Tải Trọn Bộ Sấm Giảng - Thi Văn Giáo Lý PDF
NHỮNG BÀI SÁNG TÁC NĂM ẤT-DẬU (1945)
Mục lục
HUẤN-LỊNH
Hỡi tất
cả thiện-nam tín nữ!
Ngày
mà chúng ta chịu khổ dưới gót giày của người Pháp và bọn quan-lại hung-tàn đã vừa
qua. Kể từ nay tôn-giáo của chúng ta sẽ được tự-do truyền bá. Vậy tôi nhân cơ-hội
nầy tỏ cho các người được hiểu rằng:
Đạo Phật
là đạo từ-bi bác-ái, dĩ đức háo sanh khoan-hồng đại-độ; tuy tình-thế đổi thay
chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi.
Vậy
hãy coi toàn dân cũng như anh em một nhà, mong họ liên-kết với chúng ta để kiến-thiết
lại quê-hương cùng nền Đạo-nghĩa. Những kẻ bạo-tàn từ trước đến giờ, nay đã
ăn-năn giác-ngộ thì hãy dĩ đức nhiêu-dung tội-trạng của họ, để sau nầy quốc-gia
định-đoạt, còn mình chỉ khuyên họ trở lại đường lành, chớ chẳng nên làm điều gì
thái quá mà động đến từ-tâm của chư Phật.
Mong
các người hãy tuân theo huấn-lịnh nầy.
Saigon,
ngày 2 tháng 2 Ất-Dậu (1945).
***
HỠI ĐỒNG
BÀO VIỆT NAM!
Nước
nhà đã tuyên-bố độc-lập. Kẻ thù giết ông cha của chúng ta hầu hết đã bị giam cầm.
Giờ đây, bổn-phận của mỗi người Việt-Nam cần phải làm thế nào cho sự độc-lập
hoàn-toàn của nước nhà chóng thực-hiện.
Vậy
tôi xin khuyên tất cả đồng-bào muốn tỏ ra xứng-đáng với một người dân một nước
tự-do thì chúng ta hãy nên đoàn-kết chặt-chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối
thù-hiềm ganh-ghét, đừng bày ra cái-hoạ nồi da xáo thịt khiến cho ngoại-nhơn
khinh-bỉ một dân-tộc như dân-tộc Việt-Nam ta đã có nhiều tấm lòng nhân-hậu và
những trang lịch-sử vẻ-vang, còn bọn sâu-dân mọt-nước để sau nầy cho Toà-án quốc-gia
định đoạt, hiện giờ hãy rán tuân theo kỷ-luật của nhà-binh.
Lo trả
thù riêng, đốt phá nhà cửa, hoặc trộm cướp sát-nhân, làm rối trật-tự, có hại
cho sự kiến-thiết quốc-gia.
Kẻ yêu
nước chẳng nên làm
Những
người lính Việt-Nam trong quân-đội Pháp thoát-ngũ hãy ra nhà binh Nhựt ghi tên,
sẽ vô tội. Những lính cảnh-sát hãy đem khí-giới ra nộp và hiệp-tác với nhà
đương-cuộc để giữ an-ninh. Những kẻ trộm-cướp có khí-giới hãy đem khí-giới nộp
và thú tội sẽ được tha-thứ.
Bình-tĩnh
hiệp-tác chặt chẽ với nhà đương-cuộc, giữ sự an-ninh cho dân-chúng, có lợi cho
sự kiến-thiết quốc-gia.
Kẻ yêu
nước nên làm
Nhân
danh cho VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP
VẬN-ĐỘNG
HỘI kiêm CỐ-VẤN DANH-DỰ
VIỆT-NAM
ÁI-QUỐC ĐẢNG
Ký
tên: HOÀ-HẢO.
Saigon,
tháng 2 Ất Dậu (1945).
***
LỜI RIÊNG CHO BỔN-ĐẠO
Tôi ở
Sàigòn khi cuộc đảo-chánh xảy ra, vẫn đoán biết sẽ có vài chuyện chẳng hay
trong quần-chúng, lập-tức gởi thơ về khuyên-giải mọi người, nhưng vì đường
giao-thông bất-tiện mà thơ ấy đến rất chậm trễ, tôi lấy làm chẳng vui mà thấy một
vài người trong Đạo và ngoài đời nhận lấy danh-từ của tôi mà làm một ít cử-chỉ
trả thù không có xứng-đáng với tấm lòng đạo-đức từ-bi; trước kia chúng nó hà-khắc
ta, chúng nó đành; ngày nay ta hà-khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy sự
hung-tàn, còn lòng ta lại đầy nhân-ái!
Nên kể
từ nay kẻ nào trong Đạo còn làm điều gì không có mạng-lịnh sẽ bị loại ra khỏi Đạo
và giao nhà đương cuộc xử một cách gắt-gao.
Ký
tên: HOÀ-HẢO.
Saigon,
tháng 2 Ất-Dậu (1945).
***
HIỆU-TRIỆU
Hỡi Đồng-Bào
Việt-Nam!
Vì một
cái chánh-sách sai-lầm của tiền-nhân ta mà Đế-Quốc Pháp có cơ hội tốt để chiếm-đoạt
lãnh-thổ nước Việt-Nam. Gần ngót trăm năm nay, đồng-bào ta trải biết bao cay-đắng:
lớp kẻ thù giày đạp, lớp quan-lại tham-ô, vì thế nên người dân Việt-Nam gánh
vác biết bao nhiêu sưu-thuế nặng-nề. Kẻ thù đã lợi-dụng chánh-sách ngu dân để
nhồi sọ quần-chúng, gây mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung, phá rối sự đoàn-kết hầu
mong cho cuộc đô-hộ được vĩnh-viễn trên giải non sông đất nước mà Tổ-Tiên ta phải
phí biết bao máu đào mới gầy dựng được.
Vả lại
từ trước cho đến nay các bực anh-hùng, các nhà chí-sĩ khắp ba kỳ đã bao phen
vùng-vẫy chống lại quân thù mong gầy dựng lại nền Độc-Lập cho quê-hương đất Việt.
Nhưng
than-ôi! Chỉ vì thiếu khí-giới tối-tân, chỉ vì sơ đường luyện tập, mà giọt máu
anh-hùng đành hoà với bao nhiêu giọt lệ, khóc phút sa cơ, để lại cho người đồng
thời và cho đoàn hậu-thế muôn vàn tiếc thương ân-hận.
Cách bốn
năm nay, Đế-Quốc Pháp đã tan tành gãy đổ; địa-vị người Tây cũng bị suy-lạc rất
nhiều trên bán-đảo Đông-Dương. Kế đến quân-đội Nhựt tràn sang, bọn cầm quyền
Pháp ở xứ ta muốn duy-trì quyền chủ-trị của họ bèn lợi-dụng tất cả điều-kiện
kinh-tế, để cung-cấp các nhu-cầu cho quân-đội Nhựt hầu giữ vững cuộc bang-giao.
Đàng khác, họ gia-tăng sự áp-bức, làm cho dân-chúng ta phải điêu-linh trong
vòng khổ-sở, hầu làm cho chúng ta mất cả năng-lực, cùng tinh-thần tranh-đấu,
mong kéo dài ngày tháng chờ cơ-hội thuận-tiện để vẫy-vùng.
Đến
ngày hôm nay, giai-đoạn tranh-đấu đã đến thời-kỳ quyết-liệt, cho nên lòng
hân-hoan và mối hy-vọng của kẻ thù đã bộc-lộ rất rõ-ràng. Vì vậy tình bang-giao
giữa chúng nó với Chánh-phủ Nhựt-bổn chẳng còn được ổn-thỏa nữa.
Đó là
lý-do để cho quân-đội Nhựt giải-quyết vấn-đề Đông Dương và rạng ngày 26 tháng
giêng năm Ất-Dậu ta (nhằm ngày 10 Mars 1945 theo dương-lịch), bộ máy cai-trị của
chúng nó bị hoàn-toàn gãy-đổ.
Hỡi Đồng-Bào
Việt Nam!
Chúng
ta đã bước và đang bước đến một khúc nghiêm-trọng trên lịch-sử. Giờ đây ta đã
có thêm nhiều đặc-quyền lo-lắng đến cái giang-san gấm-vóc của Tổ-Tiên ta
di-truyền lại.
Vận-Động
Cuộc Độc-Lập!
Vận-Động
Cuộc Độc-Lập!
Phải!
Toàn-quốc phải liên-hiệp vận-động cho cuộc Độc-Lập. Đấy là cái chủ-trương duy
nhất của Việt-Nam Độc-Lập Vận Động Hội.
“Việt-Nam
Hoàn Toàn Tự-Do, Độc-Lập”.
Đấy là
cái khẩu-hiệu duy-nhất của người Việt-Nam!
Hỡi
Các Đồng-Chí Thân-Yêu!
Từ khi
Quốc-gia bị khuynh-đảo đến nay, chúng ta chỉ hợp từng đoàn-thể nhỏ hoặc độc-thân
tranh-đấu và phải bao phen thất bại một cách đắng cay chỉ vì thiếu tinh-thần
đoàn-kết, thiếu sức bền-bĩ dẻo-dai để chống lại kẻ xăm-lăng vô cùng tàn-bạo. Thời
giờ nầy ta đã học hỏi được nhiều rồi, ta đã thâu thập kinh-nghiệm khá hơn rồi;
vậy thì ta nên đồng nhận chân ý-thức như nhau, nắm tay nhau quả-quyết mạnh-dạn
tiến bước trên con đường tranh-đấu.
Hỡi
các bạn Trí-Thức Việt-Nam!
- Các
bạn có bị cái thứ văn-minh cặn-bã cám dổ chăng?
- Các
bạn có quên tinh-thần quốc-gia hùng-dũng của Việt-Nam chăng?
-
Không! Không! Chúng tôi chắc hẳn rằng không vậy.
Các bạn
cũng biết cái cặn-bã của nền văn-minh Pháp nhồi nắn rất nhiều đồng-bào ta trở
thành những bộ máy của bọn xăm-lăng. Các bạn đã ôn-nhuần những trang lịch sử vẻ-vang
mà từ ngàn xưa đến giờ, tiền nhân ta viết ra bằng tâm-cơ và bằng huyết-hãn, vẫn
còn đầm-đìa trên mặt giấy. Vậy ngày nay, các bạn nên lợi-dụng thời-cơ thuận-tiện
để đem tất cả trí năng, đức, hạnh tham-gia vào Hội, lãnh-đạo nhân-dân hầu huấn-luyện
cho nhau cái tinh-thần quốc-qia kiên-cố.
Hỡi
các bạn Thanh-Niên!
Trong
ba năm nay, theo mạng lịnh của người Tây, có rất nhiều bạn nhờ sự tháo-luyện,
nên thân-thể được cường-tráng. Tuy vậy mà thử hỏi quân thù có thật lòng thương
giống-nòi dân Việt nầy chăng?
Decoux,
Ducouroy có thật lòng yêu thương quí mến các bạn chăng? Có khi nào kẻ dị-chủng ấy
đã chiếm-đoạt cái di-sản quí báu vô cùng vô tận của Tổ-Tiên ta di-truyền lại mà
thương bạn mến bạn. Ấy chỉ vì chúng nó lợi-dụng bạn, luyện tập bạn phòng khi hữu-sự
thì đem bạn làm mồi cho gươm súng hầu bảo-vệ quyền-lợi tư riêng của chúng.
Nhưng
rủi thay cho quân-thù, may thay cho lương-dân Đại-Việt! Bọn nó chưa đủ ngày giờ
thực-hành ý-định liền bị sanh-cầm. Ngày nay, thay vì phải bắt buộc phụng-sự cho
những kẻ đã sát-hại tiền-nhân ta, chiếm đoạt lãnh-thổ ta,
giành-giựt lợi-quyền ta, đàn-áp đồng-chủng ta, các bạn hãy để tinh-thần tráng-kiện ấy vùa giúp vào công cuộc kiến-thiết nền Độc-Lập cho giang-san đất Việt.
giành-giựt lợi-quyền ta, đàn-áp đồng-chủng ta, các bạn hãy để tinh-thần tráng-kiện ấy vùa giúp vào công cuộc kiến-thiết nền Độc-Lập cho giang-san đất Việt.
Hỡi
các bạn Thanh-Niên! Các bạn nên tham-gia vào V.N.Đ.L.V.Đ.H. để đạt tới mục
đích.
Hỡi
các Cụ Đồ Nho, Hỡi các Nhà Sư!
Các Cụ
Đồ Nho! Từ trước đến nay, luôn luôn các Cụ vẫn hoài bão một nhiệt-vọng cho sự Độc-Lập
của nước Việt-Nam, luôn luôn các Cụ vẫn nuôi-nấng một tinh-thần Quốc-gia càng
ngày càng mạnh-mẽ. Cái ngày mà các Cụ mong-mỏi, thiết-tha đã đến và ngày giờ nầy
các Cụ rất khoan-khoái được thấy cái nguồn sanh-lực của nước Việt-Nam tái-phát.
Bao nhiêu tiết-tháo của thời xưa vẫn còn in sâu vào tâm-não, bao nhiêu thành
tích vẻ-vang hùng-tráng của thời xưa đã chép ra mà nét chữ vẫn chưa mờ, còn lưu
lại nơi trí óc các Cụ những kỷ-niệm liệt-oanh rực-rỡ.
Hỡi
các Cụ Đồ Nho! Hãy tham-gia vào phong-trào mới của nước nhà để khích lệ
nhân-tâm.
Các bực
Tăng-Sư, Thiền-Đức! Các Cụ có nhớ chăng? Trên lịch-sử Việt-Nam thời xưa nhà đại-đức
“Khuông-Việt” dầu khoát áo cà-sa, rời miền tục-lụy, thế mà khi Quốc-gia hữu-sự
cũng ra tay gánh vác non-sông.
Từ khi
người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngoài gọi rằng cho ta tự-do tín-ngưỡng, nhưng
bên trong dùng đủ mọi cách âm-thầm chia rẽ và phá-hoại cho tín-đồ nhà Phật
không có sức đoàn-kết chấn-hưng hầu bài trừ các lưu-tệ dị-doan mê-tín.
Đã vậy
lại không có cơ-quan tuyên-truyền thống-nhất cũng chẳng có trường chung đào-luyện
tăng-sư. Các Cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ-sở của Đạo phải bị lấp vùi; nước
còn nền Đạo được phát khai rực-rỡ.
Chúng
tôi ước-mong các Cụ noi gương Đức Đại-Sư "KhuôngViệt” tự mình gia-nhập vào
V.N.Đ.L.V.Đ.H. để làm gương, hay là để khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử mau
tham-gia vào phong-trào mới hầu chấn-chỉnh Quốc-gia ta. Khi nào nước nhà được
cường-thạnh, đạo Phật mới đặng khuếch-trương tự-do hầu gieo rắc tư-tưởng Thiện-Hoà
và tinh-thần Từ-Bi, Bác-Ái khắp bàng-nhân bá-tánh.
Hỡi
các Nhà Thương-mãi!
Nông-gia!
Thợ-thuyền!
Dưới sự
kềm-chế của bọn xăm-lăng, nền thương mãi Quốc-gia bị chìm đắm kiệt-quệ, cơ-hồ bị
tay người ngoại quốc chiếm hẳn. Vì thế dưới sự chi-phối của bọn Đế-Quốc Pháp
các nền kinh-tế, thương-mãi của người Nam không có cơ ngóc đầu dậy nổi.
Các nền
tiểu-công-nghệ, thủ-công-nghệ bị uy-hiếp nặng-nề cho đến đổi những nhà tiểu-tư
bản đều bị vô-sản hoá, lâm vào một tình trạng vô cùng lầm-than khổ-não.
Thương-gia
Việt-Nam đành bó tay không phương giải-cứu. Muốn cho nền thương mãi đặng
phát-triển, thương-gia đặng thạnh vượng, phi trừ sự “Độc-Lập”của nước nhà ra chẳng
có cái gì vãn-cứu nổi.
Các
nông-gia bị cái áp-lực bất công của bọn thực-dân người Pháp và những kẻ quan-lại
kiêm địa-chủ hiếp bức đủ mọi phương-diện, đều bị bốc-lột rất quá đáng.
Nông-nghiệp là nguồn gốc kinh-tế của xứ mình; nhưng vì muốn làm cho quân đội Nhựt-Bổn
thiếu kém đồ ăn, và lấy cớ cung-cấp cho quân-đội Nhựt mà người Pháp, ngót mấy
năm nay, thi-hành chánh-sách hết sức độc-ác, tịch thâu hay mua rẻ nông-sản, kiểm-tra
hoá-vật, bày ra nông-phố hợp-tác lủng-đoạn lợi-quyền, làm cho nông nghiệp phải
chịu thiệt-thòi rời-rã, không còn sản-xuất như xưa, kẻ làm ruộng vì vậy mà
nghèo hèn đói rách. Bọn cầm-quyền Pháp chẳng có giúp cho kỹ-thuật canh-cải được
điều gì tốt đẹp cả, và chỉ khai-thác ít con kinh cho chiếu-lệ, chớ 80 năm nay
nghề nông ta vẫn còn nằm trong vòng ấu-trỉ phôi-thai với những khí-cụ của ông
bà ta để lại. Họ chẳng có đem lại thứ máy móc nào giúp cho nông-nghiệp được
phát đạt và vì thế mà đời sống của nông-phu cũng không khi nào được thư-thái,
cho đến muối là một món ăn mà Đông-Dương sản-xuất rất nhiều, nhưng vì người
Pháp mà mấy năm nay trở nên thiếu-thốn chẳng đủ cung-cấp cho nhân-dân.
Nền kỹ-nghệ
trong xứ chẳng những không được khuyến-khích giúp-đỡ mà lại còn bị cấm ngăn
gián-tiếp khiến cho sự nhu-cầu của dân chúng thiếu-thốn mọi bề, từ một cây kim
may cho đến một cơ-khí tinh-xảo. Tóm lại tất-cả các nhà kinh-tế, kỹ-nghệ,
thương-mãi nông-nghiệp, tất cả các nguồn-lợi thiên-nhiên hay nhân-tạo, tất cả
các nguyên-liệu cho sự sống còn của xứ sở bị người Pháp hoặc chiếm đoạt, hoặc
tàn-phá làm cho nước nhà không còn là một nơi phì-nhiêu phong-phú nữa.
Thợ-thuyền
nhơn-công cũng ở dưới sự bạc-đãi, bức-bách như nông-dân; họ sống một cuộc đời
luôn luôn thiếu kém và vẫn phải rụt-rè khép-nép với bọn chủ xưởng người Tây, vẻ
mặt đầy hung-ác.
Nhiều
khi lắm người nhân-công bị hành-hạ tàn-nhẫn, giết chết biệt thây, hoặc bị sốt-rét
rút hết máu-me nơi cánh rừng cao-su bát-ngát, hoặc chết dưới những hầm mỏ âm-un
mà nào ai có mở cuộc điều-tra, nào ai dám mở lời kêu ca thống-trách và pháp-luật
vẫn bỏ mặc tình, chẳng một điều gì chở-che bảo-bọc ấy cũng tại nguyên-nhân nào?
Nếu chẳng phải tại nước mất nhà tan, nên đám người vong-quốc ấy phải ngậm-ngùi
với biết bao điều ân-hận.
Hỡi
các Thương-Gia, Nông-gia, Thợ Thuyền! Cố-gắng lên! Hùng mạnh lên! Và liên-kết cổ-động
tranh-đấu cho nền độc-lập hoàn-toàn của Quốc-gia hầu vãn-cứu đồng-bào mình cùng
quyền-lợi mình.
VIỆT-NAM
ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI
Thành-lập
không phải chỉ để riêng lo cho cái quyền-lợi của một người hay một hạng người
mà là cho chung cả mấy mươi triệu người dân Việt.
Vậy
thì mỗi người công-dân Việt-Nam đều phải nghĩ đến xứ-sở mình, đến tương-lai đất
nước mình, đến sự sống còn của dân-tộc mình; vì mặc dù đã bị triệt-hạ trên giải
đất Đông-Dương, Đế-quốc Pháp bên kia trời cũng vẫn còn hoài-bão cái mộng-tưởng
khôi phục lại quyền chủ-trị; vậy thì đồng-bào hãy cố gắng lên!
Chúng
tôi mong rằng các bực lão thành, các hàng trí-thức, các thanh-niên nam-nữ, các
đồng-bào vì đất nước chung, vì mục-đích chung, hợp sức cùng nhau để đạt cái nhiệt-vọng
tối-đại tối-cao thì tiền-nhân ta mới đành ngậm cười nơi chín-suối.
VIỆT-NAM
ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI
“Ủng-hộ
triệt-để các Đảng Ái-Quốc chân-chính”.
“Bài-trừ
triệt-để bọn mọt nước sâu dân”.
Sàigòn,
tháng 3 dl. 1945.
***
Sàigòn,
ngày 21 tháng 4 năm 1945 dl.
Lời ủy-nhiệm cho các Ban-trị-Sự Tỉnh Bộ.
Vì Thầy
không thể trực-tiếp giải quyết những việc biến-cố xảy ra hằng ngày ở trong đạo,
nên cho Ban Trị-Sự được thay mặt trọn quyền thu xếp tổ-chức giữ-gìn cho toàn-thể
bổn-đạo được có trật-tự yên-ổn làm ăn. Xét những việc đã xảy ra từ ngày chánh
biến đến nay, đều do những kẻ không vâng lịnh Thầy, và các nhà trí-thức trong đạo,
tự mình hành-động không ý-thức, phương-pháp:
1. Là
vì có nhiều kẻ dối tu làm bậy.
2. Thiếu
học thức kinh-nghiệm, hành-động không thứ lớp.
3. Thiếu
tổ-chức và Ban Chỉ-Huy.
4. Không
vâng lời Thầy dạy.
5. Để
bọn trộm cướp xen vào tá danh.
Nên
trong khi chờ Chánh-phủ phê-chuẩn Hội Phật-Giáo Liên-Hiệp, chúng ta phải lo cho
toàn thể trong đạo bằng cách xếp họ vào trật-tự một cách yên-tịnh, không ồn-ào
quảng-cáo, không phiền nhiễu đến cơ-quan cai-trị và nhơn-tâm.
Ban-Trị-Sự
phải giải-quyết những vấn đề dưới đây, khỏi phải hỏi ý kiến Thầy:
Điều 1–
Được quyền tổ-chức các Ban Trị-Sự trong đạo ở các làng trong tỉnh.
Điều 2–
Được quyền chỉ-huy họ, bắt-buộc họ phải tuân-lịnh Ban Trị-Sự ở Tỉnh, không được
khinh-suất hành-động.
Điều 3–
Chưa được phép quyên tiền và góp chi-phí, phải ngăn cấm điều ấy.
Điều 4–
Cho các Ban Trị Sự các nơi hay, phải lập thông-qui trong đạo, biên tên tuổi,
nghề nghiệp, để kiểm-soát bổn-đạo mới và cũ, biên riêng sổ.
Điều 5–
Kẻ nào làm bậy được quyền bôi tên trong sổ đạo, cho nhà chức-trách hay, hoặc bắt
mà nạp cho nhà chức-trách trừng-trị.
Điều 6–
Nếu có xảy ra việc biến-cố bất ngờ, Ban Trị-Sự nên phái người trực-tiếp với nhà
chức-trách thương-lượng, điều-đình cho ổn-thỏa, đừng để hiểu lầm nhau.
Điều
7– Những kẻ nào gần đây có phạm vào tội trộm cướp, không đặng biên tên vào
sổ đạo.
Điều 8–
Ra lịnh cấm bổn-đạo không được tự-ý lên Thầy, phải báo-cáo sự biến-động cho Ban
Trị-Sự biết, để Ban Trị-Sự phúc-trình cho Thầy biết mà thôi.
Điều 9–
Những việc nhỏ-nhặt đã giải quyết xong, khỏi báo cáo cũng được.
Điều
10– Cho bổn-đạo biết từ đây có tin gì trên Thầy về, chỉ gởi bằng giấy tờ có chữ
ký tên, và gởi cho Ban Trị-Sự Tỉnh-Bộ mới được, đừng nghe theo lời truyền khẩu
sẽ vô giá-trị, dầu người đó nói ở trên Thầy mới về cũng không được tin.
Điều
11– Kẻ nào đem tuyên-truyền tin láo-xược, kẻ đó sẽ bị Ban Trị Sự quở và kêu nhà
chức-trách bắt.
Điều
12– Kẻ nào xét coi những việc gì có ích-lợi chung trong đạo, mà không có trái với
luật nước, không náo-động nhơn-tâm, cả Ban Trị-Sự đồng ý, thì được tùy-tiện bổ-cứu
thi-hành.
Điều
13– Kẻ nào tự ý đi Saigon thì sẽ không được trên nầy thừa-nhận.
Điều
14– Cảnh-cáo cho mọi người biết, kẻ háo danh tham lợi là kẻ làm cho hoen-ố nền
đạo.
Điều
15– Giải-nghĩa cho anh em trong đạo biết rằng: thay-thế vào những hành-động
điên-cuồng, anh em nên để thì giờ đó học chữ quốc-ngữ, đặng xem kinh sách, cho
thông hiểu việc đời, mở-mang trí-tuệ, mà biết được phải trái, trước khi hành-động
một việc gì.
Điều
16– Kẻ nào biết người đồng đạo làm việc trái phép mà không thông-báo cho BanTrị-Sự
hay, thì đồng tội với kẻ quấy, sẽ bị loại ra khỏi đạo.
Những
điều trên đây lần-lượt thi-hành và liên-lạc với nhà chức-trách hiện thời, để giải
nghĩa cho họ biết mình làm việc như vầy là có ý giúp Chánh-Phủ trong việc trị-an,
mà trước đến giờ mình không tổ-chức được.
Thầy ước-ao
và tin cậy sự sốt-sắng của các Ban Trị-Sự, để các nơi đừng có việc xảy ra đáng
tiếc, thì nền đạo chúng ta mới bành-trướng được.
Bức
thơ nầy có thể cho Tham-Biện, Chủ Quận hay Tổng coi cũng được.
Ký
tên:
HÒA-HẢO
***
***
LỜI TÂM HUYẾT
Hỡi tất
cả thiện nam tín nữ! Trước khi các người qui-y Phật-pháp, ai ai cũng có lời
nguyện cải-hối ăn-năn làm lành lánh dữ, theo dõi mục đích từ-bi bác-ái của chư
Phật.
Thầy
nhận thấy có nhiều người thành tâm làm điều phải mà cũng có một ít kẻ tu-hành
giả dối, lợi dụng nền tôn-giáo gạt lường bổn-đạo mà lấy tiền để sống hoặc nói
nhiều điều mộng-huyễn sai lạc sự tín-ngưỡng chơn-chánh.
Vì muốn
giữ sự trật-tự, sự yên-tịnh chung cho toàn-thể, nên hôm nay Thầy nhắc lại cho bổn-đạo
một lần nữa, những điều sau đây để mọi người làm theo:
1/ -
Không ai được phép đến nhà Thầy để thăm hay nói chuyện riêng về gia-đình
cá-nhân chỉ trừ khi nào vô cớ bị áp-bức.
2/ -
Không được chép bài vở nào của người khác để làm rối sự tín-ngưỡng.
Phải
coi chừng những bài giả của bọn khác mạo nhận là của Thầy (những giảng cấm
dung-trữ).
3/ -
Không được bàn-tán thời-cuộc.
4/ -
Không được bàn-tán về chính-trị và làm việc nào nhỏ mọn có thể gây ác-cảm của
những người ngoại đạo.
5/ -
Tôn-trọng giới-luật của đạo, rán sửa mình cho trong sạch để gây quả phúc tốt
cho linh-hồn và xác-thịt.
6/ -
Phải tố-giác hành-vi xấu-xa của anh em đồng đạo cho người có nhiệm-vụ và trí-thức
trong đạo, không được yêm-ẩn hay vì tình riêng mà che-chở.
7/ - Nếu
người nào không giữ được giới-luật của đạo, tốt hơn là ra khỏi đạo, không có sự
ép buộc phải ở trong đạo.
8/ -
Những người nào cờ bạc, rượu trà, làm điều xấu-xa, nên biên tên họ đem cho mấy
người có trách-nhiệm để những người ấy đem cho Thầy, Thầy sẽ trừng-trị một cách
thích-đáng để làm gương cho kẻ khác, thời giờ nầy cần nhứt mỗi người bổn-đạo phải
bình-tĩnh, nhẫn-nhục, không nên nghe lời ai xúi biểu làm điều phi pháp, tổn-hại
đến danh-dự chung.
Thầy
mong rằng các thiện-nam tín-nữ thân yêu không trái ý Thầy, để Thầy yên tâm mà tịnh-dưỡng
trong một thời gian.
Saigon,
mùa hè năm Ất Dậu (1945)
(1) Đây
là lời lẻ trong một Huấn-lịnh hay Chỉ-thị mà Đức Thầy gởi cho Ban Trị-Sự
P.G.H.H ở các tỉnh. Vì hiện không có bổn-chánh nên chúng tôi chẳng nhớ rõ ngày
tháng.
***
GỌI ĐOÀN TRÁNG SĨ
Hãy
tĩnh giấc hởi muôn ngàn tráng-sĩ,
Nhìn
thời xưa hùng-vĩ nước nhà ta.
Bắc
Nam một giải san-hà,
Mồ hôi
giọt máu ông cha tài tài-bồi.
Trải
qua cũng lắm hồi vận bĩ,
Rồi
anh em tráng-sĩ đứng lên.
Liều
mình đục pháo xông tên,
Liều
mình giết giặc xây nền tự-do.
Tiếng
roi lại bình Ngô, sát Đát,
Sử
xanh còn ngào-ngạt hương thơm.
Trông
phường giá áo túi cơm,
Trông
phường úy tử mà nhờm đi thôi.
Nay vận
nước đến hồi thịnh-thái,
Chí
anh-hùng ta hãy noi gương,
Một
mai nước được phú-cường,
Tấm
thân tráng-sĩ cột rường nhà Nam.
Saigon,
tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
***
GỌI ĐOÀN PHỤ NỮ
Chị em
ôi! Bắc Nam là một,
Chị em
là rường cột giống-nòi.
Dở sử
xanh Nam-Việt mà coi,
Gương
Trưng, Triệu còn roi muôn thuở.
Chẳng
có lẽ xưa hay mà nay dở,
Khiếp-nhược
là cái cớ vong gia.
Chí
anh-hùng của khách quần-thoa,
Đâu có
kém bực tu-mi nam tử.
Sách
thánh hiền truyền lưu mấy chữ,
Thất-phu
còn trách-nhiệm với non sông.
Cả tiếng
kêu bạn gái má hồng,
Đem
son phấn điểm-tô Tổ-Quốc.
Saigon, tháng
tư năm Ất-Dậu (1945)
***
KHUYẾN NÔNG
Hỡi đồng-bào!
Hỡi đồng-bào!
Thần
chết đã tràn vào Trung Bắc.
Ngày lại
ngày siết chặt giống nòi,
Lật
qua các báo mà coi,
Thấy
con số chết xem mòi kinh-nguy.
Cũng tại
vì Tây-di bày kế,
Phá hoại
nền kinh-tế nước ta.
Làm
cho điên-đảo sơn-hà,
Làm
cho điêu-đứng con nhà Lạc-Long.
Bỗng
phút đâu cuồng phong một trận,
Quân
Phù-Tang khai-hấn bất kỳ.
Còn
đâu mưu khéo giải vi,
Còn
đâu hoãn kế trong kỳ viện-binh?
Dầu những
kẻ vô tình với nước,
Cũng tỉnh
hồn mơ ước tự-do.
Tiếng
vang độc-lập reo hò,
Từ Nam
chí Bắc nung lò khí thiêng.
Quyết phen
nầy kết-liên một khối,
Đem
máu đào tắm gội giang-san.
Giờ
đây xem lại mùa màng,
Năm rồi
miền Bắc tan-hoang còn gì.
Chỉ có
xứ Nam-Kỳ béo-bở,
Cơ-hội
nầy bỏ dở sao xong.
Cả kêu
điền-chủ phu-nông,
Đứng
lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.
Muốn cứu
khổ tai nàn của nước,
No dạ-dày
là chước đầu tiên.
Nam-Kỳ
đâu phải sống riêng,
Mà còn
cung-cấp cho miền Bắc, Trung.
Quân-đội
Nhựt cần dùng lương-thảo,
Cũng
phải ăn lúa gạo Nam-Kỳ.
Ta còn
ngần-ngại nỗi chi,
Mà
không cày cấy kịp thì hỡi-dân?!
Điền-chủ
phải một lần chịu tốn,
Giúp
áo quần, giúp vốn thêm lên.
Muốn
cho dân được lòng bền,
Mua
dùm canh-cụ là nền khuếch-trương.
Giá mướn
phải thường thường dễ thở,
Xử
ôn-hòa niềm-nỡ yêu nhau.
Cùng
chung một giọt máu đào,
Phen nầy
hiệp sức nâng cao nước nhà.
Kẻ
phu-tá cũng là trọng trách,
Cứu giống-nòi
quét sạch non-sông.
Một
phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng
ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng
ấy đâu nài thân xác,
Chí
hy-sinh dầu thác cũng cam.
Miễn
sao cho cánh đồng Nam,
Dồi-dào
lúa chín gặt đam về nhà.
Chừng ấy
mới hát ca vui-vẻ,
Ai còn
khinh là kẻ dân ngu.
Không
đem được chút công-phu,
Không
đem sức-lực đền-bù nước non.
Gởi một
tấc lòng son nhắn-nhủ,
Khuyên
đồng-bào hãy rủ cho đông.
Nắm
tay trở lại cánh đồng,
Cần-lao,
nhẫn-nại Lạc-Long tổ truyền.
Saigon, tháng
tư năm Ất-Dậu (1945)
***
ĐÍNH-CHÁNH
Gần
đây lắm kẻ ngoa truyền,
Một
bài sấm-ngữ nơi miền Hậu-Giang.
Nói rằng:
tháng tám tai nàn,
Tối-tăm
trời đất, tan-hoang cửa nhà.
Kẻ gần
rồi đến người xa,
Từ
trong thôn-dã đến ra thị-thành.
Hại
cho quốc-kế dân-sanh,
Ruộng
đồng tươi đẹp dân đành ngó lơ.
Thương
thay những kẻ ngu khờ,
Lầm
mưu gian-trá ngẩn-ngơ ưu-sầu.
Hỏi rằng:
Sấm bởi nơi đâu,
Nói:
“Ông Hòa-Hảo làm đầu truyền ra”.
Buộc
lòng tôi phải đính ngoa,
Cho
trong toàn quốc gần xa được tường.
Chuyện
ấy là chuyện hoang-đường,
Của bọn
phá-hoại chủ-trương hại mình.
Anh em
ta hãy đồng tình,
Nếu gặp
“nắm óc” đem trình “Công-An”.
Chúng
ta giải-quyết lẹ-làng,
Đừng để
chuyện huyễn tràn lan ra nhiều.
Ký
tên: HÒA-HẢO
Saigon, tháng
tư năm Ất-Dậu (1945)
***
VIỆT-NAM PHẬT-GIÁO LIÊN-HIỆP HỘI TÔN-CHỈ
Liên-hiệp
các tôn-phái đạo Phật, các nhà sư, các tín-đồ, các nhà trí-thức có xu-hướng về
Phật-giáo để:
1/ Tìm
cách nâng cao tinh-thần đạo Phật.
2/ Tìm
những phương-tiện cứu giúp kẻ nhuy-nàn vì thời cuộc gây ra.
3/
Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang, tế.
4/
Binh-vực lẫn nhau trong sự tín-ngưỡng tự-do.
ĐIỀU-KIỆN
NHẬP HỘI
Bất luận
nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức, bần-dân hễ được có xu-hướng rõ-rệt về Phật-Giáo,
thành tâm chuẩn-nhận cái tôn chỉ trên đây, đều được gia-nhập vào Hội, ở
tôn-phái nào cũng đặng, mặc dầu gia-nhập Hội, nhưng vẫn giữ được sự tu-hành và
cũng-kiếng của THẦY mình hay TÔN-PHÁI mình.
Các
tôn-giáo khác muốn liên-hiệp, phải có cuộc bàn-bạc riêng.
HỘI-VIÊN
Hội-viên
phân làm hai hạng:
I. -
Hoạt-động hội-viên.
II. -
Tương-trợ hội-viên.
a) Hoạt-động
hội-viên. – Gồm các nhà sư hay cư-sĩ, trí thức có lòng hy-sinh đời mình,
tài-sản mình, mong mở-mang nền đạo-nghĩa và giúp nhân-loại trong sự lầm-than.
b)
Tương-trợ hội-viên. – Gồm tất cả đại-chúng có lòng thiện-tư, vì gia-đình,
vì sự-nghiệp làm ăn, không thể hy-sinh nhất-thiết, nhưng có lòng tán-dương ủng-hộ
công việc của Hội bằng tinh-thần hay vật-chất.
TRỌNG-TRÁCH
HỘI-VIÊN
1/ Phải
giải-thích các tôn-chỉ của Hội cho quần-chúng hiểu rõ và làm cho Hội mau
phát-triển.
2/
Tuân theo các điều-lệ của Hội.
3/
Giúp nguyệt-phí cho Hội.
QUYỀN-LỢI
CỦA HỘI-VIÊN
1/ Hội
phải cho giấy chứng-nhận là người của Hội.
2/ Hội
sẽ binh-vực khi sự tín-ngưỡng của mình bị kẻ khác hủy-hoại.
3/ Nếu
cần đến, Hội sẽ giúp-đỡ trong việc ốm đau, hay quan, hôn, tang, tế, tùy theo sức
của Hội.
4/ Hội
viên có quyền bày tỏ ý-kiến mình về việc đạo-đức hay công cuộc phước-thiện đối
với nhơn-sanh.
5/ Hội-viên
có quyền bình-phẩm, chất-vấn hoặc tố-cáo các công việc của Hội một cách thân-hữu.
6/ Hội-viên
có quyền xin ra khỏi Hội khi thấy mình không thể đeo đuổi công việc của Hội.
7/ Hội-viên
có quyền cử Ban Trị-Sự và ứng-cử.
TRỤ-SỞ
CỦA HỘI
Hội sẽ
lấy chùa của Hội-viên, Nhà cửa của những người từ tâm dưng cúng, hoặc là Hội
mua, cất hay mướn, làm trụ-sở cho Hội.
NGUYÊN-TẮC
TỔ-CHỨC
Các
Ban Trị-Sự của Hội ở các nơi sẽ do đại-biểu của các tôn-phái nhà Phật trong xứ,
các trí-thức và Thiện-nam, Tín-nữ đề-cử thành-lập. Các nhà sư, các cư-sĩ, các
thiện trí-thức hoạt-động (nam nữ không phân) có đủ tài để chỉ-huy và được lòng
tín-nhiệm của đại-chúng là điều-kiện tối cần cho nhân-viên trong Ban Trị-Sự.
Mỗi phái
đều cử người đại-biểu trong Ban Trị-Sự.
HỆ-THỐNG
TỔ-CHỨC
a/ – Về
toàn quốc, có Ban Trị-Sự Việt-Nam Phật-Giáo Liên-Hiệp Hội chấp-hành toàn quốc,
về toàn xứ có ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn xứ, về toàn tỉnh có Ban
Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn tỉnh, về toàn thôn thì có Ban Trị-Sự chấp-hành
toàn thôn.
b/ –
Các Ban Trị-Sự mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn đều phải tuân theo mạng-lịnh
của Trung-Ương, làm việc hằng ngày phải liên-lạc với Thượng và Hạ cấp.
c/ – Tất
cả Ban Trị-Sự mỗi năm phải cử lại một lần, ngày cử sẽ có Ủy-Ban Trung-Ương
thông-cáo trước, trước khi cử xong Ban Trung-Ương sẽ bố-cáo danh-sách của các
nhân-viên đắc cử cho Hội-viên hay.
Khi
các B.T.S mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn cử xong phải đệ-trình danh-sách
lên cho Ban Trung-Ương thừa-nhận.
Ban Trị-Sự
gồm có:
I. –
Chánh và Phó Hội-Trưởng
II. –
Chánh và Phó Thơ-ký
III. –
Chánh và Phó Thủ-Quỹ
IV. –
Hai viên Kiểm-soát
V. –
Hai viên Cố-vấn
VI. –
Hai viên Tuyên-truyền và Liên-lạc
VII. –
Ba viên Dự-Khuyết
e/ –
Các B.T.S ngoài việc hằng ngày ra mỗi tháng phải hội-họp một lần tại hội-quán,
hoặc nhà, hoặc chùa của Hội-viên đặng hội nhóm để nghe các nhân-viên trong Ban
Trị-Sự bày tỏ sự hoạt-động của Hội.
Ngày hội
họp định vào ngày 15 và 30 âm-lịch trong mỗi tháng.
f/ –
Khi các B.T.S cử xong, phải khẩn-cấp lập thêm 3 Ban:
I. –
Ban Nghiên-cứu đạo Phật.
II. –
Ban Huấn-luyện và Truyền-bá đạo Phật.
III.
– Ban Chẩn-tế, lo tìm phương giúp-đỡ kẻ khốn-cùng.
I/ –
Ban Nghiên-cứu đạo Phật gồm các nhà sư, những nhà thông-thái, để hằng ngày
tra cứu kinh-điển, dịch sách, hay viết sách nói về đạo Phật.
II/ –
Ban Huấn-luyện và Truyền-bá gồm các nhà sư, cư sĩ, trí-thức hoạt-động, đặng
Hội phái đi các nơi giảng-giải đạo Phật cho đại-chúng nghe, hoặc giả mở trường
dạy đạo Phật.
III/ –
Ban Chẩn-tế gồm các nhà hảo tâm từ-thiện nam-nữ hoạt-động, chuyên lo cứu
giúp kẻ nghèo-nàn đói-khó, tật-bịnh, hoặc giả thành lập các nhà dưỡng lão nuôi
trẻ mồ-côi, người tàn-tật, nếu có thể được, nên mua trữ thuốc men vải bô, lúa gạo
để dành cho cuộc phước-thiện.
KỶ-LUẬT
CỦA HỘI
A/ –
Không được ganh-ghét chế-nhạo lẫn nhau nếu khác Thầy hay khác Tôn-giáo.
B/ –
Không được khuyến dụ bổn-đạo của ông sư hoặc tôn-phái khác bỏ THẦY hay Tôn-phái
người ta theo THẦY hay Tôn-giáo mình.
C/ –
Không được lợi dụng danh từ-thiện của Hội để quyên góp tiền bạc làm của riêng.
D/ –
Không được chế-nhạo các Tôn-phái khác.
Đ/
– Phải hòa-nhã với tất cả các tôn-giáo khác và dân-chúng.
E/ –
Phải thành-thật yêu-thương đoàn-kết và tìm các chỉ dạy lẫn nhau.
G/ –
Phải trung-thành với tôn-chỉ của Hội.
H/ –
Phải tố-cáo các hành-vi bất chánh của các Hội-viên trước Ban Trị-Sự, không được
vì tình riêng mà giấu-giếm.
I/ –
Phải nhận lỗi và tỏ lòng ăn-năn hối-ngộ khi Ban Trị-Sự xét mình có lỗi.
K/ –
Phải chịu sự chỉ-huy của Ban Trị-Sự địa-phương mình.
Nếu phạm
những đều trên đây :
Lần thứ
nhứt : Bị phê-bình.
Lần thứ
hai : Cảnh-cáo.
Lần thứ
ba : Trục-xuất lập tức và giao cho pháp-luật trừng-trị.
HẠN ĐỊNH
VỀ NGUYỆT-PHÍ
Vì có
kẻ đủ sức người không, nên nguyệt-phí phân làm bốn hạng:
Hạng
thứ nhứt : 3$00
Hạng
thứ hai : 2$00
Hạng
thứ ba : 1$00
Hạng
thứ tư : 0$50
Tất cả
Ban Trị-Sự hễ chỗ nào cử xong đều trình lên Chánh-Phủ và nhà cầm quyền địa-phương
danh-sách của Ban Trị-Sự và sổ sách cho Nhà-Nước kiểm-soát.
Saigon,
tháng tư Ất-Dậu (1945)
***
YÊU NƯỚC
Yêu nước
bao đành trơ mắt ngó,
Thương
đời chưa vội ẩn non cao.
Quyết
đem tâm sự tâu cùng Phật,
Coi lịnh
từ-bi dạy lẽ nào.
Phụng
Hiệp, tháng tư Ất-Dậu (1945)
Bài nầy
Đức Thầy đọc tại Phụng-Hiệp lúc đi khuyến nông; sau khi diễn thuyết Đức Thầy hỏi
câu nầy: “Tôi là một nhà tu-hành, lẽ thì vào chốn non cao, núi thẳm tu tâm dưỡng
tánh, cớ nào hôm nay lại xen vào chánh trị?!”.
Không
ai nói gì, Đức Thầy có vẻ buồn, cau chơn mày rồi ngâm bài thơ tứ tuyệt trên
đây.
(Do lời
ông Mai-Ngọc-Quế thuật lại)
***
HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TRÔNG TÂY, HẪNG-HỜ VỚI NẠN ĐÓI BẮC-KỲ
Nam-kỳ
có một lũ hề,
Mày
râu nhẵn-nhụi chuyên nghề buôn dân.
Nhờ ơn
Mẫu-quốc vinh thân,
Giờ
toan mua tảo bán tần nữa sao?
Dửng-dưng
trước nghĩa đồng-bào,
Đói
cơm khát nước trông vào thống tâm.
Làm
ngơ, giả điếc, giả câm,
Tay ôm
hũ bạc, mắt đăm đăm chờ.
Vái rằng:
“Mẫu-quốc gặp cơ”,
Trở
qua Nam-Việt con thờ muôn năm.
Dầu
con nay ở xa-xăm,
Chớ
lòng thương nhớ đứng nằm không yên.
Trước
kia “nước mẹ” xin tiền,
Của
muôn trong túi con liền tuôn ra.
Ngày
nay tuy chẳng lại qua,
Con
cũng lén-lén cúng cha ít nhiều.
Đồng-bào
con chết bao nhiêu,
Con để
mặc kệ quạ diều bươi thây”.
Ai ơi
còn ước mơ Tây,
Mắt
kia quá tối lại Thầy chữa cho.
SĨ-CUỒNG (biệt
hiệu của Đức Thầy)
Tháng
tư ẤT-Dậu (1945)
***
CAI TỔNG CHÁNH (CÙ-LAO GIÊNG) xướng:
Giữ đạo
từ lâu kín nhẹm mầu,
Để
lòng tầm đạo biết nơi đâu.
Ngửa
mong bác-ái từ-bi hóa,
Trông
lượng ơn Thầy chỉ đạo sâu.
***
ĐỨC THẦY
đáp họa:
Kín nhẹm
lòng nhơn ấy mới mầu,
Đức là
đạo cả chớ nơi đâu?
Duyên
lành sẵn có ơn trên hóa,
Bồi đắp
nền nhơn đức lại sâu.
Long-Xuyên,
tháng 4 Ất-Dậu 1945
Đức Thầy
ứng khẩu đáp họa liền bằng cách đọc cho một người tín-đồ chép vì lúc ấy Ngài
đang dùng cơm.
“PHỤ-NỮ CA DIÊU”
Ngán
thay bổn-đạo đàn bà,
Lắm lời
điêu-xảo gần xa đều tường.
Làm
cho hoen-ố Phật-đường,
Không
rèn được đức khiêm-nhường từ-bi.
Tu còn
ái-ố sân-si,
Tu còn
nhiều tánh dị-kỳ trần mê.
Khó
mong cửa Phật dựa kề,
Càng gần
địa-ngục nhiều bề thảm thương.
Tỉnh
tâm đốt nén tâm hương,
Nguyện
rằng đệ-tử một đường lo tu.
Ăn-năn
kẻo uổng công phu …!
Sa
Đéc, ngày 28-7-45
(trong
lúc Đức Thầy đi Khuyến-nông)
***
TẶNG THI-SĨ VIỆT-CHÂU
Thi-sĩ
Viẹt-Châu tức là ông Nguyễn-xuân-Thiếp mà hầu hết anh em tín-đồ đều nghe danh.
Là văn sĩ kiêm thi sĩ, ông Việt-Châu có viết một tập thơ xuất sắc, nhan đề
“Lông ngỗng gieo tình” để kể lại đoạn tình-duyên của Trọng-Thủy và Mị-Châu.
Trong
khi cùng ngồi xe với Đức Thầy trên đường về Saigon, ông có trao cho Đức Thầy
xem tập thơ ấy. Đức Thầy liền ngâm hai câu thơ dưới đây để phê-bình gián-tiếp
áng văn kiệt-tác của ông Việt-Châu:
“Mị-Châu
ơi hỡi Mị-Châu,
Mê chi
thằng chệt để sầu cho cha!”
Liền
đó, Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thi tả cảnh ngồi trên xe trên đường về
Saigon. Thấy ông Việt-Châu nặn óc mãi mà không ra thơ, Đức Thầy liền ứng khẩu đọc
bài dưới đây:
Xe về
chở theo chàng thi-sĩ,
Bảo
làm thi mãi nghĩ không ra.
Vậy mà
giữa chốn phồn-hoa,
Vang
danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu.
Quen
thói viết thơ sầu thơ cảm,
Không
dìu dân hắc-ám qua truông.
Ngâm-nga
giọng quá u-buồn,
Làm
cho độc-giả quay cuồng mê-ly.
Theo
dõi gót từ-bi mấy bữa,
Phàm
tâm kia đã rửa hay chăng?
Đương
cơn sóng dậy đất bằng,
Thi-nhân
đứng ngó để tăng-sĩ làm.
Tăng-sĩ
quyết chùa, am bế cửa,
Tuốt
gươm vàng lên ngựa xông-pha.
Đền
xong nợ nước thù nhà,
Thiền
môn trở gót Phật-Đà nam-mô.
Chừng ấy
mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng
trần rứt sạch cửa không.
Chuông
linh ngân tiếng đại-đồng,
Ta-bà
thế-giới sắc không một màu.
Sài-Gòn
đến, trống lầu đã trở,
Đề-huề
nhau cửa mở xuống xe.
Khuyến
nông chấm dứt mùa hè …
Trên
đường về Saigon, tháng 6 năm Ất-Dậu 1945.
***
ĐI KHUYẾN NÔNG VỀ
Lìa
Sàigòn trong vòng hai tháng,
Khi lộn
về tiệm quán tanh-banh.
Bởi
chưng pháo-lũy phi hành,
Quăng
bom mù-quáng tan-tành còn chi.
Động
lòng của kẻ từ-bi,
Tây-phương
tấu lại A-Di Phật-Đà.
Rằng:
bên thế-giới ta-bà,
Chúng-sanh
tàn-sát cũng là vì tham.
Di-Đà
mở cuộc hội-đàm,
Cùng
chư Bồ-Tát quyết đam phép lành.
Tịnh
bình rưới khắp chúng-sanh,
Làm
cho-giác ngộ hiền lành như ta.
Công-đồng
hoạch-định san-hà,
Nước
ai nấy ở nhà nhà tự-do.
Sàigòn,
tháng 6 năm Ất-Dậu (1945)
***
TỰ-THÁN
Gió
hiu-hắt bên rừng quạnh-quẽ,
Nhìn
non-sông đượm vẻ tang-thương.
Mối
tình chủng-loại vấn-vương,
Thấy
quân xâm-lược hùng cường căm gan.
Vừa
toan rút gươm vàng ngăn giặc,
Bỗng họa
đâu gieo-rắc bất-kỳ.
Cường
quyền một lũ ngu-si,
Oan nầy
hận ấy sử ghi muôn đời.
Truyền
khắp nước muôn lời vu-cáo,
Dùng
trăm ngàn thói bạo hiếp dân.
Làm
cho trong nước rẽ phân,
Làm
cho giặc Pháp một lần sướng rang.
Vậy
cũng gọi an bang định quốc,
Rồi
rút lui bỏ mất thành-trì.
Giống
nòi nỡ giết nhau chi?
Bạng
duật tương trì lợi lũ ngư ông.
Đoàn hậu
tấn có lòng yêu nước,
Khá
nhìn xem gương trước răn mình.
Riêng
ta hai chữ nhục vinh,
Thoảng
cười thế sự nhân-tình quá đen.
***
Lòng
dân chớ khá xem khinh,
Bạo
tàn giết mất nhân-tình thì thua.
Miền-Đông,
cuối năm Ất-Dậu (1945)
Đăng nhận xét