BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Chuyện Bên Thầy (Phần 2)

Chuyện Bên Thầy



Mẩu chuyện thứ 21

 RỦA CON

Ở Phú Thuận có hai vợ chồng người nọ đem một đứa con gái lối 18 tuổi đến nhờ Đức Thầy trị bịnh. Thầy dòm người con gái nói:
– Tại sao lại hại người ta thế?
Người con gái rất lanh trả lời:
– Cha mẹ của tôi gả vợ cho tôi lâu lắm rồi kia mà, chớ nào phải tôi dám làm ngang.
Đức Thầy nói với cha mẹ người con gái:
– Tại bà tất cả, lúc cháu này bảy tuổi, bà có rủa, đồ Hà Bá đéo, cho nên Thần Hà Bá dưới sông nghe vậy mới nhập vào con bà từ đó đến nay.
Sự việc làm cho bà này ngạc nhiên, vì con bà cũng bắt đầu xanh men mét từ đó đến giờ.
Đức Thầy khuyên bà từ nay trở về sau chẳng nên rủa con nữa, nên đem lời hiền lành mà giáo hóa chúng. Rồi Ngài quay sang đứa con gái nói:
– Thôi người ta đã ăn năn rồi, ngươi phải trở về chỗ cũ. Từ nay đừng làm chuyện xằng bậy.
Vừa nói, Ngài vừa ngậm nước phun vào mặt, tức thì cô bé té ra. Giây lâu tỉnh lại, và nói chuyện tỉnh táo như thường. Cha mẹ người này cám ơn rối rít. Đức Thầy khuyên:
– Ông bà nên ăn chay, niệm Phật, làm lành.
Thuật theo lời cô Tu sĩ Võ thị Đồng.
PHẦN NHẬN XÉT:
Nhiều người không rõ tai hại của khẩu nghiệp, nên mỗi khi tức giận thì họ kêu mời cõi âm mà trù rủa. Người phụ nữ trên đây cũng ở vào trường hợp đó, nhưng đến khi đau ốm thì khóc than, khẩn vái cúng kiếng tà ma. Vì thấy chúng sanh lầm lạc như thế nên Đức Giáo Chủ từ bi phán dạy:
Khổ lao đà sắp đến nơi,
Thế gian bớt miệng kêu mời cõi âm.
(Quyển 3, Sám Giảng)
Từ khi nghe được những lời từ huấn của Ngài, người ta mới biết được tai hại của khẩu nghiệp mà chừa bỏ rất nhiều. Câu chuyện trên đây cho ta thấy rõ, người không biết giữ gìn khẩu nghiệp thường buông lời nói ác hoặc kêu mời cõi âm mà khiến sai, mời thỉnh, chẳng những mang tội ác khẩu, còn gặp lắm tai họa cho gia đình mình. Chừng đó mới hối tiếc khóc than thì ôi thôi đã muộn. Ta hãy nghe lời từ huấn của Đức Tôn Sư.
Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa-ương đeo đắm.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)

Mẩu chuyện thứ 22 

ĐI TÌM PHẬT

Năm 1966 tôi được thụ huấn khóa đào tạo Giảng Viên Truyền Bá Giáo Lý Trung Ương tại Thánh Địa Hòa Hảo. Bỗng được tin cô Ký Giỏi về viếng Tổ Đình.
Vốn sẵn tính hiếu kỳ, tôi muốn được biết cô Ký, vì tôi nghĩ cô chắc có nhiều duyên phước lớn mới được theo hầu Đức Thầy, và được Ngài quang lâm đến ngụ tại nhà cô trong thời gian truyền đạo và nhứt là muốn được nghe cô kể chuyện bên Thầy mà lúc nào tôi cũng khao khát được nghe. Ý đã quyết định nên chiều hôm ấy tôi rủ vài bạn nữ khóa sinh cùng đi, và định nghỉ đêm tại Tổ Đình để nghe cô kể chuyện.
Khi đến nơi, chúng tôi chào hỏi, cô cháu được biết nhau trong bầu không khí vui tươi. Tôi nói:
– Thưa cô Hai, chúng con từ trước đến nay nghe tiếng cô nhưng chưa gặp mặt, hôm nay mới được biết cô. Thưa cô, chúng cháu là kẻ sanh sau đẻ muộn, rất khao khát được biết những mẩu chuyện chung quanh Đức Thầy, mà cô là người có nhiều duyên phước nên được hầu Thầy. Vậy tối nay chúng cháu xin ở đây một đêm, nhờ cô kể cho chúng cháu nghe nhiều mẩu chuyện suốt thời gian cô được theo Thầy.
Cô Ký tươi cười đáp:
– Ờ được, mấy cháu ở đây đi, cô kể hoài cũng được nữa. Tưởng gì chớ kể chuyện bên Thầy cô sẵn sàng lắm.
Thế là sau thời cúng tối, tôi bắt đầu đặt câu hỏi với cô Hai, giống như một nhà phóng viên tìm tin tức cho báo chí. Mở đầu câu chuyện, tôi hỏi:
– Thưa cô Hai, chúng cháu muốn biết nguyên nhân nào cô ở Bạc Liêu mà sớm gặp Đức Thầy để quy y? Cô cười nói:
– Ờ! Để cô kể lại cho cháu nghe, kỳ diệu lắm cháu ơi! Đâu phải khi không mà cô được gặp Đức Thầy để quy y đâu. Cháu biết không, cô là dân Tây, đâu có phải dễ tin Phật Pháp mà tu. Một bữa nọ cô nằm mộng thấy cha cô về rầy cô và nói
– Phật đã xuống thế rồi mà sao con không chịu tu? Nè cha cho con biết, nếu cứ mãi mê danh lợi thì sau khổ đừng than trách, ăn năn cũng chẳng kịp nghe con. Phật xuống thế kỳ nầy là cơ tận diệt, nếu không tu thì vĩnh viễn chịu đọa nghe con. Cô bị cha rầy quá tay, cô khóc nức nở và nói:
– Thưa cha! Con biết Phật đâu mà tìm, tu làm sao mà tu? Cha cô nói:
– Con đi theo cha sẽ gặp Phật.
– Thế là cô đi theo cha cô đến một cảnh giới xinh đẹp. Nhứt là một hồ sen rất to, dưới hồ có nhiều hoa đua nở. Chính giữa có một hoa sen thật lớn, có hào quang sáng rực, lại có một người tướng mạo xinh đẹp đứng trên đó. Cha cô nói:
– Nầy con hãy nhìn cho kỹ. Vị đứng tại hoa sen lớn đó là vị Phật đã giáng thế tại Việt Nam rồi đó con. Con nhớ tìm cho được vị nầy mà quy y. Nhìn kỹ nghe con!
Cô dạ, dạ và chăm chú nhìn từ đầu cho tới chân. Khi tỉnh giấc, cô rờ gối thì biết mình đã khóc ướt gối, cô kể lại cho ông Ký nghe và xin ông để cô đi tìm Phật.
Vốn sẵn có duyên lành nên ông Ký chấp thuận. Thế là sáng ra cô kêu tài xế lái xe chở cô đi tìm Phật. Cô nghĩ, chắc Phật thì ở núi, thôi mình đi cạnh núi. Con đường đi từ Bạc Liêu dài lên, đi tới đâu cô cũng hỏi thăm chỗ nào có vị linh thính hoặc kỳ hạnh cô đều đến gặp mặt, coi phải là vị Phật mình được thấy trong mộng không.
Trải ba ngày cô đi tới Châu Đốc, có người chỉ ở Tân Châu có ông Đạo linh lắm. Cô không đi núi, liền cho xe thẳng về Tân Châu. Khi đến nơi, gặp ông Đạo đó cũng không phải. Lòng cô buồn bã lắm. Hỏi thăm người ta chỉ ở Hòa Hảo có ông Đạo còn trẻ mà sáng suốt và có nhiều đặc điểm thoát tục. Nghe đến ông Đạo Nầy, cô thấy lòng mừng khấp khởi và nôn đi tìm coi có phải không.
Ghé chợ mua ít trái cây rồi đi thẳng tới Hòa Hảo. Khi xe gần đến Tổ Đình, khiến cô không ngồi yên, như mình sắp gặp cha mẹ chết đi sống lại. Gần tới chợ Mỹ Lương là cô ngồi ló đầu ra ngoài để tìm kiếm. Có lẽ Đức Thầy đã biết nên Ngài ra đứng tại cửa ngõ đưa mắt nhìn ra đường. Bỗng cô hô lên cho xe ngừng lại, vì đã gặp Đức Thầy, người mà cô đã thấy đứng trên hoa sen trong mộng. Cô bước xuống xe làm lễ Đức Thầy, được Thầy nghiêng mình đáp lễ. Lén nhìn Thầy từ đầu đến chân, quả đúng rồi, vị Phật mà mấy ngày qua cô hằng tìm kiếm. Cô khóc nức nở, dù rán kềm cũng không được, cô khóc thật lớn và tủi tấm tức tấm tưởi, làm cho chú tài xế và mấy người chung quanh chẳng biết sự gì. Biết mình là vợ một thầy Ký mà khóc om sòm như con nít cũng kỳ quá, nhưng không làm sao nín được, cô phải ôm mặt chạy tuốt vào nhà bếp, nhưng vẫn khóc càng lớn hơn, đến đỗi Bà Cồ, nội Tổ của Đức Thầy ở nhà trên cũng nghe, nên bà hỏi:
– Ai làm gì mà khóc dữ quá vậy?
Đức Thầy cười nói:
– Cháu ông Lưu ạ!
Rồi Đức Thầy bước xuống nói:
– Thôi chớ, khóc hoài sao!
Con ơi! Tự nhiên cô nín như chưa hề khóc. Liền đi rửa mặt và ở lại đây mấy ngày để nghe Pháp và quy y.
Thuật theo lời cô Tu Sĩ Võ Thị Đồng.

Mẩu chuyện thứ 23 

CÓ NÊN SÁT SANH TRONG NGÀY CHAY KHÔNG

Vào mùa Thu năm Kỷ Mão (1939), lúc bấy giờ Đức Huỳnh Giáo Chủ còn đang truyền giáo tại Thánh Địa Hòa Hảo.
Dưới bến Tổ Đình có mấy người đang làm đáy, chận bắt cá linh theo nước trôi xuống, những người này cũng đã thọ giáo với Đức Thầy.
Theo quy tắc trong Đạo thì đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều ăn chay kỳ, mỗi tháng 4 ngày, nhưng buổi sáng hôm đó, nhằm ngày chay lạt mà số người đóng đáy, vẫn tiếp tục đóng đáy như thường. Buổi chiều lại, Đức Thầy từ trên Tổ Đình ung dung đi xuống. Ngài thấy họ đang dùng cơm chay, ai nấy vẫn không thấy Ngài nói gì. Khi trở lên Ngài vẫn tiếp tục công việc trị bịnh như thường lệ. Cứ mỗi ngày đầu thời cúng tối, những người làm đáy đều lên Tổ Đình để nghe Đức Thầy Thuyết Pháp. Sau mấy giờ thuyết giảng đạo mầu cho mọi người cùng nghe, Đức Thầy xoay qua mấy người làm đáy nghiêm nghị hỏi:
– Hôm nay mấy ông ăn chay hay ăn mặn?
– Bạch Thầy chúng con ăn chay.
– Thôi từ đây Thầy cho phép các ông ăn mặn. Nhưng mấy ông đừng đóng đáy trong mấy ngày chay nữa.
Mọi người ngồi lặng thinh ngơ ngác, chẳng hiểu Đức Thầy muốn nói gì.
Đức Thầy bèn giải thích:
– Yếu điểm của sự ăn chay là cữ sát sanh, chứ không phải để cho người ta khen mình là người có đạo, Nếu hôm nay các ông ăn mặn, chỉ sát hại một vài cân cá thôi. Đằng nầy các ông ăn chay mà đóng đáy bắt cá thì giết chết biết bao nhiêu mạng sống?
Nghe lời giải thích chí lý của Đức Thầy, số người làm đáy vừa hối hận, vừa vui mừng vì đã được Đức Thầy dạy cho bài học quí báu, khiến cho họ nhận được chân giá trị của sự ăn chay.
Thuật theo lời của ông Lê Phát Khuynh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đọc chuyện trên cho ta thấy câu nói đầy từ bi nhân ái của Đức Thầy là lời khuyến cáo chung cho đồ chúng. Nhờ lời từ huấn ấy mà anh em tín đồ ý thức được nghĩa lý cao siêu của những ngày chay lạt.
Về điểm này, có lần ở Tổ Đình, Đức Bà rộng sẵn một lu cá cạnh cây cầu dưới sông. Bữa nọ Thầy nói với anh em có mặt:
– Thôi bữa nay mình nấu cháo ám ăn.
Rồi Thầy xăn tay áo sửa soạn đi làm cá. Ngài xung phong vào lấy dao đi làm cá. Khi đi đến nơi, Thầy bắt cá thả xuống sông hết. Có người đi xuống sau ngạc nhiên hỏi thì Thầy đáp:
– Người ta bắt giam và bỏ đói mấy ông như vầy, mấy ông chịu không? Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác chớ!
Thật vậy, chư Phật và chư Bồ Tát đã thấy biết được sự luân chuyển của chúng sanh, từ loài người biến ra loài vật và từ loài vật chuyển nên người. Thế nên chúng cũng biết tham sống sợ chết, chứng tỏ cá thấy người đều hoảng sợ lặn trốn, thế mà loài người nỡ tạo lưới, nôm, chài, rập để bắt giết chúng mà ăn thịt thì tránh sao khỏi quả báo đen đúa ở tương lai. Thế nên người tu Phật, nếu ai tự thấy mình không đủ điều kiện tuyệt sát, trường chay thì cũng nên cố tránh bớt đi những phần sát nghiệp. Nhứt là những ngày chay lạt để tránh bớt nghiệp sát sanh, và thể hiện đức hiếu sanh của người Phật tử.

Mẩu chuyện thứ 24

PHƯƠNG PHÁP NHẪN NHỤC

Giữa rừng núi âm u nơi Miền Thất Sơn hùng vĩ, mỗi khi khách du hành để bước đến, ai cũng thấy lòng thanh thoát và tin nơi đây có những gì thiêng liêng huyền bí.
Ông Nguyễn văn Phẩm, người quê quán ở Cao Lãnh nay thuộc Kiến Phong. Bởi sớm nhận xét cảnh đời đầy đau khổ, vạn vật vốn vô thường, nên ông tách rời gia đình tìm đến non Thiên Cẩm sơn (núi Cấm) để lo bề tu tâm dưỡng tánh.
Sau khi viếng qua các thắng cảnh, ông Phẩm dừng chơn tại Đá dựng cùng một vài bạn đạo lo việc tu hành. Một buổi chiều tà, mây trắng tỏa trùm cả rặng cây vách đá, gió thu thổi nhè nhẹ làm mát dịu lòng người. Ông Phẩm ra đứng trước cửa điện hóng mát, mắt đăm chiêu theo con đường xuống núi. Bỗng thấy một đoàn người từ phía chân núi tiến lên, khi tiến lại gần, ông Phẩm thấy người đi trước hướng dẫn, tuổi độ hai mươi, tướng mạo cao ráo, trông ra dáng khoan nhã, da trắng mặt hồng đỏ, lộ đầy vẻ trang nghiêm khí phách. Người ấy chính là Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn năm người đi sau là tín đồ của Ngài. Qua lời chào hỏi, ông Phẩm bắt đầu thầm kính Đức Thầy.
Hôm ấy đoàn người nghỉ đêm tại đây. Sau thời cúng tối, Đức Thầy ngồi lại thuyết Pháp cho mọi người cùng nghe. Trong thời Pháp ấy Đức Thầy nói rất nhiều, nhưng ông Phẩm còn nhớ được một câu của Ngài khuyên:
– Các ông tu hành nên trừ được tánh nóng giận mới mong kết quả.
Đoạn rồi Ngài đặt câu hỏi:
– Nếu ai đem đến cho mình một món quà mà mình một mực khước từ thì họ phải làm sao?
Ai nấy không hiểu ý như thế nào, nên đều lặng thinh hết.
Ngài bèn nói tiếp:
– Nếu mình không nhận lãnh thì họ phải đem về. Cũng như thế đó, nếu có người dùng lời bất nhã, hoặc nặng nhẹ đối với mình mà mình nhận được, lòng không chút sân hận, tức bao nhiêu nghiệp quả đó người dùng lời nặng nhẹ kia phải mang.
Thuật theo lời ông Nguyễn văn Phẩm.
PHẦN NHẬN XÉT:
Hơn hai mươi lăm thế kỷ trước đây, Đức Thích Ca Mâu Ni đã bốn mươi chín năm trụ thế hoằng pháp độ sinh, Ngài cũng thường đem Pháp Nhẫn mà dạy đời, vì đó là một trong sáu chiếc đò Lục Độ, là cái đại chu thoàn khi có phải dùng nhiều môn: Quyền, Thật, Đốn, Tiệm, nhưng lúc nào pháp nhẫn cũng được lưu hành. Đức Phật và Chư Tổ, Đức Thầy không ngớt khuyên dạy:
Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Ngài còn biết tánh sân hận là một tai hại không nhỏ, như là:
Cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ dằn, bạo tợn, chẳng còn nghĩ được phải quấy tốt xấu, vì lửa sân đốt cả rừng công đức. (Nhứt tin chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn)
Và câu:
Nhẫn nhục đệ nhứt đạo, tiên tu trừ ngã nhân, thị lại vô sở thọ tức chơn Bồ đề tâm (Người tu hành dù nhiều năm khổ hạnh, nhưng nếu không trừ được tánh nóng giận của mình thì đường tu khó mong đạt thành sở nguyện). Như ông Cốt Đầu Lâm Thất, đã dày công tu tập chứng đến Ngũ Thông, nhưng không diệt được tánh sân nên phải đầu sanh vào đường ác đạo.
Ta hãy nghe lời phán dạy nhẫn nhục của Đức Tôn Sư:
Chữ nhẫn-hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù-oán.
Việc hung-ác hễ vừa thấp-thoáng,
Chữ từ-bi ta diệt nó liền.
Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù-oán tiêu-tan mất hết.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Nếu chúng ta cố gắng vâng theo lời phán dạy của Ngài thì có lo chi không hưởng đời chơn hạnh phúc.
*- Chú nghĩa: “Nhẫn nhục đệ nhứt …” Đạo hạnh bậc nhứt, trước tu trừ tâm nhân ngã, kế đến là không còn kẹt chỗ thọ cảm, đó tức là chơn tâm bồ đề. (Ban sưu tập)

Mẩu chuyện thứ 25

NGÀY THẦY TRỞ LẠI

Bà Út có kể mẩu chuyện như sau: Lúc còn ở Tổ Đình, có lần Thầy qua nhà ông Út, lúc có đủ mặt ông Út, bà Út. Đức Thầy nói:
– Sau nầy có thời gian tôi vắng tín đồ tôi, không một ai biết tôi ở đâu mà tìm, làm cho tín đồ tôi phải buồn tủi lắm. Nhưng đó chẳng qua là một cơn thử thách thôi.
Thầy nói tiếp:
– Ông Út bà Út biết không, lần trước họ bắt tôi, tôi không cho họ bắt, nhưng lần sau tôi đến cho họ bắt. Lúc đó tôi dùng hóa thân cho họ bắt tôi, từ đó làm cho tôi xa vắng tín đồ tôi luôn.
Ông Út hỏi:
– Rồi Thầy về không Thầy?
Đức Thầy đáp:
– Về chớ, nhưng ông nên nhớ là tôi sẽ về nguyên xác cũ, nghĩa là tôi đi sao về vậy chớ không có gì thay đổi hết.
Ông Út hỏi?
– Như vậy Thầy về luôn hay sao Thầy?
Đức Thầy đáp:
– Không! Tôi chỉ về một thời gian ngắn để sắp xếp công chuyện rồi đi nữa. Mà tôi báo cho ông Út bà Út hay nghe, khi tôi vắng mặt rồi ở nhà có chư Thần ghi chép hết các việc làm không sai một mảy. Khi tôi về thì các ông đem nạp sổ, cuốn nào cuốn nấy dầy cộm. Kẻ nào chân tu, kẻ nào giả tu, giữ giới hay không giữ giới, hung ác hay lương hiền, đều được kiểm soát kỹ lưỡng hết. Khi tôi xét bộ sổ rồi mới niêm yết lại, từ đó về sau không ăn năn sám hối được nữa. Nhưng tôi về chỉ bảy ngày là vắng mặt nữa.
Ông Út hỏi:
– Sao Thầy về mau quá vậy?
Ông Út hỏi tới đây Thầy lộ sắc buồn, châu đôi mày nói:
– Vì lúc đó là thời kỳ của Năm Chèo nổi lên sát phạt nhơn sanh chết vô số kể. Nếu tôi ở lại thì làm sao khỏi động lòng, mà ra tay bắt nó sớm thì sẽ có tội với Thiên Đình, nên phải vắng mặt để nó trị hết người hung, rồi mới trở về mà thâu nó.
Đức Thầy nói tiếp:
– Khi Năm Chèo nổi lên không phải nó nuốt riêng một nước mình nghe ông Út bà Út, mà các nước cũng bị nó nuốt nữa à! Nếu là người hung nó nuốt tất cả, mà còn người hiền thì ở đó nó chẳng làm gì. Tu hành như bà Út đây thì đứng coi chớ sao đâu. Còn người hung thì chư Thần lôi cổ lại cho nó nuốt, đến khi nó no thì cắn rảy bỏ, cho đến máu chảy thành sông, thây trôi lểnh nghểnh. Chừng đó ai muốn vớt thây thì xuống Chợ Mới mà vớt. Lúc mười tám nước thấy vậy đem bom to, súng lớn, đại bác, thần công, máy bay, tàu chiến đến để trừ nó. Nhưng đâu trừ được, bởi nó có phép thần thông, nên khi cường quốc đem vũ khí tối tân đến, đều bị nó phun lửa cháy hết. Rồi nó còn dùng phép bay lên hư không phun lửa đỏ trời, làm cho các nước đều kinh sợ. Bấy giờ họ mới hội kiến với nhau để tìm phương trị nó, nhưng tất cả đều bó tay. Cuối cùng họ mới đặt bàn cầu nguyện, nhờ Phật Trời cho có một bậc đức rộng tài cao ra tay cứu thế, chớ họ thì phải chịu đầu hàng. Lúc đo tôi mới đi trên mặt nước mà trở về. Hỏi các ông cường quốc: Sao? Các ông có cách nào để trị nó nữa không? Các cường quốc mười tám nước đồng đứng lên nói:
– Thưa Ngài, chúng tôi không còn cách nào trị nó nữa hết.
Thầy nói:
– Nếu như vậy các ông đứng qua một bên đi, để tôi thâu nó cho.
Còn Năm Chèo, từ khi biết Thầy về, nó lặn mất không còn tâm dạng. Dùng thần thông kêu lên một tiếng tức thì nó nổi lên. Từ thân hình to lớn dị thường, nó rùng mình một cái, bỗng biến ra nhỏ lại và không phải hình con sấu Năm Chèo, mà là một con Long Mã. Long Mã liền chạy tới trước mặt Thầy; qùy hai chân trước xuống. Con Long Mã nầy trên lưng có hàm ấn rõ ràng. Khi đó Thầy lên lưng cỡi nó. Long Mã liền chạy đi biểu diễn, ban đầu trên mặt đất, kế chạy trên mặt nước. Sau cùng chạy giữa hư không như ở đất liền.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ngược dòng sử Đạo, ta thấy sự vắng mặt khá dài của Đức Tôn Sư đã để lại cho các đệ tử trung kiên biết bao là buồn tủi, đau xót. Điểm nầy đâu phải là Thầy không thấu hiểu cho ta. Hơn nữa là một vị Phật lâm phàm thì có điều gì Ngài không thông đạt.
Nhưng dù cho Đức Thế Tôn còn trụ tại thế cũng chẳng làm gì khác hơn, bởi do nghiệp quả của chúng sanh và cũng là cơ thử thách. Cho nên chúng ta phải:
Đợi cơ Thiên Địa xoay vần đến.
Chờ cuộc phong lôi đổi vận lành.
(Muốn Lánh Phồn Hoa)
Hơn nữa một cuộc chọn lọc để chuyển biến con người từ Hạ Nguơn Hạ trở lại Thượng Nguơn Thánh Đức đâu phải là một chuyện giản đơn. Thế nên, chẳng những Ngài đã báo trước trong nhiều đoạn Sấm Thi, mà còn nói riêng ở nhiều câu chuyện khác, về sự vắng mặt của Ngài. Có điều ta cần lưu ý, dù là Tiên Đạo hay Phật Đạo, nếu đã thử đệ tử tức nhiên là phải đòi hỏi ở sự khó khổ, nhẫn nại, trường kỳ, mới biết được sự kiên trinh bền chí của đệ tử ra sao, chớ đâu thể một sớm một chiều, thí sinh được chấm đậu lãnh thưởng bao giờ.
Về việc Năm Chèo thì Ngài cho biết:
Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.
Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt thú nuốt mà người hung.
Đến chừng thú ấy phục tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai.
(Sấm Giảng Quyển1: Khuyên Người Đời Tu Niệm)
Chẳng những thâu con Long ác nghiệt mà Đức Thầy còn hàng phục chư bang như câu:
Khùng mới nói chơi chư bang hàng phục.
(Hố Hò Khoan)
Thâu cho được con Long ác nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
(Sa Đéc)
Trong kinh Pháp Hoa phẩm Dược Thảo Dụ thứ năm, Phật tỷ dụ ông Trưởng Giả, thấy các con vì ỷ lại cha thương lo cho mình rồi không nghe lời cha dạy. Cha biết con có bịnh, nhưng không lo tìm thuốc. Cha có khuyên dạy, nhưng chẳng nghe lời, nên ông tìm cách lánh mặt, trước khi lánh mặt, ông tìm cách dạy con ở nhà lo uống thuốc và chỉ rõ cái lợi ích của người biết dùng thuốc, cái hại của người có bịnh không lo uống thuốc v.v…
Khi ông vắng mặt, các con vì thương nhớ cha mới suy gẫm lời dạy của cha mà trước kia mình không nghe nay phải khổ, phải chịu mất cha v.v… Từ đó họ ăn năn sám hối, lo dùng thuốc đúng liều nên lành mạnh, bấy giờ cha về được sum họp an vui.
Ông Trưởng Giả khéo tạo phương tiện để vừa thử thách vừa thức tỉnh con. Đó chính là Đức Thích Ca Từ Phụ.
Chúng ta hôm nay cũng thế, sự vắng mặt khá lâu dài của Đức Thầy là một cơ thử thách mà cũng là một phương tiện khéo léo của đấng cha lành.
Thế nên, nếu ta biết nghe lời Thầy dạy dùng thuốc, tức tu theo Giáo Lý của Ngài để trị cho hết bịnh tà quấy, mê si, thì nhứt định ngày Long Hoa sẽ có mặt.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
Sau Thầy tớ gặp nhau Phật cảnh.
(Sa Đéc)
Ngoài ra, người thiện tín còn được ban thưởng xứng vị, xứng ngôi, và được coi hội của Phật Tiên chuyển lập, như câu:
Dương trần bỏ bớt tánh tham,
Đừng chơi cờ- bạc, đừng làm ác- gian.
Để sau coi Hội coi hàng,
Coi Tiên coi Phật mới ngoan bớ trần.
(Quyển 3 Sám Giảng)

Mẩu chuyện thứ 26

LỘ VẺ TỪ BI

Năm Quí Dậu (1933), lúc Đức Thầy tuổi đời còn niên thiếu mà đã biểu lộ đức tánh từ bi cao cả. Ai để tâm theo dõi câu chuyện lạ ở làng Hòa Hảo sau đây, chắc không khỏi suy nghĩ luận bàn.
Thời nầy dân cư trong làng Hòa Hảo còn thưa thớt, cỏ cây rậm rạp. Sau nhà Đức Ông, một vườn tre rộng đến hàng mẫu Tây, đến mùa nước lên, chẳng biết từ đâu vô số cò trắng tập trung về làm ổ, đẻ rất nhiều ổ trứng. Cò mẹ, cò con thật đông đảo.
Thấy vậy Đức Ông ra lịnh cấm người ngoài và người nhà, bất cứ ai chẳng đặng vào vườn tre hốt trứng và bắt cò mẹ, cò con. Nhờ vậy nên mỗi lúc loài cò rủ nhau về càng đông. Việc nầy thiên hạ đồn vang, thấu đến tai viên chủ quận Tân Châu. Một ngày kia Đức Ông có việc đến Quận đường, dịp nầy viên chủ quận Tân Châu liền ngỏ ý với ông Cả:
Thưa bác, nghe đồn sau nhà vườn bác có nhiều cò trắng, vậy xin phép cho tôi phái người đến bắn một bữa về làm tiệc nhậu chơi, có được không bác Cả?
Đức Ông suy nghĩ một chút rồi đáp:
– Thưa chủ Quận, chẳng mấy khi quan Quận hỏi tôi mà chẳng đáp ứng được, tôi thấy cũng hết sức e ngại, nhưng tôi xin quan Quận suy nghĩ, giải quyết giùm sự nan giải trong lòng tôi. Số là trước đây mấy tháng, loài cò nầy chẳng rõ từ đâu về làm ổ tại vườn tre của tôi khá nhiều. Tôi cũng đã cấm người trong nhà, ngoài làng xóm, không ai được hốt trứng, bắt con ăn thịt, bởi tôi nghĩ rằng chim cò là loài cầm thú thường rất sợ người, thế mà khi chúng làm ổ tôi ra xem chúng chẳng hề sợ sệt chi cả. Chúng dạn dĩ lạ lùng. Tôi thiết nghĩ từ hồi nào tới bây giờ chưa từng xảy ra như vậy. Rất lạ là chúng nó không hề đậu, hay làm ổ ra ngoài, mà chỉ trú ngụ trong phạm vi vườn của tôi mà thôi, chắc chúng nó tin tưởng có sự che chở an ổn của tôi. Rồi ngày qua tháng lại được ở yên, nên chúng mới rủ nhau về làm ổ đông như thế.
Thưa quan Quận, chẳng những ở trong làng Hòa Hảo, dân có tới xin bắt chim cò, mà cá nhân viên ban Hội Tề lân cận như Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Bình Thạnh Đông, Tân Huề, Phú An cũng đến xin như vậy. Trước sau tôi đều nhứt nhứt không cho. Tôi nghĩ chắc có số người nào đó, bởi tôi không thỏa mãn yêu cầu ấy mà họ đến nhờ quan Quận cho người đến bắt cò mở đường trước cho họ tấn tới chăng?
Quan Quận nghĩ coi, bấy lâu nay lũ cò mẹ, cò con đều tin tưởng sự che chở của tôi, bỗng hôm nay tôi thuận để cho quan Quận bắn giết chúng nó, thì hóa ra tôi gạt gẫm bầy cò tới cho đông để rồi cho người vào sát hại như vậy. Đối với chúng chim cò là tôi bất tín, còn đối với người làng nước là tôi bất uy. Vì từ đầu chí cuối, ai đến yêu cầu vào vườn sau bắn tôi cũng đã từ khước hết kia mà. Thưa quan Quận, theo tôi nghĩ Ngài muốn ăn mỹ vị cao lương gì mà chẳng được, không thiếu món chi. Thế mà cần chi thịt cò, rất tanh hôi tầm thường ấy.
Nói tới đây ông ngưng nghỉ. Viên chủ quận chưa tha còn dài dòng lý sự:
– Thưa bác Cả, tôi nghe loài chim cò săn được đem nhổ sạch lông rồi ram, đem ướp vị, nướng cho vàng, rồi mỗi người một con, rứt thịt mà ăn từ ngoài tới trong. Nhậu rượu thú vị lắm. Hôm nào nhờ bác Cả cho bắn một mớ để làm mồi uống rượu chơi, xin bác vui lòng.
Thấy thái độ cương quyết của quan chủ Quận Đức Ông mới trả lời:
– Thưa quan chủ Quận, những nỗi khó khăn nơi lòng tôi, như tôi đã vừa cạn tỏ. Nếu quan Quận quyết ý, thì ngài lấy tư cách chủ Quận, cứ đến đó muốn bao nhiêu tùy ý. Sau đó Đức Ông ra về.
Chỉ mấy bữa sau, một buổi sáng vào khoảng 8 hay 9 giờ, một chiếc xe hơi từ Tân Châu đến ngừng trước nhà Đức Ông. Có hai nhân viên xuống xe định vào gặp ông Cả để trình lịnh chủ Quận, xin bắn cò. Ông cả đi vắng, họ gặp bà Cả và nói:
– Thưa bà Cả, chúng tôi xin trình lịnh quan chủ Quận xin bắn cò. Nay ông đi vắng, xin bà trao lịnh nầy đến ông Cả. Đoạn hai người ra xe nay nịt bì đạn, súng trường rồi đi thẳng vào sau vườn.
Hai người chưa ra tới vườn, bỗng họ gặp một trang thiếu niên, dáng mạo khôi ngô, tráng kiện khác thường. Đó là Đức Thầy, Ngài đứng giữa lối đi, chận hai người lại và ôn tồn hỏi:
– Hai ông phải là người trên quận bảo xuống bắn cò chăng?
Một trong hai người đáp:
– Phải. Rồi hỏi lại:
– Cậu đây có phải Cậu Tư con bác Cả không? Đức Thầy đáp:
– Phải.
Và Ngài nói tiếp:
– Tôi nhận thấy hai ông tiền căn có chút duyên với Phật, nên vì hai ông mà tôi khuyên đây. Mặc dầu hôm nay hai ông thi hành lịnh trên làm việc sát sanh, nhưng thảo nào tránh khỏi ngày cộng nghiệp do luật nhơn quả bất di bất dịch, hai ông sao không nghĩ câu: Nhơn vật dử đồng của cổ nhân. Đây là đồng tình thương, cùng một bản giác. Nếu con người có tình thương vợ chồng, thì loài chim chóc, cò diệt, chúng cũng có tình trống mái ấp yêu. Nếu con người biết ham sống sợ chết, thì chúng cầm, điểu cũng đồng như ta vậy. Nay hai ông có thấy không? Loài điểu thú cũng ấp yêu đẻ trứng nở con, lớp trưởng thành hình vóc, lớp mới nở, lớp ra ràn. Nếu hai ông bắn giết mẹ cha chúng nó, chồng hoặc vợ chúng nó rồi, hai ông hãy hình dung cảnh chia ly, tử biệt, con mất cha, vợ mất chồng. Rồi đến cái chết dần mòn thê thảm của ổ trứng hoặc của đoàn con thơ dại như thế nào? Chắc hai ông thừa hiểu, khi vợ hoặc chồng, khi mẹ hay cha chúng bị giết hại rồi thì trứng sắp nở kia cũng bị ung thúi, chim cò non thì phải chết đói, chết khô rũ xác tiêu hình. Các ông bắn giết một hai con thì sẽ chết theo năm bảy con khác, hoặc đến nguyên cả tổ, cả đàn chim vô tội, thử coi cái cảnh bi thảm là dường nào? Thế thì tại sao nỡ đành lòng, chỉ vì miếng ăn mà sát sanh hại mạng.
Hai tay xạ thủ nãy giờ đứng yên nghe Đức Thầy nói tới đó, thấy đầu óc có vẻ bồi hồi cảm động. Mắt họ đăm chiêu nhìn xuống, tỏ ra rất tư lự.
Bỗng một anh nói:
– Thưa Cậu Tư, lời cậu vừa khuyên thật là quí báu, song bổn phận chúng tôi hôm nay chẳng gì hơn là phải săn cho được thịt cò để mà về phục lịnh trên. Xin Cậu Tư biết cho hoàn cảnh nầy của chúng tôi.
Tiếp theo đó hai bóng người lầm lũi tiến bước. Đức Thầy cũng bước từng bước, Ngài vừa đi vừa nói:
– Tôi vì tình thương mà phải nói, hai ông vì bổn phận mà phải làm. Do đó tôi báo cho hai ông biết trước, hai ông sẽ bắn không được con cò nào đâu!
Kế Ngài rẽ qua lối khác trong vườn vào nhà. Câu nói đó của Đức Thầy khiến cho hai xạ thủ đều sanh nghi, vừa rảo bước chân, một anh nói nhỏ với bạn mình:
– Nghe người ta bảo Cậu Tư đang lên cơn thì phải? Người kia đáp:
– Anh thấy chưa, chim cò đông đặc, chúng sống chen chút như thế nầy. Thứ súng nhạy và đạn chày nầy nổ ra một phát thì chúng sẽ chết hàng lũ hàng đàn. Vậy mà cậu ấy nói bắn không được, đó chẳng phải là lên cơn sao?
Lúc bấy giờ hai tay xạ thủ quả đang thấy tận mắt, cò đứng đó đây dẫy đầy trên các bụi tre, lớp lớp điệp trùng, ổ trứng không đếm xuể. Có điều rất lạ là chúng chẳng hề biết sợ người, chúng tỏ ra rất tự nhiên, mặc cho loài người xuất hiện, lướt xông đến tận sào huyệt chúng. Cả hai đều đinh ninh rằng chỉ nổ ra một phát đạn, ít ra cũng lượm hàng chục con mồi. Chuẩn bị xong đâu đó, họ liền cho nổ phát súng đầu.
Đùng … ùng … ùng … làm vang động cả khu vườn xưa nay có tiếng yên tĩnh nhứt. Đàn cò nghe động đột ngột nhứt tề chúng bay bổng lên không trung. Chúng bay đi lượn lại, kế rồi dần dần đáp xuống chỗ cũ, không thấy con nào bỏ tổ bay đi loạn hàng bỏ ngũ. Quan sát kỹ, hai anh quả chẳng tìm thấy và không lượm được một con cò trống mái nào. Thế có lạ không?
Sau đó tiếng đùng … ùng … ùng … thứ hai, rồi thứ ba kế tiếp.
Thật kỳ lạ, từ phát súng đầu cũng như phát súng cuối cùng, hễ sau tiếng nổ thì đàn cò lập tức bay lên, và hễ dứt tiếng nổ một tí thì chúng bay về y tổ cũ, tuyệt nhiên không có con nào bị đạn, thọ thương. Có điều lạ hơn nữa là hễ góc vườn nào bị bắn có tiếng nổ thì lũ cò bay lên đáp xuống. Chổ khác không nhắm tới thì thấy con nào con nấy tỏ ra bình thản xem như không có gì xẩy ra. Hai ngươi trước sau đã làm tiêu hao hết mười mấy viên đạn trong số mười tám viên đã lãnh, thế mà chẳng hề lượm bắt được con mồi nào, thế mới lạ. Không biết làm sao hơn, cả hai xạ thủ đều thất vọng não nề, đành mang súng dài với viên đạn cuối cùng lủi thủi ra xe.
Họ bàn nhỏ với nhau, phải chi nghe lời Cậu Tư không bắn từ đầu, bì đạn còn, rất dễ phục lịnh cấp trên. Giờ thì đạn đã hết, mà không lượm được chim cò gì, thất bại sẽ về ăn nói làm sao? Thế nào cũng bị quở trách nặng nề.
Khi cả hai tiến bước ra đường cái, bỗng Đức Thầy đi đến Ngài hỏi:
– Hai ông có biết tại sao bữa nay bắn chẳng được cò chăng?
Thấy cả hai đang lúng túng chưa tìm được câu đáp, Ngài liền tiếp:
– Hai ông có duyên lành kiếp trước nên gặp may mắn, nên khi lãnh mười mấy viên đạn, song chỉ một viên đạn thiệt mà thôi, còn bao nhiêu là đạn giả cả. Cho nên bắn chẳng được chim cò. Từ này về sau đừng lãnh việc sát sanh nữa! Nếu lãnh được đạn thiệt thì ôi thôi cái cảnh đoạn trường, giết mẹ bỏ con, chồng xa vợ, vợ bỏ chồng, tội ác ấy chừng nào mới hết.
Thế là hai xạ thủ được nghe Đức Thầy thuyết về luật nhân quả một lần nữa. Trước những lời lẽ đầy hiền hòa nhơn ái của Đức Thầy, cả hai người đều thừ người ra như tượng gỗ. Thấy vậy Ngài giục thúc:
– Thôi hai ông cứ yên lòng, đừng quá lo phiền về việc vừa rồi không kết quả sẽ bị quở phạt. Không sao đâu, nếu thất bại về việc nầy sẽ thành công vào việc khác để bù lại. Gặp hoàn cảnh ấy thì ta nên nhớ câu: “Nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định” của người xưa vậy. Hai ông hãy về đi, hai người quên rồi sao? Giờ này mà về đến nơi là trễ giờ qui định rồi đó.
Tới đây hai người liền cúi chào Đức Thầy rồi bước ra chỗ xe đậu. Anh tài xế rất đỗi ngạc nhiên vì thấy cả hai nhà thiện xạ về tay không. Họ đã qua nhiều khâu chuẩn bị, phí cả buổi trời đi săn bắn. Theo tưởng tượng của người lái xe, sau những phát súng nổ vang dội, chắc chắn hai người lượm xác chim cò mang không xuể, đàng nầy hóa ra công dã tràng xe cát rồi.
Hai xạ thủ từ từ lên xe, họ nặng nề ngả người lên nệm êm, chậm rãi trả lời tài xế đang dồn dập hỏi lý do về không, tay trắng. Một anh nói trong não nề, thất vọng:
– Bữa nay dở quá, bắn hết đạn mà chẳng lượm được con cò nào.
Thế rồi anh tài xế rồ xe thẳng đường về Tân Châu, còn trong tâm trí của hai người kia thì đầy nỗi ưu tư. Họ linh cảm giờ nầy quan quận đang băn khoăn chờ đợi, chắc ông ấy đang sẵn sàng tổ chức các món phụ tùng để nhắm vào món chính là thịt cò, mà cò chim ở đâu đâu. Hơn nữa trong chuẩn bị, quan quận đã mời thực khách là những đại biểu của hương chức hội tề trong chín xã. Chương trình như có báo trước là sau vài tiếng đồng hồ bàn việc nước việc làng là tới giờ liên hoan hội ẩm, mà thịt cò chiên bơ là món đặc biệt hơn hết. Thế mà hai ta đi không về rồi, như thế nầy biết lấy chi mà đỡ đòn?
Trong khi cả hai đang miên man suy nghĩ, bỗng xe tới hồi trục trặc. Tài xế cho xe dừng lại, bước ra lục lạo buồng máy sửa chữa. Hai xạ thủ cũng xuống xe xả mát, coi lại nơi đây là trước đình thần Phú An. Thình lình có hai đứa trẻ từ sau đình chạy tới kêu nói:
Hai chú ơi! Hai chú có súng ra đây bắn hai con chim lớn quá kia kìa, chúng đang đậu ở cây sao đó.
Hai anh nghe báo mừng ra mặt, vội xách súng chạy ra, quả thấy hai con chim khoang cổ to đậu ở ngọn cây sao khá cao. Hai anh khoát tay bảo hai hứa trẻ vô ẩn ở dưới mái hiên đình, để mình kiếm chỗ khuất giấu mình ngắm nghía. Một anh nói vừa đủ nghe:
– Đã hết mười bảy viên không được con nào, giờ chỉ một viên độc nhứt, chắc gì bắn trúng mục tiêu.
Anh xạ thủ xách tòn ten con mồi chạy vào phủ đường, quan quận nãy giờ chờ đợi, thoáng thấy xe về, lên tiếng hỏi dồn dập:
– Cò đâu? Sao tụi bây lâu lắc quá, đã gần 11 giờ rồi, chỉ có hai con đó à?
Hương chức hội tề vừa tan hầu, mỗi ông một câu hỏi han rộn rịp, bầu không khí ồn ào thiếu ổn định. Hai xạ thủ trả lời ngắn gọn:
– Bắn cò chẳng đặng, chỉ được hai con nầy.
Một vị trong ban hội tề làng nào đó đưa ra một câu hấp dẫn góp phần xoa dịu bầu không khí đang căng thẳng. Câu nói của ông nầy vừa góp phần cứu vãn tình hình, cũng vừa khen ngợi cho vui:
– Thịt cò đâu bằng thịt chim khoang cổ. Nầy nhé, có mười con vịt Xiêm trống tơ cũng chưa đổi được cặp chim khoang cổ nầy, nhứt là bộ đồ lòng của nó đem xào chua uống rượu là tuyệt hảo.
Quả nhiên cặp khoang cổ đồng loạt hy sinh, chúng đã chết đúng lúc để góp phần cứu vãn tình thế. Bây giờ thay vì bị quan khiển trách tối đa thì bộ đồ lòng của cặp chim to lớn nầy trở thành món khai vị, làm phát pháo đầu cho bữa tiệc liên hoan hôm ấy. Rõ thật là rượu nồng thịt béo dễ gây phấn khởi trong lòng của bao thực khách lúc bấy giờ. Nhứt là hai xạ thủ đã tỏ ra bất tài, suýt hỏng việc lớn của quan ngài, đáng trách mà không bị quở phạt, trái lại họ còn được phép oang oang kể lại giữa tiệc về mẩu chuyện lạ họ vừa mục kích ở tận dưới làng Hòa Hảo cho quan đầu quận và đại biểu hương chức chín xã hội tề cùng nghe.
Món lòng chim khai vị cạn dần. Tiếp theo chương trình là món thịt chim khoang cổ xào lăng, gia vị bún, nắm, củ hành tiều thơm nức mũi. Buổi liên hoan vui nhộn diễn ra trong không khí cởi mở sôi động. Các quan chức vừa thưởng thức món chim rừng thêm có bồ đào mỹ tữu. Tất cả vừa thích thú nghe hai xạ thủ thi nhau kể chuyện dài dài. Hai anh luân phiên nhau kể lại từng chi tiết mà chính họ là vai thường trực từ giờ đầu cho tới phút cuối. Từ lúc gặp Cậu Tư Hòa Hảo, Cậu Tư đã khuyên can như thế nào, Cậu Tư nói tiên liệu những gì sắp đến, cuối cùng kết quả đưa tới đều y như lời báo trước, như có việc sắp xếp trước vậy. Lạ nhứt là đàn cò đông vô số mà chúng chỉ làm tổ sống tự nhiên trong phạm vi vườn nhà ông Cả Hòa Hảo mà thôi. Đến việc tốn hết mười mấy viên đạn mà chẳng lượm được con chim cò nào. Ly kỳ hơn nữa, ngẫu nhiên mà y như Đức Thầy cho biết trước rằng nếu thất bại việc nầy, bắn cò không kết quả, sẽ thành công việc khác. Hai người lấy làm thích thú quay lại cuốn phim vừa diễn ra ban sáng ở làng Hòa Hảo, không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Trong buổi liên hoan ai cũng chăm chú theo dõi. Trong số thính giả hôm ấy, có ông Đào Thành Đô, Hương cả làng Tân An là ít ăn thịt uống rượu hơn hết, và ông đã lắng nghe câu chuyện một cách say mê. Hai anh xạ thủ vừa kể hết câu chuyện làm cho thính giả đều ngạc nhiên, cho là việc chưa từng có. Mọi người đều miên man suy nghĩ. Riêng quan chủ quận Tân Châu, người chủ trì buổi liên hoan hôm ấy thì tỏ ra dửng dưng. Chắc ở tận đáy lòng ông quận không khỏi gợn lên một sự sỉ hổ, bởi ông không đạt được ý muốn ban đầu mà ông đã dùng quyền uy quá đáng, có lẽ bất công đối với vị Hương Cả ở Hòa Hảo.
Thế là quan Quận lên tiếng kết thúc, vừa cũng để chữa nỗi thẹn thầm:
– Đối với tôi thì chỉ là một sự thường nên không lấy gì làm lạ, chẳng qua là phước chí tâm linh vậy thôi.
Bữa tiệc chưa tàn hẳn, vị Hương cả làng Tân An, cụ Đào Thành Đô đã cáo say. Thật ra trong bữa tiệc cụ ít ăn uống. Xuống ghe hầu về làng, mang theo tâm sự miên man, suy nghĩ nhiều chuyện lạ ở Hòa Hảo mà cụ vừa được nghe kể lại.
Thuật theo lời của ông Lê văn Phú tự Tho.
PHẦN NHẬN XÉT:
Theo tài liệu Phật học, thì mỗi khi Phật lâm phàm để hóa độ chúng sanh trong thời niên thiếu đều có lộ từ bi. Chính Đức Phật Thích Ca xưa kia cũng thế. Đó là báo hiệu cho chúng sanh biết Phật sẽ ra đời, cứu độ chúng sanh thoát khổ.
Về việc đàn cò, nhận xét cốt truyện nầy có ba ý chánh:
1- Đức Ông với Bi, Trí, Dũng.
2- Đức Thầy với việc chúng sanh ăn nuốt chúng sanh.
3- Cứu đàn cò thoát chết có ý chi?
Đức Ông đối với Bi Trí Dũng trong thời kỳ đạo đức đang xuống dốc, con người cứ trụy lạc hoan chơi, rượu chè, cờ bạc, chơi bời, không phải riêng một ai, mà đâu đâu cũng thế, lúc ấy ở Hòa Hảo có ông Cả khác thường. Khi đàn cò đến làm ổ trùng điệp, nào là trứng cò, cò con, cò mẹ, sao không bắt hoặc hốt trứng mà ăn? Trái lại còn đùm bọc, chở che nhiệt liệt.
Đứng về đạo đức mà xét, ta thấy Đức Ông đã thể hiện đức Bi. Hơn nữa thời nầy là thời Pháp thuộc, thế lực đang thịnh hành, nên ai có quyền thế thì người ta tìm cách để cầu thân. Trái lại quan chủ quận Tân Châu xin bắn cò, mà cò là loài chim rừng thế mà Đức Ông dùng tài lưu loát để khuyên can ông Quận đừng ăn thịt cò, là Đức Ông đã có đức trí.
Ở vào thời Pháp thuộc tức nhiên chức vụ quan chủ quận là người có quyền sinh sát nằm trong tay, nếu ai nghịch lại ý muốn của họ, người đó coi như là xấu số. Thế mà Đức Ông lại được quan quận thành khẩn tới hai lần, nhưng ông vẫn không cho. Đó là: “Uy vũ bất năng khuất”, ấy là đức Dũng.
Lòng từ bi của Đức Thầy, khi thấy chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau. Bởi vô minh che mờ tâm trí, nên chúng sanh cứ vì miếng ngon thịt béo mà sát giết lẫn nhau, để rồi phải chịu sự luân chuyển xuống lên mà trả nợ nần, nên phải tiếp nối cái khổ triền miên theo bánh xe Lục Đạo. Thật đúng với lời của Đức Thầy cho biết rằng:
Chuyển luân trong nhân vật các loài,
Căn mờ ám làm điều dại dột.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Bởi thế Phật mới biểu lộ từ bi. Mặc dù chưa tới thời kỳ khai cơ lập giáo, nhưng cũng đánh dấu cho chúng sanh biết là đã có Phật ra đời để cứu khổ.
Cứu đàn cò thoát chết có ý chi? Có rất nhiều ý, nhưng chúng tôi xin dẫn ba ý chính:
a- Ý thứ nhứt: Xét nhận linh tánh con người và vạn vật, căn cứ theo nhân sinh luận và tâm linh học thì loài người linh hơn vạn vật, đều đó ai ai cũng công nhận. Nhưng cũng có cái ta thua chúng. Bằng chứng vào thời hạn hán chỉ nghe tiếng con ếch kêu ta biết trời sắp mưa, quả thật có vậy. Loài kiến cũng biết tha trứng dời chỗ ở khi sắp có nước lũ. Chim hồng, chim nhạn cũng biết vầy đàn dời chỗ khi tiết trời sắp đổi. Thế thì chúng ta thua chúng nó rồi, vì chúng nó biết trước mà chúng ta chưa biết. Vậy đàn cò cũng thế, sở dĩ chúng lũ lượt kéo đến làm ổ tại vườn Đức Ông là vì chúng đã biết nơi đây đã có Phật ra đời, kéo đến làm ổ mà không sợ một ai. Vì nương theo hồng đức của bực Lưỡng Túc Tôn che chở cho chúng được an toàn, nên khi bị bắn chúng vẫn bình tĩnh an nhiên không bao giờ sợ hãi. Như vậy mới năm 1933 mà chúng đã biết có Phật ra đời tại nhà Đức Ông rồi, nên mới kéo đến mà nhờ sự đùm bọc che chở của bậc Đại Giác Ngộ. Còn ta phải đợi đến năm 1939, được Thầy mở Đạo Thuyết pháp ta mới biết mà quy y. Như vậy ta thua chúng rồi, vì chúng biết trước mà ta không biết.
b- Ý thứ nhì: Để cho người vững niềm tin, bởi loài cò là giống chim muôn mà còn được Phật bảo bọc an toàn. Huống chi là loài người, nếu chịu làm đúng theo Thánh giáo của Ngài thì tin chắc sẽ được Phật lực gia hộ vạn bội lần như thế nữa.
c- Biểu lộ vạn năng: Ở vao thời kỳ cuối của buổi hạ nguơn nầy, nền văn minh khoa học họ đủ sức tiêu diệt loài người, nhưng Đức Thầy đã ung dung cho biết là:
Đầu ngưỡng vọng đất trời minh chứng,
Tấm lòng thành quyết dựng đạo đời.
(Thu Đã Cuối)
Vậy dựng Đạo lập Đời do sắc lịnh của Phật và Trời để chấm dứt cái Nguơn đen tối bạo tàn nầy mà lập lại cái Nguơn trong lành và toàn thiện. Nên khi vâng sắc lịnh lâm phàm, Ngài đã hé lộ huyền cơ qua nhiều nơi trong Sấm Thi của Ngài không sao tả xiết. Như là:
Trần thế lợi danh giấc mộng tràng,
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,
Tầm đấng hiền từ cứu thế gian.
(Lộ Chút Huyền Cơ)
Vậy nếu là người trí, thì nên hết lòng tuân thủ giới quy, kiên tâm tu tiến, dù gặp cảnh thiên nan vạn khổ chớ nên nãn chí nao lòng. Bởi Ngài đã báo cho ta biết trước là:
Ra kệ nầy hai chữ Bảo An,
Cho trần thế được tâm thanh tịnh.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Vậy Bảo là bảo bọc che chở, còn An là an toàn mọi sự. Đức Thầy chúng ta là Phật nên có đủ đức độ vạn năng để bảo bọc che chở cho ai là người thiệt tâm tu sửa. Vậy chúng ta hãy vững niềm tin mà nghe lời chỉ dạy của Ngài để được bao bọc che chở an toàn mọi sự để tiến đến chỗ thanh tịnh giải thoát.

Mẩu chuyện thứ 27

PHẬT, LÃO, NHO

Ông Cả Đào Thành Đô, Hương cả làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc là một nhà nho uyên thâm. Ông cả Đô nặng lòng ái quốc ưu dân, gặp cảnh nước mất nhà tan, ông luôn thao thức trước tiền đồ Tổ Quốc. Ông mượn chức vị Hương cả, đứng đầu Ban hội Tề làng Tân An làm bình phong để tiện bề hoạt động theo ý muốn. Ông cả có sắm chiếc ghe hầu bốn bổ chèo. Khi có việc lên quan xuống huyện, ông xuống ghe bảo gia nhân chèo đưa ông đi. Ông mượn phương tiện nầy chu du khắp Hậu giang, Tiền giang để tìm người tri âm, tri kỷ. Ông cả chẳng những thông suốt Tứ Thư, Ngũ Kinh của Khổng Mạnh mà còn am hiểu về đạo Phật, đạo Lão nữa. Sĩ phu trong vùng đều nghe danh ông Cả. Ông thường lui tới vấn đáp họa thơ với các nhà nho như Năm Di, Bảy Hinh v.. .v.. .
Ngày kia ông Cả nghe Đức Thầy mở Đạo dạy đời ở Hòa Hảo. Đức Thầy có biệt tài trị bịnh bằng giấy vàng nước lã mà bịnh chi cũng lành. Ngài cũng có đặc tài cải tử huờn sanh, làm chấn động y giới lúc bấy giờ.
Ông cả Đô nhớ lại giữa thế kỷ trước, tức thế kỷ mười chín, ở miền Tây Nam Việt nầy đã có Đức Phật Thầy Tây An cứu đời, cũng bằng phương pháp tương tợ như Đức Thầy đang áp dụng ngày nay. Cùng với chuyện lạ ở làng Hòa Hảo mà ông được nghe từ bữa tiệc liên hoan có thịt chim ở quận đường Tân Châu, nên ông quyết đến Hòa Hảo để dò xem hư thực.
Chỉ mới lần đầu đến yết kiến Đức Thầy mà Ngài tỏ ra am hiểu nhiều về ông Cả. Ngài ôn tồn nói:
– Mừng ông Cả Tân An mới đến, mời ông ngồi.
Nếu ai để ý một chút cũng đều thấy Đức Thầy bình đẳng tuyệt đối. Với bất cứ ai cũng vậy, Ngài không chút gì tỏ ra kẻ trọng người khinh, Ngài đối xử giống nhau với hết thảy mọi người đến viếng Ngài. Có điều đặc biệt là gặp ai Ngài cũng biết tất cả, biết rõ họ tên và chỗ ở nữa. Đức Thầy tiếp tục hoằng Pháp độ sanh, trong hàng thính giả bây gờ có thêm ông Đào Thành Đô. Ông cả làng Tân An cũng chú ý ngồi nghe Đức Thầy Thuyết Đạo mà quên mõi mệt, và ông nghĩ rằng bình sinh mình chưa từng gặp Thiền sư hoặc Pháp sư nào có biện tài như Đức Thầy. Thật là danh bất hư truyền.
Về Nhơn đạo, Ngài khuyên ai nấy học theo Khổng Mạnh, cư xử với nhau. Trai thì giữ trung hiếu, gái thì lo tròn tiết hạnh. Đức Thầy chỉ dạy một cách rành mạch lớp lang làm cho ông Đào rất khâm phục. Có lúc ông Đào muốn đứng lên vỗ tay hoan hô tán thán lời Thuyết Pháp lỗi lạc của Đức Thầy, nhưng ông Đào trấn tĩnh ngồi yên theo dõi. Kế Đức Thầy tạm ngưng thuyết Pháp, Ngài xoay sang trị bịnh, bởi lúc bấy giờ có lắm bệnh nhơn chờ đợi thôi kể sao cho xiết.
Bịnh thì ung thư nội ngoại, người đau gan kẻ lại đau tim, đau huyết vận, thổ tả, loạn thần kinh cũng có, lắm bịnh đã đi tới Bác sĩ, các danh y đương thời đều cho là nan y. Thế mà khi chở đến Đức Thầy chỉ dùng giấy vàng, nước lã cho bịnh nhơn uống, kỳ diệu thay, hết thảy đều được Ngài cứu khỏi, được lành mạnh rồi về nhà.
Có lần Đức Thầy nói:
– Có bà con cho rằng tôi lên cơn khùng, người đời nói thế cũng phải. Bởi trước cảnh chết của chúng sanh sông máu, núi xương, tôi biết mà không khùng sao được. Vậy tôi cũng nên nói tiếp chuyện tôi phát khùng, rồi mùa Thu năm nay (1939) bắt đầu trên thế giới từ Âu sang Á, vì danh lợi mà nhơn loại tương tranh chủ nghĩa, họ gây ra cảnh máu đổ thịt rơi, cha lìa con, vợ mất chồng, đệ huynh ly tán, cảnh tóc tang bi thảm, kể sao cho xiết.
Ngài ngâm một đoạn Sấm giảng:
Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng Rồng Rắn máu đào chỉnh ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mời ngưng.
(Quyển 1Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm)
Đức Thầy nói thêm:
– Bà con nên biết, đến đó canh khuya gà gáy chiến tranh tạm ngưng chứ chưa dứt. Ấy cũng bởi nhân háo sát nên phải chịu quả tận tiêu, và khi lòng từ bi của Phật Tổ nơi cõi trung ương cho Phật mở đạo cứu đời, thì đồng thời cũng cho mở bốn cửa Trời, sai hung tinh xuống thế tạo ra các thứ dữ để tiêu diệt kẻ hung. Bởi đó họ ngưng tiểu chiến tranh để chuẩn bị đại chiến tranh. Hẳn bà con còn nhớ chuyện Phong Thần, khi trận Tru Tiên kết liễu, chết tất cả là bao nhiêu, nhưng phải đợi đến trận Vạn Tiên, cái chết ôi thôi vô số. Đến đó mới dứt cuộc đại loạn của thời mạt Thương, qua kỷ nguyên nhà Châu hưởng tám trăm năm an lạc.
Nói đến đây Ngài ngâm lên một đoạn kệ trong quyển thứ nhì:
Khắp thế giới cửa nhà tan nát,
Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu.
Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,
Nay tận diệt lập đời trở lại.
Khắp thế giới biến vi thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thương Nguơn.
(Quyển 2 Kệ Dân Của Người Khùng)
Đoạn Ngài thuyết tiếp:
– Bởi tôi biết cái chết của chúng sanh như thế, vì quá thương thảm cho chúng sanh mà tâm trí tôi dường thể điên khùng.
Kế Đức Thầy xoay qua ông cả Đô, Ngài hỏi:
– Ông Cả Tân An hôm nay muốn hỏi tôi về Lý Tâm Truyền của tôn giáo phải không?
Ông Đào chưa kịp nói thì Đức Thầy nói tiếp:
– Ông Cả nên biết, từ cổ chí kim, khi các vị Giáo chủ ra đời lập giáo đều có chủ thuyết của riêng mình. Muốn được truyền bá chủ thuyết ấy, theo không gian và thời gian bất diệt, gồm có ba yếu tố chính:
1- Phải được thầy khẩu truyền.
2- Phải được trợ tâm đắc.
3- Sau hết thầy mới tâm truyền.
Về Giáo chủ Phật đạo, do Đức Thích Ca Mâu Ni khai sáng, lấy chân không tịch diệt tức là Chánh Pháp Nhãn Tàng Niết Bàn Diệu Tâm làm Tông. Trước khi tịch diệt, Phật Tổ truyền cho Ca Diếp tại Linh Thứu Sơn. Sau đó Ca Diếp truyền xuống ba mươi hai đời Tổ do đó mà đạo Phật trải qua hơn hai ngàn năm rồi mà vẫn còn được thạnh hành.
Đức Thầy giảng tiếp:
– Về Giáo chủ Đạo Tiên là do Lão Tử mở đầu. Trong thời của Ngài, đạo lấy Hư Vô Thanh Tịnh làm Tông, nhưng vì thiếu tín đồ tâm đắc, nên Ngài Lão tử phải truyền qua văn tự, viết bộ Đạo Đức Kinh trên năm ngàn lời. Cho đến một trăm năm sau, Trang Tử học Đạo Đức Kinh được tâm đắc, sẽ được tâm truyền. Trang tử đã làm cho Lão Tử học thuyết vang tiếng một thời và được truyền mãi mãi đến ngày nay.
Kế Đức Thầy thuyết về Đạo Nho:
– Về Giáo chủ Đạo Nho, do Khổng Tử chủ trương, lấy Nhất Quán làm chánh Tông. Phu Tử truyền cho Tăng Sâm, Tăng Sâm mới truyền cho Khổng Cấp là con Khổng Lý, tức cháu nội Đức Khổng Tử. Khổng Cấp tâm truyền cho Mạnh Kha tức Mạnh Tử, do đó mà Đạo Nho được truyền bá cho đến ngày nay.
Đến đây Đức Thầy tạm ngưng để dùng bữa. Trong hàng thính giả hôm ấy được dịp bàn tán sôi nổi, họ thầm phục tài biết nhiều hiểu rộng của Đức Thầy, bởi Ngài chỉ có hai mươi mốt tuổi đời, mà bác lãm quần thơ, suốt thông Tam Giáo. Cuối cùng ai cũng nhận Đức Thầy là bậc Sanh Nhi Tri.
Riêng ông cả Đào Thành Đô, từ khi được Đức Thầy gọi cho tới khi Ngài dứt lời để dùng cơm, ông Đào dường như bị phép định thân, ông ngồi yên như một pho tượng, cho đến khi số người nghe Pháp ra về gần hết, bấy giờ ông Cả mới đứng lên đi thẳng xuống ghe hầu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ông cả Đô tuy là một nhà Bác Lãm Nho Gia, nhưng khi diện kiến Đức Thầy, được nghe lời thuyết giảng của Ngài cũng phải hết lòng kính phục. Mà không phục làm sao được? Xưa nay người chuyên học Phật thì rành Đạo Phật, người học Nho thì am hiểu về nho là lẽ thường của thế sự, nhưng ở đây Đức Giáo Chủ lại khác hẳn với kẻ phàm tình. Nghĩa là Bác Học Nhi Tri, quán thông mọi lẽ. Chẳng những quán thông mọi lẽ theo thế trí biện thông của hàng hữu học, mà lại còn thấu triệt cơ huyền cả vũ trụ càn khôn. Nếu không phải là Phật thì còn ai mà bác lãm như thế nầy? Đọc qua về chữ Khùng mà Ngài đã đề cập đến, ta thấy chỉ có lòng từ bi của bậc Đại Giác mới có tình thương sâu rộng thế kia. Tu hàng nhị thừa cũng không có được đức từ bi thế ấy. Điểm nầy Ngài cũng biểu lộ ở câu:
Thương quá sức bắt cuồng tâm não,
Quyết cứu đời dùng Đạo phổ thông.
(Đến làng Nhơn Nghĩa)
Về việc tiên tri của Ngài, ta thấy ở quyển Nhứt (1939), khởi đầu Đệ Nhị Thế Chiến năm Mèo cho tới hai quả bom Nguyên tử của Đồng minh dội xuống nước Nhựt để chấm dứt chiến cuộc ở tháng Tám năm Dậu:
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
(Sấm Giảng Quyển 1)
Đây chỉ mới ngưng mà thôi, sau cuộc tổng kê con số chết của cuộc chiến hai phe Đồng Minh và Phát Xít từ năm Mẹo tới năm Dậu, nghĩa là từ đầu đến cuối Đệ Nhị Thế Chiến, con số chết trên năm mươi triệu dân:
Lật qua các báo mà coi,
Thấy con số chết có mòi kinh nguy.
(Khuyến Nông)
Nhưng Ngài còn cho biết thêm, đó chỉ là tiểu thế chiến mà thôi. Bởi cơ tận diệt của Lý Tam Nguơn, thì đây khúc cuối của Hạ Nguơn, nên phải có một cuộc tẩy trần để lập lại Thượng Nguơn Thánh Đức. Để sáng tỏ vấn đề hơn, Ngài còn cho biết, vào cuối đời Thương khi chư Tiên lập Bảng Phong Thần, chỉ nội trận Tru Tiên mà chết vô số kể. Thế mà còn chưa hết, phải chờ đến khi Thông Thiên Giáo Chủ lập trận Vạn Tiên, con số chết còn thê thảm gấp mấy lần. Bấy giờ Hồng Quân Lão Tổ mới ra cứu vớt và chấm dứt chiến cuộc đời Phong Thần.
Đọc chuyện trên ta thấy cơ nghiệp của nhà Châu được dựng chỉ có tám trăm năm mà còn phải trải qua một cuộc chết chóc hãi hùng, huống chi đây là cuộc Đại Tam Tai của buổi tận Hạ Nguơn, lọc lừa người hiền trở về với nguơn Thánh Đức, đâu phải là chuyện tầm thường. Nhưng có điều rất hân hạnh cho ta là, chúng ta đã được Đức Thầy vâng sắc lịnh của hai vị Phật Tổ lâm phàm, đã báo trước cho ta biết rằng đây sắp đến ngày tận diệt, những tai họa hãi hùng và chỉ đường cho ta thoát khổ, mà con đường đó là con đường thẳng, tắt dễ đi, đó là đường về Tịnh Độ, đường an lành xác thể, dầu sóng gió dập dồn.
Thời giờ có hạn, chúng tôi xin miễn bàn việc truyền giáo của Khổng Mạnh và Lão Trang, mà chỉ kết thúc lại ở ba yếu tố căn bản mà mỗi người học đạo nào cũng phải được mới đạt đến kết quả hoàn mãn:
1- Được khẩu truyền.
2- Tâm đắc.
3- Mới được Thầy tâm truyền.
Chúng ta hãy bình tâm mà xét lại, về khẩu truyền thì hiện nay mỗi người chúng ta tuy không trực kiến với Đức Thầy để lãnh lấy khẩu giáo của Minh Sư, nhưng cũng được phúc duyên mà tiếp nhận toàn bộ giáo lý của Ngài, thì đó là ta đều được tiếp nhận khẩu truyền của Ngài rồi đấy.
Tâm đắc, về điểm nầy nó thuộc bản tâm, nên phải đòi hỏi ở mỗi bản ngã tự mình biết lấy, nghĩa là khi mình học giáo lý của Thầy mình thì tự tiếp nhận và trau sửa được những gì. Nếu điều nào chưa làm được thì phải nổ lực thiệt thi cho bằng được ở bản tâm mình. Nếu được hai điều ấy rồi thì sẽ kết quả là Thầy mình tâm truyền cho mình vậy. Cũng như Phật Thích Ca đã tâm truyền cho Tổ Ca Diếp, và Tổ Ca Diếp tâm truyền cho Tổ A Nan.
Tóm lại học Giáo lý là khẩu truyền và hành Đạo là Tâm Đắc, mà được Thầy Tâm Truyền thì kết quả chứng đắc vậy.

Mẩu chuyện thứ 28

CÙNG MỘT SỰ ĂN

Lúc Đức Thầy đang lưu trú nơi tư gia ông Võ Mậu Thạnh, tại xã Nhơn Nghĩa Cần Thơ. Có ông Sáu Viên một tín đồ từ Long Xuyên đến viếng thăm Đức Thầy, tiện việc, ông Viên bạch hỏi Thầy về sự ăn uống của người tu ra sao?
Đức Thầy bèn giảng cho ông Viên nghe:
– Sự ăn uống là giúp cho cơ thể mạnh khỏe hầu thi hành việc đạo nghĩa. Thân xác ví dụ như chiếc xe, cơm là xăng, vật thực là nhớt. Xe có xăng nhớt chạy mới được. Xe chạy bằng xăng nhớt, nếu nói rượu là quí, đem đổ vào thì xe chết máy. Thịt của các loài cá thì nặng nên chìm, song mau tiêu, còn thịt của các loài thú có dầu mở nên nổi, nhưng lâu tiêu. Ông xét coi món gì mau tiêu và ít tội thì cứ dùng. Nên nhớ rằng: Ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn, và người tu không nên chấp thức ăn ngon dở, nhiều ít, hoặc chú tâm đến các thức ăn trước khi dùng. Cũng như hiện giờ là mười giờ, tôi khỏi cần biết lát nữa đây ông Hương Bộ cho tôi ăn món gì.
Được nghe lời Thánh huấn ấy, ông Viên rất vui mừng, cởi mở, và ghi nhớ mãi trong tâm tư.
Thuật theo lời ông Sáu Viên.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời dạy sáng suốt của Đức Thầy như một huấn từ của bà mẹ thân yêu. Thật vậy tuy cái ăn nó là sự sinh hoạt rất tầm thường, ai cũng phải nhờ nó mới sống được, nhưng nếu người không biết làm chủ được cái ăn thì cái ăn là thứ trở ngại không nhỏ đối với con người. Xưa nay kẻ tiểu nhơn thường đặt cho sự ăn làm quan trọng, nên họ vì cái ăn sanh oán sanh thù, vì cái ăn mà không màng tới lẽ phải trái nghĩa nhân, vì cái ăn mà họ không từ chối những điều tội ác, nếu có ai làm mất món ăn thích khẩu của họ, họ sẽ không ngần ngại để cho ngọn lửa sâu độc phóng ra, đôi khi đến chỗ nồi da xáo thịt, tương sát tương tàn.
Đối với Giáo lý của nhà Phật thì cái ăn là một trong năm món dục lạc, chướng ngại cho kẻ tu hành, nếu không biết điều phục nó. Xưa nay người được coi là tu hành chính chắn thì lúc nào họ cũng không quan trọng món ăn và luôn gìn lòng vị tha xả kỷ. Xưa Tôn Giả Ca Thiên Diên chỉ dùng phương cách ăn uống của Ngài mà hóa độ được Ác Sanh Vương là ông vua đầy gian ác.
Ai có từng theo chơn Đức Thầy trong thời gian vân du hóa chúng, đều nhận thấy ở nơi Ngài rất đầy đủ đức độ qua sự ăn uống. Chẳng những Ngài không chú trọng mặc đẹp, ăn ngon, lại còn vì chúng sanh mà ban tình thương cho các loài vật nhỏ. Bởi vì: “Muôn loài đều có đạo, chớ sát hại loài nào”, lời của Đức Lục Tổ.
Câu nói của Đức Thầy: “Ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn”, có một giá trị tuyệt đối. Nếu ai biết áp dụng câu nầy thì người ấy nhất định sẽ là người tốt đẹp đối với xã hội nhơn quần, hay nói một cách khác là họ cũng một bậc hiền nhân quân tử.
Muốn cho tín đồ lấy trí mà xét được việc tội phước của mình, nó ảnh hưởng rất lớn trong cái ăn. Thay vì khuyên hạn chế việc sát sanh để tránh bớt điều tội lỗi thì Ngài mách khéo cho tín đồ biết rằng: “Xét coi món gì ăn vào mau tiêu và ít tội lỗi thì cứ dùng”.
Cao quý thay lời từ huấn của đấng cha lành, không phải chỉ để dạy riêng ông Sáu Viên mà chúng ta đều có diễm phúc được học theo kim ngôn ngọc ngữ nầy, để áp dụng cho mình, nhứt định sẽ trở nên một con người cao đẹp và hưởng quả phúc tốt tươi ở tương lai.

Mẩu chuyện thứ 29

LÒNG QUẢNG ĐẠI

Năm Đinh Hợi (1947) Đức Thầy về Phú Thành, ngày 14 tháng 2 Âm lịch, lúc 10 giờ đêm tại nhà Hương Chủ Bộ. Thầy tỏ ra cử chỉ băn khoăn không vui. Thầy hỏi tôi và tướng Nguyễn Giác Ngộ rằng:
– Mấy người thù Việt Minh không?
Tôi và ông Nguyễn làm thinh không dám trả lời. Thầy tiếp:
– Thôi thù làm chi, lỡ mình với họ xô xát với nhau, chết một mớ ít, mình cũng nên bỏ qua. Đó chẳng qua là duyên nghiệp với nhau, nếu thù mà xô xát với họ nữa càng chết nhiều thêm chớ có ích gì! Vì mình là nhà cách mạng từ bi, bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ, mềm mỏng dẻo dai, dung hòa nhẫn nại để thu phục nhơn tâm họ. Đến chừng tôi trở về bọn họ theo mình hết trơn.
Tới câu Thầy nói Thầy trở về Thầy chỉ ra oai ra lịnh. Lúc ấy tôi nghe Thầy nói: “Đến ngày Thầy trở về”, tôi lấy làm lạ, tôi liền lập tâm hỏi Thầy thì Thầy nói tiếp thêm nhiều vấn đề. Rồi Thầy đi tới đi lui tỏ ra không yên tâm. Đúng 12 giờ khuya tôi bạch với Thầy lúc ra về. Đức Thầy vịn vai bên trái của tôi cùng đi chậm chậm một khúc đường, vừa đi vừa dặn dò công việc làm. Lúc ấy tôi còn nhớ, bỗng nhiên Đức Thầy dừng lại, buông vai tôi và bảo:
– Rán lo cho đoàn thể.
Khiến gì chừng đó tôi quên đi, không hỏi đặng một lời nào nữa. Bặt qua ngày 22 tháng 2 Nhuần năm Đinh Hợi (1947) Thầy đi hội nghị với Trần văn Nguyên và Bữu Vinh. Đến ngày 25 Thầy vắng mặt cho đến ngày hôm nay.
Viết theo lời ông Huỳnh Hữu Hạnh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lòng quảng đại của bậc Đại Giác Ngộ đối với chúng sanh lúc nào cũng ban tình thương sâu rộng, bởi có lòng Từ, Bi, Hỉ, Xả nên tha thứ hết những ai tối tăm lầm lỗi. Chẳng những tha thứ họ, mà còn vì họ mình chấp nhận mọi nỗi khó khăn khổ sở.
Xưa Đề Bà Đạt Đa quyết lòng hại Phật nhiều phen và Ương Quợt hành hung với Đức Thế Tôn, nhưng Ngài vẫn từ bi hóa độ. Và có một lần bọn Lục Sư ngoại đạo xúi đệ tử lập mưu hại Phật. Vì quá mê tín nên người ấy nghe theo. Một hôm hắn đào một cái hầm ở trước cửa nhà, rồi lấy chông nhọn cặm đầy ở dưới, phía trên y ngụy trang bằng một lớp đất thật mỏng, nằm trên lớp sậy, rồi y giả bộ thỉnh Phật đến cúng dường. Y còn ác tâm nấu đồ ăn để thuốc độc cho Đức Phật ăn. Nếu Phật đến nhà y tức phải đi qua hầm chông đó, sẽ bị rơi chết vì chông nhọn. Nếu Ngài có qua khỏi không chết, thì vào nhà cũng bị tử vì thuốc độc. Làm thế cho thỏa lòng ghen ghét của tên ngoại đạo là thầy của y.
Tuy biết rõ cái độc của ngoại đạo, Đức Phật chuẩn hứa sẽ đến nhà anh để hóa duyên. Khi Đức Phật đến thì hoa sen dưới hầm chông nổi lên đỡ chơn Ngài, tên ngoại đạo hoảng sợ, đến lạy Ngài xin sám hối. Đức Phật vào nhà, vợ tên ngoại đạo dọn cơm có thuốc độc để cúng dường Ngài, anh ta sợ Phật dùng phải độc dược liền cản lại:
– Bạch Đức Đại Bi Thế Tôn, xin Ngài nán lại giây lát, chờ con dâng cơm khác cho Ngài vì trong cơm nầy có thuốc độc. Bạch Ngài, xin Ngài chứng cho con sám hối, vì con là kẻ độc ác, mê muội vô cùng, xin lượng từ bi tha tội cho con. Đức Phật mĩm cười bảo:
– Không sao, thuốc độc chỉ hại người còn chứa tâm độc, còn Như Lai đã trừ sạch ba thứ ấy trước khi thành đạo dưới cội Bồ Đề, Thế nên thuốc độc không làm hại được Như Lai.
Nói xong Ngài an nhiên thọ thực, còn anh ngoại đạo vừa run rẩy vừa sợ hãi, vừa kính phục Ngài. Khi Phật dùng cơm xong, anh lạy xin sám hối một lần nữa, cầu được xá tội.
Đức Phật từ bi phán dạy:
– Không sao, con chớ sợ. Như Lai nói cho con biết, Như Lai có Tứ Vô Lượng Tâm, nên thường hành Bình Đẳng Hạnh. Dù có người vừa tán dương ta, vừa lễ bái ta, cùng một lúc người vừa sỉ nhục ta, vừa đánh đập ta, hai người đó Như Lai vẫn thương yêu như nhau không khác.
Gương từ bi vô lượng của Đức Phật ngày xưa và lòng từ bi của Đức Huỳnh Giáo Chủ hôm nay, cũng như trường hợp Đức Thầy uống nước acid do ông Tâm đưa, thế mà Ngài vẫn cứu vợ và mẹ ông Tâm khỏi bịnh nan y và nhận ông làm đệ tử. Thật vậy, nước acid làm gì có thể làm hại Ngài đã tận trừ tam độc. Sở dĩ chúng ta còn khổ là tại ta đã chứa nhiều nhân tội ác. Tâm ta còn tham, sân, si nên gặp thuốc độc ta phải chết bởi lòng ta độc ác. Lòng quảng đại của Đức Thầy hôm nay giống như của Đức Thế Tôn ngày xưa vậy.
Ta đọc lại Đại Đức của chư Phật để thấy được tâm hồn giác ngộ cao cả của đấng cứu thế. Tóm lại nhờ bốn đức độ cao siêu và lời phán dạy đầy lòng từ bi hỉ xả như trên của Đức Thầy, nên chỉ một thời gian ngắn Ngài đã thành công trên bước đường độ tha hóa chúng.

Mẩu chuyện thứ 30

THẦY CHỨNG SỰ QUY Y

Ông Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý tỉnh Phong Dinh có nhắc mẩu chuyện của ông Bảy ở Xà No như sau:
Số là ông Bảy nầy có cất nhà ở giữa đồng để làm ruộng, thường xem Sấm Giảng của Đức Thầy để tu hiền. Ông lập ngôi Tam Bảo và bàn Thông Thiên, khấn nguyện nhờ Đức Thầy chứng giám. Ông tự khép mình vào hàng tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, ăn chay giữ giới, cúng lạy theo lời Đức Thầy chỉ dạy. Đến tháng 6 Âm lịch, Đức Thầy về Cần Thơ Khuyến Nông, ông Bảy đến xin Đức Thầy cho qui y. Ông Bảy sắp trình thưa công việc thì Đức Thầy nhìn ngay ông và nói:
– Ủa ông đã qui y vào lúc 12 giờ trưa tháng Giêng hôm trước mà, tôi đã chứng kiến một lần cho ông rồi, còn qui y gì nữa? Qui y một lần thôi chớ!
PHẦN NHẬN XÉT:
Tâm lý chung của con người thì khi họ ân cần mong muốn một điều gì, hoặc van xin với ai, thì họ rất sợ không được người đó chấp thuận. Nếu được chuẩn hứa một điều nào quan trọng thì họ thường lập lại đôi lần để cho người kia đừng quên. Thế nên ông Bảy tuy đã âm thầm phát nguyện qui y, nhưng vẫn còn lo ngại, không biết sự phát nguyện của mình có được Thầy chứng không?
Vốn là một bậc Đại Giác thì làm gì chẳng rõ được tâm niệm của chúng sanh, thế nên không để cho đệ tử thắc mắc lo âu, Ngài liền cởi mở cho ông Bảy mà cũng cởi mở chung cho đa số tín đồ. Về điểm nầy Ngài có viết
Mấy người bê trễ chậm chơn tới Thầy,
Nghe theo lời chỉ sau đây.
Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
Tuy lãnh bài cầu nguyện mà tu như vẫn được như đã gặp Ngài. Bởi vì:
Tuy là hữu ảnh vô hình,
Chớ dân lòng tưởng sân Trình đáo lai.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Bởi Phật chỉ dụng chữ tín thành, khi được sống bên cạnh Thầy mà không sửa tánh răn lòng thì sao bằng người ở xa ngàn dậm mà ngoan đạo, tiến tu. Xưa Phật còn trụ thế, lúc Ngài đi thuyết Pháp ba tháng ở Thiên Cung mới trở về, các đệ tử đưa nhau đến yết kiến Ngài, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc đến cúi đầu, lễ sát chơn Phật mà bạch:
– Bạch Thế Tôn, đệ tử Liên Hoa Sắc, người đã đến yết kiến Phật trước nhứt, để lạy mừng Ngài từ Thiên Cung vừa trở về Tịnh xá. Đức Phật từ bi đáp:
– Liên Hoa Sắc, con không phải là người đến yết kiến Như Lai trước đâu!
Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc nhìn đi nhìn lại chung quanh, chưa ai đến trước mình, bà mới bạch:
– Bạch Thế Tôn, chớ vị nào đến trước con, sao con không thấy?
Đức Phật ôn tồn đáp:
Chính Tôn Giả Tu Bồ Đề là người đến viếng Như Lai trước nhứt. Tuy ông chưa đến bằng hình thể, chớ tâm ông đang hướng về làm lễ Như Lai trước hơn các môn đệ khác.
Vậy chúng ta là người trí không lo sợ là Thầy mình không biết rõ việc làm phải của mình, mà phải sợ mình không sáng suốt và đủ nghị lực để bỏ những thói hư tật xấu của mình và cũng đừng nên lo tìm hiểu cái quấy dở của kẻ khác mà phê phán. Khách quan, can đảm và nhận xét mà bài trừ cái quấy dở của mình, vì lúc nào bên mình cũng có:
Lưỡng Thần ghi chép liên miên,
Nào tội, nào phước dưới miền trần gian.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Hơn nữa đối với Đức Thầy thì:
Cặp mắt thánh dòm xem tứ hải,
Thương hồng trần mượn xác tái sanh.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Chớ lo chi Ngài không biết được việc làm của mình, nhưng sở dĩ đôi khi cái phải chưa đến với ta là bởi cái phải ta mới làm mà cái quấy ta đã làm trước hơn, nên đợi khi:
Quả dữ trả rồi nhân thiện đến.
(Bài Thơ Cho Cô Hai Gương Cần Thơ)
Nhứt định không có việc làm nào lại không được sự chứng biết của bậc vô hình và Thầy Tổ.


Mẩu chuyện thứ 31

TU QUANH VÀ TU TẮT

Lúc Đức Thầy bị thực dân Pháp an trí tại làng Nhơn Nghĩa, Cần Thơ, thì sự lui tới của các tín đồ đã gặp nhiều trở ngại. Tuy vậy có một số xả thân mộ đạo hằng len lỏi đến thăm.
Ông Hai Huê và ông Ba Ngà là hai trong những người mộ đạo kể trên, đã chèo thuyền từ Phú An, Tân Châu đến Nhơn Nghĩa để thăm Thầy. Trên đường đi hai ông đã đồng ý với nhau, là khi đến nơi, ông Ngà sẽ xin phép Đức Thầy cho ông được ở lại để hầu hạ Ngài, còn ông Huê sẽ chèo ghe về một mình.
Khi đến nhà ông Hương Bộ Thạnh, nơi Đức Thầy tạm trú, sau 24 giờ thăm viếng và nghe lời huấn dụ, ông Ba Ngà trình với Đức Thầy ý định ở lại hầu hạ Ngài. Đức Thầy không nói gì, đôi mắt từ bi nhìn ông Ngà với vẻ cảm động, rồi Ngài đi thẳng vào phòng. Lúc sau trở ra, Ngài trao cho ông Ngà 7 đồng bạc và nói:
– Ông muốn tu về cất cốc ở sau nhà mà tu, và đây là 7 đồng bạc, ông hãy cầm lấy đi đường.
Ông Ngà do dự không muốn lấy, thưa rằng:
– Con đi ghe không tốn tiền.
Đức Thầy bảo:
– Thầy cho thì phải nhận, rồi sẽ rõ!
Khi về đến Tổ Đình Hòa Hảo thì ông Ba Ngà lâm bịnh, ông Hai Huê phải chèo một mình về Phú An báo cho thân thuộc ông Ngà hay. Hôm sau ông Ngà được người nhà mướn xe ngựa đến Tổ Đình chở về nhà.
Đúng bảy ngày từ hôm giã biệt Đức Thầy thì ông Ngà bỏ xác. Mộ phần chôn cất phía sau nhà ông, dưới một túp nhà mồ theo phong tục thời đó, cất để che mưa che nắng cho người chết. Chín hôm sau nữa ông Hai Huê đến Xà No báo tin cho Đức Thầy hay, nhưng ông chưa kịp nói thì Đức Thầy đã bảo:
– Kiếp sống của ông Ba Ngà chỉ có bấy nhiêu đó thôi!
Ông Hai Huê thực thà bạch với Đức Thầy rằng:
– Không biết ông Ba ngà chết như vậy mà linh hồn có được an ổn để tu hành không?
Đức Thầy đáp:
– Thầy đã độ cho ông Ngà, nhưng đó chỉ là tu quanh vì ông Ngà mới vừa biết đạo kế thì bỏ xác.
Ông Hai Huê liền hỏi tới:
– Bạch Thầy thế nào là tu tắt?
Đức Thầy giảng cho ông Hai Huê nghe:
– Nếu còn xác thịt, vừa lo làm ăn, vừa lo tu hiền, để tự mình sửa mình, độ người, khiến họ với mình đồng tu, thì đó là tu tắt.
Ông Hai Huê lãnh hội được tâm pháp của Đức Thầy. Từ đó ông vừa làm để sống, vừa nổ lực hoằng Pháp, hành thiện.
Thuật theo lời ông Nguyễn văn Đô.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ông Ba Ngà là một môn đồ có duyên với Đức Thầy nên mới được gặp Thầy và sớm qui y. Tuy rất thương đệ tử, nhưng Thầy chỉ cho 7 đồng bạc để báo cho ông biết là ông chỉ sống có 7 ngày nữa mà thôi. Thầy cho biết Ngài đã độ linh hồn ông, nhưng đó là tu quanh, vì người chết chỉ tu bằng tâm linh, nên không thể làm được việc lợi tha như người có thể xác.
Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là đạo nhập thế, là một nền đạo vị nhân sanh, thế nên giáo lý của Ngài luôn chú trọng đến sự tế nhân lợi vật, như Ngài đã từng phán dạy. Cách tu hành đúng theo nghĩa xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tín cao cả, và thực hành trên thực tế, bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh, thì đó là thỏa mãn trong đời hành đạo của mình. Những điều nầy người chết không thể làm được. Nếu người có thân xác mà làm đúng theo lối Đại Thừa của Ngài chỉ giáo thì còn có sự cao quí nào hơn. Phúc duyên thay cho chúng ta, vừa uống được suối Ma Ha, lại vừa được có thân xác vẹn toàn, như đèn đã có sẵn dầu tiêm, chỉ chờ đốt lên là sáng tỏ.

Mẩu chuyện thứ 32

ĐẬU RỚT

Vào khoảng thượng tuần tháng Giêng năm Canh Thìn (1940), Ông Ngô Thành Bá hân hạnh được Đức Thầy hướng dẫn đi núi Tà Lơn. Sau khi trở về được ít hôm thì ông Bá phát bịnh khá nặng, chạy chữa đủ thuốc men nhưng không thấy giảm. Càng trị thuốc nhiều chừng nào thì bịnh ông Bá càng gia tăng chừng nấy, mà hễ ông nằm yên niệm Phật hễ uống theo mấy toa thuốc Nam của Đức Thầy thì bịnh cầm cự lại đó chớ không hết dứt. Bấy giờ ông Ngô Thành Bá mới nhớ lại lúc đi non gặp nhiều gian khổ ông có than với Đức Thầy là đi non cực khổ quá. Đức Thầy liền nói:
– Trò có duyên lớn cùng Thầy, nên trên trước bảo Thầy đem trò đi non giải căn quả đặng tu hành. Trò đi với Thầy năm sáu ngày sau khỏi sa địa ngục năm sáu tháng.
Ông Bá Thưa:
– Giải căn quả gì mà cực khổ quá, con xin Thầy có giải thì để về dưới thế sẽ giải.
Giờ đây ông Bá mới biết lời nói ấy ứng nghiệm không sai. Gần hai tháng bịnh trạng của ông bá cứ dây dưa mãi. Bỗng một hôm Đức Thầy đến thăm và bảo ông Hương Quản Diệp đem xe máy chở ông Bá về Tổ Đình cho nằm ở phía sau dưỡng bịnh. Thời gian ông Bá ở đây bịnh lần lần bớt. Hôm nọ Đức Thầy từ phía trước đi vào thấy ông Bá ngồi trên chiếc giường với gương mặt lộ đầy vẻ hân hoan, Đức Thầy liền nói:
– Sau hôm nay coi bộ trò vui mừng thế?
– Bạch Thầy, con thấy Thầy mở Đạo chẳng bao lâu mà người ta biết tu hành đông quá nên con mừng.
– Đông gì trò ơi! Sau nầy rồi họ cũng bị rơi rớt lần lần, chỉ còn một số mà thôi!
Nói đến đây, Đức Thầy lấy ngón tay chỉ cây xoài sau hông nhà đang trổ bông vàng ánh mà kêu ông Bá nói tiếp:
-Trò thấy các bông xoài kia không? Bây giờ mỗi bông đậu cả mấy chục trái, nhưng đây rồi bị giông qua gió lại, nó sẽ rụng dần dần. Tới lúc xoài già không còn bao nhiêu đâu! Chẳng những thế, đến khi đem lồng hái, nó bị nhảy lồng bớt một mớ, và đem giú nó còn úng nữa chớ. Tín đồ của Thầy sau nầy cũng như thế đó!
Thuật theo lời ông Ngô Thành Bá.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời tiên tri của Đức Thầy quả thực không sai. Dò lại trang sử Đạo, ta thấy từ khi Đức Thầy vắng mặt đến nay, hơn bốn mươi năm tròn, bóng người đi vẫn biền biệt phương nào, để lại cho bao triệu tâm hồn thiết tha mong đợi. Lời Thánh ngôn đã bảo: “Trường đồ tri mã lực, sự cữu chí nhơn tâm”. Đường xa mới biết sức giỏi của ngựa, ngày dài mới thấy được lòng người. Ngài cũng đã từng phán dạy:
Đường xa mới rõ biết tài ngựa ký,
Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô lương.
(Bài Không Buồn ngủ)
Phải chăng vì sự mong đợi quá dài mà tin hồng vẫn bặt, lại còn phải trải qua nhiều lần pháp nạn, mà nhứt là Pháp nạn triền miên. Khác nào xoài mới đơm hoa mà trải nhiều trận giông cuồng bão lớn. Thế nên đường tu đối với người nhẹ dạ sao khỏi thối chí nãn lòng.
Song song với những điều chướng ngại lúc Phật Pháp suy đồi còn biết bao sự quyến rủ. Nào là danh, nào lợi, nào tình; còn tà sư ngoại đạo nổi lên như nấm, thì đối với kẻ thiếu kiên trinh, có mong gì mà bền gan chờ đợi. Đã biết rõ điều nầy, Đức Giáo Chủ mới ân cần phán dạy:
Tín nữ thiện nam gìn mối đạo,
Dầu cho lăn lóc rán kiên trinh.
Kiên trinh mà chịu lúc nàn tai,
Dẫu có gian nan dạ chớ nài.
Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
Chì, thau lắm chuyện lúc non hài.
Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp.
Gắng chí trông mong bữa tiệc khai.
Thiên địa tuần huờn gom một mối,
Phàm trần vẹn kiếp kiến Bồng Lai.
(Bài Tỉnh Bạn Trần Gian)
Ta thử nhận xét, một lớp học tuy có nhiều học sinh, nhưng khi thi cử thì đâu khi nào đậu hết cả lớp. Tức nhiên số rớt sẽ nhiều hơn số đậu, nhưng số rớt đó không phải là lỗi ở tại giáo sư hoặc giám khảo, mà là lỗi ở sự chăm học của học sinh, nên kết quả phải thua kém bạn bè. Rồi dần dần học lên lớp càng cao, thì bài vỡ khó khăn hơn nữa, nhứt là vào lúc thi cử, có thế văn bằng của họ mới có giá trị. Huống chi đây là trường thi Đạo lại càng khó khăn hơn, bởi vì:
Phật thi Đức, Tá quốc thi văn, Nhơn tùng thi chánh, Nhơn Tăng thi lòng (lời ông Ba Thới).
Xưa có một vị Quốc vương lòng quá kính mộ Phật Pháp nên ông ra lịnh nếu ai phát tâm tu hành ông sẽ ủng hộ triệt để. Ông thường ưu đãi các nhà tu và trọng như cha mẹ. Trong nước của ông người tu rất nhiều nhưng có người tu không thiệt tâm tu, nên cửa Thiền môn có đôi khi xảy ra những điều đáng tiếc. Ông tự nghĩ, có lẽ ta quá ưu đãi cho nên số người không thiệt tu mới lợi dụng làm xằng. Thế là ông ta ra chỉ dụ thứ hai: Nếu ai tu bị tội tử hình. Từ khi được tin vua ra chiếu chỉ ai tu sẽ bị chém đầu thì họ ùn ùn sa ngã, ngoài đường không bóng dáng người tu, cửa Thiền môn thì Tăng, Sư đều vắng bặt. Thời hạn kỳ đã đến, vua sai quân lính đi lục soát hết am, cốc, chùa chiền, non núi, tìm nơi nào có nhà tu bắt hết về triều.
Trải mấy ngày lùng kiếm, họ bắt về được một ông nhà tu, ông tên Thanh Tiến Sĩ.
Vua hỏi:
– Ngươi không nghe chỉ dụ của Trẫm sao mà còn tự nhiên lo tu hành thế nầy?
– Tâu Bệ hạ, Bần đạo có nghe chiếu chỉ của Bệ hạ chớ!
– Thế Ngài không sợ chết sao mà còn dám tu?
– Tâu Bệ hạ, thế thường thì ai cũng sợ chết cả, nhưng bần đạo xét, sợ cũng không khỏi bao giờ, vì cái chết có tư vị một ai đâu! Nên Bần tăng chấp nhận cái chết hôm nay để rồi không còn chết nhiều lần khác nữa.
Nhà vua hỏi:
– Ngài nói thế nghĩa là sao?
– Tâu Bệ hạ! Bần đạo muốn nói đường tu của bần đạo là con đường vượt nẻo tử sanh, chỉ một kiếp được trực vãng Tây Phương an lạc, không còn chết đây sanh kia, nhiều đời tử sanh nghiệp nối. Còn nếu bần đạo sợ tội tử hình của Bệ hạ mà thối chuyển đường tu thì phải chấp nhận đường sanh tử, luân hồi nối tiếp. Cho nên bần tăng quyết chí tu hành dù có bị rơi đầu cũng không hối tiếc.
Nhà vua sai võ đao đem Thanh Tiến Sĩ ra pháp trường. Trước cái chết Ngài vẫn bình tĩnh vui cười. Nhà Vua vô cùng kính phục, mới bước lại sám hối và nói rõ dụng ý của mình muốn thử coi ai là người tu thiệt, và đồng thời tôn Ngài làm Quốc sư.
Câu chuyện trên cho ta thấy sự thử thách của người xưa so với ngày nay thì có là bao. Tuy phải trải qua bao nhiêu trận gió giông nhưng không rơi rụng mới là chơn giá trị. Và nên nhớ lời Thánh huấn của Đức Tôn Sư:
Tuy ngày nay chúng nó hùng cường,
Chừng phân định thì ta cao quí.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Và:
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong thả.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)

Mẩu chuyện thứ 33

TÙY CƠ HÓA ĐỘ

Anh Năm Tính người ở tỉnh Phú Yên, Trung Phần, di cư vào miền Nam từ năm 1940 ngụ tại nhà ông chủ Trưởng Chân xã Kiến An, quận Chợ Mới, An giang. Vốn người chất phát làm ăn, nên ở đây ai cũng mến thương và anh cũng trở thành tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo từ độ ấy.
Nhơn một buổi tiếp chuyện với ông cả Mười, ông thấy anh Tính có lòng nhiệt thành đối với Đạo, nên kêu anh đi với ông lên Sai gòn thăm Đức Thầy một lần. Anh Tính rất vui mừng và xin được cùng đi theo. Chuyến đi nầy gồm có ông cả Mười, ông Lâm Thơ Cưu, anh Tính và một ít anh em đồng đạo khác. Trời vừa rựng sáng, con thuyền từ từ tách bến, lướt nhanh trên giòng nước cuồn cuộn đưa đi, anh em cứ luân phiên chèo không ngừng nghỉ, suốt ba ngày đêm mới tới.
Thời gian nầy, Đức Thầy ở số 168 đường Lefèvre, Sai gòn. Hôm ấy mọi người đều lên hết, duy có anh Tính ở lại giữ ghe và cùng chờ người hướng dẫn xin phép với Đức Thầy xong mới được lên.
Anh ở tại ghe đợi tới chiều, không thấy ai xuống hết, bèn bước lên đường đi thơ thẩn gần tới ngang cửa lầu chỗ Đức Thầy ở.
Lúc bấy giờ Đức Thầy đang nói chuyện với số tín đồ ở các tỉnh, Ngài bèn đứng phắt dậy, khoát cánh cửa, đưa tay ngoắc anh Tính vào, giữa lúc ấy mọi người đều ngạc nhiên.
Được lịnh Thầy, anh Tính rất mừng rỡ, nhưng cũng phập phồng lo sợ, nên vừa đi vừa niệm Phật. Vào đến nơi, Đức Thầy chỉ chiếc ghế bảo anh Tính ngồi và hỏi:
– Ông ra đây làm gì?
– Con ra đây thăm Thầy và nhờ Thầy chỉ cho phương pháp để về lo tu hành.
– Ông muốn tu để được như thế nào?
– Con hiện giờ không vợ, không con nên muốn tu giải thoát. Bạch Thầy!
Đức Thầy lấy quyển Khuyến Thiện in khổ nhỏ trao cho anh Tính và dạy rằng:
– Ông đem về xem theo đây mà tu giải thoát.
Được Đức Thầy tặng cho quyển Giảng, anh Tính cảm thấy lòng mình thơ thới, tràn ngập nỗi vui mừng. Khi về nhà anh Tính học thuộc lòng quyển Khuyến Thiện và thường suy nghiệm nghĩa lý trong đó. Nhờ thế, chẳng bao lâu anh thấu đạt con đường hành đạo, lo chuyên trì Lục Tự và tránh mười điều ác. Đời sống anh không bị ngoại vật chi phối và sự tu hành càng ngày càng tiến triển.
Sau thời gian, trong chuyến đi buôn nồi, anh vừa đến vàm kinh xáng Vĩnh Hanh, anh định ghé lại để bán số nồi, kế anh bị trúng gió khá nặng. Xóm nầy nhằm anh em tín hữu thuộc Đại Đạo Tam Kỳ. Họ hết lòng lo chạy thuốc men cho anh, nhưng không giảm được. Các vị ấy bèn hỏi:
– Nếu anh có từ trần, chúng tôi làm lễ theo nghi thức đạo Tam Kỳ được không?
Anh Tính gượng gạo trả lời:
– Tôi cám ơn quí ông nhiều lắm, nhưng tôi đã qui y theo Phật Giáo Hòa Hảo rồi. Vậy xin quí ông làm lễ an táng tôi theo nghi thức Phật Giáo Hòa Hảo.
Nói xong anh Tính nằm xuôi tay thẳng chân mà niệm Phật, và hơi thở anh từ từ dứt hẳn.
Thuật theo lời cô Mai Yến.
PHẦN NHẬN XÉT:
Anh Năm Tính người miền Trung tuy sống xa Đức Thầy, nhưng rất có nhiều thiện duyên, hữu phước nên mới gặp Đức Thầy liền phát tâm tu giải thoát, lại có đủ điều kiện. Nhứt là được Ngài cho quyển Khuyến Thiện, nội dung dạy trừ thập ác, Thiền Tịnh song hành, như là:
Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Và Ngài còn chỉ rành về yếu môn tịnh độ vì đó là pháp kết quả rốt ráo như:
Môn tịnh độ là phương cứu cánh,
Rán phụng hành kẽo phụ Phật xưa.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Ngài còn quả quyết, nếu chúng sanh nào cò đủ ba điều kiện thì chỉ một kiếp là vượt thoát khỏi các khổ Ta Bà, được vãng sanh về An Dưỡng Quốc qua câu:
Dầu Tiên phàm Ma Quỉ Súc sanh,
Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành.
Được cứu cánh về nơi an dưỡng,
Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng.
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Đồng thời Ngài còn chỉ rõ cái khổ ở cõi Ta bà, luôn luôn lúc nào cũng có vô số, nhưng Ngài chỉ tóm lại thành tám điều, còn cõi Cực Lạc thì Y báo, Chánh báo đều được an vui.
Sự truyền Pháp của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất khế cơ và khế lý, khiến anh Tính đã được thắm nhuần Pháp vũ. Anh áp dụng Thiền Tịnh song hành và luôn cầu sanh Lạc quốc. Kết quả anh được bình tĩnh lúc bỏ xác, chứng tỏ được vãng sanh. Anh giữ được chánh niệm lúc lâm chung và sáng suốt, từ khước đề nghị của tín hữu Cao Đài. Vì anh là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo nên xin được an táng theo nghi thức của đạo mình. Cao quí thay anh đã giữ đúng câu:
Một đời một đạo đến ngày chung thân.
(Tự Thán)
Đọc chuyện trên ta thấy anh Tính là một người đáng coi là đàn anh gương mẫu. Chẳng những riêng anh Tính mà chúng ta hôm nay, mỗi người đều đã có trong nhà quyển Sấm Thi của Đức Tôn Sư. Nếu ta chịu gắng gổ trì hành và một lòng trung kiên, nhẫn nại thì lo chi không sánh kiệp người xưa.
Thật vậy, nếu người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, dù là cư sĩ tại gia mà giữ đúng lời chỉ dạy của Đức Thầy thì đó là tại gia Bồ Tát Tăng vậy.

Mẩu chuyện thứ 34

THEO THẦY HAY THEO GIÁO LÝ

Thời gian luân lưu đó đây để hóa chúng độ tha, những lời thuyết Pháp vi diệu thậm thâm của Đức Thầy đã đánh thức biết bao triệu con tim trở về nguồn giác, khác nào ánh thái dương rọi tan đám sương mù. Họ hân hoan vì được nếm ân vị của suối Ma Ha, nên rất hăng say theo gót chân Thầy để có dịp được thêm thắm nhuần Pháp vũ.
Một hôm, sau buổi thuyết Pháp, bỗng Ngài đưa quyển giảng lên hỏi lớn rằng:
Tất cả bổn đạo theo Thầy hay theo Giáo lý của Thầy?
Tất cả đồng loạt đưa tay lên và đồng thanh ứng:
– Con theo Thầy! Con theo Thầy!
Đức Thầy để quyển giảng xuống, nét mặt từ bi nhìn khắp các đệ tử bảo:
– Bà con theo Thầy đến khi Thầy vắng mặt rồi theo ai? Phải theo Giáo lý của Thầy mới đúng chớ.
Tất cả những người có mặt nơi đấy, vừa được nghe câu Kim ngôn của Ngài như một tiếng chuông cảnh tỉnh, họ đều cúi đầu lãnh giáo ngọc ngữ của đấng cha lành.
Theo lời thuật của ông cựu Hội Trưởng quận Thốt Nốt.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đức Thích Ca Mâu Ni ra đời, trụ thế hoằng pháp chỉ có 49 năm mà chánh Pháp của Ngài đến nay trên 25 thế kỷ, vẫn còn chói rạng bốn phương. Thật vậy Chánh Pháp là chơn lý, mà chơn lý là lẽ thật, thì lẽ thật làm sao mất được. Bởi Đức Thầy tiên tri là Ngài sẽ xa cách tín đồ, và thời gian xa cách đó là một trận thử thách gay go, nên hành giả phải nắm chặt giáo lý siêu thượng của Ngài, cũng như người đi biển phải có la bàn, nếu không họ phải chịu lạc lõng bơ vơ giữa bao la trời nước, lại gặp sóng to chắc phải làm mồi cho lũ cá. Cũng thế, người tu tự xưng mình là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mà không nắm vững Giáo lý của Ngài sẽ dễ bị sai đường lạc lối, dù người rất có tâm thành với đạo. Bởi có tâm với đạo mà thiếu trí nên khi Thầy Tổ vắng bóng thì dễ bị kẻ giả trá tà mị lợi dụng. Họ nhân cơ hội nầy mà xưng Tiên Phật, hoặc là Thầy Tổ trở lại. Đức Tôn Sư đã biết rõ nên báo trước cho ta điều nầy, trong Sấm Thi, Ngài có nói rất nhiều không sao kể xiết, như đoạn:
Các đạo tà mưu khéo âm thầm,
Dân rán tránh kẽo lâm mà khổ.
Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
Ai ham linh theo nó tập tành,
Sa cạm bẫy khó mong sống sót.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Ai đọc kỹ Sấm Thi của Ngài và theo dõi mẩu chuyện chung quanh Thầy, đều nhận thức được bao lần dặn dò của Đức Tôn Sư. Bởi Ngài đã biết rõ sau nầy Ngài sẽ có thời gian dài vắng mặt và tà đạo sẽ lộng hành. Nếu không ôm chặt giáo lý của Ngài thì sẽ dễ bị ngoại đạo cám dỗ, nhứt là nghe linh ứng, kỳ hạnh, hoặc xưng Thầy trở lại và mượn xác cậu nọ cô kia, họ cũng dựa theo giáo lý của Ngài rồi viết trại theo, khiến những người nhẹ dạ dễ tin, có tâm nhưng thiếu trí, tưởng là Thầy mình trở lại, thật là một sự đáng thương, đáng tiếc làm sao! Ta hãy xét kỹ, Thầy ta là một vị Phật có sắc lịnh của hai vị Phật Tổ lâm phàm, Ngài vắng mặt vẫn còn để lại cho ta một kho tàng Pháp bảo và đã dạy là:
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Thế là mình hãy xét kỹ coi mình có làm y theo lời chỉ dạy của Ngài không? Nếu có thì lo gì không gặp Ngài. Về điểm nầy có lần ở Sai gòn, Thầy gọi ông Lê Bá Thế mà dạy rằng:
– Ông hãy nói lại cho bổn đạo của Thầy biết, đừng một ai lo lắng cho Thầy, mà hãy tự lo cho chính mình. Hãy tu tâm luyện trí và cần xem quyển Khuyến Thiện của Thầy mà tu hành. Những người tu hành chơn chánh đúng theo lời dạy của Thầy thì về sau sẽ được Thầy cho người tìm đến, chớ bây giờ đừng ai đến để tìm Thầy.
Vậy nếu ta có theo sát Giáo lý của Ngài, thì dù có xa cách nghìn dặm, nhưng cũng như ở bên Tôn Sư. Trái lại nếu không nghe lời dạy của Ngài thì càng tìm kiếm chừng nào lại xa Ngài chừng ấy và không tránh được mưu khéo của kẻ tà đạo thì khổ não vô cùng. Cũng như ông Ba Thới cho biết:
“Lầm tà đạo nhân hư bất dụng.”

Mẩu chuyện thứ 35

ÔNG THẦY THUỐC ĐI TRỊ BỊNH CHO ÔNG TỔ THẦY THUỐC

Lúc Đức Thầy ở Bạc Liêu, một hôm ông Nguyễn Tấn Bảy đến xin xem mạch cho Đức Thầy vì lúc đó thể xác Thầy có bịnh. Đức Thầy đưa tay cho ông Bảy xem mạch. Ông Bảy vừa đặt tay vào tay Thầy thì Ngài liền giựt lại và nói:
– Nóng quá!
Ông Bảy không hiểu ý cứ ngỡ Thầy nói tay mình nóng, nên xin Thầy cho ông tiếp tục xem mạch. Đức Thầy đưa tay ra, ông Bảy vừa rờ đến Thầy thì Ngài cũng bảo:
– Nóng quá!
Và giựt tay lại như lần trước. Luôn cả ba lần như vậy. Ông Bảy nghĩ chắc Đức Thầy muốn dạy cho mình điều gì đây, nên cung kính bạch:
– Bạch Thầy! Xin Thầy dạy cho con biết ý gì mà mỗi khi con chạm đến tay Ngài thì Ngài bảo là nóng. Có phải Thầy muốn nói sự tu của con còn nóng nảy chăng? Nhờ Thầy chỉ giáo.
Với nét mặt từ hòa, Ngài hoan hỉ phán dạy:
– Ông Bảy à! Tôi nói cho ông biết nghe, nhịn người ngoài thì dễ chớ nhịn ở trong nhà thì khó lắm ông à!
Ông Bảy khâm phục Đức Thầy vô hạn, bởi Ngài nói rõ tâm trạng của ông. Ông Bảy nhớ lại, từ khi mình biết lo tu hành, luôn luôn cố giữ sự nhẫn hòa với những người chung quanh, nhưng đối với vợ con thì sao ông cảm thấy khó nhẫn quá, nên thường xảy ra chuyện to tiếng đối với gia đình, đến khi qua rồi ông mới thấy hối tiếc, luôn luôn như vậy. Hôm nay Thầy đã thấy rõ tâm niệm của mình, vậy mình nhờ Thầy chỉ dạy cho phương pháp diệt lòng sân với gia đình. Nghĩ xong ông cung kính bạch:
– Bạch Thầy! Quả đúng như vậy Thầy ơi! Nhẫn với người ngoài thì dễ chớ nhẫn với vợ con khó quá. Con chẳng biết làm thế nào để khắc phục tánh nóng giận đối với gia đình, nhờ Thầy chỉ dạy cho con.
Đức Thầy tươi cười đáp:
– Ông biết tại sao nhịn trong gia đình khó không?
Không đợi ông Bảy trả lời, Đức Thầy từ bi dạy tiếp:
– Tại mình thấy có quyền làm cha, làm chồng, mình cứ nghĩ mình lớn quá, nên mỗi khi có chuyện bực tức làm sao nhịn được.
Ông Bảy liền nói:
– Bạch Thầy! Thật đúng vậy, tại ý nghĩ nầy khiến con không diệt được lòng sân hận của mình nỗi chớ gì. Xin Thầy dạy cho con phương pháp diệt nó.
Đức Thầy dạy:
– Muốn diệt nó, mỗi khi khởi lòng sân, ông phải nhớ là phải cuốn cái lưỡi lên.
Lãnh hội được huấn từ của Ngài, ông vô cùng hoan hỉ. Và từ đó ông đem áp dụng đều được kết quả như ý và đem chỉ lại cho đồng đạo khác đều được kết quả tốt đẹp cả.
Thuật theo lời ông Nguyễn Tấn Bảy Hội Trưởng Tỉnh Bạc Liêu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Thật vậy, tánh sân hận là một trong ba thứ độc chướng đã có từ lũy kiếp đến nay, nên muốn diệt nó đâu phải là chuyện dễ dàng. Nếu không diệt được nó thì khó đến bên kia bờ giải thoát. Ông Bảy cũng là một hành giả quyết tâm tu sửa, nhưng không nhẫn được với vợ con, bởi thấy mình là chủ quyền nên không muốn vợ con làm trái ý. Đó chẳng qua là bản ngã của con người.
Nếu đứng về mặt đời mà nói thì cư sĩ thường mắc kẹt ở điểm nầy. Bởi cái ngã nhơn cứng chắc nó bao bọc mờ đục tâm giác ngộ, nên họ không muốn ai chạm đến danh vị quyền lợi của họ cả. Nếu ai vô tình hay cố ý chạm đến họ sẽ sân hận quát tháo bảo thủ cái ta của họ. Ông Bảy được Đức Thầy khai ngộ đúng bịnh của ông, mà cũng là bịnh chung của quần chúng. Đồng thời Ngài còn dạy cách diệt nó bằng cách là khi nóng giận nên cuốn lưỡi lên, đây là một phép lợi ích lớn của người Phật tử thường hành trong yếu môn Tịnh độ, vì phép nầy dễ đình chỉ vọng tâm và điều hòa cơ thể. Hơn nữa lưỡi đã cuốn lên thì đâu còn nói được mà sân, và nếu cuốn lưỡi thì mình đã hành theo pháp Hành Trì Tịnh Độ. Thế nên chẳng những ông Bảy mà chúng ta cũng nên lấy pháp nầy để áp dụng sẽ được lợi ích không nhỏ, Ngài khéo dạy ta dùng phương tiện để dẹp tánh sân của mình vậy.


Mẩu chuyện thứ 36

ĐỨC CẢ BAO DUNG

Thuở Đức Thầy độ tha hóa chúng càng lúc càng đông, do tài trí vượt hẳn mọi người của Ngài, khiến cho kẻ bán nước buôn dân sanh lòng ganh tị, lúc nào chúng cũng coi Ngài là một chướng ngại không nhỏ cho sự bán giống buôn nòi của chúng. Muốn giữ câu: “Tiên hạ thủ vi cường” nên họ tổ chức cuộc bí mật ám sát Đức Thầy để dễ bề thao túng theo hành động bất lương.
Một hôm chúng mướn anh Bê mới 21 tuổi, với số tiền khá lớn, bảo làm sao ám sát cho được Ngài. Anh Bê nhận lời và lấy khẩu súng nhỏ, hứa là mai sẽ thi hành. Khi về nhà anh lộ nét mặt băn khoăn lo nghĩ. Chị Bê vợ mới cưới của anh, thấy chồng có vẻ khác thường nên cứ theo han hỏi nguyên do. Ban đầu anh còn giấu, nhưng chị cứ hỏi nhiều lần, anh mới tỏ bày sự thật là định mai nầy anh ám sát ông Tư Hòa Hảo. Vợ anh nghe rõ câu chuyện toát mồ hôi, liền than thở với chồng:
– Anh đừng nên làm chuyện đó không nên. Ông Tư Hòa Hảo là người đức hạnh, hiền từ, cứu dân độ thế, lại là một nhà cách mạng chơn chánh, ích nước lợi dân. Mình ham chi tiền thưởng, dẫu lớn bao nhiêu thì cũng xài tiêu hết, chứ việc làm tội lỗi sẽ gây ảnh hưởng xấu cho con cháu về sau.
Chị tha thiết với chồng, nhưng anh Bê nhứt quyết, còn rầy vợ:
– Việc của tôi làm tôi biết, bổn phận của đàn bà không nên xen vào việc riêng của tôi.
Chị cố khuyên nhủ mãi nhưng không thức tỉnh được chồng. Đêm đó chị cứ thao thức vì lo sợ cho việc làm tội ác của chồng sắp diễn ra ngày mai. Ngồi bên cạnh chiếc đèn dầu leo lét, nhìn chồng đang ngủ say, chị lắc đầu sầu thảm. Đến canh ba chị chợt nghĩ, bất cứ giá nào cũng không để chồng mình giết hại ông Tư Hòa Hảo. Rồi chị lén lấy khẩu súng nhỏ của anh tháo hết đạn ra, xong rồi chị mới yên lòng đi ngủ.
Sáng ra, anh Bê thức sớm, lập tức mang súng đi thẳng lại khúc đường mà anh thấy Đức Thầy thường đi ngang mỗi sáng sớm. Chờ khoảng 30 phút, bỗng thấy Đức Thầy từ xa đi tới chỉ có một mình. Giờ may mắn đã đến, anh Bê chuẩn bị tư thế để ra tay. Thầy vừa đến, nhìn anh Bê cười và khẻ nói:
– Mới 21 tuổi sao dám lãnh tiền đi giết mướn chi vậy? Không sợ quả báo sao? Nè! Cây súng không có đạn đâu, vợ em đã lấy ra hết hồi khuya rồi, đừng làm bậy sẽ bị họa lớn nghe! Tôi tuy đi một mình chớ lính Bình Xuyên lúc nào cũng theo hộ vệ mật đông lắm. Làm không được việc mà còn mắc họa nữa à!
Đoạn Thầy nói tiếp:
– Tôi có sứ mạng dạy đạo cứu đời nên em không thể giết được đâu.
Anh Bê nãy giờ đứng thừ người ra như tượng gỗ, mặt tái mét không còn chút máu, vội đi nhanh về nhà. Vô buồng móc súng ra coi thì không có một viên đạn nào cả, hỏi ra thì chị Bê mới chịu thiệt, và khuyên chồng một lần nữa. Anh Bê nói:
Thôi mình đừng nói nữa, tôi đã biết tội của tôi rồi. Vậy vợ chồng mình nên tìm tới ông Tư Hòa Hảo để quy y, vì chắc chắn Ngài là Phật rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
Thấy chồng thức tỉnh chị Bê mừng vô hạn. Vợ chồng đồng tìm đến Đức Thầy phát nguyện qui y.
Thuật theo lời của cô Tu sĩ Võ thị Đồng.
PHẦN NHẬN XÉT:
Câu chuyện nầy cho ta thấy, lòng từ bi của bậc Đại Giác thật vô lượng vô biên, đối với kẻ giết mình mà không giận hờn, mà con ban rãi tình thương cao cả. Nếu không phải là Phật thì có ai làm được hạnh đức nầy. Bởi Ngài lâm phàm với sứ mạng thiêng liêng là:
Phổ tế chúng sanh qua bể khổ,
Di Đà miệng niệm lánh trần gian.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
Định ngôi phân thứ, gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang.
Huống chi Ngài đã từng xông đuốc khói từ bi từ lũy kiếp, nên đối với chúng sanh bao giờ Ngài cũng ban tình thương bình đẳng như nhau, và đã:
Nguyện uống cho đời chén thuốc cay.
Nếu khi xưa Đức Thế Tôn đã thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa và từ bi độ Vô Não. Đức Lục Tổ độ cho Hạnh Xương là người đến thích khách Ngài. Thì hôm nay, từ hạnh của Đức Kim Sơn Phật cũng không hơn không kém. Vợ chồng anh Bê quả là người có túc duyên với Phật Pháp. Tuy gieo nhân đen đúa mà khi biết được đức độ cao cả của Ngài lại kịp thời giác ngộ phát nguyện quy y.
Vậy chúng ta là người tín đồ ngoan đạo phải rán học theo gương hạnh cao cả của Ngài để tiến vững trên bước đường tu thân hành thiện.

Mẩu chuyện thứ 37

KHÔNG NÊN CHỦ QUAN

Vào khoảng tháng 12 năm Bính Tuất (1946), tại nhà ông Tư Đức ở Miền Đông, Đức Thầy ra lịnh về Miền Tây. Ngài đòi trên 40 tín đồ lên để dạy việc.
Đúng ngày 28 tháng Chạp tất cả có mặt đầy đủ tại Tổ Đình Hòa Hảo. Đức Ông bảo anh em hãy trở về lo cúng Tết, qua chiều mồng Một sẽ trở lại đây và mùng Ba sẽ lên đường. Trong số nầy có ông Tạ Hùng Vĩ một tín đồ đã qui y theo Phật Giáo Hòa Hảo nhưng chưa được diện kiến Đức Thầy lần nào. Ông Vĩ bị bịnh sốt rét đã nửa tháng qua đến nay chưa bớt, cơm cháo gì cũng ăn không được, nhưng khi nghe có lịnh Đức Thầy đòi thì lòng ông rất vui mừng hăng hái. Đoàn người đi bằng xuồng nhỏ băng qua Đồng Tháp Mười để đến Miền Đông. Suốt bốn ngày mới tới vị trí. Trong bốn ngày nầy ông Vĩ vẫn còn bị nóng lạnh, nằm luôn trong nóp, không ăn chi cả. Khi nào khát nước quá thì vói xuống múc một hớp nước rồi niệm Phật mà uống; nhưng có điều lạ là khi đến nơi ông Vĩ trong người hơi khỏe và nghe đói bụng, nên yêu cầu cô Tư người có trách nhiệm nấu cơm trong văn phòng, nấu cho ông ít chén cháo. Ông Vĩ dùng luôn hai chén cháo, thấy ngon miệng quá nên múc thêm chén thứ ba, chưa kịp ăn, bỗng thấy cô nữ cán bộ tuổi độ hai mươi, vai mang một túi đồ, vừa bước vào vừa kêu cô Tư nói:
– Tôi đi công tác về đói bụng quá, cô Tư có cơm cho tôi ăn ba hột.
Để túi đồ xuống, cô Cán bộ hỏi tiếp:
– Anh Tư đi đâu vắng rồi cô Tư?
– Thầy tôi hôm nay đi hội nghị chưa về.
– Thật anh đó lần nào đi hội cũng về tối hết.
Nãy giờ ông Vĩ ngồi lặng yên theo dõi từ cử chỉ và lời nói của cô Cán bộ. Lúc đầu ông chưa biết cô hỏi thăm ai, chừng nghe cô Tư trả lời Thầy tôi hôm nay đi hội nghị chưa về, ông Vĩ mới rõ cô Cán bộ hỏi thăm về Đức Thầy. Bỗng nhiên ông thấy nơi ngực mình có vật gì ngăn tức, cặp mắt hoa lên, đầu mặt nóng phừng phừng và tay chơn đều run run khó kềm lại được. Bởi theo ông là cách xưng hô của cô Cán bộ đó đối với Đức Thầy là quá vô lễ. Cả triệu tín đồ Miền Tây chưa một ai dám dùng ngôn ngữ như thế. Ông nghĩ nếu không phải mới đến thì ông sẽ cho cô ấy một bài học đích đáng, nên ông cố dằn xuống, nhưng không thể nuốt được chén cháo thứ ba nữa. Ông Vĩ sợ ngồi lâu đó rồi không dằn được lòng tức giận mà sanh chuyện lôi thôi, nên ông bỏ đi ra ngoài cho khuây khỏa. Ông Vĩ lần bước theo con đường cặp mé rạch, độ mười phút sau, bỗng thấy một người từ xa đi lại. Mặc dù từ trước ông Vĩ chưa từng gặp mặt Thầy lần nào, nhưng khi trông thấy tướng mạo người ấy thì ông chắc đây là Đức Thầy. Qua cái chắp tay chào mừng, Đức Thầy liền hỏi:
– Ông ở Miền Tây lên tới hồi nào? Tất cả đều mạnh giỏi hết phải không?
Đoạn rồi Đức Thầy một tay choàng qua vai ông Vĩ cùng bước đi, còn một tay Ngài vừa vuốt ngực ông vừa nói:
– Thầy của mình chớ Thầy của người ta sao mà buồn tức!
Đức Thầy lập lại câu nói và động tác luôn ba lần. Nghe qua ông Vĩ quá ngạc nhiên, run sợ và tự nghĩ tại sao mình chưa trình bày việc nầy mà Đức Thầy lại biết trước, và lúc nãy mình tức giận không đúng lý. Thế rồi ngực ông bắt đầu nhẹ lại và cảm thấy bịnh trạng trong người dường như dứt hẳn.
Thuật theo lời ông Tạ Hùng Vĩ.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đọc chuyện trên ta không nên chê trách ông Vĩ sao quá chủ quan và hãy bình tâm nhận xét. Bởi ông Vĩ quá tôn kính Đức Thầy nên khi nghe lời nói của cô nữ chiến sĩ Bình Xuyên, tự nhiên thấy lòng bực tức khó chịu. Thật vậy bởi tâm niệm chủ quan là căn bịnh của chúng sanh, mà nó cũng do tích-lũy-nghiệp của con người, nhưng ông quên rằng, cô ấy chỉ là người ngoại đạo. Câu nói của Đức Thầy vừa an ủi đệ tử vừa biểu lộ lòng hỷ xả của bậc Giác Ngộ hoàn toàn nên tự tại. Đối với chúng sanh không phân biệt hay chấp trước kẻ phàm tình, bởi vạn vật đều vô thường thì âm thanh và ngôn ngữ đều là một thứ giã tạm, còn danh vị thế trần cũng như thế. Thế nên Ngài từng phán dạy:
Kêu thằng hay gọi là ông,
Cũng không có muốn ai hòng tôn ti.
(Mượn Cây Đuốc Huệ)
Còn kẻ phàm tình như chúng ta thì cũng không khác chi ông Vĩ, bị cái ái ngã chấp thủ quá nặng, nên cứ bênh vực cái ta. Cái gì mình thương kính quí trọng thì muốn ai cũng tôn quí như mình. Nếu ngược lại là giận hờn ghen ghét, đôi khi họ phải đi đến chỗ giết chóc nữa.

Mẩu chuyện thứ 38

QUY Y THÌ PHẢI LÀM Y

Năm Canh Thìn (1940), một ngày đẹp trời, quần chúng đến yết kiến Đức Thầy rất đông. Họ sắp hàng nhau, kẻ đứng, người ngồi, tụ họp đầy trước đường ở Tổ Đình để nghe Đức Thầy thuyết Pháp. Lời của Đức Thầy trong sáng, hấp dẫn lạ lùng, khiến mọi người chăm chú như say ngây ngất.
Bỗng một đoàn phụ nữ khoản 20 người từ ngoài tiến vào vái chào Đức Thầy rồi xếp hàng chen vào đám đông nầy.
Đức Thầy hỏi:
– Các bà từ xa đến đây hẳn là mộ đạo và chắc là có quy y?
Bà đứng tuổi cuối đầu nhỏ nhẹ thưa:
– Bạch thầy! Chúng con đã quy y đầu Phật, mong theo Phật để tu hành.
Đức Thầy đáp:
-Được lắm, biết đạo là quí, nhưng từ trước đến nay phần đông quy y là chỉ để y, không làm theo. Bây giờ qui y thì phải làm y. Mấy bà nên sửa mình, trau tâm và niệm Phật.
Rồi Thầy nói thêm:
– Việc niệm Phật phải cho bền. Phải niệm niệm tùng tâm khởi niệm sáu chữ Di Đà, đi đứng, nằm ngồi đều tưởng niệm không quên. Bửa củi, giã gạo, xách nước, nấu cơm, đều niệm được cả.
Thuật theo Đuốc Từ Bi.
PHẦN NHẬN XÉT:
Hai chữ qui y đã có từ 25 Thế kỷ trước, và người qui y từ xưa đến nay không số đếm tính cho hết được. Nhưng phần đông người ta thường qui y rồi cứ để y, chớ không hề cải sửa. Để ý thức chung cho quần chúng, ngài nói với mấy bà tín nữ như trên, cốt để cho chúng ta biết sự tu hành là do ở chỗ trau tâm sửa tánh và chuyên nhứt niệm Phật. Ngài dạy:
– Nam mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc.
Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.
Việc biến chuyển Thiên cơ rất gấp,
Khuyên chúng sanh hãy rán tu hành.
Cầu linh hồn cho được vãng sanh,
Đây chỉ rõ đường đi nước bước.
(Quyển 2 Kệ Dân Của Người Khùng)
Nếu quy y mà cứ để y thì dù có trải qua vô lượng kiếp cũng chẳng được thành. Bởi muốn cho tín đồ biết được ý nghĩa của chữ quy y mà nhứt tâm trau sửa, nên Ngài đã viết ở đoạn khác như sau:
– Quy y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc đạo dạy ta, ta cũng làm theo cách ấy. Thầy cảnh tỉnh, giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời, cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hàng ngày.
Chúng ta là người học đạo muốn khỏi khổ luân hồi, tiến triển trên con đường giải thoát thì lúc nào cũng cúi đầu tuân thủ lời Thánh huấn của Tổ Thầy, mới khỏi uổng công Cửu Huyền trông đợi nơi chín suối.

Mẩu chuyện thứ 39

TÔI LÀM HUẤN LUYỆN VIÊN

Bước truyền đạo của Đức Thầy trong thời nước Việt Nam còn dưới ách thống trị của thực dân Pháp thật là vất vả. Chính Ngài rày đây mai đó gần ngót một năm.. Từ ngày 7 tháng 7 năm Canh Thìn (1940) tới ngày 19 tháng 5 năm Tân Tỵ (1941) Thầy bị người Pháp quản thúc tại nhà thương Chợ Quán. Sau đó họ mới trả tự do cho Ngài.
Nhưng khi Ngài đến Bạc Liêu, cư ngụ tại nhà ông ký Giỏi thì họ cũng buộc Ngài mỗi sáng thứ hai phải đến trình diện tại sở Cảnh sát. Ở đây họ dòm ngó mãi, làm cho nhiều người muốn đến viếng Đức Thầy đều phải thất vọng. Sau đó thì sự kiểm soát của họ mới lơi dần, người ta lần lượt kéo nhau nghe Đức Thầy Thuyết Pháp và xin thọ giáo qui y càng lúc càng đông.
Cứ mỗi lần có ai đến xin quy y thì Đức Thầy kêu ông ký Giỏi bảo chép giùm bài nguyện cho họ. Suốt tháng qua, ông Ký cứ ngồi viết ngày nầy sang ngày khác. Hôm nọ ông đang ngồi bỗng buông viết xuống suy nghĩ: “Đức Thầy ở đây ngót mấy tháng rồi, mình cứ lo viết bài nguyện cho người ta mà chính mình chưa được Đức Thầy cho bài quy y nào hết”. Ông Ký bèn rời chỗ ngồi, bước đến gần Đức Thầy thưa:
– Bạch Thầy! Hôm rày con lo chép bài cho người nầy người kia, mà phần con chưa có, nay nhờ Thầy cho con một bài để con quy y.
– Thì sẵn đó ông Ký cứ chép mà học, nhưng hễ qyi y thì phải cúng lạy cho đủ hai thời sáng và chiều mới được à!
– Thưa Thầy con học bài nguyện thì được chớ cúng lạy không được.
– Tại sao vậy?
– Vì từ trước tới giờ chưa quen quì lạy, nay quì lạy đau đầu gối quá.
Đức Thầy vừa cười vừa bảo:
– Thôi thì cứ học cho thuộc đi.
Cách một tuần sau, Đức Thầy gọi ông ký Giỏi đến:
– Hôm nay tôi mượn ông một việc được không?
– Bạch Thầy! Thầy dạy việc chi con cũng sẵn sàng làm hết.
– Kể từ nay tôi cử ông làm Huấn Luyện Viên nghe.
– Huấn luyện việc chi bạch Thầy?
– Thì có ai đến qui y, ông cứ chỉ dạy người ta cách thức cầu nguyện và lễ bái chớ gì!
Ông Ký vui vẻ ưng chịu. Trưa hôm ấy có ba người tới xin qui y, ông Ký lấy bài trao cho họ và dắt họ lại bàn thờ chỉ cách thức. Ba người ấy thưa:
– Chúng tôi hồi nào tới giờ chưa biết lạy Phật, ông Ký gần gũi Đức Thầy, có thấy Ngài lạy ra sao, nhờ ông vui lòng lạy trước cho chúng tôi lạy theo.
Ông Ký chần chờ, miệng chắc lưỡi, tay rờ rờ đầu gối và cố tìm cách lý thuyết cho ba người hiểu. Bấy giờ Đức Thầy ngồi từ ghế trước trông vào nói lớn:
– Lãnh trách nhiệm làm Huấn Luyện Viên thì việc gì cũng phải làm trước cho người ta học theo chớ.
Ông Ký giựt mình bèn quì xuống nguyện và lạy cho ba người ấy làm y theo. Bắt đầu từ đó hễ có ai đến qui y với Đức Thầy, ông Ký cũng tiếp tục làm như vậy. Thế rồi mỗi ngày hai thời cúng, ông Ký vẫn thường hành mà chẳng sợ đau đầu gối như lúc trước. Ông mới chợt hiểu Đức Thầy dùng phương tiện khéo léo để giúp ông lễ bái được một cách dễ dàng.
Viết theo lời ông Võ văn Trì.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ông ký Giỏi là một cao đồ của Đức Thầy, chức thầy ký của thời Pháp thuộc, rất sang và có giá trị lắm. Sau khi bà Ký được thấy linh mộng và tìm về Hòa Hảo mà qui y, còn ông thì chưa chịu qui y mà cũng không chống bán. Mãi cho tới khi Đức Thầy xuống tại nhà ông và cũng chính ông được chứng kiến sự nhiệm mầu như chữa cháy cho kho xăng ở Bạc Liêu bằng một ly nước trà, và sử dụng quạt máy mà không cần điện. Đồng thời ông nhận ở đức độ cao cả cũng như giáo lý tuyệt vời của Ngài, nên phát nguyện qui y. Sau khi qui y, ông rất tinh tấn tu hành, và cũng có nhiều đức tánh tốt. Đến khi lâm chung ông biết trước ba tháng và rất sáng suốt bình tĩnh. Bởi là người trí nên thường dè dặt mọi vấn đề, nhứt là vấn đề đức tin.
Khi nhận xét kỹ lưỡng ông liền phát nguyện qui y, nhưng ngặt nỗi mình sống trong cuộc đời sang trọng đã quen, giờ lại quỳ sao cảm thấy khó chịu quá, nên ông bạo dạn tấu trần sự thật với Thầy mình. Dĩ nhiên là Đức Thầy biết rõ tâm niệm của ông, tuy nhiên cũng phải tùy phương tiện cho khế cơ để nhiếp hóa đệ tử, nên Ngài chẳng buộc ông cúng lạy mà cử làm Huấn Luyện Viên. Thế là ông Ký chẳng những lễ bái hai thời mà còn lạy thêm nhiều thời nữa, bởi nhiệm vụ Huấn Luyện Viên. Nhưng ông vẫn hoan hỷ vì đã quen chớ không than thở chút nào.
Đọc qua câu chuyện trên, ta mới thấy tài phương tiện khéo léo vô hạn của Đức Thầy. Thật vậy, Bồ Tát lợi sanh vi bổn, nếu không phương tiện khéo léo, thì khó thực hành trên phương diện Giác tha.
Muốn lo toan độ thế
Phương diện phải sẵn sàng
Chớ để người nghi hoặc
Tánh họ mới minh quang.
(Lời của Lục Tổ)
Bởi sợ tín đồ cứ lo khoa trương hình thức bằng sự lễ bái, tu mà không lo trau sửa tâm mình, nên Đức Thầy dạy:
Còn lễ bái là điều phụ thuộc.
Còn sự cúng lạy là một điều cần thiết để trợ trưởng cho sự tu hành, nên Ngài đã khuyến tấn:
Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
Và:
Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
Thì sẽ được tòa chương dựa kế.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Tuy sự lễ bái là điều phụ thuộc, nhưng lại cũng là món trợ đạo để giúp ta trên phương diện tu hành. Nếu thiếu nó cũng khó đưa ta đến chổ thành công, bởi vì:
“Hữu vi chi mỹ, giả chi tắc Phật Đạo năng thành”
(Kinh Kim Cang)
Lễ bái không chỉ giúp ta nhớ phận sự mà còn bớt tánh ngã mạn của ta. Chẳng những bớt tánh ngã mạn mà giúp ta diệt tội chướng và tăng đức hạnh.
Tuy hàng cư sĩ tại gia bận rộn với gia đình, ngoài đồng áng, nhưng ít nhứt cũng có hai thời rảnh rỗi để đến trước ngôi Tam Bảo mà chiêm bái Đấng Từ Bi, và để nhớ làm theo đức độ cao cả của Ngài. Chớ nếu bỏ hết hình thức thì cũng khó kiểm nội tâm. Bởi muốn đến nấc thang thứ mười thì ta không thể bỏ qua nấc thang thứ nhứt được.
Thế nên chẳng những ông ký Giỏi được Đức Thầy tạo phương tiện cho ông quen, siêng cúng lạy hàng ngày, mà ông Đổ văn Viễn và ông Vĩ ở chợ Nhà Bàng cũng xin miễn cúng lạy mà được Đức Thầy giải thích là không nên làm biếng cúng, vì Phật Tây Phương không chứng cho người làm biếng, và phải cúng lạy mới ra vẻ người tu, vì đó là bổn phận của mình.

Mẩu chuyện thứ 40

KHẨU NGHIỆP

Nơi Kim Sơn Tự (Tổ Đình Hòa Hảo) khoảng thượng tuần tháng 11 năm Kỷ Mão (1939), vào một ngày nắng sớm chan hòa, ấm áp, Đức Huỳnh Giáo chủ đang ngồi trên chiếc ghế dựa bàn bạc việc Đạo cùng một số tín đồ: Ông Năm Chơn, ông Biện Hùm, ông Năm Hiệu và ông Đặng Thành Tựu. Đang nói chuyện, bỗng Đức Thầy ngừng lại, đứng dậy hướng mắt ra cửa nói:
– Đem đi đâu vậy? Đem về đi, mượn người ta thì mang ơn người ta chớ!
Lúc ấy chẳng ai hiểu Đức Thầy muốn nói gì và ám chỉ việc chi. Thì một bà lão từ trên chiếc xe lôi ngoài đường đang bước xuống, trên tay bà đang bồng một em bé độ bảy tám tuổi, tay chơn buông thỏng như một xác chết đi vào. Bà lão vừa đặt đứa bé xuống bộ ván ngựa thì Đức Thầy cũng lập lại câu nói ban nãy:
– Đem đi đâu vậy, mượn người ta thì mang ơn người ta chớ.
Bà lão có vẻ lo lắng, giọng trầm buồn bạch với Ngài:
– Bạch Thầy! Nhờ Thầy ra ơn từ bi cứu giùm cháu tôi. Số là buổi chiều hôm qua, dâu tôi là mẹ đứa bé nầy vì tức giận nên đã kêu Thần Thánh mà trù rủa con nó rất nhiều, thành ra hôm nay mới xảy ra việc nầy.
Bằng một giọng buồn rầu bà tiếp:
– Nó đau nặng quá Thầy, xin Thầy làm phước cứu giùm nó.
Thật vậy, đứa bé kia chỉ còn chút hơi thở yếu ớt mà thôi. Mặc dầu nói vậy, nhưng Đức Thầy: “… Vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa … dưới dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi …” (Bài Sứ Mạng)
Ngài đi ngay lại bàn Phật, lấy chung nước lã, đem trao cho bà lão cho đứa bé uống, chẳng mấy chốc đứa bé tỉnh lại như thường.
Viết theo lời ông Đặng Thành Tựu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời xưa đã bảo: “Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, Nhứt ngôn khả dĩ tán bang.”
Đức Giáo Chủ đã phán dạy: “Trong đường tu nương theo Tam nghiệp thì khổ não lắm, chúng sanh tịnh được Tam nghiệp thì mới mong về cõi Phật.
Tam nghiệp là:
– Thân nghiệp.
– Khẩu nghiệp.
– Ý nghiệp.
Nhưng Thầy xét lại khẩu nghiệp các trò nặng nề hơn hết.”
Thật vậy, cái lưỡi là một lợi khí không nhỏ của nhơn sanh. Người ta không ngần ngại dùng cái lưỡi để bóp méo sự thật và biến kẻ ân thành oán, rồi dắt tay nhau đến chỗ tương sát tương tàn, biết bao thảm kịch do miệng lưỡi.
Đức Giáo Chủ cho biết cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những sự phân tranh phá tan sự đoàn kết, tình thân yêu của nhơn loại. Nó cũng là nguồn cội của bao sự bất hòa, hiềm khích. Phụ nữ ở nước ta cũng có nhiều người không cẩn hạnh, cẩn ngôn, nên khi tức giận thì buông lời nói ác, hoặc trù rủa, kêu mời không nể kiêng Thần Thánh. Đến khi lâm bịnh khóc than khấn vái. Nếu không mãn nguyện thì trách móc Phật Trời. Để khuyến cáo kẻ mê mờ, Ngài phán dạy ở điều răn cấm thứ tư:
“Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền rủa vì Thần Thánh không can phạm đến ta.”
Một nơi khác Ngài cũng từ bi phán dạy:
Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ hành chẳng khá réo kêu.
Hãy gìn lòng chớ khá dệt thêu,
Nói xiên xỏ cũng không no béo.
(Quyển 2 Kệ Dân Của Người Khùng)
Đức Giáo Chủ ra đời như vầng thái dương rọi tan đám sương mù đã từ lâu che lấp ánh sáng trí tuệ. Chẳng những dạy con người sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát, mà còn dạy họ hoàn bị hạnh tu nhân. Nên phận làm cha, mẹ cũng không quên làm gương hạnh cho con cháu. Ngài dạy:
Dạy rồi những việc đức ân,
Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào?
Lỗi lầm chớ có hùng hào,
Đừng chửi đừng rủa đừng cào đừng bươi.
Đem lời hiền đức tốt tươi,
Đặng mà giáo hóa vàng mười chẳng hơn.
Cũng đừng gây gổ giận hờn,
Cho con bắt chước sạ duơn mới là.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Từ khi nghe được lời phán dạy của Tổ Thầy, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã trau sửa, nói lời chánh ngữ, nên đã trở thành con người tốt đẹp từ lời nói lẫn việc làm, và tránh khỏi bị tai họa do khẩu nghiệp gây ra.

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget