BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Thất Sơn Mầu Nhiệm (Phần 2)

Thất Sơn Mầu Nhiệm Phần 2 nói về các Bậc Siêu Phàm ỡ miền Thất Sơn như: Đức Phật Thầy Tây An, Ông Đạo Đèn Hay Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư, Ông Sư Vãi Bán Khoai, Ông Cử Đa. Các vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An cũng như các vị Đắc Đạo.



THÂT SƠN MẦU NHIỆM
Của Dật Sĩ & Nguễn Văn Hầu

Mục lục

Phần II: CÁC BẬC SIÊU-PHÀM Ở MIỀN THẤT-SƠN

Chương I:Đức Phật-Thầy Tây-An

I- Hành vi và thân thế buổi đầu.

Đức Phật-Thầy Tây-An chính danh là Đoàn-Minh-Huyên, sanh vào giờ ngọ ngày rằm tháng mười năm Đinh-mão (1807), nhằm năm Gia-Long thứ sáu.
Ngài quê ở làng Tòng-Sơn (1), tổng An-Thạnh-Thượng, tỉnh Sađéc. Tổ phụ ở đó từ lâu, nhưng tên họ là gì ngày nay không ai biết được. Chỉ biết trong thân-tộc của Ngài, thuở Ngài mới ra đời, còn có hai người (anh chú bác) là Đoàn-văn-Điểu và Đoàn-văn-Viên (2) mà thôi. Về sau, khi hai ông nầy mất đi, con cháu vì trải qua nhiều lần tao-loạn trong nước nên hoặc chết, hoặc xiêu lạc đi nơi nào mà hiện nay ở Tòng-Sơn không còn thấy roi truyền miêu-duệ.
_______________
(1) Khi xưa là làng Tòng-Sơn, đến hồi Pháp thuộc thì ba làng Mỹ-An, Mỹ-Hưng và Tòng-Sơn bị sáp-nhập tại gọi là Mỹ-An-Hưng. Hiện nay cũng gọi là Tòng-Sơn.
(2). Có người nói là Đoàn-văn-Thuyên, không rõ tên nào đúng.


Căn-cứ vào nhiều bậc bô-lão ở đây cho biết chắc-chắn thì Đức Phật-Thầy bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi còn nhỏ lắm. Ngài đi đâu và làm gì, cả trong làng cho đến những người thân-thuộc của Ngài cũng không ai hiểu được. Lần hồi, ngày lụn tháng qua, tên tuổi và hình-dạng của Ngài chôn sâu vào thời-gian, người ta không còn nhớ một mảy-may gì về Ngài nữa.
Một hôm, khoảng đầu năm Kỷ-dậu (1849), Ngài quá-giang với một chiếc ghe buôn từ miệt trong (?) về. Lúc đến vàm rạch Tòng-Sơn. Ngài lên bộ lần theo bờ rạch mà đi (thuở ấy đuôi làng Tòng Sơn ngang làng Tịnh-Thới (Sađéc), chớ không phải lỡ còn nhỏ quá như ngày nay). Khi đến gần đình làng, gặp lúc có cây da trốc gốc ngã bật xuống sông, lấp cả đường nước, ghe xuồng qua lại đậu dồn chật cả một khúc sông, dân làng đang rũ nhau xúm lại thật đông, cột dây để kéo cây da vào bờ. Công việc nầy hì-hục đã ngót nửa ngày rồi mà vẫn vô hiệu, người ta định giải tán. Kịp khi Đức Phật-Thầy vừa tới, Ngài thấy vậy bèn ngỏ lời với dân làng xin để Ngài kéo hộ:
-Các ông hãy cột dây lại, tôi sẽ ra sức tiếp tay với các ông.
Đám dân làng cười xòa:
-Chúng tôi lực-lưỡng và đông-đảo như thế nầy mà kéo không đi, ông ốm yếu quá, làm sao tiếp nổi ?
Đức Phật-Thầy cười:
-Bà con thử cột xem, tôi liệu có cách kéo được.
Thấy lời nói ôn-tồn và vẻ mặt quả-quyết của "người khách lạ", mấy người dân làng lội xuống nước, cột dây lại, và sắp hàng hai bên để chờ xem ông khách bộ-hành nầy định kéo thế nào.
Đức Phật-Thầy đứng giữa giơ tay lên, hô to:
-Hè . . . hãy kéo lên !
Hai hàng dây của hai tốp người vừa hơi căng thẳng, cây da từ từ xếp ngọn vào bờ, khỏi phải hè-hụi ó-la và nhọc công ra sức chi hết.
Những ghe xuồng đậu lại mấy hôm nay thấy trống được đường nước thì mừng rỡ ra đi. Mấy người dân làng vì mệt nhọc suốt buổi nay cũng uể-oải kéo nhau về. Họ quên xem người khách bộ-hành ấy về đâu, và cũng không buồn nghĩ đến chuyện cây da vì sao mà kéo vào được dễ-dàng như vậy.
Xong việc, Đức Phật-Thầy lại ra đi. Khi đến đình thần làng Tòng-Sơn, Ngài ghé vào. Từ ấy người ta thấy Ngài ngụ luôn tại đây, ở mái hiên sau, ngày thì chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nấu nước uống.
Được ít hôm, ông từ đình làng nầy thấy vậy có lòng lo sợ cho sự rủi-ro xảy ra hỏa hoạn, vì đình thuở ấy lợp bằng tranh, mà đêm đêm Đức Phật-Thầy cứ đốt củi lửa lên hoài, nếu có bề nào thì sẽ khổ cho ông về phần trách-nhiệm. Ông bèn đem ý-kiến ấy mà bày tỏ cùng Đức Phật-Thầy, và xin đừng đốt lửa ban đêm nữa.
Ngài điềm-tĩnh niệm Phật mà trả lời:
-Tôi ở đâu thì sẽ giữ cho đó được bình yên, xin ông đừng ngại.
Năm ấy thời hành dịch-tả nổi lên nhiều nơi, ở làng Tòng-Sơn cũng bắt đầu có lai-rai bịnh ấy. Chức-việc làng và dân-chúng thấy vậy lo sợ, họ xúm nhau lại đình, làm heo gà cúng vái và đóng bè để "tống gió" ra khỏi làng.
Nghe biết được việc ấy, Đức Phật-Thầy ra trước chức-việc làng. Ngài tỏ ý không muốn có công việc sát sinh hại vật mà tống gió, vì theo ý Ngài thì hãy tin-tưởng Phật Trời cho thành lòng còn hơn, chứ tống như thế nầy, nếu thật có linh-nghiệm thì cũng chỉ là một việc làm ích-kỷ. Mình khỏi họa mà người khác mang tai thì sao ?
Nhà chức-trách trong làng không tin, cho là lời nói nhảm. Ngài buồn-bã trở vào hiên sau, vừa đi vừa than:
-Các ông tống thì tôi xin rước!
Những lời biện-giải đầy đạo-đức và sáng-suốt ấy của Đức Phật-Thầy đã không đem lại được kết quả, mà trái lại, chức việc làng cho là một điềm gở, nên vài hôm sau, họ cử ông Thị-sự (1) đến truyền lịnh không cho Ngài ở nữa, lấy cớ rằng trong làng không có quyền chứa-chấp những người lạ mặt.
________________
(1). Chúng tôi không hỏi được tên họ ông Thị-sự nầy. Chỉ biết ông có người cháu tằng-tôn là ông Hương-giáo Tố mới chết mấy năm nay ở Tòng-sơn.

Đức Phật-Thầy nhận lời, nhưng trước khi đi, Ngài yêu-cầu ông Thị-sự mua hộ cho Ngài một đôi đèn sáp để Ngài làm lễ khai lý-lịch cho làng và dân-chúng nghe đã.
Vì tính háo-kỳ của ông Thị-sự, và lòng tin tưởng của một ít người ở chung quanh đình, thấy Đức Phật-Thầy có nhiều cử-chỉ nửa hư nửa thực, nên cuộc lễ được tổ-chức một cách rất mau lẹ.
Sau khi lên đèn nhang làm lễ, Đức Phật-Thầy kể rõ ông bà cha mẹ mình là ai, bà con dòng họ có những người nào, bỏ nhà ra đi từ bé để tu-hành và ngày nay được tỏ ngộ như thế nào, và sau rốt, Ngày tự xưng mình là Đoàn-Minh-Huyên.
Chức-việc và dân làng nhiều người nửa tin nửa ngờ. Họ tính ra thì trong số thân-thuộc mà Đức Phật-Thầy đã kể, có ông Đoàn-văn-Điểu và Đoàn-văn-Viên hiện còn sống, và đang ở trong làng nầy, nên liền cho người mời đến.
Khi giáp mặt, ông Điểu cũng không nhận ra được Đức-Phật-Thầy. Ngài phải đem công việc gia-đình đầu đuôi từ lúc ra đi thế nào mà thuật lại một mạch. Nghe xong, ông Điểu ôm Đức Phật-Thầy mà khóc oà lên và sau khi chấm dứt câu chuyện hàn-huyên, ông Điểu khuyên Ngài nên ở lại quê-hương làm ăn với ông, đừng đi đâu nữa để đến phải thân hình tiều-tụy, già nua trước tuổi như ngày nay (1).
____________________
(1).Đức Phật-Thầy tuổi Mẹo, tính ra tới năm trở về Tòng-Sơn thì mới có 43 tuổi, thế mà nhiều cụ già nghe kể lại thì Ngài hồi ấy râu tóc như một ông già cho nên anh em ông Điểu không nhận ra được.
Để trả lời ông Điểu, Đức Phật-Thầy đem việc đạo-lý ra mà bàn-giải chung cho mọi người nghe, rồi xin cáo từ mà đi.
Bấy giờ ai nấy đều bừng tĩnh, vì thấu được ý-nghĩa hay-ho trong lẽ đạo mà Đức Phật-Thầy vừa giải, nên chi tất cả đồng yêu-cầu Ngài ở lại.
Đức-Phật-Thầy không chịu. Ngài nhứt định ra đi. Ngay khi ấy, bịnh dịch đã tràn lấn tới-tắp
trong làng Tòng-Sơn

Chương II: Các vị Giáo-Chủ hoằng đạo sau Đức Phật-Thầy

I-Ông Đạo Đèn hay Đức Phật Trùm (? - 1875).

A .Thân-Thế:
Ngài tên thật là chi và sanh năm nào chưa tìm ra được. Quê ở sốc Lương-Phi, núi Tà-Lôn (núi nầy trong vùng Thất-Sơn, ở góc núi Dài về phía núi Tô, gần kinh Tám-Ngàn), thuộc quận Tịnh-Biên, tỉnh Châu-Đốc.
Nghe Ngài xưng là Trùm của Phật sai xuống cứu đời, người ta gọi là Đức Phật-Trùm. Lại thấy Ngài trị bịnh hay dùng đèn sáp đễ đốt cho bịnh nhơn coi và ngửi mà hết bịnh, người ta còn gọi Ngài là ông Đạo Đèn.
Ngài vốn thật là người Cao-Miên, lúc còn là thường nhân thì đầu cạo trọc, ăn mặc theo lối Miên, nhưng khi được sáng tỏ, Ngài để tóc và ăn mặc theo người Việt.
Ngài có vợ và sanh được bồn người con gái. Hiện nay miêu-duệ không thấy còn ai.

B. Trường-hợp tỏ ngộ:
Năm Mậu-Thìn (1868), quanh vùng Tà-Lôn, nhân-dân bị bịnh dịch mà chết vô số. Khi ấy Ngài cũng mang bịnh rồi chết. Lúc chết về đêm, gia-quyến Ngài định hoàn lại sáng sớm hôm sau sẽ đem ra hỏa-táng. Không ngờ trời rạng đông, Ngài tự nhiên sống lại và đi đứng mạnh giỏi như thường.
Nhiều người Cao-Miên thấy vậy xúm lại mừng-rỡ hỏi thăm. Ngài không trả lời bằng tiếng Miên mà chỉ nói tiếng Việt. Ngài còn bảo vợ con từ nay hãy ăn ở nói-năng theo phong-tục người Việt.
Vài hôm sau, Ngài bắt đầu nói giọng nửa hư nửa thực. Có ai hỏi Ngài tại sao thế, thì Ngài trả lời đại lược rằng:

- Tuy là phần xác của Miên,
Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời.


C. Bị bắt:
Từ ấy Ngài bắt đầu trị bịnh. Ban đầu còn cứu người về bịnh dịch-tả, sau bịnh nầy êm rồi thì người ta đem đến bịnh chi Ngài cũng trị được. Tiếng đồn vang dội khắp nơi, thiên hạ đem nhau đến để quy-y cầu đạo mỗi ngày một đông không xiết kể !
Bởi thế nên có bọn người Cao-Miên ở Xà-Tón đem lòng ganh-tị, nhứt là họ thấy Ngài thâu-nhận nhiều tín-đồ người Việt thì lại còn ganh-ghét thêm. Một hôm nọ, họ đến cáo-báo quân Pháp ở Châu Đốc, nói rằng Ngài hiệp cùng người Việt để mưu cuộc dấy binh chống Pháp.
Liền theo đó, Ngài bị bắt về Châu-Đốc và không cần xét hỏi hư thực, người ta đem giam Ngài vào ngục.
Theo lời ông Nguyễn-Phước-Côn - tục gọi là ông Bảy Còn, hiện ở tổng Định-Hòa (Long-Xuyên) – đã nghe kể lại thì trường-hợp nầy cũng gần giống như trường-hợp bị bắt của Đức Phật-Thầy Tây-An. Mặc dầu Ngài bị giam cầm trong ngục thất, nhiều người vẫn thấy Ngài thong-thả dạo chơi như người vô sự ở ngoài phố chợ. Bởi vậy, nhà cầm quyền Pháp hết sức nghi-nan, họ bắt Ngài bỏ vào cũi sắt rồi đem liệng xuống sông. Thế mà khi khiêng đến bến, Ngài vẫn điềm nhiên ngồi trong cũi hút thuốc lá như thường.
Nhiều người tín-đồ của Ngài giả dạng khách thương-buôn để đến thăm dò tin-tức; họ thấy Thầy bị hành-hạ như thế thì đau lòng hết sức, định bụng rằng Ngài không còn tài nào sống được. Nhưng trái lại, một chập sau, họ thấy Ngài xả tóc, ung-dung đi đứng trên đường.
Người ta hết sức thử-thách mà không chết, có lần họ đem Ngài bỏ vào vạc dầu sôi, Ngài an nhiên không chút sợ-sệt, và khi đem ra, Ngài không bị một vết phỏng nào.

D. Bị đi đày:
Thấy như vậy, người Pháp tuy có mến phục tài-năng, nhưng thâm tâm còn sợ nỗi nếu thả Ngài ra thì quần-chúng càng tin-tưởng thêm, mà chính cái tin-tưởng ấy sẽ gây cho Ngài một thế-lực mạnh-mẽ. Vì thế nên họ cho đày Ngài ra hải ngoại.
Trong lúc ở hải ngoại, người ta bắt Ngài đi làm việc và chăn heo, cũng như những tội nhân thường phạm khác. Hễ mỗi sáng sớm, mỗi người phải lùa lên núi hai con heo cho ăn, rồi chiều đến lại lùa về.
Khác hơn các tù-phạm, Ngài chỉ kêu hai con heo mà người ta đã cắt cho Ngài lại mà dặn nó sau khi đi ăn rồi phải về. Thế là hai con heo râm-rấp vâng lời, khỏi phải phiền Ngài đi theo giữ như kẻ khác.
Ở đây một thời-gian, Ngài bị nhà chức-trách Pháp cho uống nước cường-toan (eau régale) là một chất độc giết người, mà Ngài vẫn thêm mạnh. Lại xét thấy Ngài hiền lành, không có gì đáng cho là nguy-hiểm lắm, họ bèn tha Ngài về.
Trước khi xuống tàu về xứ, có người tù-phạm tên là Quăng - bấy lâu cũng bị đày như Ngài – than-thở rằng không biết số-phận của y sẽ ra sao, và bao giờ mới được về quê-quán. Ngài thấy vậy bảo Quăng đừng lo gì cho nhọc, nội trong bảy ngày nữa cũng sẽ được thả ra như Ngài vậy. Quả thật đúng y như lời Ngài nói, một tuần sau Quăng được đưa về.

E. Trở về Tà-Lôn:
Sau lúc được trả tự-do, Ngài được người Pháp phát cho một cây súng hai lòng để đi săn chơi, song họ buộc Ngài mỗi một tuần lễ, cứ lệ ngày thứ hai thì phải có mặt để trình diện. Ngài tuy theo lịnh nhưng vẫn còn có thì giờ trở về sốc ở Tà-Lôn mà cứu độ bịnh nhân và nhắc-nhở cho người đời sớm lo tu-tỉnh.
Nơi đây Ngài thường lên núi lấy sáp đem về để se đèn trị bịnh. Người ta không biết sáp ở đâu mà hễ cứ mỗi lần Ngài đi lấy thì những người đi theo không tài nào gánh hết được.
Cũng nơi vùng Thất-Sơn, có một lần Ngài sắp đặt một cuộc cúng tế có đông đủ tín-đồ. Người nhà than rằng không thể nào lo được chén bát để dọn ăn cho đủ. Ngài bảo rằng không hề chi, trên non không thiếu những vật ấy.
Thế rồi hôm sau, Ngài cho ít người môn-đệ đem gióng gánh theo chân Ngài lên núi để mượn đồ. Ngài dẫn đến một nơi nọ có hầm sâu, cây cối chung quanh sầm-uất, rồi chỉ cho họ lấy, và dặn muốn lấy bao nhiêu tùy ý, nhưng hãy đếm để về sau hòng trả lại cho đủ.

Khi xong đám, mấy người tín-đồ quảy gánh chén bát lên núi để trả lại chỗ cũ, nhưng có điều rất lạ là họ cố tìm mà không gặp được chỗ hầm đã lấy, họ đành phải gánh trở về. Sau phải nhờ Ngài dẫn lên chỉ chỗ mới trả được.
Cứ nhiều lần như vậy, nên trong tín-đồ của Ngài có người đưa ý-kiến chặt cây và cột gút cỏ lại để làm dấu, rồi đợi khi vắng Ngài, họ lén lên tìm coi. Nhưng họ cũng thất vọng, những dấu họ làm bữa trước không sao kiếm được, mặc dần họ là đám người rất quen thuộc đường rừng.
Để cho phân biệt được tín-đồ của Ngài và tín-đồ các tôn-phái khác, Ngài phát cho mỗi người đệ-tử một bâu áo có hai khuy hai nút, còn những thân-chủ đến trị bịnh thì Ngài chỉ cho một khuy một nút mà thôi.

G.Trường-hợp tịch-diệt
Ngài ra đời giáo đạo được bảy năm thì tịch-diệt nhằm ngày 21 tháng mười một năm Ất – Hợi (1875). Ngày còn lưu lại cho đời một bổn "Sấm-Giảng" khuyên đời tu-niệm và tiên đoán việc thời-cơ.
Lúc Ngài tịch, có xảy ra một việc rất lạ, tưởng không thể bỏ sót được.
Một hôm, trước ngày tịch diệt, Ngài cho vợ con và tín-đồ biết trước rằng Ngài sẽ về cõi Phật. Thế rồi Ngài bỏ nhà lên núi mà không trở về.
Sau mấy hôm quá ngày trình diện mà không thấy Ngài đến, quân Pháp cho lính vào tận sốc Lương-Phi tìm kiếm, và sau khi nghi nghe nói Ngài đã tịch rồi, họ nhứt định cho là nói dối, bèn bắt hết cả vợ con của Ngài giải về Châu-Đốc, buộc phải có mặt Ngài thì họ mới thả vợ con ra.
Trước tình-trạng rắc-rối ấy, có người tín-đồ trung-thành của Ngài tên là ông Việm hết lòng nguyện vái rồi lặn-lội lên vùng Thất-Sơn, để tìm Ngài mà cầu xin giải-cứu.
Sau mấy hôm tìm kiếm hết sức vất-vả, ông Việm mới gặp được Ngài đang ngồi trong hang đá, cùng nói chuyện với những bậc dị-nhân.
Thấy ông Việm, chưa đợi ông nầy tường-thuật, Ngài tự nhiên đã hiểu rồi. Ngài bảo ông Việm hãy về trước rồi Ngài sẽ theo sau, và dặn rằng Ngài chỉ rán độ cho một phen nầy, sau thì tự liệu lấy.
Khi đến nhà, Ngài bảo tín-đồ đóng cho một cái hòm, rồi tự mình trải vào một cái khăn bằng vải rất rộng. Xong, Ngài vào nằm trong đó, sai người dậy nắp lại cẩn-thận rồi đi báo cho Pháp hay.
Được tin đã kiếm được xác Ngài, quân Pháp kéo vào xem-xét, thì quả nhiên, nhưng họ chưa tin rằng chết thiệt, bảo cứ gác thẻ dưới nắp hòm rồi để đó, hễ vài ba ngày thì họ vào một lần để dở ra khám nghiệm.
Sau khi đã khám-nghiệm đủ cách mà không thấy Ngài còn có chút gì là người sống - mặc dầu xác Ngài vẫn không hôi-thối – nhà cầm quyền Pháp thả hết vợ con Ngài ra, rồi hạ lịnh đem chôn Ngài, trước mặt cho họ trông thấy.
Từ ấy về sau, Ngài không có trở về nhà nữa. Nhưng thỉnh-thoảng Ngài có cho người ta xem thấy Ngài còn lảng-vảng trong vùng Thất-Sơn.
Hiện giờ, nghe đâu Ngài còn có một người tín-đồ đàn-bà ở tại sốc Tức (1), - tục gọi là bà Bảy, sống hơn một trăm tuổi mà vẫn còn khoẻ-mạnh, lại cứ một ngày một trẻ dần, đọ với con bà người ta thấy bà trẻ hơn nhiều. Nghe nói bà có xin phép "Ơn-Trên" để đi vào viếng cảnh trong ruột núi Cấm, nhưng chưa được lịnh, chẳng biết có quả thật như vậy không !
Trong khi đi sưu-tầm tài-liệu cho quyển sách nầy, vì tình-thế khó-khăn không cho phép, nên chúng tôi chưa đến tận mặt bà được. Xin chờ lại một dịp sau.
______________
(1).Ngả ba ông Cấm đi Ba-Chúc, đi rẽ về phía Tịnh-Biên lối một ngàn thước thì đến nhà bà Bảy.

II- Đức Bổn Sư (?-1909).

A. Thân-thế:
Ngài chính danh là Ngô-Lợi, lại còn có tên riêng là Hữu - . Bởi Ngài thứ năm cho nên lúc mới ra đời cứu bịnh, người ta gọi Ngài là cậu năm Hữu.
Ngài còn có biệt tài về việc đi thiếp, nên người đời gọi Ngài là năm Thiếp.
Tướng Ngài nho-nhã, cách đi đứng dịu-dàng. Tánh tình hòa-hưởn, dễ-dãi, và hay giả dạng đàn bà. Đối với tín-đồ, Ngài tùy theo lớn nhỏ mà kêu gọi bằng anh chị hay cô bác chữ không gọi bằng con.
Ngài sanh trưởng tại Dội (gần Mộc-bài), chỗ giáp giới biên-thủy Miên - Việt, thuộc tỉnh Châu-Đốc. Thân-thuộc của Ngài hiện giờ tìm hỏi không thấy còn ai.
Cũng như Đức Phật-Thầy Tây-An, Ngài tự nhiên tỏ ngộ, hiểu thấu lẽ diệu-huyền, không học mà thông và có rất nhiều pháp-thuật.

B. Cứu bịnh:
Lúc Ngài mới ra đời cứu bịnh và rời nhà ra đi trong trường-hợp nào, chưa tìm biết được, song có thể hiểu rõ rằng Ngài có đến Cù-Lao-Ba (thuộc thôn Vĩnh-Trường, tỉnh Châu-Đốc) trong khi dân chúng vùng nầy đang bị nạn dịch-tả hoành-hành. Ngài chỉ dùng nước lã, giấy vàng như Đức Phật-Tây-An để cứ độ bịnh nhân chứ không phải hao tốn thuốc men chi hết, thế mà bịnh nào cũng mạnh. Tiếng đồn vang khắp các nơi, dân chúng theo về quy-y mỗi ngày một đông, không sao kể xiết.
Ngài ở Cù-Lao-Ba một độ rồi lên vùng Thất-Sơn, sang núi Dài, đến núi Tượng, đâu đâu Ngài cũng truyền dạy đạo-đức và cứu bịnh giúp đời, thâu nhận tín-đồ và dựng chùa thờ Phật.
Bởi thính-thế của Ngài rất to cho nên nhà cầm quyền Pháp hồi ấy sợ lắm, thường tìm cách để bắt và tiêu-diệt giáo-phái của Ngài, song với cách thay hình đổi dạng của Ngài (khi đàn bà con gái, lúc trẻ nít thơ ngây), người ta không tài nào hiểu nổi tông-tích Ngài ở đâu được.

C. Việc phá ếm:
Chẳng những Ngài ở Cù-Lao-Ba và vào vùng núi Tượng mà thôi Ngài còn vân-du truyền đạo khắp nơi. Ngài có lần xuống Láng-Linh, có hội kiến cùng Đức Cố-Quản Trần-văn-Thành trong hồi Ngài Cố-Quản đang chiêu binh chống Pháp (cuộc gặp-gỡ nầy không ngoài sự mưu tính công việc khởi nghĩa phục quốc).
Một lần nọ, Ngài cùng mấy người tín-đồ đi lang-thang trong vùng núi Nước (một hòn núi nhỏ trong vùng Thất-Sơn). Trong khi ngắm xem phong cảnh, Ngài bỗng kêu tín-đồ lại mà cho biết rằng tại đây có một cây ếm rất độc, có phương-hại cho tương-lai của dân-tộc Việt-Nam. Mấy người tín-đồ ngơ-ngác không biết gì. Ngài mới vừa chỉ vừa bảo rằng:" Dưới gốc ba cây da to lớn trước mặt kia, là chỗ có ếm !"
Hôm sau, Ngài dẫn đến lối bốn năm chục người đệ-tử, vác rìu vác búa, có đeo theo khăn ấn để trấn-áp tà-ma rồi áp-vào đốn hết cả ba cây đa ấy.
Khi hạ được rồi, Ngài cho móc hết gốc rễ tận dưới đất sâu, thì quả nhiên, có một cây ếm bằng đá, chữ khắc đã lu mờ song hồi ấy còn có thể nhận ra được là của bọn người khách-trú.
Cái ếm ấy hiện giờ không còn thấy ở đâu, song bằng vào cái ếm để ở làng Nhơn-Hưng (quận Tịnh-Biên) mà ông Phạm-Thái-Chung đã lấy được thì sự thật vẫn hiển nhiên là có.

D. Trở về núi Tượng:
Sau khi bôn-ba đây đó, Ngài trở về núi Tượng mở rộng chùa-chiển, quy-tụ dân-cư và lập nên mối đạo Hiếu-Nghĩa như chúng ta thấy còn lưu-truyền đến ngày nay.
Người ta thuật lại rằng lúc ở núi Tượng, một hôm có quân Pháp kéo đến bao vây để lùng bắt Ngài cùng các tín-đồ tên tuổi trong đạo. Lúc ấy Ngài đang ngồi vót nan, bổn-đạo rùng rùng kéo đến rất đông, báo cho Ngài hay và yêu-cầu Ngài liệu phương để đem nhau đào nạn. Ngài nghe xong vẫn ngồi điềm-nhiên làm việc và nói không hề chi.
Một chập sau, quân Pháp tiến đến sát một bên bắn phá rất dữ-dội. Bỗn đạo có nhiều người lo sợ quá, kêu khóc vang lên và xin Ngài hãy chạy. Thấy thế, ngài cầm mác đứng dậy dẫn đầu rồi bảo tín-đồ hãy theo bóng Ngài mà đi. Liền đó, Ngài và một số người đông đảo như thế kéo ra ngang mặt quân Pháp mà không bị họ thấy được…
Thấy quân Pháp nghi-ngờ và thường đến khuấy nhiểu, Ngài bèn rời núi Tượng, sang qua núi Dài, cùng với một số tín-đồ sẵn có tại đây, dựng lên chùa-chiền và chăm lo đạo-đức.

E. Khi diệt độ
Ngày 13 tháng 10 năm Kỷ-dậu (1909), Ngài đang mạnh giỏi như thường, bỗng kêu các đệ-tử lại mà cho rằng Ngài sắp diệt-độ, và dặn hễ như thấy Ngài tắt thở thì hãy cứ để xác y nguyên như vậy đừng chôn, lo tu-cầu và giữ-gìn cho cẩn-thận một thời-gian thì Ngài sẽ trở lại (1).
------------------------
1.Có thuyết nói Ngài hẹn đúng một trăm ngày trở lại.

Thế là nội hôm ấy, Ngài tịch-diệt. Tín-đồ vâng theo lời dặn, giữ xác Ngài và đặt đàn tụng-niệm kinh-kệ luôn.
Biết Thầy đã liễu-ngộ và có hẹn ngày trở lại, thấy anh em đồng đạo ở núi Dài có cái diễm phúc hơn là được giữ xác của Thầy, các ông Trò (1) ở núi Tượng bèn sắp đặt mưu-lược; đang đêm kéo đếm vây núi Dài, áp vào đánh đuổi những người giữ xác Đức Bổn-Sư rồi cõng Ngài đem thẳng về núi Tượng (2).
Tại núi Tượng, các ông Trò lúc đầu giữ-gìn phần xác của Đức Bổn-Sư rất cẩn-thận, họ để Ngài trong mùng nhiễu xanh phía sau bàn chánh trong chùa, rồi ngày đêm canh gác và tụng-niệm không ngớt. Song chỉ được vài tháng như vậy, họ bắt đầu chểnh-mảng dần, sự gìn-giữ không được kỹ-càng nữa. Vì thế mà phần xác-thịt của Ngài bị chuột vào cắn mất một lóng tay (3)
------------------------
(1).Ông Trò là các đệ-tử của Đức Bổn-Sư, danh-từ nầy trong đạo Hiếu-Nghĩa đã thông dụng.
(2).Có người nói Đức Bổn-Sư tiên tri sẽ có sự xô-xác xảy ra giữa khối tín-đồ của Ngài sau khi Ngài tịch, cho nên Ngài đã sai ông Trò lớn (người cầm đầu ở núi Dài), giỏi võ nghệ, đi xa để tránh sự đổ máu trong lúc tín-đồ ở núi Tượng kéo sang núi Dài cướp xác Ngài.
(3).Một thuyết khác lại cho rằng Ngài tịch như vậy hai lần, một lần ở núi Tượng trước, tín-đồ ở núi Tượng thấy lâu ngày bả-nhả mới đem xác Ngài giấu trên Điện-Kín, nên bị chuột cắn đứt một trái tai. Rồi sau sống lại, Ngài lại sang núi Dài cũng tịch y như trên đã nói.


Một hôm, các ông Trò xúm nhau vào thăm, thấy thế họ lấy làm lo sợ tội lỗi với Thầy, nên bàn nhau đóng một cái rương, xong, họ thỉnh xác Ngài đem để kín trong đó.

Sự tranh-giành phần xác của Đức Bổn-Sư do nhóm tín-đồ chia-rẽ nhau lâu ngày đã làm lọt đến tai quân Pháp ở Tịnh-Biên. Họ kéo vào núi Tượng bao vây, quyết phen nầy tìm cho được Ngài, mặc dầu họ đã nghe biết là xác chết.

Hôm ấy nhằm lúc chỉ còn một số ít tín-đồ ở giữ tại chùa. Thình-lình nghe có quân Pháp đến, họ hãi-kinh, không biết làm cách nào để giấu cho kịp xác của Thầy và để cho tự mình trốn tránh. Bỗng từ ngoài có một mãnh-hổ rất to, nhảy a vào, hộc lên mấy tiếng vang cả rừng núi rồi đến dở rương, cõng xác Đức Bổn-Sư chạy mất.
Từ ấy về sau, và mãi cho đến ngày nay, không ai nghe thấy được Đức Bổn-Sư ở đâu nữa. Nếu có ai tò-mò đến hỏi thăm các ông Gánh (là những người hiện giữ đạo Hiếu-Nghĩa, sau lớp ông Trò) về đoạn nầy thì họ hạ giọng xuống, lắc đầu mà nói rằng :
- Chuyện ấy không thể nói được !
Ngài để lại cho đời một quyển Đồ-Thư, trong ấy có chép chuyện biến-thiên của đất nước, và tại Tam-Bửu Tự ở làng An-Định, quận Tịnh-Biên, còn chạm vào cột một bài thi của Ngài. Xin chép y nguyên văn vào đây để làm dấu-tích.

Thất minh thất ám lưỡng hề nghi
Phương thốn thường tồn bất khả khi.
Mặc vị thiên cao Thần Thánh viễn,
Yêu tu tiên úy tự gia tri.
Bồ-đề niệm-niệm vĩnh vô khổ,
Đắc pháp thành thân phước phóng thùy.
Giải thoát mê trần cam lộ sái,
Ma-ha bát-nhã mật tâm trì.


IV- Ông Cử Đa.

A. Thân thế và sự-nghiệp ở trần gian:
Ông tên thật là Nguyễn-Đa. Vì đã thi đỗ võ Cử-nhân nên người đời gọi là ông Cử Đa. Lúc mới đến Thất-Sơn, nhiều người thấy tiếng nói của ông phát giọng miền Trung, cho nên cũng gọi ông là Thầy Huế. Quế ông ở làng Phù-Cát (có chỗ chép là Phú-Lạc) huyện Bình-Khê, tỉnh Qui-Nhơn, nơi đã từng hun-đúc bậc đại anh-hùng cứu quốc: vua Quang-Trung Nguyễn-Huệ.
Ông sanh đẽ năm nào và thi đỗ hồi khoa nào không ai được biết, có điều biết rằng khi ông vào tới Thất-Sơn thì chính là lúc ông Nguyễn-Trung-Trực đang thất bại ở miền đông, lui về ẩn náu ở Hòn-Chông, Kiên-Giang (Rạch-Giá), khoảng năm 1867-1868. Hồi ấy, có người phỏng định ông được lối 40 tuổi. 
Xét ra trong sử Việt và các sách nói về binh-chế Việt-Nam, thì trong khoảng trước ngày ông Cử vào Nam, thấy có những khoa thi võ vào năm Thiệu-Trị thứ 5 (1845), và năm Tự-Đức thứ 18 (1852), là hai khoa mà với niên-kỷ ông Cử hồi ấy có thể thi được, nhưng không thấy chỗ nào ghi chép tên họ các thí-sinh trúng tuyển. Như vậy, ta có thể hiểu được ông Cử thi đỗ vào một trong hai khoa nầy mà thôi, nhứt là khoa Thiệu-Trị thứ 5 thì có phần đúng hơn.
Từ khi ông Cử thi đỗ và sau, cánh chim bằng không ngớt tung bay đây đó, để mưu-đồ hộ quốc tỳ dân. Khi đến phía Bắc miền Trung, khi vào Thuộc-Nhiêu (1) miền Nam, nhưng đến đâu ông cũng đều gặp phải cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Sau rốt, bước chân giang-hồ mới dừng lại ở Thất-Sơn.
Để hiểu rõ tấm lòng ưu-ái kiên-trinh đối với giang-sơn trong hồi nghiêng đổ, ta hãy xem ông Cử đã bộc-lộ ý-chí của mình trong giảng Tà-Lơn :

Lòng ta luống những ưu-phiền,
Một mình trực tiết không miền gió trăng.

Trong mình cũng biết võ văn,
Trải chơi thế cuộc tiếng văn giang hà.

Hay là :
Anh hùng nghĩa khí trung-cang,
Trải ô thủy-thạch Lãnh trang ít người.
Tang bồng hồ thỉ đổi dời…

---------------------

(1).Trong giảng Tà-Lơn có đoạn nói:"Quê tôi ngày rày ở tại Thuộc-Nhiêu". Có lẽ khi mới vào miền Nam, ông Cử có ở lại Thuộc-Nhiên một thời-gian, hoặc ông có hiệp sức với ông Thủ-Khoa Huân để kháng-chiến nhiều trận tại Thuộc-Nhiêu cho nên mới nói như thế.

B. Bước đường tu-tỉnh:
Thuở ấy tình-thế Nam-Kỳ hết sức rồi-ren nguy-ngập. Một mặt, Pháp bội hứa sự sửa đổi hiệp-ước 5 Juin 1862 (Bonard – Phan-Thanh-Giản); một mặt họ cưỡng chiếm ba tỉnh miền Tây. Thủ-Khoa-Huân bị đày sang đảo Réunion (1864). Trương-công-Định chết ở Gò-Công (20-8-1864). Phan-Thanh-Giản tuẫn-tiết ở Vĩnh-Long (7-8-1867). Chỉ còn ông Nguyễn-Trung-Trực với một ít tàn binh lẩn-lút ở Kiên-Giang, với những giờ phút đầy nguy-cơ, hâm-dọa. Có lẽ vì vậy mà ông Cử không còn cách nào hơn là ẩn danh tu-tỉnh, để chờ ngày trở lại giúp nước và dân. Vì ông đã nói:

Sao bằng giữ đặng sạch trong,
Bảng vàng chiếm đặng bướm ong sá gì.
Đem mình về chốn Kinh-kỳ,
Áo cơm khỏi tốn phước thì mẹ cha.


Và mục-đích hành đạo của ông là:

Hiếu trung hai chữ phụng-thờ,
Lâm tồng dưỡng tánh đặng nhờ tấm thân.


Khắp các ngọn núi trong vùng Thất-Sơn đều có dấu chơn của ông lui tới. Cuộc đời tu-tỉnh của ông Cử tưởng cũng được yên-ổn nơi đây, nhưng bỗng một hôm, tung-tích của ông bị phát-lộ; quân Pháp ở đồn Cây-Mít (Châu-Đốc) kéo đến bao vây; vì thương dân-chúng vô tội quanh vùng nên ông không nỡ chống lại, bèn từ giã một số đệ-tử chân thành, rời khỏi Thất-Sơn, ra hòn Phú-Quốc (Hà-Tiên) (1).
_________________
(1). Có người nói ông Cử đi thẳng qua núi Tà-Lơn, còn ở Phú-Quốc thì trước khi về Thất-Sơn. Chưa rõ thuyết nào đúng hơn. Xin nhờ các bậc thức-giả phủ chính cho.
Việc quân Pháp theo dõi ông Cử để khủng-bố những người tu theo giáo-phái của ông hồi ấy chắc là gắt-gao lắm. Xem như giảng tà-Lơn đã chép :

Dọn thuyền hai chiếc một khi,
Sắm sửa vậy thì đồ-đạc đem ra.
Hai Võ phân nói thiệt-thà:

"Kinh tệ áo dà để lại chốn dây.
E khi đi có gặp Tây,
Nó coi thấy đặng, sắp bây không còn".
Tính thôi đã một buổi tròn
Xuống thuyền ra biển hỡi còn canh hai !


Ở Phú-Quốc một độ, ông vượt đường qua Giang-Thành rồi lên núi Tà-Lơn. Tại đây, ông Cử được gặp Minh-sư chân truyền đạo pháp và đặt cho đạo-hiệu Ngọc-Thanh :

Hắc y đổi lại cà-sa,
Cải tên đặt lại hiệu là Ngọc-Thanh.


Từ đây, ông Cử có thâu nhiều tín-đồ ở núi Tà-Lơn, và lâu lâu lại trở về Thất-Sơn thăm các đệ-tử cũ. Ông thường dặn bảo tín-đồ rằng nếu không có mệnh-lệnh thì không một ai được bạo-động gì cả.
Thế rồi từ ấy trở đi; không còn ai biết được tăm-hơi gì về ông nữa. Cho đến ngày tháng ông Cử đăng Tiên, cũng không tìm hỏi đâu ra được. Chỉ có lời truyền khẩu rằng từ ngày vắng bóng vị Giáo-chủ, thỉnh-thoảng có người thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặt non mơn-mởn, cỡi hổ mun, vượt rừng qua lại trong dãy Thất-Sơn. Người ta thì-thầm bảo nhau: ông già ấy là ông Cử !

C. Môn-nhơn đệ-tử:
Trong hàng môn-nhơn đệ-tử cùa ông Cử ở vùng Tà-Lơn và Thất-Sơn kể ra cũng nhiều, nhưng chỉ có ông Nguyễn-Ngọc-Minh và ông Trần-Bá-Lương (tục gọi ông hai Lương, quê ở tỉnh Bến-Tre), là được phép bí-truyền nhiều hơn hết, Hiện nay mộ-phần của ông Nguyễn-Ngọc-Minh còn thấy ở điện Kim-quang-Thành (núi Tà-Lơn, phía trên Trung-Tòa độ bốn trăm thước). Những con cháu của tín-đồ ông Cử ngày nay mỗi khi trần-thiết sự thờ-phượng thì không quên đặt bài vị của ông Nguyễn-Ngọc-Minh ở một bên, phía dưới bàn thờ ông Cử. Chắc sinh thời ông Minh đã kế chí Thầy tế-trợ quần sinh nên mới được người đời mãi còn cảm ghi ân-đức như thế.

D. Vài mẩu chuyện thử lòng:
Những đệ-tử nào có thành tâm tu-tỉnh nhứt lại là người thường bị ông Cử thử-thách nhứt.
Như trường-hợp ông Trần-Bá-Lương (một đại đệ-tử của ông Cử) sẽ kể đây là một:
Ông Lương từ kkhi rời nhà ra đi, lòng chí dốc tìm chơn sư để học hỏi sự tu-hành, bởi ông đã phát được bồ-đề tâm từ khi còn nhỏ. Ông đi khắp đó đây trong vùng Thất-Sơn, nghe đâu có ông Cử là một bậc siêu-phàm nhưng lúc ấy đã về bên núi Tà-Lơn. Ông không quản-ngại khó-khăn, băng rừng lội suốt, lắm khi hết tiền hết gạo, ông phải làm thuê-mướn dọc đường để kiếm tiền độ thân. Nhưng khi đến Tà-Lơn ông ở đó ngót năm mà không tìm đâu ra được ông Cử.
Tuy thế, ông Lương không hề thối chí, cứ thành tâm khấn nguyện với Phật Trời rồi lang-thang đi tìm mãi. Bỗng một hôm, ông gặp được một cụ già có vẻ đạo mạo đang xuống lấy nước ở bờ suối. Ông Lương mừng lắm, tự nghĩ: quần nâu áo vải, độc thân ở chốn lâm-tuyền lậu-hạn cụ già nầy không phải là Tiên Phật thì còn ai! Bèn xin chỉ dẫn về đường đạo-đức. Cụ già một mực chối từ, bảo rằng cụ cũng là một phàm nhân, không hiểu chi về việc luyện đạo. Ông Lương không nghe, xin cho ở đấy cùng tu và giúp-đỡ những công việc nặng-nề cho ông cụ. Túng lắm, cụ già ấy mới bằng lòng cho ở, nhưng cũng cứ một mực bảo rằng mình không phải là bậc siêu-nhân.

Từ đây ông Lương lấy làm vui dạ, vì tuy chưa được cụ già ấy truyền dạy điều gì, nhưng ông vẫn tin nơi ý nghĩ của mình là đúng nên cứ đặt hết lòng kính-cẩn, yên trí tu-trì, giúp những công việc hằng ngày cho cụ già: nào trồng khoai, gánh nước nào thổi lửa nấu cơm…
Trải một thời-gian như thế ông Lương vẫn vững được lòng. Thình lình một đêm kia, cụ già kêu ông Lương lại, nói rõ gốc-tích của mình từ lúc ở Trung mới vào Nam, bởi theo đuổi một chí lớn mà tấm thân cơ-hồ tan-nát thế nào, và khi đến Thất-Sơn ra sao, nhứt nhứt cụ kể rành mạch, rồi kết luận rằng mình là Nguyễn-Đa, bằng lòng thừa nhận ông Lương từ đây được vào hàng đệ-tử.
Và dưới đây là một cuộc thử-thách có huyền thuật:
Ông Cử có một người đệ-tử (không rõ tên) đạo đức khá cao, cũng không kém ông Trần-Bá-Lương và ông Nguyễn-Ngọc-Minh.
Khi sắp đăng Tiên, ông Cử kêu người đệ-tử ấy lại mà bảo:
- Thầy sắp về nơi tiên cảnh, vậy con ở lại rán cố chí hành đạo, khi nào thông-đạt, Thầy sẽ trở về dẫn-độ con.
Người đệ tử kia rất đổi hài lòng, nằm phục xuống đất van cầu thảm-thiết, xin thầy cho theo.
Trước tình-cảnh sư đệ sẽ phải chia ly và sự thành lòng của kẻ môn-nhơn như thế, ông Cử động lòng từ-bi, hứa sau ba năm sẽ trở về, nếu người đệ-tử nầy hết lòng tu-tỉnh thì ông hóa-độ.
Từ đó, người đệ-tử ông Cử cứ vâng lời Thầy, ở lại cố-gắng tu trì, chuyên lo tĩnh luyện, và ngoài những thời khắc bái sám hành hương, người còn lo phát thuốc cứu đời để biểu-thị cái hành-động tế thế của Thầy, không cho gián-đoạn.
Một hôm, cũng như thường lệ, ở dưới chân núi có chú Khách-Lác (1) lên xin thuốc uống nhưng trái hẳn ngày thường, chú Khách hôm nay với hình dáng mõi-mệt, đói lả. Gặp giờ dâng cơm bữa, người đệ-tử ông Cử bảo chú Khách ngồi chờ, ông cúng xong sẽ xem bịnh và giúp thuốc cho.
Thừa lúc người môn-đệ ông Cử vào nhà sửa soạn đèn hương, chú Khách-Lác bưng cả mâm cơm trên bàn xuống ăn sạch. Khi trở ra người đệ-tử ông Cử thấy thế cả giận, tỏ vẻ bất bình. Ngay khi ấy chú Khách đã không nhận lỗi mình, mà trái lại, còn buông ra nhiều lời cộc-cằn cương-câu là khác. Người đệ-tử ông Cử không dằn được giận, xách roi rượt đánh chú Khách, Chú Khách chạy dài. Khi đến bờ suối, chú Khách bỗng phi thân ngang suối rồi đứng bên kia gộp đá trông qua, kêu lên:
- Hỡi đệ tử, con còn nóng quá ! Hôm nay là ngày hứa hẹn. Thầy định về để dẫn-độ con nhưng sự đã như thế nầy, con hãy rán kiên tâm mà tu-trì thêm nữa mới được !
Nhìn sang bờ suối, chỉ thấy ông Cử nghiêm trang đứng đó mà chú Khách-Lác thì đâu mất tự bao giờ. Người môn-đệ biết mình đã lầm, quì xuống van-lơn. Nhưng ông Cử thản-nhiên biến mất.
---------------------
1. Người ta gọi chú Khách-Lác vì ông nầy là người khách-trú, toàn thân đều bị bịnh lác lở-lói. 


Chương III: Các vị đại đệ-tử của Đức Phật-Thầy

I. Đức Cố Quản (? - 1872).

A. Thế-hệ 
Ngài tên là Trần-văn-Thành, làm đến chức Chánh Quản-Cơ dưới triều Vua Thiệu-Trị và Tự-Đức. Bởi có công-nghiệp rất lớn-lao với đời và đạo, vả lại con của Ngài là Trần-văn-Nhu và cháu nội là Trần-quang-Nhơn đều là những bậc đạo-hạnh cao-siêu, ân nhuần thiện tín, cho nên người đời sau kỉnh trọng mà gọi Ngài là Đức Cố-Quản.
Ngài sanh năm nào không tìm ra được. Quê ở Cồn-Nhỏ, thuộc làng Bình-thạnh-Đông, tổng An-Lương, tỉnh Châu-Đốc. Ông Bà thân sinh ra Ngài vốn là nhà khá giả, có nhiều ruộng đất, nên khi Ngài vừa lớn lên thì được đi học chữ nho. Ngài có khiếu thông minh, học ít hiểu nhiều và khi trưởng thành, Ngài chuyên luyện rất rành về võ nghệ.
Tướng Ngài mập chắc không cao không thấp, nước ta trắng, lúc về già thường bịt một cái khăn xước bằng nhiễu điều, và mỗi khi ra trận, người ta thấy Ngài luôn luôn mặc ở ngoài một cái áo lá nhuộm màu dà.
Ngài cưới vợ tại rạch Sa-nhiên (Sađec). Nhũ danh của Bà Cố-Quản là Nguyễn-thị-Thạnh. Hình vóc ốm yếu, nhỏ người, (1) nhưng văn võ kiêm toàn. Bà sanh hạ được sáu người con: ba trai, ba gái. Người con trưởng nam là Trần-văn-Nhu (tục gọi Cậu Hai Nhu) và kế theo đó là Trần-thị-Hè, Trần-văn-Chái, Trần-thị-Nên, Trần-thị-Núi và Cậu Trạng Bảy. Cậu nầy sở dĩ có cái đặc danh Cậu Trạng Bảy là vì cậu thứ bảy chết hồi 7 tuổi (không ai được biết tên), và khi còn sống rất thông-minh dĩnh-ngộ ; mặc dầu tuổi còn thơ ấu, nhưng đã tiên tri được nhiều việc.

B. Đánh giặc Tần

Nhờ cái chí-khí hùng-tráng sẵn có từ lúc thiếu thời, lại thêm được hun-đúc nhiều bởi khí thiêng của dãy Thất-Sơn hùng-sĩ, nên khi có giặc Tần nhiễu loạn ở mạn biên-thùy và Sóc-trăng, Ngài đứng lên chiêu-mộ binh-sĩ, rồi hiệp cùng binh-lực của triều đình, dẹp loạn cứu dân.
Trong những trận đánh ở gần biên-thùy Miên Việt, Ngài có chiêu-phục được hai người Tướng lãnh Cao-Miên là ông Bướm và ông Vôi (2). Hai ông nầy sau tu hành đạo-đức khá cao làm cho uy danh Ngài càng thêm lừng-lẫy.
Trong giai-đoạn đánh Tần dưới Trướng Ngài còn có ông Hai Lãnh (tục gọi là cậu hai Gò-Sặc) là người em bạn đạo, võ-nghệ và phép thuật rất cao cho nên quân trẩy đến đâu, giặc đều khiếp phục đền đó
_______________
(1). Hiện giờ còn thấy di-tích một cái tay áo của Bà Cố-Quản, ngoài cửa tay độ chừng 3 ngón tay của người to lớn xỏ vào thì vừa chẹt.
(2). Trong quyển Bổn Tuồng của ông Ba Thới có đoạn chép:
Tần hữu Phật Bướm, Vôi,
Hớn đa ngôi Tiên Thánh,


C. Qui-y với Đức Phật-Thầy:
Khi có tin đồn Đức Phật-Thầy Tây-An là một vị Phật giáng lâm vừa mới đến Xẻo-Môn (Long Xuyên) để trị bịnh cứu đời. Đức Cố-Quản thân hành xuống đó để xem hư thật. Gặp lúc bịnh nhơn đông-đảo Ngài phải ở đợi suốt ba hôm ngoài sân. Bỗng nhiên Đức Phật-Thầy cho người kêu ngay vào vui vẻ hỏi chào rồi cùng Ngài chuyện-vãn rất thân-mật. Ngay lúc ấy, Ngài xin quy-y với Đức Phật-Thầy.
Khi trở về Bình-Thạnh-Đông, Đức Cố-Quản đem chuyện gặp được Đức Phật-Thầy là một bậc siêu-phàm mà thuật lại cho gia-quyến nghe, và khuyên cùng quy-y theo. Cả nhà đều đồng lòng ưng chịu.

Khi Đức Phật-Thầy bị vời về An-Giang, rồi vào núi sam, Ngài thu xếp nhà cửa và giao hết ruộng vườn (hầu hết ruộng đất ở làng Bình-Thạnh Đông hồi ấy là của Ngài) lại cho Nguyễn-văn-Dõng (tục gọi là ông Tham Dõng) là người trong thân-tộc rồi bỏ làng ra đi, theo đường đạo-hạnh.
Có lúc Ngài đem cả gia-cư lên núi Doi, và, về sau, Ngài được Đức Phật-Thầy giao cho trọng-trách đi cấm bốn cây thẻ quanh vùng Thất-Sơn, cùng trở về coi sóc trại ruộng Bửu-Hương Các ở Láng-Linh.
Trên đường đạo, có thể nói Ngài là đạo đức rất cao siêu, có được nhiều bí-pháp chân-truyền của Đức Phật-Thầy truyền dạy. Cái áo lá dà và một cây cờ dà mà lúc nào người ta cũng thấy Ngài không rời xa, ấy là những bảo vật mà Ngài đã được Đức Phật-Thầy huệ-tứ trong khi sắp dấn thân vào vòng tên đạn để phục vụ cho nước, cho dân vậy.

D. Đánh giặc Tây:
Năm 1862 quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (Biên-Hòa, Gia-Định, Định-Tường) và triều đình Huế đã ký tờ hòa-ước bằng lòng nhượng đứt ba tỉnh ấy cho Pháp cai trị. Các sĩ-phu và dân-chúng bấy giờ uất-hận nổi lên chống cự, gây nên cảnh chiến-tranh vô cùng khốc-liệt.
Ở miền Tây, tình-thế cũng không kém phần nghiêm-trọng, nhứt là tại tỉnh An-Giang, năm 1864 có vụ ông Thủ-Khoa Huân không tuân lịnh ngưng chiến của triều-đình (1) nên bị bắt, Thủy-sư Đô-đốc De Lagrandière nhờ có kẻ mật báo nên hạ lịnh cho Doudart de Lagrée từ Oudong (Cao-Miên) đem tàu và đại bác đến hâm-dọa nả kích vào châu thành để giành lại ông Huân. Cảnh-tượng đã gieo rắc sự kinh-khủng trong dân-chúng và nung nấu thêm sự bực-tức trong lòng những người đầy khí phách, ái quốc ưu dân. Cho nên từ đó trở đi, Đức Cố-Quản chiêu-mộ thêm các tay nghĩa dõng quanh miền, lập cản phá cầu, đúc rèn súng, đạn, thương, đao, chờ khi đối địch.
________________
1.Thủ-Khoa Huân đánh trận Thuộc-Nhiêu (Mỹ-Tho) đại bại trong đêm tháng 9-1863 nên chạy về vùng Thất-Sơn ẩu-trú, bị quan của triều-đình bắt giam. Vì lúc nầy đã ký tờ hòa-ước 1862 rồi nên ra lịnh ngưng chiến, ai cải thì bị nã tróc.
________________
Mặt khác, Ngài cho thăm dò tin-tức chiến đấu của những người đồng thời ở miền Đông như Ngài Phó Quản-Cơ Trương-công-Định, và Ngài Thiên-Hộ Võ-duy-Dương để hiểu rõ tình-thế của giặc.
Đoạn nầy, trong bài ký-thuật về Đức Cố-Quản, ông Vương-Thông có chép:

Các quan ẩn ảnh sơn đầu,
Chiêu binh ra đánh giải sầu một phen.
Nam-Kỳ có tướng quan Thiên 
(Thiên-Hộ-Dương)
Cùng quan lớn Định cầm quyền đánh Tây (Quản-Định)
An-Giang có một ông đây (Đức Cố-Quản)
Chữ dạ ngay Thầy ái quốc ưu quân.

Ngày 19 tháng 5 năm Đinh-Mão (Tự-Đức thứ 20, 1867), De Lagrandière đem 2.000 binh đến uy-hiếp tỉnh Vĩnh-Long buộc ông Phan-thanh-Giản phải giao luôn ba tỉnh miền Tây là An-Giang, Hà-Tiên và Vĩnh-Long. Ông Giản phải uống thuốc độc mà tự-tử. Từ đó ba tỉnh miền Tây đều lọt vào tay Pháp.
Đức Cố-Quản tuy biết thời-cơ đã đưa vận nước tới chỗ suy-vi, không thể nào cưỡng lại được, song vì lòng trung-nghĩa, tiết-tháo, nên sau mấy trận đánh quyết liệt với quân Pháp khi chúng mới đến An-Giang. Ngài rút lui về cứ hiểm ở Bảy-Thưa (giữa Long-Xuyên-Châu-Đốc) đánh cầm cự mà đợi thời:

Hơn thua cũng đánh cầm chừng,
Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần.(1)
Để cho Trời Đất định phân,
Làm tôi phải trả nghĩa ân cho toàn.


Nhưng chẳng được bao lâu, quân Pháp dò biết được địa điểm đóng binh của Đức Cố Quản, nên kéo đến vây đánh. Trận nầy quân của Ngài đại bại, nhân dân nheo nhóc, binh tướng lạc loài:

Giặc vô bốn phía phủ vây,
Rập-bô nó bắn gãy cây hư đồn.
Đội cai thất vía kinh hồn,
Đâm đầu mà chạy lũy đồn tan hoang.
Lao xao dân lộn với quan,
Kẻ chạy về làng người lội xuống sông.
Con kêu mẹ sợ quên bồng,
Tai nghe súng bắn vợ chồng bôn phi.
Trời xuôi Tây thạnh Nam suy,
Biết làm sao đặng phục quy Nam trào.
Tướng binh đã dẹp đồng đao,
Người thời lên núi, kẻ thời đầu Tây.

_____________
(1).Có chỗ chép:
Thà thua xuồng láng xuồng bưng,
Nếu ra đầu giặc lỗi chung quân thần.

_____________
Sau cuộc tan rã nầy, Đức Cố Quản trở về Láng Linh, ẩn náu trong túp lều tranh, tu hành để đợi thời cơ thuận tiện:

Thân Ngài chẳng quản rách lành,
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người trung đứng giữa mặt trời,
Đắng cay bao quản vận thời chớ than
.

Khoảng cuối năm Nhàm Thân (1872), Ngài được sắc chỉ triều đình (?) bảo phải cầm binh chống Pháp trở lại. Thừa mạng lịnh ấy, Ngài khởi nghĩa ở Bảy Thưa, và nhiều nơi khác quanh vùng Láng Linh. Nhưng thình lình, vào ngày 21 tháng 2 năm Quí dậu (1873) quân Pháp kéo đến bao vây ba mặt: mé sông Hậu Giang, miệt Trà Kiết phía Châu Đốc.
Thế rồi từ ấy trở đi, Đức Cố Quản biệt vô âm tín. Người ta không còn thấy Ngài ở đâu nữa.
Suốt đời của Ngài, chỉ nhứt tâm vì đạo vì dân; xả thân để đi tìm lẽ sống hạnh phúc cho người đời, Ngài quả là một vị đệ tử thứ nhứt của Đức Phật Thầy, đã nêu lên gương đại hùng đại lực và bác ái vị tha cho đời sau noi dấu.

II- Ông Tăng Chủ (Giữa thế kỷ thứ 19)

A. Thân thế :
Ông họ Bùi, tên thật là chi không ai biết được cho đến tấm bia trước mộ Ông cũng chỉ biên là Tăng Chủ Bùi Thiều Sư mà thôi.
Có lẽ vì Ông là người có công nghiệp rất lớn lao trong việc thừa mạng của Đức Phật-Thầy Tây An để lập ra làng Xuân Sơn, và đạo đức quá cao siêu, cho nên người đời quen lệ cữ kiêng mà tên Ông bị quên mất !
Thấy Ông có đủ tư cách một người thay mặt cho mình để truyền đạo, cùng coi sóc quanh vùng Hưng Thới và Xuân Sơn, Đức Phật Thầy đặt cho Ông cái đạo hiệu là Bùi-Thiền Tăng-Chủ. Nhân thế người ta gọi Ông là ông Tăng-Chủ.
Ông không vợ không con, nên chi Ông xin ông Đình Tây là con người em về làm con nuôi từ khi ông Đình vừa khôn lớn.
Ông Tăng hình vóc cao lớn, miệng rộng, tai dài, bàn tay buông xuống chí đầu gối, tay chân mọc lông rất nhiều, tiếng nói sang sảng mà tâm tinh bao giờ cũng ôn lương thuần hậu. Có người đã ví dung mạo lẫn tâm hồn Ông không khác một nhân vật đời thượng cổ.

B. Ở Trại ruộng Hưng Thới:
Trong khi Đức Phật Thầy mới vào mở trại ruộng ở Hưng Thới (1) Ông Tăng là người có ông rất lớn trong việc chiêu nạp dân cư và phát phù trị bịnh. Cùng với ông Đình Tây và ông Phạm văn Lăng là những người coi sóc công việc ruộng rẫy hồi ấy, Ông Tăng còn có cái biệt tài ở chỗ thu phục được các mãnh thú, làm cho dân chúng được an ổn làm ăn, khỏi bị nạn khuấy phá.
______________
(1). Ở dưới chưn núi Két. Xưa kia có hai làng Xuân Sơn và Hưng Thới, sau sáp nhập tại gọi là Thới Sơn.

Ông thường lui tới Phước Điền Tự (1) để trông nôm mấy thửa ruộng của Đức Phật Thầy giao cho tin đồ ở làm. Ông rất siêng năng công việc: mặc dầu đã có nhiều thân chủ tình nguyện làm công quả và kính trọng Ông là một bậc sư huynh. Ông vẫn không lấy đó làm cao, phàm việc gì từ nặng nhọc cho đến nhẹ nhàng, đều có tay Ông nhúng vào tất cả. Do đó mà có sự phật lòng giữ Ông và ông Phạm văn Lăng (tục gọi là cả Lăng).
Theo lời của ông Trần văn Khánh (gọi là ông Chủ Khánh) hiện giờ đang làm Cố Vấn cho Đạo ở làng Thới Sơn kể lại thì một hôm, ông Lăng thấy Ông Tăng vác tre bèn kêu lên, nửa đùa nửa thật mà bảo:
- Ông sức lực mạnh mẽ quá mà sao vác ít như thế? Thôi hãy vào đây nghỉ với tôi, để tôi cho sắp nhỏ nó vác cũng xong !
Ông Tăng tuy ngoài miệng không nói rằng chi chứ trong bụng có ý hơi buồn. Ông buồn đây vì lẽ thấy ông bạn ngồi không lại hay ganh-tị với những công-tác đắc-lực của mình, chứ không phải buồn vì tiếng nói. Cho nên từ ấy trở đi, ông xử-sự rất dè-dặt đối với ông Lăng.
______________
(1). Nơi này là chỗ trại ruộng mà xưa Đức Phật Thầy để ông Sấm ông Sét (hai con trâu), và về sau, Ngài giao cho Bà hai Mun, nghĩa tử của Ngài đến ở.
______________

C. Lập đình Xuân-Sơn:
Năm 1859, nghĩa là sau ngày Đức Phật Thầy diệt-lộ ba năm. Ông thấy dân-chúng trong vùng Xuân-Sơn đã được trù-mật, lại nhân có sự bất đồng ý-kiến với ông Lăng, Ông bèn đến lập một ngôi Tam-bảo tại làng Xuân-Sơn, rồi cùng với ông Bùi-văn-Tây về ở (chùa nầy lúc đầu cất trước miễu sau chùa, rồi ít lâu đổi hẳn là đình).
Tuy về đây, ông Tăng vẫn tiếp-tục phát phù trị bịnh, và thỉnh-thoảng có tới lui nơi chùa Phước-Điền và chùa Hưng-Thới, để thăm-lom công việc và nhắc nhở giáo-lý của Đức Phật-Thầy cho anh em trong đạo nghe.
Cũng tại đình nầy, một hôm Ông Tăng đi thăm ruộng về, trời đã tối, khi đến gần cửa Ông trông thấy một con hổ nằm lù lù bên vệ đường. Thấy Ông, hổ đứng dậy hả miệng rồi cúi đầu tỏ vẻ đau đớn lắm.
Ông Tăng hiểu ý bèn hỏi:
- Chắc ngươi mắc xương đó phải không ? Sao không tới đây cho sớm đặng ta cứu cho mà để đến nỗi ốm-o quá đỗi như thế nầy vậy !
Hổ cúi đầu và phục xuống, tỏ ý là lời nói phải.
Ông Tăng bảo:
- Nếu thật mắc xương thì hãy ngay cổ ra, ta trị cho.
Hổ vâng theo lời dạy. Ông Tăng co tay đấm vào cổ con hổ một cái. Lập tức hổ khạc lên mấy tiếng rồi trong miệng văng ra một cục xương rất to.
Ông Tăng cười mà bảo:
-Thôi hết rồi, hãy đi đi, từ nay ăn uống nên cẩn-thận hơn, đừng hồ-đồ quá ta cứu không kịp thì nguy đa !
Hổ cúi đầu vâng lời rồi lui ra. Hôm sau, hổ bắt một con heo rừng đem đến dâng cho Ông Tăng mà đền ơn cứu bịnh (1).
Từ đó, đối với các mãnh thú trong vùng Thất-Sơn, Ông Tăng không phải là một người thường mà là một vị Thần linh, hay một ông chúa tể. Ông Tăng có thể truyền một lời ra, hầu hết hùm beo đều phải cúi đầu theo lịnh.
Ông độ đời và nhắc đạo được một thời-gian khá lâu thì tịch tại đình Xuân-Sơn, vào ngày 27 tháng 10 năm Mùi, thọ được trên 80 tuổi. Hiện nay mộ Ông còn ở cách đình lối 100 thước, có dựng bia và chép:
Đại Nam quốc An-Giang tỉnh, Tịnh-Biên phủ, Qui-Đức tổng, Thới-Sơn thôn.
Nguyên Tăng-Chủ Bùi Thiền-Sư, hưởng thượng thọ, Mùi niên thập ngoạt, nhị thập nhựt nhi chung.
_______________
1. Theo lời của ông Năm Hạnh (rể ông Đình Tây) thì việc trị bịnh cho Hổ lúc Đức Phật-Thầy còn, song bằng vào lời ông Chủ Khánh và nhiều bậc phụ-lão khác thì lúc đó Phật-Thầy đã tịch rồi và việc nầy xảy ra tại đình Xuân-Sơn. Vậy xin chép theo thuyết của đa số.

III- Ông Bùi Văn Tây “Đình Tây” (1802 - 1890).

Theo mộ bia và bài vị hiện giờ còn thấy tại làng Thới-Sơn (Quận Tịnh-Biên Châu đốc) thì Ông Đình-Tây chính danh là Bùi-văn-Tây sanh năm Nhâm-Tuất (1802), nhằm niên hiệu Gia-Long nguyên niên.
Sinh-quán Ông ở nơi nào chưa tìm được người biết rõ. Có người nói Ông gốc ở Nhơn-Hòa, có kẻ lại cho Ông ở Năng-Gù (hai nơi đều thuộc tỉnh Châu-Đốc). Nếu căn cứ theo lời của người rể Ông là Hồ-văn-Hạnh (tục gọi năm Hạnh) năm nay 86 tuổi, thì Ông khi xưa có một người chú ruột ở tại Năng-Gù. Như vậy, thuyết ở Năng-Gù có phần đúng hơn.
Vì theo ở làm con nuôi của người bác là ông Bùi Thiền Tăng-Chủ, và được ông nầy giao cho coi sóc ngôi đình Xuân-Sơn, cho nên người đời quen gọi là Ông Đình chứ không phải chữ lót là Đình hay Ông còn có giữ chức Hương-Đình như nhiều người đã tưởng.
Ông có hai đời vợ. Bà trước (không biết tên) sanh được có một trai tên là Bùi-văn-Vẹt (ở Năng-Gù và đã chết). Khi vợ trước mất, Ông cưới Bà sau tên là Trần-thị-Của ở làng Thới-Sơn. Bà sau sanh hạ được một trai ba gái. Trưởng là Bùi-văn-Sửu, rồi thứ đến Bùi-thị-Lỹ, Bùi-thị-Cơ, Bùi-thị-Nhẫn, đều có chồng con quanh vùng Thới-Sơn.
Ông dáng người mạnh-mẽ, không cao lắm, có bề ngang, gương mặt tròn, mà trắng, lúc tuổi già thì râu tốt, mặt trổ đồi-mồi và lưng hơi còm.
Hồi nhỏ Ông có học chữ nho, lớn lên thì chuyên nghề ruộng-rẫy. Thích ăn trầu, tánh ôn-hòa nhưng quả-cảm, không ưa những điều tà vạy.
Ông quy-y với Đức Phật-Thầy hồi năm nào không ai rõ được nhưng khi Ngài lập trại ruộng ở Thới-Sơn, người ta thấy có Ông đến ở đó cùng với ông Tăng-Chủ và ông Phạm-văn-Lăng rồi.

A. Chữa bịnh giúp đời:
Là môn-sinh của Đức Phật-Thầy, Ông cũng như các vị đại đệ-tử khác, biết phát phù trị bịnh và lại còn có tài đặt-biệt về cách cắt nẻ nữa. Ông cắt bằng miểng chén bể, băm xuống rất sâu, và bất luận bịnh gì cũng trị được. Nhiều bịnh tà quái đem đến, Ông chỉ cắt cho một người rồi mấy người khác xem thấy phải khiếp-sợ, trốn về mà hết bịnh.

B. Việc bắt sấu thần
Nói đến tiểu-sử ông Đình mà không kể qua việc Ông vâng lịnh Đức Phật-Thầy đi bắt sấu thần, tưởng là một điều khuyết điểm lớn.
Theo như nhiều người ở vùng Láng-Linh đã nghe biết và kể lại thì Đức Phật-Thầy một đêm kia thình-lình kêu Ông Đình đến mà bảo rằng: "Hiện giờ ở dưới Láng có người sanh-sản mà không ai tiếp giúp, vậy Ông mau tới đó mà cứu hộ người ta ".
Vâng lịnh Thầy, Ông Đình bôn-ba tìm riết đến nơi thì quả thật, có một người đàn-bà đang chuyển bụng rên la trong một cái lều con giữa đồng, trong lúc chồng con không thấy một ai ở nhà hết.
Ông Đình lớp nào lo chặt lau làm gường, đốn đưng dừng vách để gấp rút giúp cho người đàn-bà kia kịp có chỗ nơi sanh đẻ.
Trời rạng đông, người chồng mới về đến. Anh ta hay vợ đã sanh rồi và may nhờ có người đến kịp giúp đỡ thì chi xiết vui mừng, bèn lạy tạ ơn Ông Đình và kể rõ đầu đuôi rằng y tên là Xinh, vì nghèo quá nên phải đi bắt rùa, bắt rắn để bán kiếm tiền mà độ hồ khẩu.
Thoắt trông trong giỏ của Xinh, thấy có một con sấu con mình-mẫy đỏ hết xem rất đẹp, Ông Đình liền tỏ ý muốn mua con sấu ấy về nuôi chơi, Xinh vì cảm ơn rất hậu nên không bán, xin hiến đứt cho Ông Đình.
Khi trở về, Ông Đình thuật lại công việc đi làm phước xong và đem khoe con sấu với Đức Phật-Thầy một cách sung sướng.
Xem qua con sấu, Đức Phật-Thầy biết vật ấy là sấu thần, Ngài bảo Ông Đình hãy đem mà giết đi, nếu để thì sau nầy nó sẽ gây tai-hại cho trần gian vô kể.
Ông Đình nghe vậy cũng có lòng lo, song xem đi xem lại thấy sấu đẹp quá nên không đành giết, bèn lén Thầy, đem giầu sấu vào một nơi, cột dây nơi chưn chắc-chắn rồi nuôi dưỡng cẩn-thận.
Được ba năm săn-sóc như vậy, con sấu trở nên to lớn. Bỗng một hôm đứt dây bò đi mất. Ông Đình chẳng dám giấu Đức Phật-Thầy, nên đem đầu đuôi mà bạch lại cho Ngài rõ. Nghe xong Đức Phật-Thầy than-thở vô cùng, Ngài mới cấp cho Ông Đình một lưỡi câu, một sợi dây, một lưỡi mun và hai cây lao, dặn hãy giữ-gìn phòng khi trừ con sấu ấy (1).
Trải một thời-gian, gặp mùa nước nổi, sấu ấy có trườn lên ở vùng Láng-Linh, rượt bắt người vật làm cho dân-chúng quanh đây đều kinh-khủng. Người ta đến báo với Ông Đình. Nhưng cứ mỗi lần Ông mang bửu-bối đến thì sấu ấy mất tăm, không tìm đâu được.
____________
1.Hiện giờ những vật ấy còn để tại nhà ông Năm Hạnh (rể thứ tư của Ông Đình). Lưỡi câu dài một tấc bốn phân rưỡi (đo bề ngay), ngạnh bén và dài năm phân ba ly. Lưỡi mun thì bị mẻ một góc ở đít, bề dài ba tấc sáu phân, có lỗ ở hậu như cây đục tông để tra cán. Hai mũi lao nhọn và dài mỗi mũi năm tấc. Tất cả đều rèn bằng sắt. Còn sợi dây thì se tơ, đầu đũa ăn, bề dài hồi trước 16 thước, nhưng bây giờ đã đứt và mất đi nhiều.
Thấy sấu sợ uy Ông Đình như vậy, cho nên hễ cứ mỗi lần nó trườn lên toan làm dữ, thì dân-chúng hè nhau vừa chạy vừa hô lên:
- Bớ Ông Đình ơi ! ông Năm chèo dậy (1). Mà lạ thay ! Hễ nghe được bấy nhiêu lời kêu gọi thì sấu lại lặn mất, chừng như nó hết sức ghê sợ pháp-thuật của Ông Đình.
Đã nhiều phen tới lui như thế mà không lần nào gặp được sấu thần. Lần chót, Ông Đình lưu lại Láng-Linh chờ đợi ngót nửa tháng mà sấu vẫn bặt tăm, Ông bèn kêu nói giữa thanh-không rằng:
- Nếu sấu thần nhà ngươi chưa tới số thì từ nay hãy yên lặng, đừng nổi lên phá hại xóm làng nữa. Còn như mạng ngươi đã hết thì nên sớm chịu lịnh Trời đừng để ta phải lâu ngày nhọc công chờ đợi !
Thế rồi từ ấy trở đi, sấu không còn trườn lên nhiễu hại lương dân nữa.
______________
1.Người đời quen gọi " ông năm chèo " là ý nói sấu ấy có năm giò, nhưng hỏi ra hầu hết các bậc phụ-lão ở vùng Thái-Sơn và Láng-Linh thì chỉ nói có ba chèo mà thôi. Bởi xưa kia Ông Đình cột dây vào chưn sấu chặt quá cho nên lâu ngày dây ấy siết lần, rồi đến sau đứt hẳn đi một chưn, nên sấu mới thoát được.
Vậy ba chèo hay năm chèo, thuyết nào đúng hơn ?

______________
Có người nói khi Đức Cố-Quản bại trận tại vùng Bảy-Thưa, nhằm mùa nước nổi, quân Pháp sau lưng bắn phá rất gấp mà trước mặt thì đế sậy đặc dày, ghe chống đi không được. Lúc ấy sấu thần bỗng nhiên nổi lên đi trước, rẽ đường rạp sậy cho thuyền của Ngài dò theo, nhờ vậy mà Ngài và binh sĩ trận ấy thoát thân mới kịp.
Sấu thần hiện giờ ở đâu, và bổn-phận ông Đình còn phải làm gì đối với sầu ấy nữa chăng, đại đa số quần chúng đang đánh một con dấu hỏi to tướng về vấn-đề nầy.

C. Lúc trở về già
Để cho tiện việc ở ăn của gia-quyến, ông Đình có tạo riêng một nếp nhà tranh gần đình Xuân-Sơn (kế chỗ mộ phần của ông ngày nay) cách xa trại ruộng Thới-Sơn độ tám trăm thước.
Lúc tuổi già, ông giao lại công việc ruộng rẫy cho các con coi sóc để chuyên lo tu-luyện và cứu- độ người đời. Khi Pháp đến đánh chiếm tỉnh An-Giang, ông đã ngoài sáu mươi tuổi, lòng tuy nhiều phen sôi-nổi vì cái nghĩa tấc đất ngọn rau, nhưng xét lại sức mòn hơi tàn, nên ông đành ôm hận mà gởi hồn vào mấy đoạn Kim-Cang, mấy thiên sách mọt.
Ngày 23 tháng 2 năm Canh-Dần (1890), ông đang mạnh, bỗng ăn uống không được trong bốn năm ngày rồi tịch, thọ được 88 tuổi (1). Trước khi tịch, ông có dặn người nhà chỉ trải một chiếc đệm trên tấm ván rồi để linh-thể ông gói lại mà chôn, chứ không được tẩn-liệm vào quan-quách chi hết. Hiện nay mộ-phần của ông còn tại làng Thới-Sơn, có dựng bia và khắc những chữ:
Đại-Nam quốc An-Giang tỉnh, Tịnh-Biên phủ, Quy-Đức tổng, Thới-Sơn thôn.
Nguyên Bùi, húy Tây, hưởng thượng-thọ bát thập bát tuế, Canh-Dần niên, nhị ngoạt, nhị thập tam nhựt nhi chung.
Bên cạnh có mộ của Bà (bà sau), và gần đó có mộ của ông Bùi Thiền Tăng-Chủ. Khách thập phương mỗi khi đến viếng vùng Thất-Sơn và chùa Thới-Sơn, thường không quên đến viếng mộ của ông.
_____________
1.Có người nói Ông tịch ở ngoài sân, trong khi đang săn-sóc mấy dây trầu.

IV- Ông Nguyễn Văn Xuyến “Đạo Xuyến” (1834-1914).

A. Thân thế:
Ông Nguyễn-văn-Xuyến sanh năm Giáp-Ngọ (1834), nhằm đời Minh-Mạng thứ 15. Bởi ông được liệt vào hàng đại đệ-tử của Đức Phật-Thầy Tây-An, cho nên người đời quen gọi là ông Đạo Xuyến.
Tướng ông trung người, mặt thỏn, tóc thường cạo vanh chung quanh rồi búi ở giữa, nên ông luôn luôn bịt một chiếc khăn chín-chỉ phủ kín từ đầu xuống chí mép tai ông thường mặc đồ vải dà, thỉnh-thoảng cũng có đi giày hàm-ếch đen. Thích hút thuốc điếu, và mỗi khi có tân-khách vui-vầy. Ông cũng có dùng một đôi nhắm rượu.
Ông có hai đời vợ. Vợ trước ở Cái-Vừng (Phú-Thuận, Châu-Đốc) là bà Phạm-Thị, sanh được sáu người con: Nguyễn-thị-Đinh, Nguyễn-văn-Tồn, Nguyễn-văn-Giáp, Nguyễn-thị-Nhàn- Nguyễn-thị-Nhựt và Nguyễn-văn-Tờn.
Khi vợ trước mất, ông cưới bà vợ sau tên là Thị-Khoảnh, ở làng Bình-Long (Châu-Đốc) chỉ sanh được có một gái là Nguyễn-thị-Nhờ. Hiện nay miêu- duệ của ông còn thấy có một người cháu ngoại là Nguyễn-văn-Điệu (con của bà hại Đinh), ở chùa Châu-Long-Thới (Bình-Long), năm nay 72 tuổi.
Quê ông ở Ba-Giác (Quận Mỏ-Cảy, tỉnh Bến-Tre). Vì bồ-côi cha từ khi còn nhỏ cho nên ông và người em là Nguyễn-văn-Thới (1) phải nhờ sự làm-lụng hết sức vất-vả của mẹ mới nuôi được đến lớn khôn. Ông có học chữ nho và lúc đến cất chùa ở Bình-Long, người ta thấy ông biết làm thuốc Bắc.
___________
(1).Xin đừng lầm với ông Ba Thới.

B. Buổi thiếu thời: 
Năm 1817, nhân có vụ tàu Pháp bắn phá cửa Đà-Nẳng, triều-đình lo sợ, chuẩn-bị quân-sĩ để chống lại. Lúc ấy ở các tỉnh phía Đông Nam-Kỳ, dân tráng cũng bị buộc nhập ngũ tòng quân để phòng-ngự thành Gia-Định, làm cho dân-chúng xôn-xao, nhiều người ở miệt Định-Tường và Bến-Tre cũng mà bỏ nhà dời đi xứ khác.
Thân mẫu của ông thấy vậy rất lo sợ sẽ có sự loạn-lạc xảy ra, hơn nữa, tuổi ông lúc bấy giờ cũng được lối mười ba mười bốn, thì không còn mấy năm nữa sẽ phải tòng quân, cho nên bà rời bỏ Ba-Giác, đem con thẳng lên Trà-Đư (Quận Hồng-Ngự, tỉnh Châu-Đốc) là quê-quán của Bà mà tá-túc với một người em ruột. Nơi đây, ông theo người cậu để làm ăn, kiếm tiền độ-nhựt.
Có một hôm ông cùng với cậu bơi xuồng đi đồng. Chẳng rõ ông làm phật ý người cậu thế nào mà ông bị cậu đánh và đuổi lên bờ. Không trở về nhà, ông quá-giang thuyền của một người khách thương, đỗ ra vàm Hồng-Ngự rồi thẳng xuống Đốc-Vàng Hạ (thuộc làng Tân-Phú, tỉnh Long-Xuyên), vào làm con nuôi cho một bà già kia, không con cái.
Ở đây một thời-gian, gặp mùa lúa chín, ông đi coi chim gần chùa Đốc-Vàng Hạ. Nhân thường tới nghỉ trưa trong chùa, nên vị Hòa-Thượng ở chùa nầy được dịp thấy ông diện mạo khôi-ngô, và hỏi thăm lai-lịch. Sau khi biết rõ, vị Hòa-Thượng thân hành đến xin với bà già nuôi ông, cho ông được về ở chùa.
Từ đây, ông bắt đầu tu-niệm và học-hành kinh luật của nhà thiền. Bởi ông tánh tình hiền-hậu lễ-phép, nên được vị Hòa-Thượng rất thương yêu tín cậy.
Qua một thời-gian lối hai năm thì vị Hòa-Thượng chùa Đốc-Vàng Hạ tịch. Trước khi tịch, vị Hòa-Thượng kêu ông đến mà bảo:
-Thầy sắp lên giàn hỏa mà diệt-độ, vậy trong đống tro tàn ấy, Thầy để lại cho con một lóng tay cái, con khá lấy mà làm phép hộ thân.
Quả thật, khi vị Hòa-Thượng ấy thiêu mình xong, ông vào tìm được lóng tay như lời dặn, ông bèn may đãy mà đeo luôn vào mình, rồi từ ấy bắt đầu vân-du lên vùng Thất-Sơn, luyện phép và tầm sư học đạo thêm; nhân thế, ông mới có dịp quy-y với Đức Phật-Thầy.

C. Trên đường Đạo-Pháp
Năm Canh-tuất (1850), sau khi lặn-lội lên vùng Thất-Sơn, ông trở về núi Sam, quy-y với Đức Phật-Thầy, lúc ấy ông vừa đúng 17 tuổi.
Khác hơn các vị đại đệ-tử khác của Đức Phật-Thầy, ông không có ở trại ruộng nào và cũng không ở thường trực tại chùa Tây-An núi Sam, ông được Đức Phật-Thầy dạy đóng một chiếc xuồng nhỏ rồi chạy buồm mà đi, mỗi khi thuyền đến đâu hết gió là ghé vào truyền đạo. Do đó mà từ miệt Bà-Rịa trở xuống miền dưới, đâu đâu cũng có vết chân của ông.
Theo lời thuật của ông Nguyễn-văn-Điệu thì trong lúc giáo đạo ở miền dưới, một hôm, nhân trời tối, ông ghé vào nhà nọ để nghỉ nhờ một đêm. Người trong nhà sau khi niềm-nỡ hỏi chào xong, bỗng quỳ phục xuống đất lạy ông rồi thú nhận rằng mình không phải là chủ nhà, mà thật ra là ma quỉ, vì phá-phách lộng hành quá nên chủ nhà không ở được, phải bỏ mà đi, nay thấy ông đến, xem rõ là bậc cái thế siêu-phàm nên đồng xin quy-phục, ông lấy lời đạo-đức vỗ-về và bảo bọn yêu quái ấy từ nay nên quày đầu tu-niệm, không được phá rối người đời nữa. Bọn quỷ ấy râm-rấp vâng lời.
Sáng ra, ông kiếm người để nhắn cho chủ nhà hay mà trở về, song chủ nhà không tin, sợ lầm mưu yêu quái. Túng thế, ông phải tìm đến tận mặt họ để nói rõ đầu đuôi rồi dẫn trờ về nhà.
Muốn cho được chắc-chắn từ nay yêu quái không còn có nữa, chủ nhà yêu-cầu ông ếm đối cúng-kiếng và lưu lại đó ít lâu làm tin. Ông bèn cho dọn lễ-vật ra làm tiệc khao, rồi kêu lên mà bảo:
-Nếu bọn yêu quái chúng bây bằng lòng đi khỏi nhà này thì hãy nhậm lễ làm tin thử nào !
Ông nói vừa dứt tiếng, tất cả đũa trên bàn đều rung động và gom vào chén, tỏ ý vâng lời. Từ ấy nhà nầy êm tịnh và dân làng theo về tu-niệm rất đông.
Cứ như thế, ông đem pháp-thuật để cứu đời và giáo đạo, lâu lâu lại trở về núi Sam để thăm viếng và học hỏi thêm với Đức Phật-Thầy, rồi lên Thất-Sơn để luyện thêm bí-pháp.
Theo lời nhiều bậc phụ-lão kể lại thì ông thường dùng cây dâu đẽo thành nhiều hình nhơn nho-nhỏ rồi để vào ruột ngựa, mang lên núi để luyện phép. Đến nơi, ông vùi những hình nhơn ấy xuống đất, đoạn ngồi luyện, mãi đến khi được thiêng, những hình ấy tự mình dưới đất chui lên, đi chạy trên mặt đất ông mới thôi. Trong lúc ngồi luyện, nhiều khi có rắn rít cọp beo đến gầm thét bao vây, nhưng ông vẫn điềm nhiên không hề ghê sợ.
Ngoài những việc huyền-diệu kể trên, ông còn có nhiều phép lạ như đi trên cầu bằng sậy ngang mương mà không gãy, bắt hổ báo để cỡi đi trong núi làm vật đỡ chơn mà hổ phải cúi đầu v.v… không thể kể hết.

D. Đến Bình-Long:
Thấy ông đi đây đó và lên non luyện phép mãi, Đức Phật-Thầy một lần nọ bảo ông:
-Ông muốn tu thành Phật không được đâu. Hãy lo cho quốc-vương thủy thổ đã !
Lĩnh-hội được ý của Thầy, ông đến Cái-Vừng cưới em ruột của ông Phạm-văn-Công – là người có quen thân từ hồi đi truyền đạo ở Bà-Rịa - về làm vợ, và về sau, ông theo chỗ đã chỉ của Đức Phật-Thầy mà dựng lên tại làng Bình-Long một ngôi chùa để mở cơ hóa-độ quần sinh (1). Tại đây, bịnh nhơn đến rất nhiều, làm cho ông có dịp giúp đời và phổ truyền cái tư-tưởng học Phật tu Nhân mà Đức Phật-Thầy vẫn luôn luôn nhắc-nhở.
Ông tuy dựng chùa Châu-Long-Thới nhưng thường lên xuống và ở chùa Đốc-Vàng Hạ nhiều hơn. Vì theo ông, nơi đây là dấu cũ. Bởi vậy khi ông tịch rồi, bà vợ sau của ông - Thị-Khoảnh - vẫn còn giữ-gìn ngôi chùa nơi Đốc-Vàng Hạ cho đến khi bà mất. Ông cứu bịnh giúp đời đến năm 81 tuổi thì tịch. Trước khi tịch, có cô gái thứ hai (Nguyễn thị Đinh) và người rễ đến thăm, ông vui-vẻ nói:
-May-mắn quá ! các con hôm nay đến đây là một dịp để cho Thầy (2) được thấy mặt !
Thế rồi chiều lại, ông cùng ăn thịt heo rừng và vui-vẻ trò chuyện với các con trong nhà Cả Tồn (con thứ ba của ông) ở cạnh chùa Châu-Long Thới (lúc đó ông vẫn còn mạnh-khỏe như thường). Đến khuya, ông phát lên khò-khè rồi nằm êm cho đến 5 giờ sáng (3) thì tịch. Hôm ấy nhằm ngày mùng 4 tháng 8 năm Giáp-Dần (1914).
___________
(1). Khi Ông cất chùa tại Bình-Long thì bà vợ trước - Phạm Thị - đã tịch rồi.
(2). Các con Ông đều kêu Ông bằng Thầy như người đường ngoài.
(3). Tại linh vị của Ông ở chùa Bình-Long thì để là Ngọ thời mạng chung, song thật ra là Dần thời (5 giờ sáng) mới đúng.

____________
Các đệ-tử hay tin đều đau-đớn vô cùng, thương tiếc như mất cha, mất mẹ.
Mộ-phần của ông hiện giờ còn thấy tại sau chùa Châu-Long-Thới, đất đã sủng xuống, không có dựng bia. Vì trước kia đã theo lời dặn của ông mộ để bằng chứ không có đắp nấm.
Ngày nay, chùa Châu-Long-Thới là một di-tích của ông. Trong chùa có ba tượng cốt bằng đá, do chính tay ông hồi xưa đã thỉnh được trên vùng Thất-Sơn đem về thờ. Nghi-thức thờ phượng thì đúng y chân-giáo của Đức Phật-Thầy.
Có một điều là khách thập phương sang đây, nếu xem kỹ, sẽ lấy làm lạ về họ của ông. Vì trong chùa có hai linh-vị, một tấm lớn đề:
Quy-y Phật Tam-Bửu đạo nhơn Nguyễn-văn-Xuyến linh-vị.
Và một tấm nhỏ, thờ chung với Đức Cố-Quản, đề:
Kỉnh thành Ông Đạo Trần-văn-Xuyến an tại.

Trần và Nguyễn, họ nào mới thật là họ của ông ? Hỏi ra tường tận thì ông thật là họ Nguyễn, còn họ Trần là họ mà người sau đã theo lòng phái của ông để viết ra đó thôi.


V- Ông Đặng Văn Ngoạn (Đạo Ngoạn) (1820-1890).


A. Thân-Thế:
Ông Đạo Ngoạn nguyên danh là Đặng-Văn-Ngoạn, sanh năm Canh-thìn (1802) nhằm Minh-Mạng nguyên niên. Theo quyển "Đạo-Ông giảng-tập" bằng văn nôm, chép theo thể thượng-lục hạ-bát, lời lẽ thận-trọng đáng tin cậy nhưng không rõ tác-giả là ai, thì ông Ngoạn là một trong "thập-nhị hiền-thủ" của Đức Phật-Thầy Tây-An ngày xưa. Chính thế mà thời nhân quen gọi ông là ông Đạo-Ngoạn.
Sinh quán ông tại làng Nhị-Mỹ, tổng Phong-Thạnh, quận Cao-Lãnh, tỉnh Định-Tường (nay là tỉnh Kiến-Phong). Trong lòng sông Cần-Lố, thuộc xẻo rạch Trà-Bông (Đồng Tháp-Mười).
Ông có ba đời vợ. Vợ đầu tiên tên Thị-Nhị, vợ giữa là Thị-Thu, vợ sau tên Nguyễn-Thị-Huê (?). Vợ đầu bà vợ giữa không con. Vợ sau tức là Thị-Huê, ở với ông chỉ sanh được một trai là Đặng-Công-Hứa. Hiện nay Công-Hứa còn sống, tuổi thọ được 76, nối chí cha và đang trụ-trì tại chùa Trà-Bông (1).
Năm ngoài 20 tuổi, ông Ngoạn còn một mẹ già, một người anh và một em gái. Sau khi đã cần-mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả-dĩ nuôi sống đủ gia-đình, ông xin phép mẹ cho thong-thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, vì ông cảm thấy "lòng bồ-đề của mình đã bắt đầu nảy-nở". Mẹ ông thuận cho. Ông liền vào rạch ông-Bường, lựa một nơi thanh vắng để tịnh-niệm.
____________
(1). Tài-liệu sưu tầm vào tháng giêng năm 1956.

Trong thân-tộc của ông có người ghét bỏ đến cáo với làng rằng ông ngầm mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu-tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc Cây-Me (bây giờ là Doi-Me) để tra hỏi. Anh ông là Bổn Chính hay tin phẩn-nộ không cùng, Chính đến nhà làng phản-đối rồi cũng bị bắt luôn.
Bấy giờ có người bà con với ông có thế-lực, đang làm chức Quản-Khám tại Mỹ-Trà (Cao-Lãnh) đến can-thiệp nên hai anh em ông được tha. Từ đó ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu-tỉnh để tránh cuộc đời dua-mị đê hèn của thế-nhân chen-lấn.

B.Đến núi Sam:
Tháng chạp năm Canh-Tuất (1850) khi biết tin Đức Phật-Thầy Tây-An được phép nhà cầm-quyền tỉnh An-Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ-giã mẹ, tìm đến tận nơi để xin quy y. Với bẩm chất từ-lương điềm-đạm, mới đầu ông được Đức Phật-Thầy ủy cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân, tức Tăng-Chủ Bùi Thiền-Sư mở ruộng lập nhà, chùa rồi 14 tháng sau, ông được Đức Phật-Thầy đòi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc phát phù trị bịnh và xem sóc trong chùa Tây-An.
Trong thời gian ở đây, ông được Đức Phật-Thầy tin yêu lắm. Đến những chuyện truyền đạo và thù-tiếp với những bậc nho giả bốn phương, Đức Phật-Thầy nhiều khi giao phó cho ông được trọn quyền định-liệu.

C. Trở về Trà Bông:
Suốt bốn năm theo hầu hạ bên Thầy để học điều đạo nghĩa, ông Ngoạn tự thấy tâm hồn nhẹ nhỏm vui-tươi. Bỗng một hôm, Đức Phật-Thầy kêu ông lại gần mà bảo phải trở về Trà-Bông để "bảo dưỡng mẹ già" và phải "tìm nơi kết tóc" để sanh con nối hậu, vì nợ trần của ông còn nặng. Tuân lịnh Thầy, nhưng ông Ngoạn còn bịn-rịn, xin nán lại ít ngày để thu xếp công việc trong chùa rồi sẽ trở về quê-quán.
Chuyện bay ra ngoài, Thị-Nhị là một tín-đồ của Đức Phật-Thầy, bấy lâu lo việc nấu nướng ở liêu sau, nghe tin bèn đến tận mặt ông Ngoạn nguyền xin trọn đời theo ông để " nâng khăn sửa trấp". Ông Ngoạn bằng lòng. Hai người dẫn nhau đến trước Đức Phật-Thầy trình bày ý-định và xin Ngài cho phép đi về Trà-Bông.
Đức Phật-Thầy nói: "Việc ấy tùy ý các con. Nhưng sau nầy, riêng Đạo-Ngoạn phải chịu nhồi quá: nghèo nàn đến nổi vận khố, đi giữa chợ đông, khốn cùng, đến đỗi trèo non lội suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh-thơi nhàn-hạ".
Ngày rằm tháng 7 năm Giáp-Dần (1854) ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam, về Trà-Bông viếng mẹ rồi lập một ngôi chùa tại vàm. Từ ấy chuyên lo chữa bịnh và phổ-thông mối đạo.

D. Mối oan-khiên
Với phương-tiện tại gia cư-sĩ và học Phật tu Nhân, ông Ngoạn nhất-đán đã thu-phục được hàng ngàn tín-đồ. Vì thế Thị-Nhị sanh lòng lợi-dụng, thâu nạp của tiền, vật thực, chứa đựng đầy rương đầy lẫm. Mặc dù ông Ngoạn đã hết lời giảng-dứt cấm ngăn, Thị-Nhị vẫn làm liều không kiêng-nễ chi hết.
Một ngày kia chùa bỗng dưng phát hỏa, cháy sạch của tiền mà Thị-Nhị bấy lâu dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam-Kỳ tràn lan khắp nơi, ông Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia-đình truân-chuyên lánh nạn.
Năm 1867, quân Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây và lập trật-tự ở Nam-Kỳ, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa xưa, bổn đạo quy-tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng linh mầu hơn trước nữa. 
Phen nầy Thị-Nhị thâu thập của tiền đem về gởi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống-báng với ông Ngoạn mọi điều… Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu ông cản ngăn. Thị-Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành-hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết chùa-chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả. Nhị viện lý là nhờ công của mình chắc-mót.
Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một cái quần đùi, để mặc ý cho Thị-Nhị dở chùa chở đi nơi khác, ông chẳng hề hở môi phàn-nàn than-trách.
Tín-đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.
Nhưng oan-quả vẫn chưa thôi, Thị-Nhị - sau khi dở chùa về cất tại giòng Tha-La gần đó - lại đến bắt ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẳng lẽ mình tu-hành mà mãi rầy-rà, ông liền ẩn-lánh lên miền Thất-Sơn, với ý-định là mong Thị-Nhị quên ông, hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận.
Nhưng sau đó ít hôm, Thị-Nhị dò biết được tin, bèn gom góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa-cầu của Thất-Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.

E. Sang Tà-Lơn:
Biết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu-du cùng khắp Thất-Sơn, ông kết bạn với ông Tường (không rõ người gốc tích ở đâu) rồi rủ ông nầy sang Tà-Lơn tìm nơi tỉnh-dưỡng.

Trong khoảng ở Tà-Lơn, ông luyện được rất nhiều phép thuật. Có bận ông bảo ông Tường đem rỗ của ông đã đươn được trên non xuống Sốc-Thổ để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường, lại sợ thú dữ nên từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh bạo ra đi. Thế là quả thật, có cọp đi trước kêu chừng và giữ-gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.
Ở Tà-Lơn một độ. Ngày kia thình-lình ông Ngoạn rơi lụy mà bảo ông Tường rằng: " Chư thần cho tôi hay: hiện nay mẹ tôi ở nhà đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi tôi về. Vậy chú liệu xem có thể một mình ở lại hay cùng về với tôi ?".
Ông Tường nghe sao hay vậy chớ trong lòng bán tin bán nghi. Nhưng khi hai người về đến Trà-Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn còn đang trầm-kha trên giường bịnh.

F. Lên núi Két:
Lo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc nầy, đúng y như lời Phật-Thầy mách trước ngày xưa, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất-vả, chỉ có một cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Két hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi kiếm chút tiền nuôi mẹ và độ hồ khẩu cho mình. Hồi nầy Thị-Nhị đã trở về giòng Tha-La, ông không còn lo vì sự trở ngại lôi-thôi ở núi Két nữa.
Theo tài-liệu trong "Đạo-Ông giảng-tập" thì khoảng nầy ông Ngoạn hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân ông Cả-Lăng, ông Chủ-Dương, chấn chỉnh lại chùa chiền trong làng Hưng-Thới. Và cũng chính lúc nầy ông bí-truyền tâm-pháp cho ông Từ-Đọt (hay từ Lão) một đệ-tử của Đức Phật-Thầy–và dặn-dò công việc truyền-đạo cho ông nầy trước khi ông Ngoạn rời khỏi Thới-Sơn.

G. Dựng lại chùa Trà-Bông:
Rời Thới-Sơn, ông Ngoạn trở về Trà-Bông viếng mẹ. Một hôm, mẹ bảo rằng: Mẹ nghĩ con thì tuổi một ngày một lớn; mà mẹ thì mỗi lúc một già, nay mai mẹ nhắm mắt rồi, mẹ sẽ không vui lòng mà để con ở lại với cảnh lao-đao khổ cực như vầy mãi mãi. Nên mẹ đã lựa cho con một chỗ tại làng Mỹ-Long, con hãy sớm mà lo lập lại cho rồi gia-thất.
Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ-Long cưới vợ. Bà ấy tên là Thị-Thu: tánh nết thuần-hòa, dung-tư đứng-đắn. Không bao lâu bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp ông Ngoạn để dựng lại chùa-chiền, chấn hưng đạo-đức.
Nhưng Thị-Nhị với tấm lòng sâu độc, đem ghe từ giồng Tha-La xuống Cái-Sao-Hạ (Mỹ-Long) a vào nhà chở hết lúa và muối mà bà Thu đã dày công dành-dụm.
Thấy việc quá ngang trái, Hương-Chủ Sắc là người có thế-lực nhứt trong vùng, đến cản ngăn và thóa-mạ Thị-Nhị, nhứt quyết không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy vậy can ông Chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên-tri của Đức Phật-Thầy, đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong-dong rổi-rảnh. Ông Chủ Sắc không biết tính sao, vì không có nguyên-cáo, ông đành để cho Thị-Nhị tự ý tung-hoành.
Nhưng trời vẫn còn tựa người lành, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ giúp chồng, ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà-Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước, mà ông Ngoạn vì lánh Thị-Nhị đã bỏ hư, và nổ-lực vun trồng ruộng phước.
Bổn đạo nghe tiếng trở về thăm viếng và nghe thuyết Pháp rất đông. Nhưng công cuộc phổ-truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bịnh ngặt mà qua đời. Ông Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo-lắng. Ông giao hết của cải của bà Thu cho hai người cháu là Hai Nhẫn và Bảy-Truyền rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh-kệ. Năm ấy ông ngoài 50 tuổi.

H. Chữa bệnh thời-khí
Năm Giáp-Tuất (1874), bệnh thời khí hoành nhiều nơi làm cho nhân-dân nhộn-nhàng kinh-sợ không làm ăn được. Hương chức làng Nhị-Mỹ thấy thế hội nhau bàn-tính, rồi kéo đến chùa Trà-Bông thỉnh-cầu ông Ngoạn chữa trị.
Vốn sẵn lòng đạo-đức, lại giỏi về khoa cứu chữa bịnh nầy từ khi còn gần-gủi bên Đức Phật-Thầy, ông Ngoạn liền đem hết năng-tài thi-thố. Công hiệu của sự trị binh và quần-chúng kéo tới đông-đảo thế nào, thiết tưởng đoạn văn dưới đây trong tập "Đạo Ông giảng-tập" đủ miêu-tả rõ.

Đạo ông pháp-thuật gắn keo,
Ra oai Phật-lực cứu-điều muôn dân.
Chuyển xoay kinh chú như thần,
Ôn-hoàng dịch khí một lần phải kiêng.
Phù linh hay tợ thuốc tiên,
Phun đâu giải đó mạnh liền như xưa.
Tổng nào tỉnh ấy đều ưa,
Biết bao nhiêu kể người ta đông vầy.
Kẻ lui người tới dẫy đầy,
Dòng sông chật nức ghe cây chen luồn.


Sự đông đúc hiện giờ đến đổi làm cho quân Pháp ở Định-Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức-trách ở Sa-Đéc quan-sát coi nếu thật là gian đạo-sĩ "hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay". Nhưng lúc này giới hữu quyền ở đây phần nhiều đều cảm-phục uy-đức của ông Ngoạn, họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần đem về để sau hậu tổ chùa Trà-Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ-hội đông-đảo là để cầu an bá-tánh và cúng thần chớ không chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của dân chúng mới yên. Ngày nay tại chùa Trà-Bông vẫn còn để thờ Long-Đinh, ấy là nếp cũ ngày xưa vẫn còn roi dấu.

I. Sanh còn và tịch diệt:
Từ khi bà Thu là vợ giữa của ông Ngoạn mất đi, ông không hề nghĩ đến việc tục huyền nữa. Nhưng mẹ ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sanh con nối hậu.
Nhớ lời Thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn-thị-Huê ở rạch Cái-Vừng (thuộc làng Nhị-Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm nuôi dưỡng từ-mẫu. Bà nầy đức-độ thanh-cao, làm ăn giỏi-giắn. Trong việc giúp-đỡ bịnh-nhân và tiếp đãi tín-đồ của ông Ngoạn lúc sau nầy, một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.
Căn-cứ theo bài du-ký Đế-Thiên (có lẽ là của ông Đặng-Công-Hứa) thì năm ông Ngoạn đúng 60 tuổi, tức là năm Canh-Thìn (1880), ông nằm mộng thấy có Khổng-tước bay đỗ vào lòng, rồi trong năm ấy bà Huê thọ thai và sanh hạ một trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng-Công-Hứa. Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong-thả giảng đạo xem kinh, tịnh-niệm và tu bồi công-đức.
Tết Canh-Dần (1890), giữa lúc có tín-đồ tựu về lễ Phật đông-đủ, ông Ngoạn vui vẻ nói: "Trong năm nay, chúng đệ-tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì-tâm đạo-tác phước-điền, chớ khá vì chẳng ai nhắc-nhở mà lảng-xao bổn-phận". Tín-đồ nghe nói biết là lời trối nên đau đớn bịn-rịn chẳng chịu ra về, ông phải đem thuyết "hữu hình tắc hoại" ra giảng-giải, ai nấy mới chịu an lòng nghe theo.
Ngày 19 tháng 2 năm ấy, ông tắm gội sạch-sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch-diệt, thọ được 70 tuổi. Tín-đồ xúm nhau chôn cất và thương-xót vô cùng, có người ở lại Trà-Bông đến ba năm để săn-sóc và bồi đắp chung-quanh nắm xương tàn của người liễu-ngộ cho thỏa-lòng luyến tiếc.
Qua mười năm khói lửa, ngôi chùa Trà-Bông đến giờ hãy còn giữ được nguyên vẹn phong-độ uy-nghiêm, mặc dù cây cối quanh chùa đã phải nhiều phen đương đầu với sự tàn-phá của miểng bom oanh-tạc.

VI- Ông Phạm Thái Chung “Đạo Lập” (Thế kỷ 19).

A. Lai Lịch:
Tên thật là Phạm-thái Chung, pháp danh Sùng-đức-Võ, danh từ Ông Đạo Lập mà người ta quen gọi, là ông có đứng ra thành lập một ngôi chùa mang tên Bồng-Lai tại Bài-Bài, thuộc xã Nhơn-Hưng, quận Tịnh-Biên (Châu-Đốc).
Trong một bài-vị để thờ tại chùa Bồng-Lai, còn ghi thêm, ông Đạo-Lập có một biệt hiệu nữa là Bồng-Lai La-Hồng.
Sinh quán của ông Đạo Lập tại xã Đa-Phước, bên kia thành phố Châu-Đốc, một nơi có phong cảnh nên thơ còn mang một danh xưng khác là Cồn-Tiên.
Khi Đức Phật Thầy Tây-An bị nhà đương cuộc thời Tự-Đức dời về tỉnh lỵ An-Giang, ông Đạo lập đã tìm đến thăm viếng và sau đó, ông quy-y với Đức Phật-Thầy.
Trong số các đại-tử của Đức Phật Thầy, phải nói ông Đạo Lập là một danh-nhân quan-trọng, có tài-ba, huyền-thuật dị-kỳ. Ông có thể đi mây về gió, làm lắm điều khác lạ với thế nhân mà ở quanh vùng Thất-Sơn không mấy ai là không biết danh.
Bóng dáng của ông, từ Hà-Tiên đến Châu-Đốc, từ núi Tà-Lơn đến miền Đồng-Tháp, thoạt đó thoạt đây, thường xuyên không vắng suốt một thời gian vài mươi năm, khoảng từ 1856 đến 1877.
Đi trên bộ ông đội nón to vành, phất-phơ đôi tay áo rộng. Đi qua sông, ông thả nón làm thuyền, lấy gậy làm chèo hoặc xăn tay áo mà bơi qua.
Phật-pháp của ông cao thâm. Tín-đồ của ông đông-đảo. Tất cả giáo-điều tu-nhân, học Phật mà ông lãnh-giáo được nơi Phật-Thầy, ông đều đem đi hoằng-dương khắp nơi. Trong những lúc đi vân du hóa chúng, truyền rằng có không biết bao nhiêu huyền-sử kinh-dị bao trùm chung quanh ông. Chúng tôi chỉ xin chọn lọc và kể lại với tất-cả sự e-dè.

B.Ông Đạo Lập canh-bối:
Bối là bọn kẻ trộm, thường cỡi xuồng nhẹ, chuyên ăn cắp của ghe thương-hồ đỗ nghỉ vào các bến sông về đêm. Trong các dịp vân-du, ông Đạo Lập thỉnh-thoảng cũng có giang trên một thương thuyền để nghỉ chân trên một vài chặn đường. Theo lời thuật của Mộng-Tuyết Thất Tiểu Muội, thì có một bận, ông Đạo Lập lãnh phần canh bối cho "bạn" ngủ. Có kẻ trộm mò vào, ông cứ để cho chúng cứ tự nhiên. Ông tựa mình vào cửa mui ngồi yên, lim-dim như ngủ. Thấy ông không động đậy, kẻ trộm tự-nhiên dọn đồ qua thuyền. Khi chúng dọn được một mớ và toan lấy thêm, bây giờ ông Đạo mới tằng-hắng, lên tiếng bảo:
-Thôi chớ ! bấy nhiêu đã đủ cho "ở nhà" đền cho chủ ghe rồi !
Kẻ trộm hoảng-kinh, nhè-nhẹ chèo lui mất.
Sáng ra ông kể chuyện cho bạn chèo ghe nghe ai nấy đều hậm-hực, tức vì không bắt được bối, để cho chúng một trận đòn. Nhưng ông đạo cười bảo:
-Các người chớ nóng. Tuy vậy mà từ đây các người sẽ được ngủ yên, khỏi phải thức mà canh chừng bối nữa.
Ai nấy đều tức mình, nhưng không dám cải và cũng chưa biết tại sao từ nay lại khỏi sợ bối !
Nhưng rồi đúng như lời của ông Đạo, không rõ ông đã làm gì mà từ đó lại sau, tuyệt-nhiên trên chiếc ghe nầy không hề bị bối, dù rằng chủ ghe hay bạn ghe đều không có một ai thức canh.

C. Ông Đạo Lập luyện phép và làm phép:
Trong lúc vân-du, ông Đạo thường dẫn theo một người đệ-tử tên là Huỳnh-văn-Thiện. Mỗi lần lên núi, ông Đạo kiếm chỗ cho đệ-tử tạm ngụ rồi tự mình tìm chỗ u-tịch ngồi thiền hoặc luyện phép.
Theo lời ông Huỳnh-văn-Thiện thường kể thì có ông Trương-hồ-Ngạc, cũng là một đệ-tử của ông Đạo, có tính hiếu kỳ, nên một lần lén thầy, rình xem coi thầy đã làm gì ở nơi thanh vắng. Ông Ngạc đã trông thấy ông Đạo làm một chiếc tàu nhỏ thả trên mặt nước rồi niệm chú. Ông Đạo có diệu thuật khiến chiếc tàu ấy chạy tới chạy lui theo ý muốn của mình.
Biết được cách đó và học lén được những câu chú của thầy, ông Ngạc mới bắt chước làm theo. Kết quả ông đã thành công. Nhưng liền sau đó ông Ngạc ngã lăn ra chết. Ông Huỳnh-văn-Thiện được chứng kiến cảnh ấy, đau khổ vô cùng vì lúc đó vắng Thầy. Ông phải ngồi thâu canh bên xác ông Ngạc để chờ Thầy về liệu tính xem sao !
Sáng ra ông Đạo về một tay xách gói và một tay xách chiếc đệm bàng. Ông Đạo không chờ ông Thiện trình bày tự-sự đã nói ngay trước:
- Thì ta đã lo sẵn đồ vật, để xem về đây chôn nó !
Những câu chuyện như thế được truyền ra, danh của ông Đạo Lập càng lớn. Người ta đến nhờ ông cứu bịnh và lãnh phái quy-y cùng lúc càng đông. Nên để có chỗ nơi an-trụ và quy ngưỡng, các đệ-tử của ông hợp nhau dựng lên một ngôi chùa. Người ta đến làm công-quả thật đông và nhất là ngày khánh-thành, ghe xuồng đậu chật cả một khúc sông trên kinh Vĩnh-Tế.
Cũng bằng những diệu thuật như trên, ông Đạo từng lấy một cây ếm tại Ton-hon do người Tàu chôn. Cây ếm bằng đá trên mặt có khắc chữ: "Càng-Long, ngũ thất niên trọng thu, cốc dán ". Người ta đã nghĩ rằng cây ếm ấy do họ Mạc đã ếm với mục-đích bí ẩn ! cây ếm ấy bây giờ vẫn còn tại Bài-Bài, miền biên-giới xa-xôi.

D. Ông Đạo Lập qua hải:
Theo một bài nhan-đề ông Đạo Lập, tác giả là bà Mộng-Tuyết Thất Tiểu Muội, đã thuật lại một cách tin-tưởng và cho rằng bác của tác-giả, người thường kể lại chuyện ông Đạo-Lập, vốn là người có học, không hề chịu tin những chuyện quàng-xiên, thì ông Đạo đã qua biển một cách dễ-dàng. Đầu đuôi câu chuyện được chúng tôi rút gọn như sau:
- Ông cố của tác-giả vốn là nhà hàng-hải, từng đi buôn sang Xiêm. Ông vừa đóng xong một chiếc thuyền buôn đặt tên "Minh-Thuận", và định cho xuất-cảng với những hồ-tiêu, sáp ong, hải sâm, đồi-mồi thì vừa đúng vào lúc ông Đạo Lập ghé chơi nhà. Sau lễ cúng kiếng, ông cố tác giả hỏi xin ông Đạo một điềm may-mắn, một phép bình-an cho chuyến khai-trương đặc-biệt đó.
Ông Đạo Lập đưa ra cho ba lá bùa, nói:
- Chuyến đi nầy rồi cũng may-mắn phát-tài. Duy có vướng chút lo sợ. Nhưng cũng sẽ bình-an vô sự. Vậy bùa nầy, khi ra khỏi cửa Hà-Tiên đốt đi một lá, lá thứ nhì để lúc nào có một con cá to định làm hại thì đốt. Còn là thứ ba dành đốt khi vào cửa sông Bắc Nam.
Tất cả trên thuyền có mười người phần đông là Minh-Hương. Khi thuyền ra giữa vời, thình lình ở trước mũi thuyền sóng chỉ bắn lên cao. Một con cá to nhảy bổng lên khỏi mặt nước bằng một tầm người đứng. Vị thuyền trưởng nhớ lời dặn của ông Đạo Lập, đem lá bùa thứ hai thả tàn xuống biển. Thuyền bình yên, lại vượt khơi trên biển.
Một buổi chiều trước mũi thuyền bổng vụt hiện một vật gì to như hòn đảo. Cả thuyền kinh ngạc tưởng chừng tàu bị lạc vào một đảo hoang nào. Nhưng không, hòn đảo ấy biết cử-động và khi đến gần, mới rõ đó là một cái kỳ của một con kinh-ngư khổng-lồ đang đùng đùng lướt sóng chận đầu thuyền. Khi biết rõ đó là một vật ăn thịt người thì cả thuyền hoảng-kinh bối-rối. Vị thuyền trưởng bây giờ mới sực nhớ lại lá bùa thứ nhì đã đốt là lầm. Chắc-chắn nó phải được đốt vào lúc nầy để ngăn chận con kình ngư sát nhân mới đúng. Lúc túng-cùng, vị thuyền trưởng đành phải đem đốt lá bùa thứ ba và nó hoàn toàn vô hiệu. Cá lướt tới càng nhanh hơn, dễ thường cái quẩy nhẹ của-nó cũng đủ làm thuyền lật úp được. Mọi người trên thuyền đều trông rõ được từng cạnh khía của cánh vi cá khổng lồ. Vị thuyền trưởng ra lịnh cho thuyền đảo trịt một bên để tránh vật dữ, nhưng sóng bủa trùng trùng, tràn lên ngập cả sàn thuyền. Cánh vi và cánh buồm thuyền đã song song ngang nhau, cách khoảng không hơn mười thước. Lưng cá cọ vào sườn thuyền, mình thuyền nghiêng về một bên. Phút nguy ngập đã tới.
Tuy-nhiên con cá không hành-hung. Đợi khi thuyền qua vừa khỏi, nó quạt đuôi một cái thôi thuyền quay tròn mấy vòng và mọi vật trong thuyền xô đổ. Rồi thuyền mới từ từ yên lại.
Từ hôm ấy cho đến khi trở về, thuyền được bình-yên không có gì trở ngại nữa. Nhưng khi thuyền về tới Mũi-Nai, thuyền trưởng lên bờ, thì đã thấy có ông Đạo-Lập đứng sẵn dưới đám dừa bên mé nước. 
Ông Đạo Lập cười nói:
-Ở nhà đoán biết bữa nay cậu thuyền trưởng về, nên ghé lại đón mừng… Chà ! bữa chiều hôm đó, ở ngoài vời Thổ-Châu, cậu thuyền thường sợ đã xanh mặt. Khi đó ở nhà ở trên chót cột buồm chớ đâu! Nếu ở nhà không giữ cho thuyền vững lại và không đuổi con quái-ngư đi, nó sẽ cấn đến và đội lật cho thuyền chìm, thì các người tất đều vào bụng nó rồi ! Các người đã chẳng thấy từ xa nó hướng thẳng về mũi thuyền đó hay sao !
Thuyền trưởng nghe nói thì hoảng-hốt trở lại như hồi đang lâm nguy giữa biển. Còn ông Đạo Lập thì nói tiếp:
- Chỉ tội nghiệp cho con cá bè bỗng dưng chịu chết oan ! Vì lá bùa thứ hai của ở nhà cho, đáng lẽ phải để mà diệt con quái ngư ấy !
Nghe qua tự-sự ai nấy thảy kinh hồn.

E. Ông Đạo Lập ném dao
Vì thích sống giang-hồ, ông Đạo thường không ở nơi nào lâu. Do đó mà ông hay có giang trên các ghe buôn cho đỡ chân. Một lần ông Đạo Lập có giang trên một ghe bán mía. Ngồi buồn trên ghe, ông lấy dao ra róc mía thì gặp phải cây dao lụt quá, róc không sạch vỏ mía. Ông Đạo liền vứt cây dao xuống sông và phàn nàn:
- Dao lụt thế nầy không bỏ còn để làm gì !
Người chủ nghe thấy thế không được bằng lòng nhưng làm thinh không nói
Sáng hôm sau, ghe đến một chợ nhỏ. Bạn ghe lên bờ đi chợ mua về một rỗ cá. Bấy giờ chủ ghe mới có dịp lên tiếng hờn mát.
- Mua cá làm chi? Có dao rựa đâu mà làm cá ! 
Bấy giờ ông Đạo Lập ngồi trong khoang ghe, lên tiếng :
- Liệng xuống hôm qua chỗ nào thì hãy lặn chỗ đó mà mò lên. Đã mất mát đi đâu ! 
Nói rồi ông bước ra, chỉ mặt nước, chỗ cách mũi ghe một sãi, bảo người bạn ghe lặn xuống đó mà lấy dao lên. Quả nhiên cây dao yếm mà ông Đạo Lập liệng xuống nước bữa trước được lấy lại. Cần để ý rằng chiếc ghe mía mà ông Đạo Lập có giang, từ chỗ ném dao cho đến chỗ mò dao, cách xa một ngày rưỡi đường, thế mà cứ chỗ đánh dấu của ông Đạo Lập, lại tìm lại được một cách dễ-dàng.
Càng lạ lùng hơn cây dao lụt trước, nay được sáng trưng, bén ngót như có ai mài sẵn.

F. Ông Đạo Lập tàng-hình:
Trong buổi đầu thuộc Pháp, không rõ ông Đạo Lập đã góp tay vào các nghĩa đảng thế nào, mà thực dân thường theo dõi tìm bắt ông luôn. Trong các đệ-tử Đức Phật-Thầy Tây-An, ngoài Cố-Quản Trần-văn-Thành chắc-chắn có ông Đạo Lập là người có đứng hoạt-động cứu quốc.
Một lần ông Đạo Lập đến Hà-Tiên, vào thăm nhà quen thì cũng đúng là khi thực dân dò ra tung tích ông Đạo Lập nên tìm đến vây bắt.
Ông Đạo đang ngồi uống trà tại một vườn cam với chủ nhân, chợt nghe có tiếng động, ông liền đứng lên cắp nón, cầm gậy, xô cửa tầu khậu - một cái nhà ngoài dùng chứa hàng-hóa - bước vào rồi bảo chủ nhân khóa chặt lại.
Chủ nhân trở vào nhà trên thì một bọn người Pháp đang lục soát kiếm tìm ông Đạo-Lập. Sau khi tìm khắp nơi, họ bắt phải mở tầu khậu cho xem. Và kết-quả là ông Đạo-Lập đã đi đâu mất, không hề một ai trông thấy bóng dáng gì !
Thêm một câu chuyện tàng-hình khác: Trong đảng Cần – Vương, có ông Học-Sanh-Thái người Châu-Đốc. Ông Thái về sau kết thông-gia với nhà Cách-Mạng Nguyễn-Thần-Hiến ở Hà-Tiên. Ông Thái lại cũng có kể một câu chuyện tàng-hình về ông Đạo-Lập như sau:
Khi đảng Cần-Vương còn hoạt-động, ông Thái vốn được trong đảng tín-nhiệm, ông giữ một tờ mật chiếu của Triều-đình. Ông Thái lấy làm lo sợ bại lộ tờ mật chiếu là một tang chứng thật nguy, nên ông mới đem giấu tại một cái miểu thờ Thần Nông bí mật, không một người thứ hai hay biết.
Nhưng ít lâu sau, tờ chiếu mật mất. Một điều lạ là ông Thái rất thận trọng ông đã nhét mật chiếu vào sau tờ giấy đỏ có viết chữ thần to tướng lại bàn chánh rồi dán kỹ lại thì ai biết và ai mà dám động tới chỗ tốn-nghiêm kia ! Ông Học-Sanh Thái rất lo sợ bại lộ cơ-mưu. Nhưng thời-gian qua, vẫn bình-yên không có gì lạ. Một hôm ông gặp ông Đạo Lập. Ông Đạo Lập hỏi ngay
- Chú có làm mất cái gì không?
- Không ! Tôi chẳng có gì mà mất. Ông Đạo Lập nói:
- Thử nhớ lại xem, vật không quý, bỏ thì thương, vương thì tội !
Bấy giờ ông Thái mới nhớ ra và nói rõ nỗi lo âu của mình bấy lâu nay. Ông Đạo Lập cười:
- Ở nhà đốt đi rồi chớ mất đi đâu ! Chúng ta mưu đồ là vì đại nghĩa chứ đâu phải vì bổng lộc! 
Bây giờ ông Thái mới tỉnh-ngộ và hỏi:
- Thế sao ông biết tôi giấu ở miễu mà hủy bỏ ?
Ông Đạo Lập không đáp thẳng câu hỏi mà bảo ông Thái cố nhớ lại xem có gì lạ khi đem giấu tờ mật chiếu trong miễu. Ông Thái liền thuật lại là khi giấu xong đi ra, nghe tiếng động dưới cỏ, ông giật mình ngó xuống thì thấy con rắn bò sát bên chân. Ông Đạo Lập cười bảo:
- Ở nhà đó chớ rắn-rít gì. Không hóa rắn, làm sao theo dõi để biết rõ chuyện bí mật của chú được !
Khi trở về già, ông Đạo Lập về Bài-Bài cư-ngụ và tịch-diệt tại đây. Không thấy bài-vị ghi rõ ông mất năm nào. Chỉ biết được ngày 29 tháng 9 hằng năm là ngày cúng vía của ông.
Mộ ông được chôn cất tại xã Vĩnh-Ngươn, cũng theo căn-tích của Đức-Phật Thầy, không có đắp nắm.

VII- Ông Đạo Lãnh (Giữa thế kỷ 19).

A. Gốc tích
Trong cuộc dẹp loạn Chân-Lạp của ông Quản Thành (1) (tức về sau là Đức Cố Quản) dưới triều vua Thiệu-Trị, Đức Cố Quản có một thuộc tướng rất tài-ba và lạ-lùng, làm người Chân-Lạp phải lắm phen kinh sợ; thuộc tướng ấy là ông Hai Lãnh (và bây giờ người ta gọi là ông Đạo Lãnh).
Ông Hai Lãnh gốc người Việt-Nam (2); không rõ họ gì. Ông còn có một tên nữa là cậu hai Gò-Sặt. Hai Lãnh võ-nghệ rất cao, có thuật gồng, thông bùa thư và thông nho học.

Khoảng năm Tân-Sửu (1841), Hai Lãnh gặp ông Quản-Thành tại An-Giang (Châu-Đốc) và xin tùng quân. Từ đó, ông và ông Quản-Thành là đôi bạn chí thân, thường gần-gũi bên nhau để đàm văn, luận võ.
_______________
(1). Ông Quản-Thành là một chiến-sĩ cách mạng Cần- vương đã kháng Pháp quyết-liệt vào hậu bán thế kỷ 19. Muốn biết rõ xin xem cuốn Cuộc khởi-nghĩa Bảy-Thưa TÂN-SANH xuất bản hay xem bài Trần-Văn-Thành của Nguyễn-Văn-Hầu đăng trên Bách-khoa số 64 ngày 1-9-59.
(2). Có người nói ông Hai-lãnh là người cha Việt mẹ Miên, không rõ thuyết nào đúng hơn.

B. Khả năng
Năm Quí-Mão (1843), ông Quản-Thành mang binh đi dẹp quân phiến-loạn Chân-Lạp ở miền Thất-Sơn. Tại trận Láng-Cháy, ông Hai-Lãnh giúp ông Quản-Thành thành công rực-rỡ là ông đã dùng tiếng Cao-Miên để giảng-dụ hai tướng giặc lợi hại là Bướm và Vôi về hàng.
Cũng trong năm ấy, ông Hai Lãnh cầm quân dẹp loạn Phủ Kép (1) ở Giang-Thành, ông bắt sống được nhiều tướng giặc bằng cách đi tay không một mình vào trận, không sợ gươm đao. Ông bắt giặc và trói giặc bằng một vài miếng đấm, đá xem ra như bỡn, nhưng quân giặc phải chịu thúc thủ quy hàng.
Có khi lương-thực tiếp-tế thiếu-thốn, ông đang đi dọc đường, đói lả, thấy bên trong Sóc Thổ có người nấu bánh tét trong trã to đang sôi sụt gần chín, ông ghé lại, mò tay vào trã nước sôi để lấy bánh, thế mà không chút phỏng da. Người Thổ tưởng ông là thần, gọi là Tà Lãnh.
Tuy vậy, có một bận ông đi đánh giặc bị thua lạc đường, tưởng chừng mất tích, đã gây cho người thân của ông một cản tang-tóc đau thương. Chuyện ấy hơi dài, sẽ kể ở sau.
_______________
(1). Giặc nầy nổi lên trước tiên ở Kép (Kampot) rồi lần lần lấn ra nhiều nơi, cùng chung một khẩu hiệu tranh đấu và cùng chịu một mạng lệnh chỉ-huy.

C. Bị giặc bắt:
Một ngày vào khoảng năm Ất-Tị (1845), ông Hai Lãnh (2) thừa lịnh ông Quản-Thành dẫn một tốp binh đi tuần-sát ở mạn biên-thùy Miên-Việt.
Để nhẹ bớt sự băng rừng lướt bụi, tốp binh nầy được dùng thuyền đua theo đường kinh Vĩnh-Tế đến đuôi làng Vĩnh-Ngươn. Khi lên bộ đi được một quảng đường, thình-lình bị một toán người Cao-Miên rất đông ồ ra tập-kích. Bởi vùng nầy đã được an-ổn từ lâu nên quân Việt không có ý đề-phòng. Bị đánh bất-ngờ, binh sĩ mất tinh-thần, lớp chết, lớp bỏ chạy tan vỡ hết. Riêng ông Hai Lãnh còn kẹt lại một mình, ra sức đánh chém tứ tung, nhưng quân Cao-Miên càng lúc càng đông, làm sao ông không sao thoát khỏi vòng vây được.
_______________
(1). Vì không tìm được đích-xác phẩm-trật của ông Hai Lãnh là gì nên chỉ xin chép nguyên danh.

Cầm sự suốt buổi chiều hôm ấy, ông Hai nhờ giỏi võ-nghệ, lại có thuật gồng nên mới khỏi bị hại, nhưng cũng không thể kềm hãm được nào đói, nào mệt. Thừa lúc nhá-nhem tối, ông chuyển hết sức mạnh đánh quyết về một chỗ rồi vẹt đường mà chạy ra.
Màn đêm buông phủ. Tiếng la ó rền vang của quân Cao Miên lùng kiếm ông Hai dội vào mấy khu rừng già rồi tan ra thành một thứ âm thanh kinh khủng. Ông Hai Lãnh một mình thất thiểu chạy đi.
Sáng ra, ông thấy mình bị lạc rất xa-vào lĩnh-vực Cao-Miên, không thể nào theo đường cũ mà trở về được, nên ông giả dạng thường nhân, vào xóm xin ăn rồi lang-thang đi mãi (1).
_______________
(1). Nhiều người nói ông Hai Lãnh sở-dĩ có tên " Cậu hai Gò-Sặt " là do trận chạy lạc nầy ông lên tận Gò-Sặt (Pursat : sử cũ chép là Phú-Túc) ở đó một thời-gian khá lâu. Song cũng có người lại nói ông Hai từ nhỏ đã lên Gò-Sặt. Không rõ thuyết nào đúng ?

Tốp binh chạy thoát được về đến An-Giang báo cho ông Quản-Thành hay thì trời đã sáng.
Ông Quản-Thành hỏa-tốc điểm binh kéo vào cứu viện. Nhưng đến nơi, quân dân Cao-Miên đã tan mất tự bao giờ, còn ông Hai Lãnh tìm kiếm khắp nơi không thấy. Quản-Thành cho lịnh cấm trại ở đó để dò nghe tin-tức. Song thất-vọng. Vài hôm sau, ông buồn rầu kéo binh trở về.
Bà Hai (vợ ông Hai Lãnh), sau khi hay được tin nầy, bà cùng với người con gái dẫn nhau lên tận Cao-Miên tìm kiếm ông Hai. Ngót mấy tháng vượt rừng lội suối mà tuyệt nhiên không thấy tăm hơi, bà nghĩ ông Hai đã chết, nên sau rốt, bà trở về núi Phi-Lai (núi Doi), ở đó chờ đợi lâu nữa rồi tự thiêu mình mà chết.
Ngày nay, những lúc đêm thâu canh vắng, khách thập phương vãn cảnh nơi vùng Thất-Sơn, thỉnh-thoảng còn nghe trong các chùa, am, miếu, quán, hoặc dưới những túp lều tranh lụp-xụp lưa-thưa văng-vẳng đưa ra những câu vè thơ êm-ái như ru :

… Bà Hai am-tự thâm tình
Hỏa thiêu thân thể, ấn hình Phi-Lai…


khách sẽ ngậm-ngùi mà nhớ ngay rằng đồng-hào miền sơn-cước xa-xôi nầy vẫn còn ghi mãi cái chết đau-đớn của bà Hai.

D. Quy y và chứng quả
Nhưng ông Hai lại trở về.
Từ khi chạy lạc lên đất Cao-Miên, ông Hai Lãnh phải sống vất-vả với chuỗi ngày đe-dọa, lầm-than. Sau ông chạy lên tận Gò-Sặt (Pursat) nương-náu với vài người bạn quen ở đây cho đến tháng chạp năm Bính-Ngọ (1846), khi vua Cao-Miên dâng biểu tạ tội với nước ta, ông mới được sồng tự-do và lần hồi dò đường về nước.
Lúc nầy giặc-giả đã yên, lại gặp cảnh vợ con tan-tác, ông Hai cảm thấy lòng mình buồn nản vô cùng, ông quyết xin với ông Quản-Thành cho được về thong-thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, mặc dầu ông Quản-Thành tỏ ra không đành rời ông một phút.
Sau đó, ông Quản-Thành quy y với Đức Phật Thầy Tây An và được tôn xưng là Đức Cố Quản; còn ông Hai Lãnh cũng trở thành đồ đệ của Đức Phật Thầy với-danh hiệu là ông Đạo Lãnh. Hai vị thường có cơ hội gặp nhau ở núi Sam, trước mặt Phật Thầy Tây An, cho đến năm Bính-Thìn (1856) trở đi, nghĩa là sau ngày Phật Thầy Tây-An tịch-diệt, thì không còn ai gặp ông Hai Lãnh ở đâu nữa. Người ta bảo nhau rằng ông đã được chứng quả trên non Tiên.
Giờ đây, đọc lại ít vần thơ cũ của ông Hai, trình trong bài thập thủ liên hườn ta sẽ hiểu qua trích-thái lẫn tâm-hôn ông trong những ngày chót ở chốn núi sâu rừng thẳm.

Thấy những phiền cho cuộc ở đời,
Xa tầm non nước một phương trời.
Hoa tươi trước mặt thơm-tho nực,
Thú dữ bên mình nhả-nhớn chơi,
Nghiêng chén hải lan vui chốn chốn,
Cụm cây trăng sở dạo nơi nơi.
Quên năm Giáp-Tí năm nào cả,

Luyện thuốc linh-đơn tế-độ người.
Độ người thẳng tới cõi thiên-thai,
Chẳng nhuộm màu đời có mấy ai ?
Giày cỏ đến lui trời đất rộng,
Áo sen xài-xạc núi sông dài.
Cảnh vui ý hiệp son dồi phấn,
Thú lạ tình ưa đá chẳng phai.
Nghiêng ngửa cội tùng nghe tiếng gió,
Dọc ngang mặt thích thế không hay,
Thế không hay có bậc người lành,
Trên đảnh mình ngâm chữ thái-bình,
Một tấm lòng nhân mây sắc trắng,
Trăm đường tục lợi nước màn xanh,
Dạy đời hằng giữ câu vi thiện,
Tưởng đạo vui theo dạ chí thành,
Cửa Phật trau-giồi công đức lớn,
Ngâm tầm mùi đạo rất tinh-minh.


Cũng có người nói rằng mấy bài nầy là do Đức Phật Thầy đọc cho ông Đạo Lãnh chép lại - Điển nầy chưa có gì để kiểm chứng được (1).
________________
(1). Chưa biết chắc được Ông Đạo Lãnh có phải là 1 trong 12 đại Đệ Tử Đức Phật Thầy không. Cho nên theo sự dè dặt thường lệ, chúng tôi xin đặt tiết đoạn nầy ở phần cuối chương.

CHƯƠNG IV: VÀI VỊ ĐẮC ĐẠO TRONG PHÁI BỬƯ SƠN KỲ HƯƠNG

I- Ông Trần Văn Nhu (1847 – 1914).

A. Thân-Thế
Ông Trần-văn-Nhu là con trưởng nam của Đức Cố-Quản Trần-văn-Thành và Bà Nguyễn-thị-Thạnh, sanh lại làng Bình-Thạnh-Đông, tổng An-Lương, tỉnh Châu-Đốc năm Đinh-Mùi (1847), cuối đời vua Thiệu-Trị (năm thứ bảy) và vào khoảng vua Tự-Đức mới lên ngôi. Bởi ông thứ hai cho nên hồi còn thanh-niên người ta kêu là Cậu Hai, và khi có tuổi thì gọi là ông Hai.
Ông Hai hơi nhỏ người, hình vóc ốm yếu, nước da trắng, trán cao, tóc hơi dợn sóng, cạnh hàm bên hữu có một nút ruồi, lúc trở về già thì râu thưa, bạc hoa-râm nhưng răng còn chắc.
Ông cưới vợ tại Thị-Đam, làng Bình-Thạnh-Đông (Châu-Đốc), tên là gì, dọ hỏi chưa thấy ai biết. Ông bà sanh được hai người con: một trai, một gái. Trai trưởng tên là Trần-quang-Nhơn (tục gọi là cậu Hai cả) và người gái tên là Trần-thị-Xinh.
Bản sinh trong một nhà danh gia vọng-tộc, ông Hai được học-hành rất giỏi về chữ nho; khi Đức Cố-Quản cầm binh chống Pháp, ông Hai có tập-luyện nhiều về võ nghệ và theo cha đánh giặc.
B. Tạo Bửu-Hương Tự
Từ khi Đức Cố-Quản bị quân Pháp bao vây và mất tích (năm Quí-Dậu 1873), tấm thân ông Hai thật là truân-chuyên vất-vả, nào lo phụng-dưỡng mẹ già, nào lo tìm đường ẩn tích mai danh. Vì Pháp quân thuở ấy nã-tróc ông rất gắt, họ truyền rao ai bắt được thì trọng thưởng chức tước bạc vàng, nên ông phải nay ở nơi nầy, mai dời chỗ nọ, không lúc nào được yên.
Trải một thời-gian gần 20 năm như vậy, tình-thế mới lần lần êm dịu. Ông Hai bèn trở về trại ruộng Bửu-Hương Các, tiếp-tục thi-hành sứ-mạng đạo-đức mà Đức Phật-Thầy và Đức Cố-Quản đã làm ngày xưa.
Mùa thu năm Đinh-Dậu (1897), một hôm ông Hai đang ngồi trên võng, thình-lình nằm phệt xuống rồi lịm đi như người đi thiếp, luôn như thế ngót ba ngày không ăn uống nói năng chi hết. Khi tỉnh dậy, hào-quang chiếu sáng tòa khắp trên mái nhà. Nhiều người xúm lại mừng-rở và hỏi han, ông Hai bảo: “Phật dắt hồn tôi đi dạy Đạo và cho tôi lập chùa thờ Phật”.
Thế là sau ngày ấy, ông Hai sửa-soạn cây-cối và qua năm Tân-Sửu (1901), ông bắt đầu dựng ngôi chùa.
Để khỏi phải quyên tiền của bá tánh thập phương, ông Hai bán chiếc ghe sáu bổ (tục gọi là ông Sầm) của Đức Cố Quản và vàng vòng của Bà Cố để tiêu dùng vào việc cất chùa. Chùa nầy rất rộng, bề dài 20 thước, ngang 18 thước. Khi xong, lấy tên là Bửu Hương Tự.
Trong một dịp có đông đủ tín đồ sau khi chùa dựng xong, ông Hai có tiên đoán:“Tôi cất chùa đây là cất lấy nền, chớ sau nầy chỉ còn đá gạch mà thôi”.
Từ đây ông Hai dùng cái ấn Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Cố Quản, do Đức Phật Thầy ban cho, mỗi năm in phái phát ra một lần cho các tín đồ và đồng thời phát phù trị bịnh, tế độ quần sinh. Mặt khác, ông tìm cách dưỡng nuôi che chở các chiến sĩ cần vương ngày xưa đã tùng chinh theo Đức Cố Quản, để những người ấy được an ổn tu hành khỏi phải trôi nổi lạc loài nữa.
C. Ông Hai lâm nạn
Ngoài một số tín đồ lớn lao rải rác theo các tỉnh miền Tây Nam Việt, ông Hai thuở ấy còn có nhiều người con nuôi thân tín ở thường trực tại chùa. Trong số con nuôi ấy, nay chỉ còn biết được có sáu người là Văn Đẩu, Văn Bính, Văn Huyện, Văn Chánh, Văn Qui và Văn Đăng. Những người nầy chất phát làm ăn, chăm lo tu tỉnh nên được ông Hai tin cậy, giao phó cho coi sóc những công việc quan trọng ở trong chùa. Vì vậy mà có tên Nguyễn văn Phẩm (tục gọi Sáu Phẩm) là cháu của ông Hai (cháu ngoại của Đức Cố Quản, con bà sáu Trần thị Núi) đem lòng ganh tị, thường nghĩ ngầm mưu nầy thế nọ để phá hoại công việc của ông Hai.
Ngàt 21 tháng 2 năm Quí Sửu (1913), nhân có cuộc lễ kỷ niệm ngày chiến đấu anh dũng của đạo binh Gia Nghị, và cũng là ngày Đức Cố Quản mất tích, Phẩm bèn lẻn ra Châu Đốc, nhờ Xã Mão và Đội Khôi (là những kẻ làm việc cho Pháp thuở ấy) làm giùm đơn, đoạn thẳng vào tỉnh đường báo với nhà cầm quyền Pháp rằng ông Hai hiện đang quần tụ tín đồ đông đảo để mưu cuộc khởi nghĩa phục quốc, nếu kéo quân vào bao vây mà không có, Phẩm cam đoan sẽ chịu tử tội.
Thế là trưa hôm ấy, vào giờ Ngọ (1), ông Hai đang hành lễ, bỗng một tốp lính tráng đông vầy kéo đến từ bao giờ vây chặt quanh chùa trong khi có hàng trăm người tụ hợp.
Thấy số người đông đảo quả thật như lời Phẩm báo, bọn lính không cần hỏi tra hư thật, áp vào bắt trói được 56 người (2), rồi soát chùa chiền tìm kiếm ông Hai và những người đệ tử có tên tuổi khác. Lúc ấy ông Hai nhờ có Trần văn Chánh (tục gọi hai Chánh, là con nuôi của ông Hai) thừa lúc lộn xộn đông người, lén cõng ra cửa sau thoát được.
Trong tốp người bị bắt, có ông Nguyễn-văn-Tuất là con trưởng của ông Ba Thới, và ông Chủ Khả người đứng xin phép cất chùa, đều bị giải về Châu-Đốc tống giam (3)
(1). Có người nói là giữa đêm 21 rạng 22.
(2). Theo lời ông Nguyễn văn Tịnh thì trong vụ nầy bị bắt 83 người, nhưng ông Nguyễn văn Tuấn là người có bị bắt trong lúc ấy thuật lại thì chỉ có 56 người mà thôi. Có lẽ trong lúc bắt quả thật 83 người, song khi về tỉnh thì được tha bớt, nên khi vào khám ông Tuấn chỉ thấy có 56 người đó chăng?
(3). Tòa Châu-Đốc kêu án mỗi người 13 tháng tù ở, trong đó có 36 người chịu án. Còn lại 20 người kia chống án (có ông Tuấn) đều bị đày ra Côn đảo. Khi mãn tù có ông Chủ Khả vì trách-nhiệm nên đứng ra dở chùa, đúng như lời tiên đoán của ông Hai hồi trước.
C. Bước bôn-đào của ông Hai
Khi ông Hai nhờ có Trần-văn-Chánh cõng ra khỏi vòng vây. Thầy trò cũng rẽ sậy lần đường chạy xuống ẩn vào một góc bảy thưa, cách xa chùa một đổi để lánh nạn và chờ nghe động tịnh. Nơi đây, ông Hai có nhận được một lọn tóc của sáu Phẩm gởi xuống tỏ lòng ăn-năn, hối tiếc việc làm của mình là bậy và xin thề với ông Hai: thật tâm Phẩm không có ý muốn hại ông. Nhưng ông Hai gạt đi mà rằng:”Nó chặt đầu cũng không tin được đừng nói chuyện cắt tóc…”
Hôm ấy không người đem cơm nước, ông Hai phải nhịn đói suốt ngày, ông ôn lại chuyện tan-vỡ vừa rồi và chạnh nhớ đến những lời của mẹ (1) mà mủi lòng rơi lệ.
———————–
(1). Đức Phật-Thầy ngày xưa có tiên-tri với Đức Cố-Quản rằng: “con ông sau nầy sẽ có người làm rạng-rỡ cho nền Đạo tín-đồ rất đông, nhưng có lần bị nạn, phải nhịn đói suốt ngày tại góc bảy-thưa”. Bà Cố-Quản lúc sinh thời thường đem chuyện ấy mà nhắc nhở ông Hai, nay đúng y như thế ông Hai nhớ lời mẹ mà tủi lòng.
———————–
Ở nhà cô Phan-thị-Lới hai ngày thì bị người lẻo mạch, ông Hai phải dời sang nhà ông Lê-văn-Nhượng, rồi đến nhà ông Hương-Sư Nguyễn-văn-Ca, sau nhờ có nhiều người môn-đệ trung thành là Phan-văn-Cậy, Bếp Lang, Chín Chức, Tư Oai mưu tính cùng nhau, dọn thuyền đưa ông Hai thẳng lên Nam-Vang lánh mặt. Hồi nầy, Pháp ra lịnh tìm bắt ông Hai rất gắt, nên mặc dù lên tận Nam-Vang, ông Hai cũng còn phải cải trang, mặc đồ chệt và mua một chiếc ghe của người khách-trú để ở cho khỏi sự nghi-ngờ.
Ngày rằng tháng tư (năm 1913), liệu ở Nam-Vang lâu không tiện, ông Hai lại cùng ông Nguyễn-văn-Tịnh (1) trở về Cần-Thơ, nương ngụ nơi nhà ông Nguyễn-văn-Dị. Ở đây được gần một tháng lại dời về nhà Phó-Xã Tám trong ngọn Bình-Thủy, và sau rốt, đến nhà sáu Ngộ ở Ba-Ngọn, thuộc quận Trà-bang, tỉnh Rạch-Giá.
———————–
(1). Ông Nguyễn văn Tịnh, tục gọi ông Năm Tịnh, là tín đồ của ông Hai hiện còn mạnh giỏi và đang ở giữ Bửu Hương Các.
———————–
D. Tịch ở Trà-Bang
Khoảng mùa hè năm Quí-sửu (1913), ông Hai về nhà sáu Ngộ ở Trà-Bang. Vì thời-thế bắt buộc, ông đành phải mai danh ẩn tích luôn ở đây. Lúc ấy, trừ một số tín-đồ tâm-chí ra, không còn ai biết được gì về tin-tức của ông nữa.
Đầu xuân năm Giáp-Dần (1914), ông Hai kêu ông Nguyễn-văn-Tịnh lại gần mà nói rằng:
– Sau nầy ta chết, không có chết bậy. Thuở xưa Đức Phật-Thầy trước khi tịch có sưng hai chưn. Ngài cho kêu ông chủ chùa (?) vào rồi viết một chữ « tử » mà hỏi là chữ gì. Ông chủ chùa đáp là chữ tử. Ngài nói luôn:”Hễ tử thì táng nghe !”
Thuật xong câu chuyện của Đức Phật-Thầy, ông Hai nói tiếp:
– Thầy Vân-Tiên xưa cho Vân-Tiên ba điệu Phù mà thôi, còn Thầy ta cho ta đến bảy điệu.
Những câu nói ấy nào hay là lời di-chúc. Ba tháng sau, ngày 25 tháng 3, ông kêu hết mấy người tín-đồ tòng-vong lại mà cho hay rằng ông sắp tịch, vậy khi tịch rồi thì hãy bó lại bằng bảy miếng tre rồi chôn mà thôi, đừng sắm hòm rương chi hết.
Tình Thầy nghĩa tớ, bơ vơ trong cảnh xứ lạ quê người, anh em bổn-đạo chẳng nở chôn cất ” lõa lồ “, cho nên đồng chịu lỗi với Thầy rồi cho cô năm Trà-Bang đi ra Cái-Răng nhắc hòm đem về chôn cất.
Sau hai ngày chờ đợi đi mua và sơn hòm, xác thịt ông Hai vẫn dịu mềm như người đang ngủ, trong miệng lại có mùi thơm bay ra ngát cả chung quanh.
Khi sửa-soạn tẩn-liệm, thình-lình trong hòm đang để ngoài sân có tiếng nổ lên vang dậy. Ai nấy kinh hồn, mới hay rằng vì cải lời Thầy cho nên mới có điềm bất lành ứng hiện như vậy, bèn kéo vào trước linh-thể ông Hai, xin thọ tội mà làm theo lời dặn (1).
Xác-thịt tuy đã trả về cho đất, nhưng công-đức và sự-nghiệp của ông Hai vẫn còn tồn-tại mãi với non sông. Lúc thanh niên ông khoác mảnh nhung-y để bảo-trì cương-thổ. Khi về già lại đem đạo giúp đời, cứu độ muôn dân. Ông thật là một bậc quán thế siêu-phàm phát tích tại vùng Thất-Sơn trong khoảng đầu thế kỷ thứ 20 vậy.
Ngày nay, ngôi chùa Bửu-Hương Tự được trùng-tu và trở thành đồ sộ uy-nghiêm. Cuộc lễ khánh thành ngày 11-9-1954, chứng tỏ rằng sự-nghiệp của ông Hai vẫn được người đời hinh-hương tưởng niệm.
———————–
(1). Có thuyết nói vì hồi ấy Pháp đang còn truy-tầm ông Hai khắp chốn cho nên tin-đồ tuy nghe lời bó bảy miếng tre, nhưng rồi lại cũng để vào hòm mà chôn như người thường cho khỏi tiết lậu tung tích. Nhưng theo lời ông năm Tịnh là người có ở tại chỗ trong lúc ấy, được mục kích rõ ràng thì cái hòm đã đem trả lại cho chủ trại, sau một ả xẩm ở Cái Răng chết, được mua chôn.

II- Ông Nguyễn Văn Thới (1866 – 1927)

A. Thế-hệ
Thân sinh của ông là ông Nguyễn-văn-Đỏ, thân mẫu là bà Nguyễn-thị-Buôn, sanh được bốn người con: hai trai hai gái. Người trưởng là Nguyễn văn Chơi thứ là Nguyễn-văn-Thới (tức ông Ba đây) rồi thứ nữa là Nguyễn-thị-Tánh và Nguyễn-thị-Kẹo
Quê-quán ở làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec), ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng-nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.
Thuở nhỏ ông có học vừa hiểu biết chữ nho, lúc trưởng thành thì làm nghề thợ mộc rồi sau lại, cũng biết làm thợ chạm.
Bởi sống trong một gia-đình cần-lao kiệm-phác cho nên ông Ba đã quen sự chịu khó-nhọc từ buổi thiếu thời. Bình sinh việc chi ông không làm thì thôi, nếu đã làm thì làm cho kỳ được, không hề bỏ dở. Mặc dầu nóng tính, ông Ba vẫn có được một bộ óc thẩm-mỹ cùng đôi bàn tay rất tinh xảo.
B. Phát đạo tâm
Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba bỗng nhiên phát đạo tâm, ông từ-giã gia-đình rồi thẳng lên vùng núi Sam, vô trại ruộng Thới-Sơn (cạnh Thất-Sơn) để tầm sư học đạo (1). Đâu đâu ông cũng nghe người đời ca tụng đạo-đức cao-siêu của ông Hai Trần-văn-Nhu. Ông bèn trở xuống Láng-linh để tìm cho tận mặt, và sau khi biết rõ được giáo lý, ông xin quy-y với ông Hai.
Trở về nhà ăn Tết xong, mùa xuân năm Đinh-Mùi (1907), ông Ba dời cả gia-đình về Láng cất nhà gần chùa Bửu-Hương Tự. Ở đây, ông siêng-năng trau-giồi hạnh đạo, chất-phát làm ăn, được ông Hai coi là đại đệ-tử.
Một ngày nọ, ông Ba phát ra ngây ngây, ông bảo bà Ba dọn-dẹp cho ông một căn phòng sạch-sẽ, rồi ở luôn trong đó. Ngót ba năm dài đăng-đẳng, ông Ba không đi đâu hết. Thậm chí sự tắm rửa hay đại tiểu tiện, ông để đêm đến mới đi ra. Chính trong khoảng nầy, ông cũng viết được ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim La, mà ngày nay nhiều người vẫn còn biết.
Ngày mùng một tháng giêng (Tết năm nào không nhớ), ông ba ra khỏi buồng. Trước khi đến viếng ông Hai, ông Ba sắm một bộ khay hộp, trong có để ba trái ớt hiểm và ở trên có để ba cây roi rồi mới bưng vào trước mặt ông Hai mà quì xuống thọ tội, vì lẽ năm qua Ông không làm tròn hiếu-nghĩa đối với Thầy.
——————-
(1). Có thuyết nói ông Ba nhân đi bán cá trên miền Láng, nghe danh ông Hai đạo-đức cao-siêu mà quy-y theo. Nhưng theo lời ông Nguyễn-văn-Tuấn là trưởng tử của ông Ba thì ông tự nhiên phát đạo tâm rồi đi tầm sư học đạo như trên đã nói.
Nghiêng vai lãnh bức tờ mây.
Trung vương thổ giã Thầy ở lại (1)
Từ đây ông Ba rất sáng-suốt thấu được lẽ diệu-huyền của Phật pháp, ông có một bổn-phận quan-trọng đối với nhà chùa.
C. Bửu-Hương tự bị bao vây
Vì có sự tị-hiềm của Nguyễn-văn-Phẩm, nên chùa Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Lúc ấy tuy ông Ba thoát khỏi được, nhưng ông Hai thì phải xiêu-lạc khổ-sở còn con trưởng của ông là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.
Thấy tình đời đen bạc, vả lại đứng trước cảnh sư đệ rã-rời, phụ tử chia-ly, nên ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt-hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Nơi đây, người ta thấy tóc ông đanh nhiều nên cắt đi cho gọn rồi băng bó thuốc men nhưng ông quyết định không dùng một món chi của người Pháp. Ông cự tuyệt và gỡ bỏ hết.
Độ vài tháng sau liệu bịnh-tình ông Ba không thể chữa được, lương-y cho đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.
——————-
(1). Ý nói ông vì có sứ-mạng phải lãnh bức thư vẽ mây chép sự-trung thành cùng quốc vương thủy thổ cho nên mới phải giã Thầy một thời gian ấy.
Thấy chùa Bửu-Hương Tự bị Pháp nghi-nan dò xét mãi, và liệu ở đấy không yên được nên vào khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.
Hồi nầy, người ta có thấy ông Ba lên xuống nhà thờ Cù-lao-Giêng ba lần để tiếp-xúc với vị Linh-mục nơi đây, và nhờ can-thiệp với nhà cầm quyền Châu-Đốc đặng minh oan cho công việc của Thầy mình (ông Hai Nhu) và anh em đồng đạo (1) đã bị tên Phẩm vu cáo. Nhưng việc ấy nhà cầm quyền Pháp ở Châu-Đốc làm lơ.
(1). Lúc nầy ông Hai Nhu đã tịch rồi ở Trà-Bang, song công việc hành đạo của giáo-phái Phật-Thầy bị dòm ngó rất gắt và bổn-đạo tên-tuổi nhiều người phải bị bắt, bị đày.
D. Ông Ba với chuỗi ngày tàn
Tình Thầy nợ Nước, mênh-mang bao-mối cảm hoài, khiến tâm hồn ông Ba trong chuỗi ngày tàn hầu như tan nát. Ông ký thác lòng mình vào những quyển: Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-Đại và Thừa Nhàn, mà ngày nay, mỗi khi đọc qua, ta cảm thấy ngập-tràn bao nổi bi-thương ưu-ái.
Dưới đây là một ít lời lẽ về tâm trạng của ông Ba hồi ấy :
Đêm năm canh thổn-thức chẳng yên,
Ngày sáu khắc sầu riêng mỗi đạo.
Tưởng ái quốc cơ-đồ sáng tạo,
Nhìn lẽ dân cường-bạo đa đoan.
Chúa mỏi lòng chúa nghỉ thân an,
Tôi mệt dạ còn mang nạn cả.
Thời quân nhược quả kia báo quả,
Thế thần cường giày-giã trung cang.
Hay là :
Bước chân ra đoái lại nước nhà,
Chim xanh vỡ ổ rừng già thiết tha !
Ai đi,
Nỡ chẳng tưởng quốc gia ngay thảo,
Dạ nào vong Tam-Bảo giáo truyền.
Thầy ôi !
Nước nghiêng-nghèo vận khiến đảo-điên,
Phân ly diện sầu tuôn đoạn đoạn !
Ngoài việc sáng tác những tác phẩm kể trên ra, ông Ba còn đươn một tấm thành-vọng (mặt khại), chính giữa có ba chữ triện: Quốc (hàng trên) và Thần Vọng Sư (hàng dưới), dựng ngay trước bàn thờ để biểu-lộ tấm lòng ưu-ái giang-sơn Thầy-Tổ. Tấm thành-vọng nầy ngày nay còn thấy tại nhà con ông ở Láng-Linh.
Sau mười bốn năm, kể từ khi chùa Bửu Hương Tự bị bao vây, vết thương nơi cổ ông Ba vẫn chưa lành hẳn, nó gom lại bằng mút chìa vôi nhưng trong mình ông vẫn mạnh. Một đêm kia, ông Ba kêu người nhà mà hỏi thăm giờ. Người nhà cho biết là mười giờ đêm. Ông bảo: “Bây-giờ đến năm giờ sáng thì còn lâu quá !”
Thế là đúng năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), ông Ba tịch. Lúc ấy ông hưởng thọ vừa đúng 61 tuổi, sau khi đã để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.
Hiện giờ, mộ-phần của ông Ba còn tại doi Lộ-Lở, được bồi-đắp và có người ở săn-sóc cẩn-thận. Tại nền nhà cũ của ông (cũng ở Lộ-Lở gần ngôi mộ), có dựng lên một cái đền thờ rộng lớp, uy-nghi, hằng năm, đến ngày mùng chín tháng tư thì có hội, bá tánh thập phương đến chiêm-bái rất đông.
Ngoài các bậc siêu-phàm trong vùng Thất-Sơn mà chúng tôi đã chép trên đây, còn có nhiều vị khác nữa như: bà Hai Mun, nghĩa tử của Đức Phật-Thầy Tây-An, có tài trị bịnh và nuôi con (mộ phần nay còn ở sau Phước-Điền Tự), – ông Đạo Sang, lấy cốt trầu phun ra mà chữa bịnh và có lắm thần-thông (ở đình ngả ba Cái-Dầu, Châu-Đốc), – ông Đạo Thạch, tịch ở đình Thạnh-Mỹ, khi tịch có hào-quang, – ông Sáu Bình, đệ-tử của ông Hai Nhu có phép đốt chưn cháy thành than rồi đạp vào chỗ đau của người bịnh… Nhưng chúng tôi chưa tìm ra được tài liệu chính xác.
Chúng tôi đã và đang còn sưu-tầm thêm nữa, để cho tiểu-sử của các bậc siêu-phàm quanh miền rừng núi linh thiêng nầy mỗi ngày càng thêm đầy-đủ. Vậy ở đây, chúng tôi xin hẹn lại một kỳ tái bản sau.

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget