Tải Trọn Bộ Sấm Giảng - Thi Văn Giáo Lý PDF
Bay hồn khiếp vía kể từ đây,
Nhắn gởi cho ai vội trách Thầy.
Trời hạ năm dê chưa nữa nữa,
Tuần-huờn máy tạo cũng lần xây.
Lần xây thiện-tín rõ chơn Thầy,
Chớ nóng tánh phàm chớ vội quây.
Ngày lụn tháng qua năm sẽ đến,
Trẻ già sẽ thấy cái hay hay.
Hay hay nam nữ thỏa lòng khuây,
Nếu chẳng thì ra lại trách Thầy.
Muốn sớm tạn nhìn e úa rụng,
Trì tâm tu-niệm để rồi đây.
Rồi đây úa rụng xót lòng thay,
Uổng tiếc công-trình bấy đến nay.
Có khó mới khôn, khôn rảnh khó,
Gìn tâm thiện niệm bớ râu mày.
Râu mày biết giữ đạo tâm chay,
Đắc quả thành công cũng có ngày.
Thất-Tổ Cửu-Huyền nơi chín suối,
Những mong hậu-tấn biết tâm chay.
Tâm chay hậu-tấn rán tu thân,
Bến giác chẳng xa cũng chẳng gần.
Trời Phật thương người lo độ tận,
Muốn lo giải-thoát phải tu thân.
Tu thân thiện-tín phải chuyên cần,
Lục-tự Di-Đà giữ Tứ Ân.
Rán nhẫn trăm phần dầu khó nhẫn,
Dạ thưa quan chức phận làm dân.
Làm dân bá nhẫn thị lương hiền,
Chữ nhẫn lời truyền Phật, Thánh, Tiên.
THI VĂN GIÁO LÝ
của
Đức Huỳnh Giáo Chủ
(Do chính tay Ngài viết hoặc xướng họa)
Đức Huỳnh Giáo Chủ
(Do chính tay Ngài viết hoặc xướng họa)
NHỮNG BÀI SÁNG TÁC NĂM QUÍ-MÙI VÀ GIÁP THÂN (1943-1944)
Mục lục
HỎI PHỖNG ĐÁ (Cổ thi)
Ông đứng làm chi đấy hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng.
Giữ gìn non nước cho ai đó?
Dâu bể cuộc đời có biết không?
Trơ trơ như đá vững như đồng.
Giữ gìn non nước cho ai đó?
Dâu bể cuộc đời có biết không?
PHỖNG
ĐÁ TRẢ LỜI
Ông đứng
đây cho chúng biết ông,
Kêu
lên một tiếng tợ chuông đồng.
Khắp
trong thiên-hạ đều lai tỉnh,
Bước
xuống thuyền từ đến cửa không.
Đứng
chờ thời-vận đến cho ông,
Rải Đạo
huyền-vi khắp Đại-Đồng.
Bao bọc
non Hồng cùng nước Lạc,
Đứng
chờ Đại Chúng trọng tôn ông,
Dựng
cuộc hòa-minh khắp Đại-Đồng.
Mao-Việt
giang-sơn bờ cõi vững,
Đuổi
loài Phiên-tặc lội về không.
HỒNG-VÂN
CƯ-SĨ
(biệt
hiệu của Đức Thầy) Sài-Gòn, năm 1943.
***
***
CHO ÔNG ĐỖ-VĂN-VIỄN SẮP ĐỔI ĐI LÀM VIỆC XỨ XA
Ngàn dặm
đường xa cách ải quan,
Chúc
nguyền đệ-tử được bình-an.
Mong
trời nhỏ phước cho dân thiện,
Vô bịnh,
vô ưu, muôn việc nhàn.
Đó rán
trì lòng ẩn-nhẫn qua,
Thì-giờ
hạnh-phúc có đâu xa.
Ngày
nay sư-đệ tuy xa cách,
Trời
Phật ban cho sẽ hiệp-hòa.
Cơn nầy
thế-giới lắm phong-ba,
Lừa-lọc
con tiên diệt quỉ tà.
Phú có
cao-đàng phân kẻ bạo,
Cho
người lương-thiện khỏi xông-pha.
Non nước
tuy xa đâu cũng trời,
Cũng
trời, cũng Phật, cũng an nơi.
Một
tâm chí nguyện cho tròn Đạo,
Lòng
chớ lo chi sự đổi dời.
Sài-Gòn,
năm 1943.
***
CHO BÀ NĂM CÒ Ở SÀI-GÒN
Ngọn
gió thiền môn cuốn bụi hồng,
Lợi
danh hai chữ mắt lờ trông.
Nương
theo đuốc huệ tầm chơn-lý,
Lóng
tiếng từ-bi diệt dục lòng.
Tỉnh
ngộ đã nghe lời Phật thuyết,
Thoát
mê suy nghiệm lẽ huyền thâm.
Mau
chơn bước đến Long-Hoa hội,
Chầu
Phật hòa vui cõi Đại-Đồng.
Sài-Gòn,
năm 1943.
***
GỌI ĐOÀN
Hỡi
anh em trong nhà Nam-Việt!
Nhớ nước
ta hùng liệt thuở xưa.
Ngàn
năm Bắc địch vày bừa,
Mà còn
đứng dậy tống đưa quân thù.
Hồn
chiến-sĩ ngàn thu rạng tỏ,
Gương
anh-hào chói đỏ như châu.
Non
sông thanh bạch một bầu,
Ngọn cờ
độc-lập bay hầu khắp nơi.
Lịch-sử
cũng rạng ngời mấy đoạn,
Lắm
anh-hùng hảo-hán xuất thân.
Sanh
vi tướng tử vi thần,
Câu
châm ngôn ấy truyền lần đến nay.
Tới
Nguyễn-trào sa tay một phút,
Lũ
Tây-dương bòn rút mấy mươi năm.
Thương
dân ruột tím gan bầm,
Rửa
chưa xong hận còn căm mối hờn.
Nay chẳng
lẽ ngồi đờn những bản,
Vong-quốc-ca
cho bạn chung nghe.
Thôi
thì ta hãy hiệp bè,
Cùng
nhau đoàn-kết đặng khoe sức hùng.
Khắp Bắc,
Nam đùng đùng một trận,
Ấy mới
mong quốc-vận phản hồi.
Trước
là dẹp lũ Tây bồi,
Sau
đưa quốc-tặc qui-hồi Diêm-cung.
Nếu
nay chẳng vẫy-vùng cương-quyết,
Thì ắt
là tiêu-diệt giống nòi.
Muôn
năm chịu kiếp tôi-đòi,
Thân
người như thế còn coi ra gì!
***
GỌI ĐOÀN THANH-NIÊN
Hỡi
thanh-niên trong nhà Nam-Việt,
Thanh-niên
đừng mài-miệt truy-hoan.
Cùng
nhau hiệp bạn vầy đoàn,
Luyện
rèn thao-lược đặng toan báo cừu.
Cứu được
nước danh lưu thanh-sử,
Noi
tinh-thần quân lữ Phù-Tang.
Lòng
yêu tổ-quốc hoàn toàn,
Xông
pha chiến địa gian-nan sá gì.
Chớ có
ngủ li-bì trong mộng,
Để dân
ta mãi sống khốn-cùng.
Á-đông
súng nổ đùng-đùng,
Thì ta
cũng phải vẫy-vùng thoát-ly.
Đừng
nhu-nhược, mê-si tửu sắc,
Mà
buông tha lũ giặc cùng đường.
Thanh-niên
nghĩa-vụ phi-thường,
Phận
là phải biết yêu thương giống nòi.
Nay chẳng
lẽ ngồi coi thắng bại,
Của cọp,
rồng trên dãy đất ta.
Một
mai cọp đã lìa nhà,
Biết rồng
có chịu buông tha chăng cùng?
Vậy
anh em phải chung lưng lại,
Dùng sức
mình đánh bại kẻ thù.
Tỏ ra
khí-phách trượng-phu,
Vung
long-tuyền-kiếm tận tru gian thần.
Xưa nước
đã bao lần khuynh-đảo,
Được cứu
nguy nhờ máu anh-hùng.
Hy-sinh
báo quốc tận trung,
Đem bầu
nhiệt-huyết so cùng sắt gang.
Việt-Nam
là giống Hồng-Bàng,
Muôn đời
xa lánh tai-nàn diệt-vong.
Sài-Gòn,
năm 1943.
***
TẶNG ĐOÀN THANH-NIÊN ÁI-QUỐC
Vừa
nghe nói Đoàn Thanh-Niên Ái-Quốc,
Lòng
sĩ-tăng bỗng bật sự vui say.
Âu là
Trời đã sẵn bày,
Non
sông chìm đắm có ngày phục-hưng.
Khắp
Á-Đông tưng-bừng náo-nhiệt,
Nô-nức
nhau kiến-thiết quốc-gia.
Kẻ
sang hải-ngoại về nhà,
Người
trong tăng-lữ cũng là ước-ao.
Bấy
lâu đã khát-khao tự-trị,
Thanh-Niên
Đoàn chuẩn-bị xong chưa?
Chừng
nào sức mạnh có thừa,
Diệt-trừ
kẻ bạo cho vừa lòng dân.
Gương
trung-nghĩa Thánh Thần cảm-động,
Ắt có
ngày mở rộng cơ-quan.
Từ Nam
ra Bắc xa ngàn,
Nhưng
lòng phải một mới toàn mưu hay.
Chừ dầu
có đắng cay rán chịu,
Đợi cơ
Trời kết-liễu thù chung.
Làm
cho rõ mặt anh-hùng,
Làm
cho địch-thủ rùng-rùng bó tay.
Vậy mới
đáng làm trai Nam-Việt,
Chen
vai cùng hào-kiệt Phù-Tang.
Gánh-gồng
bảo-bọc giang-san,
Giữ-gìn
biên-cảnh bằng an đời đời.
Trăm họ
mới thảnh-thơi nhàn-nhã,
Lo đắp-bồi
văn-hóa ngàn năm.
Tham
quan chừng ấy vắng tăm,
Mọt
dân chừng ấy kiếm tầm đâu ra.
Đôi lời
thô-kịch ngâm-nga,
Tặng
viên Đoàn-Trưởng gọi là yêu nhau.
Sài-Gòn,
năm 1943
***
NHẪN ĐỢI THỜI-CƠ
Vì có
nhiều anh em bổn-đạo phân-vân về chỗ mùa hạ năm Quí-Mùi (1943) đã qua mà chưa
thấy chuyện gì có thể cho là phù hạp với câu:
“Qua
năm dê đến lúc mùa hè,
Trong
bá-tánh biết ai hữu chí.”
Nên Đức
Thầy có làm mấy bài thi dưới đây:
Bay hồn khiếp vía kể từ đây,
Nhắn gởi cho ai vội trách Thầy.
Trời hạ năm dê chưa nữa nữa,
Tuần-huờn máy tạo cũng lần xây.
Lần xây thiện-tín rõ chơn Thầy,
Chớ nóng tánh phàm chớ vội quây.
Ngày lụn tháng qua năm sẽ đến,
Trẻ già sẽ thấy cái hay hay.
Hay hay nam nữ thỏa lòng khuây,
Nếu chẳng thì ra lại trách Thầy.
Muốn sớm tạn nhìn e úa rụng,
Trì tâm tu-niệm để rồi đây.
Rồi đây úa rụng xót lòng thay,
Uổng tiếc công-trình bấy đến nay.
Có khó mới khôn, khôn rảnh khó,
Gìn tâm thiện niệm bớ râu mày.
Râu mày biết giữ đạo tâm chay,
Đắc quả thành công cũng có ngày.
Thất-Tổ Cửu-Huyền nơi chín suối,
Những mong hậu-tấn biết tâm chay.
Tâm chay hậu-tấn rán tu thân,
Bến giác chẳng xa cũng chẳng gần.
Trời Phật thương người lo độ tận,
Muốn lo giải-thoát phải tu thân.
Tu thân thiện-tín phải chuyên cần,
Lục-tự Di-Đà giữ Tứ Ân.
Rán nhẫn trăm phần dầu khó nhẫn,
Dạ thưa quan chức phận làm dân.
Làm dân bá nhẫn thị lương hiền,
Chữ nhẫn lời truyền Phật, Thánh, Tiên.
Gương
trước Hớn, Tần, Hàn-Tín nhẫn,
Đã không khổ nhục khỏi ưu-phiền.
Ưu-phiền trăm mối suốt canh thâu,
Thiện-tín chưa thông lẽ nhiệm-mầu.
Mảng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp,
Lo chi ô-thước chẳng xong cầu.
Xong cầu bờ giác bến sông mê,
Thế-sự nhân-sanh hết nhún trề.
Đạo-pháp huyền-vi thâm diệu diệu,
Chẳng màng thế-sự tiếng khen chê.
Sài-Gòn, năm Quí-Vì (1943).
***
Đã không khổ nhục khỏi ưu-phiền.
Ưu-phiền trăm mối suốt canh thâu,
Thiện-tín chưa thông lẽ nhiệm-mầu.
Mảng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp,
Lo chi ô-thước chẳng xong cầu.
Xong cầu bờ giác bến sông mê,
Thế-sự nhân-sanh hết nhún trề.
Đạo-pháp huyền-vi thâm diệu diệu,
Chẳng màng thế-sự tiếng khen chê.
Sài-Gòn, năm Quí-Vì (1943).
***
BÀ-RÁ
Bà-Rá mấy năm nhốt tội nhơn,
Hành-hà những kẻ mến giang-sơn.
Bao giờ cuộc thế xoay chiều mới,
Tháo cũi tuông mây đặng rửa hờn.
Sài-Gòn, năm Quí-Vì (1943).
***
Hành-hà những kẻ mến giang-sơn.
Bao giờ cuộc thế xoay chiều mới,
Tháo cũi tuông mây đặng rửa hờn.
Sài-Gòn, năm Quí-Vì (1943).
***
ĐI CHƠI ĐÊM VỚI ÔNG LUẬT-SƯ MAI-VĂN-DẬU
Cùng ông thầy kiện đi chơi,
Hứng luồng gió mát thảnh-thơi tấm lòng.
Đi vừa giáp đặng một vòng,
Ngồi lại bàn đá ngó mong trên trời.
Sao một nơi, trăng một nơi,
Trời xinh cảnh lịch tuyệt vời như tranh.
Đi ngang bồn cỏ xanh xanh,
Ổng quên luật-lệ ổng đành bước lên.
Rầy ông, ông giả đò quên,
Phải mà có lính biên tên sổ cò.
Rồi đi nhiều nỗi quanh co,
Ngay đường khám lớn nhỏ to luận bàn.
Bỗng đâu một tiếng la vang,
Nắm tay ổng kéo chạy sanh cạnh lề.
Ấy là tiếng "ách-ta-lê"(1),
Không đứng chỉnh-tề chúng bắn dập xương,
Sài-gòn, mùa thu năm 1943
(1) Halte là! (Hiệu lịnh bảo đứng lại).
***
Hứng luồng gió mát thảnh-thơi tấm lòng.
Đi vừa giáp đặng một vòng,
Ngồi lại bàn đá ngó mong trên trời.
Sao một nơi, trăng một nơi,
Trời xinh cảnh lịch tuyệt vời như tranh.
Đi ngang bồn cỏ xanh xanh,
Ổng quên luật-lệ ổng đành bước lên.
Rầy ông, ông giả đò quên,
Phải mà có lính biên tên sổ cò.
Rồi đi nhiều nỗi quanh co,
Ngay đường khám lớn nhỏ to luận bàn.
Bỗng đâu một tiếng la vang,
Nắm tay ổng kéo chạy sanh cạnh lề.
Ấy là tiếng "ách-ta-lê"(1),
Không đứng chỉnh-tề chúng bắn dập xương,
Sài-gòn, mùa thu năm 1943
(1) Halte là! (Hiệu lịnh bảo đứng lại).
***
AN-ỦI MỘT TÍN-ĐỒ
Con thuyền bát-nhã sang sông,
Miệng ngoài gọi khách lòng trong ngại-ngùng.
Đã từng dựa kẻ nâu-sùng,
Cớ sao tâm trí còn tùng ngoại duyên.
Muốn lên tiên được cảnh tiên,
Nấc thang vinh-hạnh Thầy riêng cho mình.
Từ đây đến buổi thanh-bình,
Muôn người niệm Phật quả mình biết bao.
Trồng cây mà chẳng rấp rào,
Để cho gió lại tạc vào gốc lay.
Lòng người chẳng ớt mà cay,
Bị câu tài-sắc đổi thay khôn lường.
Một mai đến số vô-thường,
Công kia với tội có lường kịp chăng?
Saigon, năm 1943
***
Miệng ngoài gọi khách lòng trong ngại-ngùng.
Đã từng dựa kẻ nâu-sùng,
Cớ sao tâm trí còn tùng ngoại duyên.
Muốn lên tiên được cảnh tiên,
Nấc thang vinh-hạnh Thầy riêng cho mình.
Từ đây đến buổi thanh-bình,
Muôn người niệm Phật quả mình biết bao.
Trồng cây mà chẳng rấp rào,
Để cho gió lại tạc vào gốc lay.
Lòng người chẳng ớt mà cay,
Bị câu tài-sắc đổi thay khôn lường.
Một mai đến số vô-thường,
Công kia với tội có lường kịp chăng?
Saigon, năm 1943
***
NĂM
GIÁP THÂN (1944)
CHO CÔ KÝ GIỎI Ỡ BẠC-LIÊU
Rày đã
tu thân lánh bụi hồng,
Dạ đừng suy nghĩ chuyện minh-mông.
Để tâm yên tĩnh tầm chơn-lý,
Phổ-cứu nhơn-sanh khắp đại-đồng.
Dạ đừng suy nghĩ chuyện minh-mông.
Để tâm yên tĩnh tầm chơn-lý,
Phổ-cứu nhơn-sanh khắp đại-đồng.
Cô hai
cô đã đi về,
Mà sao tâm-não nhiều bề ưu tư.
Làm sao gỡ mối sầu tư,
Cho Thầy, cho bạn cũng như cho mình ?
Mà sao tâm-não nhiều bề ưu tư.
Làm sao gỡ mối sầu tư,
Cho Thầy, cho bạn cũng như cho mình ?
Viết
cho cô diệu ít hàng,
Chuối già ăn hết rõ-ràng mười hai.
Nội nhà ngó thấy bằng nay,
Từ đây sắp đến không ai dám mời.
Tưởng ăn vài trái đố chơi,
Ai dè bao-tử là nơi kho tàng.
Chuối già ăn hết rõ-ràng mười hai.
Nội nhà ngó thấy bằng nay,
Từ đây sắp đến không ai dám mời.
Tưởng ăn vài trái đố chơi,
Ai dè bao-tử là nơi kho tàng.
Sàigòn,
năm 1944
***
ẠC NÚC
Ạc-Núc
từ khi đến đất nầy,
Giết
đà vô số kẻ thù Tây.
Làm
cho chí sĩ nhà Nam-Việt,
Chẳng
đội trời chung với lũ mầy.
***
ĐỜ-CU
Người
Pháp bây giờ mới phục-hưng,
Trẻ
già múa nhảy tửng-từng-tưng.
Đờ-Cu
hội-hiệp lăng-xăng xộn,
Đứa biểu
đầu đi đứa biểu đừng.
Sàigòn,
năm 1944
***
MUỐN LÁNH PHỒN-HOA
Muốn lánh phồn-hoa, lánh thị-thành,
Tìm nơi non thẩm ngõ mai danh.
Đợi cơ thiên-địa xây vần đến,
Chờ cuộc phong-lôi đổi vận lành.
Sớm hứng sương trong cùng vũ-trụ,
Chiều mong gió mát với trời thanh.
Xa nơi đa sự điều cao hạ,
Muốn lánh phồn-hoa lánh thị-thành.
Sàigòn, năm 1944
***
Tìm nơi non thẩm ngõ mai danh.
Đợi cơ thiên-địa xây vần đến,
Chờ cuộc phong-lôi đổi vận lành.
Sớm hứng sương trong cùng vũ-trụ,
Chiều mong gió mát với trời thanh.
Xa nơi đa sự điều cao hạ,
Muốn lánh phồn-hoa lánh thị-thành.
Sàigòn, năm 1944
***
Đăng nhận xét