòa-Hảo chấm dứt
các cuộc xung-đột với Việt-Minh).
Mặc dù khi trước bị bọn độc tài âm mưu hãm hại hay là phao vu đủ điều, nhưng Đức Thầy cũng không đành để cho nước non tan vỡ dưới gót giày của bọn xâm lăng:
    Nếu mất, thôi đành xong mối nợ,
Nay còn há dễ ngó lơ sao ?
Bởi vậy cho nên, một lần nữa, Ngài cũng “Quyết rứt cà sa khoác chiến bào”. Và mặc dù quân xâm lăng hùng cường thế mấy, Ngài cũng không hề thối chí nản lòng:
         Dầu cho giặc mạnh há lòng nao,
Nam Việt ngàn xưa đúc khí hào.
Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị,
Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.
g. Mặt trận Quốc gia Liên hiệp. Thế là, từ đó Đức Thầy khởi sự gặp gỡ đại diện các đảng phái, các đoàn thể khác.
Ngày 2-4-46, tướng Huỳnh văn Trí tức Mười Trí (Bình Xuyên), Chỉ huy trưởng Chi đội 4 Vệ quốc đoàn triệu tập một hội nghị bất thường tại Bà Quẹo, có đại diện chính trị các nhóm và các vị chỉ huy quân sự tham dự. Ủy
ban Liên hiệp Kháng chiến được thành lập và gồm có các ông Phạm Thiều, Nguyễn Bình, Phan định Công, Mai thọ Trân thay mặt cho VM cùng nhiều nhân vật khác trong giới quốc gia để phân chia công tác (thay thế Ủy ban Hành chánh và Kháng chiến Nam bộ).
Ngày 20-4-46, ông Vũ tam Anh, Trưởng Đệ nhị Sư đoàn, hiệp tác với tướng Huỳnh văn Trí, có triệu tập cũng tại Bà Quẹo, một Đại Hội nghị quân sự và chánh trị đầy đủ hơn, nghĩa là, ngoài những yếu nhân có mặt kỳ trước,
lại còn có các tướng lãnh Bình Xuyên, tướng Nguyễn hòa Hiệp và một người mà toàn thể Hội nghị ước ao mong đợi, ấy là Đức Thầy !
Sau những cuộc thảo luận sôi nổi kéo dài ba ngày đêm, mọi người đều chấp thuận giải pháp liên hiệp các đoàn thể, không phân biệt màu sắc chánh trị, tôn giáo để huy động toàn lực chống xâm lăng.
Đức Thầy (dùng biệt danh Hoàng Anh) được bầu cử làm Chủ tịch cơ quan lấy tên là Mặt trận Quốc gia Liên hiệp. Ông Vũ tam Anh làm Phó chủ tịch, ông Lê trung Nghĩa làm Ủy viên Thông tin và Tuyên truyền. Các tướng lãnh
Huỳnh văn Trí, Nguyễn Bình, Lê văn Viễn, Dương văn Hà, Lại hữu Tài, Bác vật Hồ ngọc Chiếu…được dự vào Ban chấp hành Trung Ương và thành lập Ủy ban Quân sự tối cao.
Mặt trận nầy quả thật là một Mặt trận kháng chiến, võ phòng đóng tại ấp Tám làng Vĩnh Lộc (miệt Bà Quẹo, 18 thôn vườn trầu) và có một tờ báo bí mật là tờ Tự Do.
Đức Thầy nhơn danh Chủ tịch của Mặt trận, lo củng cố lại các cơ quan quân chính đã tan rã sau cuộc đào vong của Trần văn Giàu và bè lũ của hắn.
Sau đó, Đức Thầy, ông Lê trung Nghĩa và giáo sư Phạm Thiều lãnh sứ mạng về Sài Gòn hoạt động, cộng tác, tăng gia lực lượng dân chúng kháng chiến, ủng hộ Mặt Trận.
Nhưng rồi nhiều người bị đối phương bắt, trong đó có Cha Luật, Cha Sang…Duy có Đức Thầy, ông Lê trung Nghĩa và một số nữ liên lạc thoát khỏi.
Thừa dịp nầy, Ung văn Khiêm và Nguyễn Bình tách khỏi Mặt trận Quốc gia Liên hiệp và đề nghị đổi M.T.Q.G.L.H. ra Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, nhưng đề nghị nầy bị đa số bát bỏ.
Nguyễn Bình liền lợi dụng chánh quyền ra lịnh giải tán Mặt Trận và khủng bố các đoàn thể có chơn trong ấy. Ở miền Tây Nam bộ, cuộc xung đột giữa HH và VM bắt đầu tái diễn. Ở Bắc bộ, các đảng phái Quốc gia bị VM
(hiệp tác với quận đội Pháp) tấn công, phải kéo sang Tàu.
Đứng trước tình thế nguy ngập của nước nhà, Đức Thầy liền triệu tập Đại hội để quyết định thái độ của phái Quốc gia đối với sự phản bội của phe Cộng sản. Nhận thấy dã tâm ấy, các đoàn thể không tự cho phép mình
dùng võ lực để đối phó (sợ e làm suy giảm lực lượng kháng chiến) nên tạm giải tán Mặt Trận (trung tuần tháng 7 năm 1946), nhưng không gia nhập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam.
h. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Đứng trước tình thế ấy, Đức Thầy thấy có bổn phận tiếp tục công tác với các cấp chỉ huy quốc gia như các ông Huỳnh văn Trí và Lê văn Viễn.
Ngày 21 tháng 9 năm 1946, Đức Thầy đã cùng các ông Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân, Nguyễn hoàn Bích, Lâm văn Tết… đề thành lập Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng ngõ hầu kết nạp những đoàn thể quốc gia lẻ tẻ khác.
Trong một cuộc hội nghị, giáo sư Phạm Thiều biệt hiệu Trường Phong (Ủy viên Tuyên truyền Ủy ban Hành chánh Nam bộ) có chỉ trích hành vi của tín đồ Hòa Hảo ở miền Hậu Giang. Đức Thầy trả lời: “Đứng về mặt tôn giáo, tôi lấy đức hiếu sinh của nhà Phật là tiêu chuẩn, song tôi đã ra làm chánh trị thì những sự xô xát thương tâm do bên Việt minh gây ra, tín đồ PGHH chỉ đứng về phương diện tự vệ mà thôi”.
Đáp lại lời Ông Phạm Thiều cho rằng Mặt trận Việt Minh là một Mặt trận dân chủ, đã thực hiện được một chánh phủ hoàn toàn dân chủ, Đức Thầy nói:” Tôi chỉ nhìn nhận những phần tử Việt Minh chân chánh, còn cái quái
thai của Việt Minh vừa qua, tôi nhứt định không nhìn nhận”.
Đầu tháng 10 năm 1946, ông Phạm Thiều có làm 5 bài thơ tứ cú, đại ý xin Đức Thầy dẹp mối hiềm xưa để trở về tham chánh cứu nước cứu dân:
Chẳng áo cà sa chẳng chiến bào,
Về đây tham chánh mới là cao.
Non song còn đợi người minh triết,
Đừng để danh thơm chỉ Võ Hầu.
Đức Thầy có đáp họa, đại khái nói tâm Ngài đã từ bi thì đâu có vướng mối hiềm xưa, nhưng Ngài vẫn lọc lừa những đồng chí trong sạch! Và nếu quả có bậc tri âm tri kỷ thì ta hãy hiệp lực vậy.
Thế là, trung tuần tháng 10 dl. 1946, Đức Thầy đã nhận tham gia Ủy ban Hành chánh Nam bộ với nhiệm vụ Ủy viên Đặc biệt:
1.- Để tỏ cho quốc dân và chánh phủ VM thấy rằng Ngài chủ trương thống nhứt lãnh thổ và độc lập quốc gia.
2.- Để biểu dương tinh thần đoàn kết của dân tộc hầu mau đem lại thắng lợi cuối cùng;
3.- Để tỏ cho các Đảng phái thấy rằng Ngài không khi nào có những tham vọng cao sang, vương bá hay vì hiềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu quốc.
Sau khi Đức Thầy tham chánh, đoàn thể Hòa Hảo bắt đầu tín nhiệm nơi sự hiệp tác với VM. Sự tham chánh nầy “cáo chung những tuyên truyền láo khoét phao vu từ trước tới giờ. Những sự tuyên truyền đó làm cho đoàn thể bị tủi nhục”.
Thấy Đức Thầy tham chánh, ông Hồn Quyên có xin Ngài cho biết lý tưởng chánh trị của Ngài có liên quan với Giáo lý nhà Phật chăng? (Báo Nam Kỳ ngày 29-11-46).
Đức Thầy trả lời như vầy:
“Theo sự nhận-xétcủa tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai-sáng lấy
Chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với tất cả chúng-sanh làm nòng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để về tư-tưởng; vì những câu “Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng với chúng-sanh”. Đã có những sự bình-đẳng về thể-tánh như thế mà chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến-hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian nầy còn có chúng-sanh tiền-tiến áp-bức những chúng-sanh lạc-hậu thì
là một việc trái hẳn với những giáo-lý chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó, Đức Thích-Ca Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn cảnh xã-hội Ấn-Độ xưa không thuận-tiện. Thế nên Ngài chỉ phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay, trình-độ tiến-hoá của nhơn-loại đã tới một mức khả-quan, đồng thời với tiến-bộ về khoa-học thì ta có thể thực-hành giáo-lý ấy để thiệt-hiện một xã-hội công-bằng và nhơn-đạo. Thế nên với cái tâm-hồn bác-ái, từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều-hòa với phương-pháp tổ-chức xã-hội mới, để
phụng-sự một cách thiết-thực đồng-bào và nhơn-loại.”
Trong tuần tháng giêng năm 1947, Đức Thầy ra lịnh cho ông Trần văn Soái di chuyển lên miền Đông một đạo binh để củng cố thực lực ở đó.
Về vấn đề quân sự, từ tháng 6 năm 1946, lực lượng Hòa Hảo đã được tổ chức thành 3 Bộ đội (1, 2, 3) lấy tên là Nghĩa quân Cách Mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn trung Trực. Sau ngày thành lập Đảng Dân Xã, lực lượng nầy
trờ thành Chi đội 30 Nguyễn trung Trực. Ban chỉ huy Bộ đội nầy gồm có các ông:
Nguyễn giác Ngộ, Chi đội Trưởng, Lâm thành Nguyên, Chi đội Phó, Trương kế Tự, Chánh trị viên. Sự chỉ huy Bộ đội lưu động số 2 miền Đông được Đức Thầy giao cho ông Trần văn Soái. Còn ông Lê quang Vinh tức Ba Cụt (Đương kim Chỉ huy Trưởng Bộ đội Nghĩa quân Cách Mạng) thì lúc ấy chỉ huy một phân đội trong Chi đội 030
(1).
Trong hạ tuần tháng 3 năm 1947, do lời mời của ông Lê trung Nghĩa, một phái đoàn gồm Đức Thầy, ông Huỳnh văn Trí, ông Lại hữu Tài (Đại diện phó Khu trưởng Lê văn Viễn) đến Tòa thánh Tây Ninh hội đàm cùng Hộ pháp
Phạm công Tắc.
Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai vị Giáo chủ, Đức Thầy đã được các chánh giới Cao Đài kính yêu tín nhiệm nhờ tánh khiêm tốn, tài hùng biện và trí sáng suốt của Ngài.
i. Đức Thầy về miền Tây và thọ nạn. Nhưng rồi giữa Việt Minh và Hòa Hảo lại tái diễn nhiều cuộc xô xát ở miền Tây Nam bộ.
Ngày 17-2-47, Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt toàn quốc gọi tắt Mặt Trận toàn quốc ra đời (2) tại Nam Kinh (Trung Hoa) sau khi vài nhân viên trong Mặt Trận Quốc gia Liên hiệp liên lạc với các đoàn thể bên ngoài như:
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Nguyễn hải Thần), Việt Nam Quốc dân Đảng (Nguyễn tường Tam).
(1). Chi đội 30 gồm có 3 Đại đội: Ông Trần tín Nghĩa chỉ huy Đ Đ.1, ông Ngô trung Hưng tức Lâm thế Xương chỉ huy ĐĐ.2, ông Lê hoài Nam chỉ huy ĐĐ.3, ông Lê phát Khuynh là Tham mưu của ĐĐ.3
(2). Mặt trận nầy gồm có:
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội.
Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Viết Nam Dân chủ Xã hội Đảng.
Việt Nam Quốc gia Thanh niên Đoàn.
Cao Đài.
Đoàn thể dân chúng.
Liên đoàn Công chức.
Vì trong bưng bị địch quân đốt phá nên vào lúc 9 giờ tối ngày 23-3-47 (1-2 nhuần Đinh Hợi) Đức Thầy chuẩn bị cuộc di binh khởi hành tại Vàm Vè. Đến 6 giờ sáng bữa sau, đoàn binh đến thôn Thủy Đông (tục gọi vùng Hội Đông sáng tạo). Chiều bữa đó đoàn binh di chuyển đến thôn Thuận Nghĩa Hòa (chiến khu 8) vào lúc 9 giờ tối. Lúc
đó Chi đội 4 và 25 của Bình Xuyên đóng tại Sông Soài và vịnh Sao. Đức Thầy ở gần Bộ đội lưu động số 2 đóng tại Cái Cỏ.
Ngày 5-4-47 (14-2 nhuần) vào lúc 2 giờ chiều, Đức Thầy đi từ giã anh em trong Chi đội 4 và 25. Đến 5 giờ chiều, Đức Thầy di hành về miền Tây. Vào lúc 1 giờ khuya đêm đó, Đức Thầy đến trạm gác của Chi đội 18 (VM). Nhờ dịp nầy, 3 chiếc ghe, trong đó có một chiếc của Bà Xã Được, được trả tự do sau khi bị bắt giữ mấy hôm. Đến 6 giờ sáng, đoàn binh đến “Gãy” (Kinh Gãy).
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 6-4-47, Đức Thầy đến chợ Tháp Mười, 1 giờ trưa Ngài đến chợ Cái Bèo, 2 giờ chiều đến Ba Sao, 5 giờ chiều đến vàm Kinh Phong Mỹ, 3 giờ rưỡi khuya đến ngọn Ba Răng, Đức Thầy lên
nhà nghỉ và sai liên lạc cho Chi đội 30 hay.
Thế là, để cứu vãn tình thế, Đức Thầy đã từ Chiến khu 7 (miền Đông) trở về Chiến khu 9 (miền Tây) vì ban hòa giải gồm có ông Hoàng Du Khương (VM), Linh mục Nguyễn bá Luật (Công giáo), ông Mai văn Dậu (HH)
đã trở thành vô hiệu.
Đức Thầy đặt Văn phòng gần ngọn Rạch Ba Răng, thôn Phú Thành (Long Xuyên) tại nhà ông Bí thơ Ban chấp hành thôn nầy, nghĩa là kế cận Chi đội 30 Vệ quốc Đoàn Việt Nam do ông Nguyễn giác Ngộ chỉ huy
và Bộ đội lưu động số 2 do ông Trần văn Soái chỉ huy.
Cách mấy bữa sau, Đức Thầy có được Thư Mời dự hội nghị của Trần văn Nguyên, đặc phái viên kiêm Thanh tra Chánh trị miền Tây Nam bộ. Đức Thầy nhận lời. Thế là ngày 15-4-47 (24 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi) lối
7 giờ sáng, Đức Thầy xuống ghe đi với 3 người chèo, 4 tự vệ quân, ông Đại đội Trưởng Đại đội 2, Chi đội 30 và ông Huỳnh hữu Thiện (Thơ ký Văn phòng Đức Thầy). Kể luôn Đức Thầy thì trong ghe có tất cả 10 người, võ trang 4 Mi-trây-dết, 3 súng lục.
Lối 8 giờ sáng, ghe tới chợ Ba Răng, Trần văn Nguyên xuống bến chợ đón rước Đức Thầy. Mười lăm phút sau, Đức Thầy đứng lên diễn thuyết tại chợ nầy. Trước một số thính giả khá đông, Ngài kêu gọi hai bên VM và Dân xã nên gát bỏ thù hiềm cá nhân để chung lo vận mạng của nước nhà. Trần văn Nguyên đứng lên nối lời Đức Thầy và cũng kêu gọi đoàn kết.
Bữa ấy, Đức Thầy dùng cơm trưa với Trần văn Nguyên trong một căn phố gần đó. Lối 12 giờ trưa, Trần văn Nguyên và một người Thơ ký xuống ghe đi chung với Đức Thầy đến Văn phòng Ủy ban Hành chánh tỉnh Long Xuyên đóng tại ngọn rạch Đốc Vàng Hạ (thôn Tân Phú).
Tại đây, Đức Thầy và Trần văn Nguyên có thảo ra nhiều tờ Hiệu triệu kêu gọi hai bên đừng xô xát nhau và bố cáo cho dân chúng biết rằng hiện giờ các vị chỉ huy cao cấp hai bên đang bắt tay nhau lo việc hòa giải.
Sau khi dùng cơm chiều tại đây xong, Đức Thầy xuống ghe lại nhà của một tín đồ ở gần đó chừng 300 thước để nghỉ.
Bữa sau, nghĩa là ngày 14-4-1947 (25 tháng Hai nhuần năm Đinh Hợi), lối 7 giờ sáng, Đức Thầy trở lại chỗ cũ hội đàm với Trần văn Nguyên và giàn xếp nhiều vụ xung đột. Ông Ngô trung Hưng Đại đội Trưởng Đại đội 2/30 và một nhân viên của Trần văn Nguyên được phái đi các thôn trong tỉnh Long Xuyên để hòa giải đôi bên.
Sau khi dùng cơm trưa tại đây xong, Đức Thầy xuống ghe nghỉ. Ông Huỳnh hữu Thiện vẫn còn ở trên Văn phòng với Trần văn Nguyên. Vào khoảng 12 giờ trưa, Đại đội 66 chi đội 22 do Bửu Vinh chỉ huy kéo binh kích xung quanh Văn phòng và trao cho ông Thiện một bức thơ gởi Đức Thầy yêu cầu Ngài cho yết kiến. Xem thơ xong, Đức Thầy bước lên Văn phòng (ở trọn trong vòng binh của Bửu Vinh), bốn tự vệ quân của Đức Thầy cầm súng đứng bốn góc Văn phòng.
Khi hầu chuyện với Đức Thầy, Bửu Vinh có một cử chỉ rõ rệt cừu thị. Mãi đến 3 giờ chiều, Bửu Vinh đưa ra một Bản phúc trình báo cáo rằng ở Lấp Vò, Vàm Cống (Long Xuyên) Dân Xã giết VM nhiều lắm nên y yêu cầu Đức Thầy đến tận nơi giàn xếp, Đức Thầy trả lời: “Để rồi tôi sẽ phái người đến đó!” Bửu Vinh nhứt quyết buộc Đức Thầy phải đi.
Đến đây cuộc bàn cãi trở nên sôi nổi, mạc dù biết mình đang ở trong vòng vây, Đức Thầy cũng không tỏ vẻ khiếp đảm. Trái lại, Ngài biện luận hùng hồn làm cho đối phương nhiều phen im lặng.
Sau rốt, Bửu Vinh cũng nhứt định yêu cầu Đức Thầy phải đi. Thấy thế, Đức Thầy ưng thuận đi nhưng với điều kiện là Bửu Vinh phải cùng đi với Đức Thầy. Bửu Vinh từ khước và trả lời:” Nếu một nhân viên cao cấp của chánh phủ đi với những người trong đoàn thể Hòa Hảo thì cần phải có một bộ đội Vệ quốc đoàn võ trang theo ủng
hộ”.
Đức Thầy trả lời với một giọng đanh thép:”Nếu quý ông nói vậy, tại sao tôi có một ít người, không Bộ đội ủng hộ mà dám đi vào sào huyệt của mấy ông? Như thế thì quý ông không thành thật.”
Bửu Vinh trả lời không được nên chịu đi và mời Đức Thầy tới Văn phòng của y rồi sẽ đi luôn thể, Đức Thầy hứa chịu. Bửu Vinh rút binh ra đóng căn cứ phiá ngoài vàm.
Liền khi đó, Trần văn Nguyên trao cho Đức Thầy một mảnh giấy và nói rằng:”Tôi vừa tiếp được tin điện (?) của Ủy ban Hành chánh Nam bộ gởi xuống mời ông và tôi lập tức trở về miền Đông dự phiên nhóm bất thường”.
Sau khi xem, Đức Thầy nói:”Tôi không thể trở về miền Đông dự phiên nhóm nầy vì cần phải ở lại đây giải quyết cho ổn thoả những vụ xung đột”. Trần văn Nguyên cho biết y phải đi 6 giờ chiều ngày đó mới kịp thì giờ.
Trời sẫm tối, Trần văn Nguyên từ giã Đức Thầy, y lời hẹn, Đức Thầy xuống ghe ra Văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc của Ủy ban Hành chánh dẫn đường.
Trời tối như mực. Đi một đỗi xa xa, bỗng trên bờ có tiếng la:”Ghe ai đó? Tại sao giờ nầy đã thiết quân luật mà còn dám đi?”.
Đi ra Văn phòng ông Bửu Vinh, người liên lạc trả lời.
-Ghe ghé lại! một tiếng khác tiếp theo.
Đèn chóa rọi xuống ghe và có người ra lịnh trình giấy tờ. Ông Thiện lật đật chạy lên cho coi giấy. Thì ra người hỏi đó là Bửu Vinh. Y hỏi ông Thiện:” Ông Ủy viên Đặc biệt có dưới ghe không?
– ” Có!” Đức Thầy ở dưới ghe vội vã trả lời.
Bửu Vinh mời Đức Thầy lên Văn phòng, Ngài liền đi với bốn tự vệ quân.
Văn phòng nầy đặt trong một ngôi nhà ngói, Đức Thầy ngồi bàn giữa tiếp chuyện với Bửu Vinh, còn bốn tự vệ quân thì cầm súng đứng hai bên cửa, cách Đức Thầy một thước tây.
Mười phút sau, lối 7 giờ rưỡi tối, bọn VM ở ngoài đi vô 8 người chia ra cặp nách bốn tự vệ quân của Đức Thầy và đâm chết ba người, người thứ tư, anh Phan văn Tỷ tức Mười Tỷ nhờ võ giỏi và trí lanh nên thoát khỏi,
chạy ra ngoài có bắn một loạt Mi-trây-dết. Lúc anh Mười Tỷ né khỏi mũi dao găm của một trong hai chiến sĩ VM cặp nách anh thì người chiến sĩ kia bị đồng chí của mình đâm trúng té quị. Vừa lúc đó thì Đức Thầy từ trước đến giờ vẫn bình tĩnh, lẹ làng thổi tắt cái đèn. Trong văn phòng tối thui, không ai biết Đức Thầy đi đâu cả…!
Tiếng súng nổ dữ dội…Ông Thiện nhảy xuống rạch tẩun thoát. Ba anh chèo ghe chạy trước về báo tin cho các tướng lãnh hay.
Tiếng tù và nổi dậy liên hồi, làm chấn động một góc trời Tây! Đoàn dân quân cương quyết đi báo thù. Nhưng vào lúc 12 giờ khuya, một người tín đồ PGHH ở gần chỗ xảy ra cuộc bạo hành, chạy ngựa mang đến Phú Thành một bức thơ chính của Đức Thầy trao tận tay ông ta.
Bức thơ ấy như vầy:
Ông Trần văn Soái và ông Nguyễn Giác Ngộ.
Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra tôi với ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra; trong mấy anh em phòng vệ không biết chếth ay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động.
Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ về sau.
Phải triệt để tuân lịnh.
Ngày 16-4-1947 9 giờ đêm.
(có ký tên)

Vì bởi có lịnh của Đức Thầy nên anh em sĩ binh Dân Xã cùng Ban chỉ huy các Bộ đội phải triệt để tuân hành. Thế là từ ngày 16-4-47 đến nay không ai biết Đức Thầy lưu trú hà phương.
Trong khoảng thời gian ấy, nhiều tin trái ngược đã được đưa ra. Đối phương thì nói Ngài đã bị VM làm hại, anh em tín đồ thì tin chắc rằng Ngài đã thoát thân một cách dễ dàng như kỳ trước (đêm 9-9-1945 tại Sài Gòn) và một ngày kia Ngài sẽ về, về để làm chấn động một góc trời Nam, về để cho thế giới hoàn cầu biết rằng ở nước Việt Nam nầy có một vị anh hùng vô địch mà cũng là một vị Giáo chủ vô song, về để thực hành câu “Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”…

Ngày giờ ấy chẳng xa. Và cái gì phải đến thì nó sẽ đến.
Tại sao anh em tín đồ tin tưởng như thế? Đó là vì:
1.- Trước khi xảy ra tai nạn, Đức Thầy có hỏi một nhân viên hầu cận: Ngày bữa nay ngày mấy âm lịch. Nhân viên nầy có trả lời là ngày 25 tháng 2 nhuần. Đức Thầy bèn chép miệng than rằng: “Ngày nay là ngày đau khổ nhứt! Ôi! Sao mà khổ quá vậy!”
2.- Chính Đức Thầy có hỏi ông Mười Tỷ biết hướng nào về Phú Thành chăng. Khi anh nầy chỉ hướng thì Đức Thầy nói: Phải! Thì ra chính anh Mười Tỷ là người sống sót để chạy về báo tin, còn ba tự vệ quân kia đều bị giết hết.
3.- Đức Thầy có nói với ông Ngô thành Bá tức Biện Đài trong dịp dẫn ông Đài đi núi Tà Lơn rằng sau nầy Ngài xa vắng bổn đạo trong một thời gian và, trong khi ấy, không một người tín đồ nào biết Ngài ở đâu. Ngài cũng nói với nhiều tín đồ câu ấy.
4.- Trong Sấm Giảng của Ngài, Đức Thầy cũng có nói:
“Rán nghe lời dạy của Thầy,
Để chừng đến việc kiếm Thầy không ra.”
Và:
“Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.”
Bốn khoản trên đây chứng minh một cách hùng biện rằng Đức Thầy biết trước những nạn tai mà Ngài sắp phải gánh vác.
Suy luận như thế, chúng tôi tự hỏi vì sao Đức Thầy vắng mặt? Theo chúng tôi tin tưởng thì sở dĩ Đức Thầy vắng mặt là vì:
1.- Ngài nhận thấy thời cơ chưa thuận tiện. Mà hễ thời cơ chưa thuận tiện thì phải “Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Cái thái độ không bôn chôn không ỷ lại của Đức Thầy về vấn đề cứu quốc đã bộc lộ trong câu:”Dùng sức mình đánh bại kẻ thù, Tỏ ra khí phách trượng phu, Vung Long tuyền kiếm tận tru gian thần”.
2.- Học chữ nghĩa ở nhà trường thì phải thi mà học Đạo lý với Phật, Tiên thì phải chịu thử thách. Đức Thầy xa vắng để thử lòng môn đệ. Tại Sài Gòn năm 1934, Ngài có nói với Ông Cả Hốt ở làng Hòa Bình (Bạc Liêu) rằng sau nầy Ngài sẽ có một diệu pháp để biết lòng bổn đạo. Chắc chắn diệu pháp ấy Đức Thầy đang thi thố bằng sự vắng mặt của Ngài.
3.- Anh em tín đồ càng hoài vọng Đức Thầy bao nhiêu thì sự hồi hương của Ngài càng trọng yếu và thú vị bấy nhiêu.
Đã biết rằng Đức Thầy là một “Đấng anh hùng dựng nên thời thế” có lãnh sứ mạng Ngọc Đế và của Phật Tổ, chúng tôi tin chắc rằng Ngài thế nào cũng sẽ về, vì nếu Ngài không về thì:
1.- Có ai mà “Thâu cho được con long ác nghiệt”?
2.- Có ai mà “Trên đài cao gọi các linh hồn”?
3.- Có ai mà “Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành” để chọn “Người hiền đức đặng phò chơn Chúa”?
Để chấm dứt, chúng tôi xin lấy thái độ khách quan mà chép y nguyên văn bài dưới đây của ông X.M. đã đăng trong báo Phục Hưng ngày 16-4-1949 nghĩa là đúng ngày lễ Kỷ niệm Đệ nhị chu niên ngày Đức Thầy thọ nạn tại Đốc Vàng (kể theo dương lịch). Bài ấy như vầy:
Đức Huỳnh
Giáo Chủ vẫn còn sống !!!
(Báo PHỤC
HƯNG ngày 16-4-1949 dl)
 
Ngay sau cái đêm mà Giáo Chủ họ Huỳnh bị Bửu Vinh, Ủy viên quân sự VM tỉnh Long Xuyên âm mưu bắt ở Văn phòng Đại đội của y trên tả ngạn một con rạch ăn sâu vào làng Tân Phú thì cả một vùng chung quanh sôi nổi như muôn lượn sóng ba đào giữa cơn phong ba bão táp. Bởi thế Bửu Vinh lo sợ một cuộc phản công của các tín đồ và Bộ đội Hòa hảo.
Trong óc con nhà quân sự ấy nảy ra một ý kiến quá khích: Thủ tiêu!
Nhưng bên cạnh viên tướng nóng nảy ấy lại còn một người khác, mềm dẽo và sâu độc. Người ấy là Giáo sư Trần văn Nguyên lúc ấy giữ chức Thanh tra chánh trị VM ở miền Tây. Nguyên nhứt định phải đem ông Huỳnh về Nam bộ, để chờ sự quyết định ở đây. Bửu Vinh cự tuyệt quyết liệt, bảo rằng đó là thuộc quyền hạn địa phương, nhứt là cuộc rối rắm xảy ra ở địa phương y. Cuộc tranh luận trở nên gay go.
Trần văn Nguyên lớn tiếng:
– Đồng chí không có quyền xử đoán một Ủy viên Đặc biệt của Nam bộ trong khi đồng chí chỉ là Ủy viên Tỉnh!
– Cái đó thuộc về một việc xảy ra ở địa phương tôi, vả lại tình thế đang nguy ngập.
Rốt cuộc, Trần văn Nguyên phải nhượng bộ vì trong tay không có binh lực. Nguyên đổ trách nhiệm:
– Có chuyện gì sau nầy với Nam bộ, trách nhiệm về đồng chí hết!
Bửu Vinh đã sợ Hòa Hảo, lại háo thắng, nhứt định tối bữa sau đem xử hình Giáo chủ họ Huỳnh.
Bửu Vinh lại còn nỗi lo sợ bị cướp pháp tràng nên y tính sẽ xử bí mật vào ban đêm. Một cái hố đã đào sẵn lại còn một điều nữa là Bửu Vinh không muốn tự mình thi hành thủ đoạn ấy hay là có mặt ở giờ phút ấy, có lẽ là vì sự cảm thấy thẹn thùng và xấu hổ (dù sao y cũng là người có chút trí thức!) vì những hành vi quảng đại ngay thẳng của ông Huỳnh Phú Sổ đối với y.
Thế là tối ấy, ba kẻ tâm phúc của Bửu Vinh được lịnh dẫn ông Huỳnh đi hành hình.
Đến pháp tràng, ba người nầy (đao phủ) tuốt kiếm sửa soạn ra tay thì Huỳnh Giáo Chủ nghiêm nét mặt khoát tay nói:”Mấy anh em hãy để tôi nói đôi lời”.
“Nói đi.
Ông Huỳnh nói thao thao bất tuyệt một lúc lâu với giọng điệu chẩm rải và rõ rệt, lời lẽ dễ hiểu, giản dị,
“Không thể nhắc lại được những lời nói ấy của ông. Nhưng chỉ biết rằng trong khi ông nói, ba tên đao phủ nhìn nhau, rồi lâu lâu thở dài, dần dần cúi đầu xuống. Những nét hung ác trên mặt chúng lần biến đi, thanh kiếm rời khỏi bàn tay hoen máu của chúng. Chúng trở nên hiền lành như ba con chiên nhỏ.
“Những lời của đạo đức, những câu chơn lý của sự thật, đã cảm hóa được ba con người. Chỉ nội trong mười phút đồng hồ mà ba tên đao phủ biến thành ba tín đồ của người mà chúng sắp xử.
“Nói vừa đoạn, Giáo chủ họ Huỳnh hỏi chúng:
“- Bây giờ ta nói đã xong, các anh cứ phận sự thi hành đi…
“Câu nói ấy rơi bất thần vào óc ba tên đao phủ giữa lúc lòng đã mềm vì những lời bác ái, lòng đã trắng vì những sự thật làm cho chúng trở nên kinh ngạc đến ngây ngô.
“Chúng không còn can đảm cầm đến thanh kiếm nữa. Chúng nhìn nhau và nhìn vị giáo chủ ngại ngùng. Một tên ấp úng nói:
“- Thưa ông Tư! Chúng tôi hiểu rồi. Xin ông Tư đi đi. Đi ngay bây giờ!
“- Thế còn nghĩa vụ và trách nhiệm của các anh?
“- Không sao. Ông Tư cứ đi. Chúng tôi sẽ tính được. Chúng tôi hiểu ông nhiều rồi và tay chúng tôi không còn gân sức đâu để giết ông. Ông hãy đi cho thoát và độ trì cho ba chúng tôi.
“- Các anh nói thiệt à!
“- Thửa lòng chúng tôi lúc nầy có biết nói dối là gì đâu?
“Thế là vị Giáo Chủ họ Huỳnh lại khoan thai lên đường đi hút lẫn trong bóng tối.
“Và cũng đêm ấy, tại chỗ ấy có một người bị chặt làm ba, liệng xuống hố vùi đất lên”.
Và ba tên đao phủ lạ lùng vẫn về phúc bẫm với Bửu Vinh rằng phận sự chúng đã làm xong.
Trong khi ấy, ông Huỳnh lần trong bóng tối mà thất thểu đi, thỉnh thoảng dừng lại dừng lại, đau lòng nhìn mấy bàn thông thiên thờ Phật Trời vừa bị lật tung lên, nằm chơi vơi lỏng chỏng giữa hoang vu vắng vẻ.
Vài bữa sau, quả nhiên có lịnh ở Nam bộ về đòi Bửu Vinh phải đem trả Ủy viên Đặc biệt Huỳnh phú Sổ về Tháp Mười.
Lúc nầy thì kẻ thắng lý là Trần văn Nguyên. Còn Bửu Vinh thì chỉ còn cách kiếm thế đổ thừa cho tình thế khẩn bách không thể làm hơn.
Tuy nhiên, ít lâu sau, các báo ở bưng cũng như ở thành đều có đăng một cảnh Tòa án và pháp tràng xử án ông Huỳnh với tất cả những chi tiết như lúc tuyên án, nét mặt của ông Huỳnh, vài giọt nước mắt trước đoạn đầu đài…
Các báo bày vẻ khéo léo làm cho kẻ nhẹ dạ và không biết chuyện cứ yên trí nhắm mắt mà tin. Ai có biết đâu đó chỉ là tiểu thuyết.
Và ai có biết đâu giữa lúc người ta tả cái chết của chính mình, tại một cái lều nhỏ cô đơn giữa rừng kia, vị Giáo chủ họ Huỳnh bằng da bằng thịt vẫn an nhiên sống như chúng ta đang sống giữa cảnh trời đất nước mây bao la trùng điệp, và mỉm cười trước thế sự đảo xoay mà chờ, chờ một ngày kia, cuốn thiên thơ đến trang xuất đầu lộ diện là ông lại trở lại giữa đám đông người.
Lúc ấy sẽ có những cặp mắt kinh ngạc, sẽ có những trái tim thán phục và chắc cũng có những chiếc mặt nạ rơi!

PHẦN III MẦU-NHIỆM CỦA THẤT-SƠN

CHƯƠNG I:Các vị trong phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã nói gì về Thất Sơn ?

Kể ra thì các vị Giáo-Chủ hay đại đệ-tử trong phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã nói rất nhiều về núi non, nhứt là Thất-Sơn trong thời buổi Hạ-Nguơn nầy.
Ở đây, xin bạn đọc cho phép chúng tôi giữ một thái-độ khách-quan, nghĩa là miễn cho chúng tôi cái việc bàn-luận dài-dòng về Thiên-cơ, vì nếu chúng tôi trích-lục Sấm-Giảng rồi đứng về mặt thực-tế mà xem-xét thời-cuộc thì quan-niệm của chúng tôi sẽ làm bất-mãn nhiều người hiểu theo vô-vi, còn nếu chúng tôi bàn-giải theo thần-bí vô-vi thì quan-niệm của chúng tôi sẽ làm bực-tức những người hiểu theo thực-tế. Vả lại " Thiên-cơ biến đổi diệu-huyền ", mà Đức Huỳnh Giáo-Chủ lại cũng có nói: " Đờn ta vốn thiệt không dây, Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa ". Huống chi Thiên-cơ là máy nhiệm của Phật Trời thì nếu ta bàn trúng ắt có lỗi, mà bàn trật ắt có tội.
Vì những lẽ trên đây, chúng tôi xin chép y nguyên-văn, từ vấn-đệ một, những điều các Ngài trong phái B.S.K.H đã nói về Thất-Sơn.


I- Về sự sấm nổ

Về sự sau nầy tiếng sấm vang thinh, núi non nổ vỡ, súng ống chai lì, Hạ-nguơn chấm dứt. Thượng-cổ hồi qui, ông Sư-Vãi Bán Khoai có viết:

" Đến đâu đá nổ súng chai,
Nói cho già trẻ gái trai hay mừng ".


Đức Huỳnh Giáo-Chủ cũng có nói:

" Thất-Sơn tiếng nổ
Qui cổ diệt kim


Và:
Chừng nào tiếng sấm nổ vang
Thất-Sơn lộ vẻ đền vàng báu thay !"


II- Về sự xuất hiện đền đài.

Về những lời tiên tri ngày sau tại Thất-Sơn sẽ xuất hiện đền vàng điện ngọc, gác tía lầu son v.v… các Ngài nói thật là nhiều.

Ông Sư-Vãi Bán Khoai thì nói:

" Chừng nào núi Cấm hóa lầu.
Thời là bá tánh đâu đâu thái-bình.
Chừng nào cá nọ hóa long
Cấm-sơn lộ vẻ đền rồng mới yên.

Chừng nào Bảy Núi thành vàng.
Thì là mới đặng thanh-nhàn tấm thân ",


Ông Ba Thới lại tiên-tri:

" Cửa Ngả-Bát có nổi nhị sơn,
Núi Sam tiêu mất Thất-Sơn điệu đền.
Chí anh-hùng lập chí cho bền,
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu-Sơn ".


Và: Ông Cấm đá tiêu, Thuấn-Nghiêu tỏ rõ ".

Đức Huỳnh Giáo-Chủ nói nhiều hơn hết về điểm nầy, Ta hãy đọc những đoạn trích-lục dưới đây thì biết:

" Thất-Sơn lộ vẻ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm-mầu của ta,

Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi !
Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,
Miền Bảy Núi mà sau báu quí.


Đời cùng tu gấp kịp thì,
Đặng coi báu ngọc ly-kỳ Năm Non,


Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng-sanh mới tỏ bày.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài ".


Và: 
BỬU ngọc trường quang ẩn tích kỳ,
SƠN đài lộ vé liễu huyền-vi
KỲ thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG vị âm thầm mộc túy vi.
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi,
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự Hoàng-san tự Đỉnh-Chi.


III- Về sự chiến tranh ở miền sơn lãnh.

Đến như vấn-đề chiến-tranh ở miền sơn-lãnh thì Ông Ba Thới có viết:

"Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến nam-mô tranh tài

Và : Thập bát quốc làm hội đầu sơn ",


Đức Huỳnh Giáo Chủ lại rành-rẽ hơn trong những câu:

" Lôi-âm giục khởi tiếng đờn,
Thất-Sơn đấy loạn là cơn hiểm-nghèo,
Nơi phía trước cheo-leo tiếng khóc,
Đứng sau lưng hình vóc dẫy chưn,
Nước kia lửa nọ tưng bừng.
Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn-tai ".


Trong mấy năm nay, nhiều trận giao-phong khá lớn đã xảy ra trong vùng Thất-Sơn. Phải chăng đây chỉ là sự mở màn cho những cuộc so tài thử sức ác-liệt sau nầy ?

IV- Về sự dời non đổi núi.

Nhưng lại còn nhiều việc khác, ngoài sự tưởng tượng của ta nữa kìa ! Các bạn có nghĩ đến chuyện đời non lấp biển mòn sông thay nhơn đổi vật chăng? Đây:

a. Tứ Thánh tiên-tri như vầy:

" Hạ-ngươn mỗi việc mỗi mòn,
Mòn sông, mòn biển lại còn mòn non,
Đổi chồng, đổi vợ, đổi con,
Đổi non, đổi núi, đổi hòn Hà-Tiên,
Đổi Châu-Đốc, đổi Tịnh-Biên,
Thất-Sơn lại đổi qua liên Nhà-Bàn ",


Hay là: " Trong hai ngàn xử biến Thất-Sơn,
Biến thiên, biến địa, biến nhơn thay đời.


b. Đức Huỳnh Giáo-Chủ cũng quả-quyết rằng:

" Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
Trổ tài hay biễn lấp non vời,
Sau đến việc sơn băng thủy kiệt,
Khùng thảm thương bá-tánh quá chừng ".


V- Về Hội Long Hoa tại Thất Sơn.

Đến cái việc Hội Long-Hoa sẽ chuyển lập lại Thất-Sơn thì:

a. Tứ-Thánh tiên-tri như vầy:

" Núi rừng trổ ngọc trổ ngà,
Long-Hoa lại trổ trên tòa Thượng-nguơn.
Nam bang một lá quế đơn,
Năm châu tựu hội Thất-Sơn đông vầy,
Ngày sau có một không hai,
Thất-Sơn duy nhứt Như-Lai lập đời ",


b. Đức Huỳnh Giáo-Chủ có nói: " Hội long-Hoa chọn kẻ tu-mi, Người hiền-đức đặng phò Chơn Chúa ". Bởi vậy, Ngài khuyên tín-đồ phải rán:

" Làm cho rồi phận tu-mi,
Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm Non ".


Ngài khuyên anh em tín-đồ:

" Nền đạo-đức, sắc-thinh chớ mến,
Có thuyền từ đưa đến Non Tiên.

Và đã là tín-đồ Hòa-Hảo thì phải:
Hiệp-hòa nhau chờ đợi Năm Non "
.

VI- Về việc phân xử công minh.

Nhưng mà chưa hết đâu. Trước khi cái cảnh:
" Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ, Non thần biến đổi hết rừng lâm " được xuất hiện, thì lại có cuộc:
" Xử những kẻ hung-hăng tồi-tệ, Thưởng những người trung hiếu vẹn toàn ".
Ta hãy nghe Đức Huỳnh Giáo-Chủ quả-quyết:

" Sau kẻ ấy làm mồi mãnh hổ,
Cảnh núi non nhiều thú dị-kỳ.
Nó trọng ai hiền-đức nhu-mì,
Sát phạt kẻ bội cha phản chúa ".


VII- Về việc lúa bay.

Mà muốn cử đồ đại sự, trước nhất phải nghĩ đến vấn đề lương-thực. Muốn biết các vị Sơn-Thần đã lo-lắng đến vấn đề nầy thế nào, xin đọc mấy câu dưới đây của Đức Huỳnh Giáo-Chủ trong quyển " Sấm-giảng khuyên người đời tu-niệm " viết năm 1939:

" Ngồi chơi đạo-lý bàn qua,
Mấy người có biết lúa mùa bay không?
Có người đạo lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau ".


Lối từ năm 1943, nhiều người ở miền Hậu-Giang đã có dịp nghe tiếng lúa bay hoặc hứng được lúa bay…

VIII- Về tinh thần ưu quân ái quốc.

Nhưng nếu nhắc lời các vị trong phái B.S.K.H. nói về Thất-Sơn, ta phải nhắc đến tấm lòng ưu Quân ái Quốc, mưu Đạo vị Dân của các Ngài.
a. Ông Ba Thới há không có nói:

" Mắt đoái nhìn Tiên cảnh Thất-Sơn,
Ngùi ngùi nhớ Chúa đội ơn lộc Thầy.
Oán đa oán ơn kiến thiểu ơn,
Hội lành nỡ bỏ Thất-Sơn sao đành.
Dạ bao đành vong kiểng Thất-Sơn,
Chí bất luận phủi ơn đại đế.
Người ở đời có chí thì hơn.
Bất quí Thất-Sơn nhơn bất lực.
Ngó lên Bẩy Núi thấy rừng.
Thương người trung nghĩa biết chừng nào nguôi.
Bề nào hội thí Thất-Sơn,
Biết rằng quân-tử tiểu nhơn vuông tròn.
Thiện dươn hậu nhựt hớn hài,
Sum vinh quyền-quí lâu dài Thất-Sơn "


b. Đức Huỳnh Giáo-Chủ sau khi nghĩ đêm tai núi Két hồi năm 1939 và sáng lại, trước khi lui chơn, có kêu " Chư Sơn Bảy Núi " (Chư-vị Sơn-Thần Năm Non Bảy Núi) mà bảo:

" Vậy hỡi chư thần mau nối gót.
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay ".


CHƯƠNG II Những sự mầu nhiệm nơi miền Thất Sơn .

Trừ những hạng người vô-thần hay những người có óc hoài-nghi thì ai ai cũng nhìn-nhận vùng Thất-Sơn có chứa lắm điều lạ-lùng kỳ-bí.
Sự mầu-nhiệm ấy người ta có thể nhận-thức bằng mắt bằng tai hoặc cảm-thông bằng tâm bằng trí.

Điện Cây Quế. Nếu đi lên Cấm-sơn bằng ngả Rầy-Đét và khi tới Đá Chài rồi dòm qua phía tả người ta sẽ thấy vùng điện Cây Quế, nơi có cây quế và bắp trầm-hương. (Mùi thơm kỳ lạ của trầm-hương có thể bắt hơi ngửi được tại Đá Chài). Những người đi núi Cấm đều có nghe thuật rằng tại Điện Cây Quế có một cặp rắn hổ-mây khổng-lồ, hằng lo giữ-gìn hai vật quí nói trên. Vả lại người tình cờ đi đến đây thì mới gặp trầm, gặp quế, còn người cố ý đem dao mác theo để tìm thì không khi nào gặp được. Người ta cũng có thuật lại rằng mười mấy năm về trước có ba người Chà-Và (Mã-Lai) ở Nam-Vang, phép-thuật rất cao-cường, cố đến Điện nầy với cái mộng làm phú-hộ nhờ trầm và quế. Nhưng họ đã hộc máu chết tươi, bỏ rơi mộng đẹp.

Người ta cũng nói gần Điện nầy có một cái hầm chứa đồ kiểu xưa. Người Miên ở vùng nầy mỗi khi có việc cần dùng nhiều chén bát thì cứ đến đây mượn về xài rồi đem lại trả. Có người thấy đồ tốt, động tánh tham, đem đồ xấu lại để đổi. Từ đó hầm chén bị một tảng đá to-tướng lắp kín, không vào được.

Điện Ông Hổ. Trước cửa chùa Phật Lớn (1) có con đường đi xuống Điện Ông Hổ (2), và Điện Thiêng-Linh, nơi mà các pháp-sư đến luyện bùa ghép (3). Chỉ đôi khi người ta mới gặp một con cọp nằm trong Điện. Người ta nói cọp ở núi Cấm là cọp tu không hề ăn thịt ai. Trái lại cọp bên núi Bà Đội Om gần đó không tu nên rất hung-bạo. Người ta cũng có nói mấy con cọp ở núi Bà Đội bén mảng qua núi Cấm thì lập-tức bị cọp ở núi nầy đuổi về liền.
_________________
(1). Chùa nầy có một cốt Phật bằng xi-măng rất lớn và do ông Bảy Do cất.
(2). Kêu theo tiếng người ta thường dùng, chớ theo Đức Thầy thì cọp kêu cọp, tượng kêu tượng.
(3). Điện nầy của cô Thiêng linh, một thiếu-nữ đã lên đây tu với thân-mẫu từ năm 14 tuổi. Khi bà thân cô qua đời thì điện nầy để cho cô.


Hang Khỉ. Theo con đường đến Điện Ông Hổ, người ta cũng còn gặp một cái hang gọi là hang Khỉ. Tuy là gọi thế chớ không thấy trong hang nầy có con khỉ nào. Người ta chỉ biết miệng hang ấy rộng bằng cái thúng giạ. Từ miệng xuống tới đáy độ hơn 5 thước tây. Đường đi xuống hang rất khó-khăn vì đây những đá lởm-chởm. Đáy hang khá rộng, vuông-vức chừng 5 thước. Chính giữa có tấm vách ngăn, có cửa qua lại bên phòng. Bên nào cũng có bàn nhị-đẳng. Hai bên bàn nhị-đẳng nầy có hai cái ghế đẩu bằng đá để bước lên đốt và cắm nhang.
Năm 1940, một người bạn của chúng tôi có thấy ba người đến ở tu trong hang nầy. Mấy người nầy là một thiếu-nữ lối 16 tuổi, bỏ tóc xả, ở bên hữu phòng, và hai người đàn-ông đầu để tóc, mặc quần ngắn đen và áo khỉ ở bên phòng phía tả. Có lẽ ba người nầy ở đây khá lâu nên khi rọi đèn chóa mắt thấy mặt mày họ trắng xanh.

Điện Kín. Trên chót núi Tô có một cái điện gọi là Điện-Kín. Một vài người đi núi về có thuật lại rằng tại Điện nầy có rắn hổ-mây to lớn (bề tròn bằng thúng giê). Người ta nói rắn ấy chầu " Bà " ở Điện Ngũ-Hành.
Người ta cũng nói hang đá ở Điện-Kín ăn qua tới núi Cấm. Muốn thám-hiểm địa-huyệt nầy, phải dùng đèn cầy thứ lớn. Nhưng chưa thấy có ai đi suốt huyệt nầy. Trong kỳ đăng sơn với Đức Thầy (kỳ thứ ba) ông Ngô-ngọc-Chơn có xuống Hang-Kín nầy và đi được một chập. Nhưng vì âm-khí làm cho ông lạnh người và ghê-rợn vô cùng nên ông phải quày trở lên.
Nói tóm lại là người ở miệt đồng ruộng mà chưa từng viếng non thì khi lên đây sẽ vô cùng ngạc-nhiên mà thấy nhiều chuyện lạ: nào là những tảng đá hơn mười thước bề cao, nào là những đại-thọ gốc độ chục ôm, cao mút ót, thẳng như cây đèn cầy, nào là những lá dầu bề dài hơn 7 tấc tây, nào là những bụi mây gai dài cả gang tay, nào là rít to, mình bằng cái thúng, nào là cọp, khỉ, đười-ươi, nào là heo rừng, hươu, nai, hồng-hoàng cao-các.

Nhưng đáng chú ý hơn hết là sự linh-thiêng huyền-diệu nơi chốn rừng thẳm non cao. Các đấng vô hình ở trên non luôn luôn sẵn-sàng làm cho các bạn biết sự hiển linh của non núi. Bạn nguyện-ước điều gì sẽ được toại nguyện ngay, hoặc sẽ được lãnh-hội sự thù-đáp ngay. Các việc đó các bạn sẽ có dịp để thí-nghiệm, nếu bạn muốn.
Cách hơn hai năm về trước, tại chợ Mỹ-Lương (Hòa-Hảo) có một ông bạn lên núi Cấm phát-nguyện chịu khổ-lao 3 tháng 10 ngày để tìm hiểu một vấn để nan-giải. Sau khi phát nguyện vài ngày, ông ta bị V.M. bắt giam-cầm đúng 100 ngày. Trong khi bị lao-khổ, ông đã lãnh-hội tất cả những chỗ bí-ẩn của vần-đề.
Nói vắn tắt là mình tưởng-nghĩ thế nào các vị Sơn-Thần đều biết hết và tùy theo sự hành-động của mình, mình sẽ được hữu-hạnh hay phải chịu họa tai trong khi bước chơn lên núi.

Tổng kết.

Đọc qua những đoạn trên, chúng ta ta thấy rằng vùng Thất-Sơn quả là hoa-địa và Đồng Tháp-Mười và Đồng Cà-Mau quả là trọng-địa của Nước Việt-Nam bởi sự quan-trọng của nó về các phương diện tinh-thần chiến-lược và kinh-tế.
Còn về mặt địa-lý thì tuy Thất-Sơn không cao như Hi-Mã lạp-Sơn nhưng đó là nơi mà Phật, Tiên, Thần, Thánh sẽ chuyển lập Hội Long-Hoa nên chắc-chắn nó phải là những non linh-hiển. Trong bài " Viếng non ông Két ", Đức Huỳnh Giáo-Chủ có câu: " Non tiên gió mát toại lòng thay !". Núi có danh không phải ở bề cao mà là ở chỗ có Tiên (Sơn bất tại sao, hữu Tiên tắc danh).
Sông Cửu-Long tuy không sâu như biển Thái-Bình-Dương nhưng vì có rồng nên nó mới được gọi là Bảo-Giang hay sông linh, sông báu (Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh).
Vậy về phần địa-lợi ta đã có.
Về Thiên-thời thì không ai còn nghi-ngờ rằng chưa đến. Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã mở đầu bài " Lịch-sử Đức Thầy " bằng mấy lời: " Vì thời-cơ đã đến…". Trong quyển " Sấm giảng khuyên người đời tu niệm " (quyển thứ nhứt) của Ngài, chúng ta thấy câu đầu như vầy: "Hạ-ngươn nay đã hết đời ".
Vậy chỉ còn yếu-tố Nhân-hòa để đi đến mức thành công, đến ngày vinh-quang rức-rỡ.

" Lòng vọng cầu nội ngoại tương tề,
Qui nhứt thống ra bề mới nổi ".


Ông Ba Thới cũng đã quan-niệm như thế.

Về điều nầy, ta thấy đã thành công được một nửa: hiện giờ các đảng phái quốc-gia đều đồng tâm hiệp trí cứu-trợ giang-sơn thoát vòng cương-tỏa. Chỉ còn một mớ người vì chánh-kiến sai lầm hoặc vì lợi-danh cám-dỗ nên vẫn tiếp-tục gây họa đau thương cho đất nước.

Nhưng cơ-trời đà sắp-đặt, luật nhân-quả vẫn lưu-hành. Sẽ có ngày phép công phải được trọng, kẻ chánh phái được tôn. Cùng lúc ấy, thánh-nhân sẽ xuất hiện để gieo-rắc hòa-hảo cho vạn dân, ban-rải ân-lành cho xã-hội.

Bài về Thất-Sơn của ông Vuơng-Thông tục gọi ông Sáu

- Bài vè Thất Sơn 
của ông Vuơng Thông
tục gọi ông Sáu (1).


Đoái xem phong cảnh Thất-Sơn,
Tuy là rẫy-bái sau hơn Sài-Gòn (2).
Bạc bài đánh tợ trường bon,
Kẻ voi người ngựa đường mòn vô ra.
Xuân-Sơn, Hưng-Thới, Nhơn-Hòa,
Ba làng thiên-hạ người ta vầy-vầy.
Đua nhau cuốc đất trồng cây,
Vài Phật cùng Thầy dạ ở làm ăn.
Tháng năm tháng sáu lăng-xăng,
Trồng khoai tỉa bắp mà ăn đỡ lòng.
Nam thanh nữ tú vui thay,
Chợ thời buôn-bán tối ngày không tan.
Khai kinh dọn lộ đấp đàng,
Thương-hồ qua lại cả ngàn vô ra.
Bán rau, bán ớt, bán cà,
Bán thơm, bán mít, cùng là bán dưa.
Sớm mai chợ nhóm tới trưa,

-------------
(1). Ông Sáu là một đại đệ-tử của ông Trần-văn-Nhu,
(2). Có chỗ chép: vui hơn Sài-Gòn.


Đậu xanh, đậu trắng, bán đường trà-om.
Bán gà, lại bán heo con.
Hươu nai cũng có món ngon đồ rừng.
Đọt lang, đọt sợp, đọt vừng,
Bán rau ngành-ngạnh, bán gừng, bán me.
Tháng tám kẻ bộ người ghe,
Khoai lang, khoai tím, bán mè, bán lươn.
Chuối cao, chuối ngự, đồ thường.
Mảng-cầu, đu-đủ, trong vườn gánh ra.
Tuy là ở núi non xa (1),
Vật chi cũng có, cau bòn, cau ta.
Dưa leo, dưa hấu, khổ qua,
Sớm mai hành hẹ gánh ra dẫy-đầy.
Cao-Miên bán gióng, bán mây,
Giáng-hương củi bó, trái cây vú-bò.
Người thời bán gạo bo-bo,
Bột lùng, bột ngải, mừng-rò, trái-dâu.
Tóc xanh chí những bạc đầu,
Bán-buôn từ-thiện giữ câu tu-trì.
Thuở xưa Thầy cựu có ghi,
Ngày sau Bảy Núi vĩnh-vi đời đời.
Danh thơm có báu Kỳ-Hương,
Ở cho đạo-đức bốn phương phục-tùng.
Tích hiền đừng có tích hung,
Tích nhơn tích nghĩa tích trung tích lành.
Nhơn-dân đâu đó cũng đành,
Trời cho hương-đảng đạo đồng giữ ngay.
Sài-Gòn, Gia-Định tới đây,
Long-Hồ, Sa-Đéc, Tấn-Cây, Cái-Vồn.

-------------
(1). Có chỗ chép: Ở xứ núi non.

Bằng-Tăng, Thốt-Nốt, Trà-Ôn,
Tùy-Son, Rạch-Lá, Trà-Hôn, Cái-Tàu.
Cần-Chông, Rạch-Giá, Cà-Mau.
***
Cả-Thia, Cả-Cối, Cả-Còng,
Sông sau sông trước đôi sông.
Tam-Kỳ lục-tỉnh cũng đồng tới đây.
Người thời lên ở Nhơn-Hòa.
Kẻ qua núi Tượng, người qua Giang-Thiền
Người thời đi thẳng Hà-Tiên.
Kẻ vô Xà-Tón ở liền Nam-Vi,
Chẳng qua Trời Phật khiến đi,
Người thời lỡ bỏ, kẻ thời đi tu.
Đêm ngày giữ đạo công phu,
Ngày sau Bảy Núi thiên thu đời đời.


Những bài thơ của Đức Thầy viết theo điệu khoán thủ hoặc ẩn từ có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương.


BỬU-SƠN KỲ-HƯƠNG

BỬU châu công luyện chốn non Thần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân.
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân.

BỬU-ngọc vãng lai rõ Đạo mầu,
SƠN tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
KỲ giả thức tâm tìm đạo-lý,
HƯƠNG tuyệt đăng lui bãi phục cầu.

BỬU ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi.
KỲ thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG vị âm thầm mộc túy vi.
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử.
NON lịch đài mây rạng tu mi.
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ.
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi.

BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng.
SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang.
KỲ sanh tạo giả thi truyền tục,
HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang.

BỬU kiến từng tâm dụng thể tiên,
SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên.
KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
HƯƠNG vị trầm thinh bí kỷ tiên.

Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
Tự giác âm-thầm kiến Tiên-bang.
BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí.
Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget