Mục lục
- Mẩu chuyện thứ 21: RỦA CON
- Mẩu chuyện thứ 22:ĐI TÌM PHẬT
- Mẩu chuyện thứ 23: CÓ NÊN SÁT SANH TRONG NGÀY CHAY KHÔNG
- Mẩu chuyện thứ 24: PHƯƠNG PHÁP NHẪN NHỤC
- Mẩu chuyện thứ 25: NGÀY THẦY TRỞ LẠI
- Mẩu chuyện thứ 26: LỘ VẺ TỪ BI
- Mẩu chuyện thứ 27: PHẬT, LÃO, NHO
- Mẩu chuyện thứ 28: CÙNG MỘT SỰ ĂN
- Mẩu chuyện thứ 29: LÒNG QUẢN ĐẠI
- Mẩu chuyện thứ 30: THẦY CHỨNG SỰ QUY Y
- Mẩu chuyện thứ 31: TU QUANH VÀ TU TẮT
- Mẩu chuyện thứ 32: ĐẬU RỚT
- Mẩu chuyện thứ 33: TUỲ CƠ HOÁ ĐỘ
- Mẩu chuyện thứ 34: THEO THẦY HAY THEO GIÁO LÝ
- Mẩu chuyện thứ 35: ÔNG THẦY THUỐC ĐI TRỊ BỊNH CHO ÔNG TỔ THẦY THUỐC
- Mẩu chuyện thứ 36: ĐỨC CẢ BAO DUNG
- Mẩu chuyện thứ 37: KHÔNG NÊN CHỦ QUAN
- Mẩu chuyện thứ 38: QUY Y THÌ PHÃI LÀM Y
- Mẩu chuyện thứ 39: TÔI LÀM HUẤN LUYỆN VIÊN
- Mẩu chuyện thứ 40: KHẨU NGHIỆP
Mẩu chuyện thứ 21
RỦA CON
Ở Phú Thuận có hai vợ chồng
người nọ đem một đứa con gái lối
18 tuổi đến nhờ Đức Thầy trị
bịnh. Thầy dòm người con gái nói:
– Tại sao lại hại người ta
thế?
Người con gái rất lanh trả lời:
– Cha mẹ của tôi gả vợ cho tôi lâu
lắm rồi kia mà, chớ nào phải tôi dám làm ngang.
Đức Thầy nói với cha mẹ
người con gái:
– Tại bà tất cả, lúc cháu này bảy
tuổi, bà có rủa, đồ Hà Bá đéo, cho nên Thần
Hà Bá dưới sông nghe vậy mới nhập vào con bà
từ đó đến nay.
Sự việc làm cho bà này ngạc nhiên, vì con
bà cũng bắt đầu xanh men mét từ đó
đến giờ.
Đức Thầy khuyên bà từ nay trở
về sau chẳng nên rủa con nữa, nên đem lời
hiền lành mà giáo hóa chúng. Rồi Ngài quay sang đứa con
gái nói:
– Thôi người ta đã ăn năn rồi,
ngươi phải trở về chỗ cũ. Từ nay
đừng làm chuyện xằng bậy.
Vừa nói, Ngài vừa ngậm nước
phun vào mặt, tức thì cô bé té ra. Giây lâu tỉnh lại,
và nói chuyện tỉnh táo như thường. Cha mẹ
người này cám ơn rối rít. Đức Thầy
khuyên:
– Ông bà nên ăn chay, niệm Phật, làm lành.
PHẦN NHẬN XÉT:
Nhiều người không rõ tai hại
của khẩu nghiệp, nên mỗi khi tức giận thì
họ kêu mời cõi âm mà trù rủa. Người phụ
nữ trên đây cũng ở vào trường hợp
đó, nhưng đến khi đau ốm thì khóc than,
khẩn vái cúng kiếng tà ma. Vì thấy chúng sanh lầm
lạc như thế nên Đức Giáo Chủ từ bi phán
dạy:
Khổ lao đà sắp đến nơi,
Thế gian bớt miệng kêu mời cõi âm.
(Quyển 3, Sám Giảng)
Từ khi nghe được những lời
từ huấn của Ngài, người ta mới biết
được tai hại của khẩu nghiệp mà
chừa bỏ rất nhiều. Câu chuyện trên đây cho
ta thấy rõ, người không biết giữ gìn khẩu
nghiệp thường buông lời nói ác hoặc kêu mời
cõi âm mà khiến sai, mời thỉnh, chẳng những mang
tội ác khẩu, còn gặp lắm tai họa cho gia
đình mình. Chừng đó mới hối tiếc khóc than
thì ôi thôi đã muộn. Ta hãy nghe lời từ huấn
của Đức Tôn Sư.
Lựa lời tiếng dịu-dàng trong
sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước
dư,
Bằng tích ác họa-ương đeo
đắm.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Mẩu chuyện thứ 22
ĐI TÌM PHẬT
Năm 1966 tôi được thụ huấn
khóa đào tạo Giảng Viên Truyền Bá Giáo Lý Trung
Ương tại Thánh Địa Hòa Hảo. Bỗng
được tin cô Ký Giỏi về viếng Tổ
Đình.
Vốn sẵn tính hiếu kỳ, tôi muốn
được biết cô Ký, vì tôi nghĩ cô chắc có
nhiều duyên phước lớn mới được
theo hầu Đức Thầy, và được Ngài quang
lâm đến ngụ tại nhà cô trong thời gian
truyền đạo và nhứt là muốn được
nghe cô kể chuyện bên Thầy mà lúc nào tôi cũng khao khát
được nghe. Ý đã quyết định nên
chiều hôm ấy tôi rủ vài bạn nữ khóa sinh cùng
đi, và định nghỉ đêm tại Tổ Đình
để nghe cô kể chuyện.
Khi đến nơi, chúng tôi chào hỏi, cô
cháu được biết nhau trong bầu không khí vui
tươi. Tôi nói:
– Thưa cô Hai, chúng con từ trước
đến nay nghe tiếng cô nhưng chưa gặp
mặt, hôm nay mới được biết cô. Thưa cô,
chúng cháu là kẻ sanh sau đẻ muộn, rất khao khát
được biết những mẩu chuyện chung quanh
Đức Thầy, mà cô là người có nhiều duyên
phước nên được hầu Thầy. Vậy
tối nay chúng cháu xin ở đây một đêm, nhờ cô
kể cho chúng cháu nghe nhiều mẩu chuyện suốt
thời gian cô được theo Thầy.
Cô Ký tươi cười đáp:
– Ờ được, mấy cháu ở
đây đi, cô kể hoài cũng được nữa.
Tưởng gì chớ kể chuyện bên Thầy cô sẵn
sàng lắm.
Thế là sau thời cúng tối, tôi bắt
đầu đặt câu hỏi với cô Hai, giống
như một nhà phóng viên tìm tin tức cho báo chí. Mở
đầu câu chuyện, tôi hỏi:
– Thưa cô Hai, chúng cháu muốn biết nguyên
nhân nào cô ở Bạc Liêu mà sớm gặp Đức
Thầy để quy y? Cô cười nói:
– Ờ! Để cô kể lại cho cháu
nghe, kỳ diệu lắm cháu ơi! Đâu phải khi không
mà cô được gặp Đức Thầy để
quy y đâu. Cháu biết không, cô là dân Tây, đâu có phải
dễ tin Phật Pháp mà tu. Một bữa nọ cô nằm
mộng thấy cha cô về rầy cô và nói
– Phật đã xuống thế rồi mà sao
con không chịu tu? Nè cha cho con biết, nếu cứ mãi mê
danh lợi thì sau khổ đừng than trách, ăn năn
cũng chẳng kịp nghe con. Phật xuống thế
kỳ nầy là cơ tận diệt, nếu không tu thì
vĩnh viễn chịu đọa nghe con. Cô bị cha
rầy quá tay, cô khóc nức nở và nói:
– Thưa cha! Con biết Phật đâu mà tìm,
tu làm sao mà tu? Cha cô nói:
– Con đi theo cha sẽ gặp Phật.
– Thế là cô đi theo cha cô đến
một cảnh giới xinh đẹp. Nhứt là một
hồ sen rất to, dưới hồ có nhiều hoa đua
nở. Chính giữa có một hoa sen thật lớn, có hào
quang sáng rực, lại có một người tướng
mạo xinh đẹp đứng trên đó. Cha cô nói:
– Nầy con hãy nhìn cho kỹ. Vị
đứng tại hoa sen lớn đó là vị Phật
đã giáng thế tại Việt Nam rồi đó con. Con
nhớ tìm cho được vị nầy mà quy y. Nhìn kỹ
nghe con!
Cô dạ, dạ và chăm chú nhìn từ
đầu cho tới chân. Khi tỉnh giấc, cô rờ
gối thì biết mình đã khóc ướt gối, cô
kể lại cho ông Ký nghe và xin ông để cô đi tìm
Phật.
Vốn sẵn có duyên lành nên ông Ký chấp
thuận. Thế là sáng ra cô kêu tài xế lái xe chở cô
đi tìm Phật. Cô nghĩ, chắc Phật thì ở núi,
thôi mình đi cạnh núi. Con đường đi từ
Bạc Liêu dài lên, đi tới đâu cô cũng hỏi
thăm chỗ nào có vị linh thính hoặc kỳ hạnh
cô đều đến gặp mặt, coi phải là
vị Phật mình được thấy trong mộng
không.
Trải ba ngày cô đi tới Châu Đốc,
có người chỉ ở Tân Châu có ông Đạo linh
lắm. Cô không đi núi, liền cho xe thẳng về Tân
Châu. Khi đến nơi, gặp ông Đạo đó
cũng không phải. Lòng cô buồn bã lắm. Hỏi
thăm người ta chỉ ở Hòa Hảo có ông
Đạo còn trẻ mà sáng suốt và có nhiều đặc
điểm thoát tục. Nghe đến ông Đạo
Nầy, cô thấy lòng mừng khấp khởi và nôn đi
tìm coi có phải không.
Ghé chợ mua ít trái cây rồi đi thẳng
tới Hòa Hảo. Khi xe gần đến Tổ Đình,
khiến cô không ngồi yên, như mình sắp gặp cha
mẹ chết đi sống lại. Gần tới chợ
Mỹ Lương là cô ngồi ló đầu ra ngoài
để tìm kiếm. Có lẽ Đức Thầy đã
biết nên Ngài ra đứng tại cửa ngõ đưa
mắt nhìn ra đường. Bỗng cô hô lên cho xe
ngừng lại, vì đã gặp Đức Thầy,
người mà cô đã thấy đứng trên hoa sen trong
mộng. Cô bước xuống xe làm lễ Đức
Thầy, được Thầy nghiêng mình đáp lễ. Lén
nhìn Thầy từ đầu đến chân, quả
đúng rồi, vị Phật mà mấy ngày qua cô hằng
tìm kiếm. Cô khóc nức nở, dù rán kềm cũng không
được, cô khóc thật lớn và tủi tấm
tức tấm tưởi, làm cho chú tài xế và mấy
người chung quanh chẳng biết sự gì. Biết
mình là vợ một thầy Ký mà khóc om sòm như con nít
cũng kỳ quá, nhưng không làm sao nín được, cô
phải ôm mặt chạy tuốt vào nhà bếp, nhưng
vẫn khóc càng lớn hơn, đến đỗi Bà
Cồ, nội Tổ của Đức Thầy ở nhà
trên cũng nghe, nên bà hỏi:
– Ai làm gì mà khóc dữ quá vậy?
Đức Thầy cười nói:
– Cháu ông Lưu ạ!
Rồi Đức Thầy bước
xuống nói:
– Thôi chớ, khóc hoài sao!
Con ơi! Tự nhiên cô nín như chưa
hề khóc. Liền đi rửa mặt và ở lại
đây mấy ngày để nghe Pháp và quy y.
Thuật theo lời cô Tu Sĩ Võ Thị
Đồng.
Mẩu chuyện thứ 23
CÓ NÊN SÁT SANH TRONG NGÀY CHAY KHÔNG
Vào mùa Thu năm Kỷ Mão (1939), lúc bấy
giờ Đức Huỳnh Giáo Chủ còn đang truyền
giáo tại Thánh Địa Hòa Hảo.
Dưới bến Tổ Đình có mấy
người đang làm đáy, chận bắt cá linh theo
nước trôi xuống, những người này cũng
đã thọ giáo với Đức Thầy.
Theo quy tắc trong Đạo thì đa số
tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều ăn chay
kỳ, mỗi tháng 4 ngày, nhưng buổi sáng hôm đó,
nhằm ngày chay lạt mà số người đóng đáy,
vẫn tiếp tục đóng đáy như thường.
Buổi chiều lại, Đức Thầy từ trên
Tổ Đình ung dung đi xuống. Ngài thấy họ
đang dùng cơm chay, ai nấy vẫn không thấy Ngài nói
gì. Khi trở lên Ngài vẫn tiếp tục công việc
trị bịnh như thường lệ. Cứ mỗi
ngày đầu thời cúng tối, những người làm
đáy đều lên Tổ Đình để nghe
Đức Thầy Thuyết Pháp. Sau mấy giờ
thuyết giảng đạo mầu cho mọi
người cùng nghe, Đức Thầy xoay qua mấy
người làm đáy nghiêm nghị hỏi:
– Hôm nay mấy ông ăn chay hay ăn mặn?
– Bạch Thầy chúng con ăn chay.
– Thôi từ đây Thầy cho phép các ông ăn
mặn. Nhưng mấy ông đừng đóng đáy trong
mấy ngày chay nữa.
Mọi người ngồi lặng thinh
ngơ ngác, chẳng hiểu Đức Thầy muốn nói
gì.
Đức Thầy bèn giải thích:
– Yếu điểm của sự ăn chay
là cữ sát sanh, chứ không phải để cho
người ta khen mình là người có đạo, Nếu
hôm nay các ông ăn mặn, chỉ sát hại một vài cân cá
thôi. Đằng nầy các ông ăn chay mà đóng đáy
bắt cá thì giết chết biết bao nhiêu mạng
sống?
Nghe lời giải thích chí lý của
Đức Thầy, số người làm đáy vừa
hối hận, vừa vui mừng vì đã được
Đức Thầy dạy cho bài học quí báu, khiến cho
họ nhận được chân giá trị của sự
ăn chay.
Thuật theo lời của ông Lê Phát Khuynh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đọc chuyện trên cho ta thấy câu nói
đầy từ bi nhân ái của Đức Thầy là
lời khuyến cáo chung cho đồ chúng. Nhờ lời
từ huấn ấy mà anh em tín đồ ý thức
được nghĩa lý cao siêu của những ngày chay
lạt.
Về điểm này, có lần ở Tổ
Đình, Đức Bà rộng sẵn một lu cá cạnh
cây cầu dưới sông. Bữa nọ Thầy nói với
anh em có mặt:
– Thôi bữa nay mình nấu cháo ám ăn.
Rồi Thầy xăn tay áo sửa soạn
đi làm cá. Ngài xung phong vào lấy dao đi làm cá. Khi đi
đến nơi, Thầy bắt cá thả xuống sông
hết. Có người đi xuống sau ngạc nhiên
hỏi thì Thầy đáp:
– Người ta bắt giam và bỏ đói
mấy ông như vầy, mấy ông chịu không? Việc gì
mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác chớ!
Thật vậy, chư Phật và chư
Bồ Tát đã thấy biết được sự luân
chuyển của chúng sanh, từ loài người biến ra
loài vật và từ loài vật chuyển nên người.
Thế nên chúng cũng biết tham sống sợ chết,
chứng tỏ cá thấy người đều hoảng
sợ lặn trốn, thế mà loài người nỡ
tạo lưới, nôm, chài, rập để bắt
giết chúng mà ăn thịt thì tránh sao khỏi quả báo
đen đúa ở tương lai. Thế nên người
tu Phật, nếu ai tự thấy mình không đủ
điều kiện tuyệt sát, trường chay thì
cũng nên cố tránh bớt đi những phần sát
nghiệp. Nhứt là những ngày chay lạt để tránh
bớt nghiệp sát sanh, và thể hiện đức
hiếu sanh của người Phật tử.
Mẩu chuyện thứ 24
PHƯƠNG PHÁP NHẪN NHỤC
Giữa rừng núi âm u nơi Miền
Thất Sơn hùng vĩ, mỗi khi khách du hành để
bước đến, ai cũng thấy lòng thanh thoát và tin
nơi đây có những gì thiêng liêng huyền bí.
Ông Nguyễn văn Phẩm, người quê
quán ở Cao Lãnh nay thuộc Kiến Phong. Bởi sớm
nhận xét cảnh đời đầy đau khổ,
vạn vật vốn vô thường, nên ông tách rời gia
đình tìm đến non Thiên Cẩm sơn (núi Cấm)
để lo bề tu tâm dưỡng tánh.
Sau khi viếng qua các thắng cảnh, ông
Phẩm dừng chơn tại Đá dựng cùng một vài
bạn đạo lo việc tu hành. Một buổi
chiều tà, mây trắng tỏa trùm cả rặng cây vách
đá, gió thu thổi nhè nhẹ làm mát dịu lòng
người. Ông Phẩm ra đứng trước cửa
điện hóng mát, mắt đăm chiêu theo con
đường xuống núi. Bỗng thấy một
đoàn người từ phía chân núi tiến lên, khi
tiến lại gần, ông Phẩm thấy người
đi trước hướng dẫn, tuổi độ
hai mươi, tướng mạo cao ráo, trông ra dáng khoan
nhã, da trắng mặt hồng đỏ, lộ đầy
vẻ trang nghiêm khí phách. Người ấy chính là
Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn năm người
đi sau là tín đồ của Ngài. Qua lời chào hỏi,
ông Phẩm bắt đầu thầm kính Đức
Thầy.
Hôm ấy đoàn người nghỉ đêm
tại đây. Sau thời cúng tối, Đức Thầy
ngồi lại thuyết Pháp cho mọi người cùng
nghe. Trong thời Pháp ấy Đức Thầy nói rất
nhiều, nhưng ông Phẩm còn nhớ được
một câu của Ngài khuyên:
– Các ông tu hành nên trừ được tánh
nóng giận mới mong kết quả.
Đoạn rồi Ngài đặt câu hỏi:
– Nếu ai đem đến cho mình một
món quà mà mình một mực khước từ thì họ
phải làm sao?
Ai nấy không hiểu ý như thế nào, nên
đều lặng thinh hết.
Ngài bèn nói tiếp:
– Nếu mình không nhận lãnh thì họ
phải đem về. Cũng như thế đó, nếu
có người dùng lời bất nhã, hoặc nặng
nhẹ đối với mình mà mình nhận
được, lòng không chút sân hận, tức bao nhiêu
nghiệp quả đó người dùng lời nặng
nhẹ kia phải mang.
Thuật theo lời ông Nguyễn văn
Phẩm.
PHẦN NHẬN XÉT:
Hơn hai mươi lăm thế kỷ
trước đây, Đức Thích Ca Mâu Ni đã bốn
mươi chín năm trụ thế hoằng pháp độ
sinh, Ngài cũng thường đem Pháp Nhẫn mà dạy
đời, vì đó là một trong sáu chiếc đò Lục
Độ, là cái đại chu thoàn khi có phải dùng
nhiều môn: Quyền, Thật, Đốn, Tiệm,
nhưng lúc nào pháp nhẫn cũng được lưu
hành. Đức Phật và Chư Tổ, Đức Thầy
không ngớt khuyên dạy:
Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta
khuyên.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Ngài còn biết tánh sân hận là một tai
hại không nhỏ, như là:
Cơn giận làm cho con người cuồng
trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ dằn,
bạo tợn, chẳng còn nghĩ được phải
quấy tốt xấu, vì lửa sân đốt cả
rừng công đức. (Nhứt tin chi hỏa, năng thiêu
vạn khoảnh công đức chi sơn)
Và câu:
Nhẫn nhục đệ nhứt
đạo, tiên tu trừ ngã nhân, thị lại vô sở
thọ tức chơn Bồ đề tâm (Người tu
hành dù nhiều năm khổ hạnh, nhưng nếu không
trừ được tánh nóng giận của mình thì
đường tu khó mong đạt thành sở nguyện).
Như ông Cốt Đầu Lâm Thất, đã dày công tu
tập chứng đến Ngũ Thông, nhưng không
diệt được tánh sân nên phải đầu sanh vào
đường ác đạo.
Ta hãy nghe lời phán dạy nhẫn nhục
của Đức Tôn Sư:
Chữ nhẫn-hòa ta để đầu
tiên,
Thì đâu có mang câu thù-oán.
Việc hung-ác hễ vừa thấp-thoáng,
Chữ
từ-bi ta diệt nó liền.
Sự oán
thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù-oán
tiêu-tan mất hết.
(Quyển
4 Giác Mê Tâm Kệ)
Nếu
chúng ta cố gắng vâng theo lời phán dạy của Ngài
thì có lo chi không hưởng đời chơn hạnh phúc.
*- Chú
nghĩa: “Nhẫn nhục đệ nhứt …” Đạo
hạnh bậc nhứt, trước tu trừ tâm nhân ngã,
kế đến là không còn kẹt chỗ thọ cảm,
đó tức là chơn tâm bồ đề. (Ban sưu
tập)
Mẩu chuyện thứ 25
NGÀY THẦY TRỞ LẠI
Bà Út có
kể mẩu chuyện như sau: Lúc còn ở Tổ
Đình, có lần Thầy qua nhà ông Út, lúc có đủ
mặt ông Út, bà Út. Đức Thầy nói:
– Sau
nầy có thời gian tôi vắng tín đồ tôi, không
một ai biết tôi ở đâu mà tìm, làm cho tín đồ
tôi phải buồn tủi lắm. Nhưng đó chẳng
qua là một cơn thử thách thôi.
Thầy
nói tiếp:
– Ông Út bà
Út biết không, lần trước họ bắt tôi, tôi
không cho họ bắt, nhưng lần sau tôi đến cho
họ bắt. Lúc đó tôi dùng hóa thân cho họ bắt tôi,
từ đó làm cho tôi xa vắng tín đồ tôi luôn.
Ông Út
hỏi:
– Rồi
Thầy về không Thầy?
Đức
Thầy đáp:
– Về
chớ, nhưng ông nên nhớ là tôi sẽ về nguyên xác
cũ, nghĩa là tôi đi sao về vậy chớ không có gì
thay đổi hết.
Ông Út
hỏi?
– Như
vậy Thầy về luôn hay sao Thầy?
Đức
Thầy đáp:
– Không! Tôi
chỉ về một thời gian ngắn để sắp
xếp công chuyện rồi đi nữa. Mà tôi báo cho ông Út
bà Út hay nghe, khi tôi vắng mặt rồi ở nhà có chư
Thần ghi chép hết các việc làm không sai một mảy.
Khi tôi về thì các ông đem nạp sổ, cuốn nào
cuốn nấy dầy cộm. Kẻ nào chân tu, kẻ nào
giả tu, giữ giới hay không giữ giới, hung ác hay
lương hiền, đều được kiểm soát
kỹ lưỡng hết. Khi tôi xét bộ sổ rồi
mới niêm yết lại, từ đó về sau không ăn
năn sám hối được nữa. Nhưng tôi về
chỉ bảy ngày là vắng mặt nữa.
Ông Út
hỏi:
– Sao
Thầy về mau quá vậy?
Ông Út
hỏi tới đây Thầy lộ sắc buồn, châu
đôi mày nói:
– Vì lúc
đó là thời kỳ của Năm Chèo nổi lên sát
phạt nhơn sanh chết vô số kể. Nếu tôi
ở lại thì làm sao khỏi động lòng, mà ra tay
bắt nó sớm thì sẽ có tội với Thiên Đình, nên
phải vắng mặt để nó trị hết
người hung, rồi mới trở về mà thâu nó.
Đức
Thầy nói tiếp:
– Khi
Năm Chèo nổi lên không phải nó nuốt riêng một
nước mình nghe ông Út bà Út, mà các nước cũng
bị nó nuốt nữa à! Nếu là người hung nó
nuốt tất cả, mà còn người hiền thì ở
đó nó chẳng làm gì. Tu hành như bà Út đây thì
đứng coi chớ sao đâu. Còn người hung thì
chư Thần lôi cổ lại cho nó nuốt, đến
khi nó no thì cắn rảy bỏ, cho đến máu chảy
thành sông, thây trôi lểnh nghểnh. Chừng đó ai
muốn vớt thây thì xuống Chợ Mới mà vớt. Lúc
mười tám nước thấy vậy đem bom to, súng
lớn, đại bác, thần công, máy bay, tàu chiến
đến để trừ nó. Nhưng đâu trừ
được, bởi nó có phép thần thông, nên khi
cường quốc đem vũ khí tối tân đến,
đều bị nó phun lửa cháy hết. Rồi nó còn dùng
phép bay lên hư không phun lửa đỏ trời, làm cho các
nước đều kinh sợ. Bấy giờ họ
mới hội kiến với nhau để tìm
phương trị nó, nhưng tất cả đều bó
tay. Cuối cùng họ mới đặt bàn cầu
nguyện, nhờ Phật Trời cho có một bậc
đức rộng tài cao ra tay cứu thế, chớ
họ thì phải chịu đầu hàng. Lúc đo tôi
mới đi trên mặt nước mà trở về.
Hỏi các ông cường quốc: Sao? Các ông có cách nào
để trị nó nữa không? Các cường quốc
mười tám nước đồng đứng lên nói:
– Thưa
Ngài, chúng tôi không còn cách nào trị nó nữa hết.
Thầy
nói:
– Nếu
như vậy các ông đứng qua một bên đi,
để tôi thâu nó cho.
Còn Năm
Chèo, từ khi biết Thầy về, nó lặn mất không
còn tâm dạng. Dùng thần thông kêu lên một tiếng
tức thì nó nổi lên. Từ thân hình to lớn dị
thường, nó rùng mình một cái, bỗng biến ra
nhỏ lại và không phải hình con sấu Năm Chèo, mà là
một con Long Mã. Long Mã liền chạy tới trước
mặt Thầy; qùy hai chân trước xuống. Con Long Mã
nầy trên lưng có hàm ấn rõ ràng. Khi đó Thầy lên
lưng cỡi nó. Long Mã liền chạy đi biểu
diễn, ban đầu trên mặt đất, kế
chạy trên mặt nước. Sau cùng chạy giữa
hư không như ở đất liền.
PHẦN
NHẬN XÉT:
Ngược
dòng sử Đạo, ta thấy sự vắng mặt khá
dài của Đức Tôn Sư đã để lại cho
các đệ tử trung kiên biết bao là buồn tủi, đau
xót. Điểm nầy đâu phải là Thầy không
thấu hiểu cho ta. Hơn nữa là một vị
Phật lâm phàm thì có điều gì Ngài không thông đạt.
Nhưng
dù cho Đức Thế Tôn còn trụ tại thế cũng
chẳng làm gì khác hơn, bởi do nghiệp quả của
chúng sanh và cũng là cơ thử thách. Cho nên chúng ta
phải:
Đợi
cơ Thiên Địa xoay vần đến.
Chờ
cuộc phong lôi đổi vận lành.
(Muốn
Lánh Phồn Hoa)
Hơn
nữa một cuộc chọn lọc để chuyển
biến con người từ Hạ Nguơn Hạ trở
lại Thượng Nguơn Thánh Đức đâu phải
là một chuyện giản đơn. Thế nên, chẳng
những Ngài đã báo trước trong nhiều đoạn
Sấm Thi, mà còn nói riêng ở nhiều câu chuyện khác,
về sự vắng mặt của Ngài. Có điều ta
cần lưu ý, dù là Tiên Đạo hay Phật Đạo,
nếu đã thử đệ tử tức nhiên là
phải đòi hỏi ở sự khó khổ, nhẫn
nại, trường kỳ, mới biết
được sự kiên trinh bền chí của đệ
tử ra sao, chớ đâu thể một sớm một
chiều, thí sinh được chấm đậu lãnh
thưởng bao giờ.
Về
việc Năm Chèo thì Ngài cho biết:
Con sông
nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có
việc thảm sầu thiết tha.
Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt thú nuốt mà người hung.
Đến chừng thú ấy phục tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai.
(Sấm Giảng Quyển1: Khuyên Người
Đời Tu Niệm)
Chẳng những thâu con Long ác nghiệt mà
Đức Thầy còn hàng phục chư bang như câu:
Khùng mới nói chơi chư bang hàng phục.
(Hố Hò Khoan)
Và
Thâu cho được con Long ác nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
(Sa Đéc)
Trong kinh Pháp Hoa phẩm Dược Thảo
Dụ thứ năm, Phật tỷ dụ ông Trưởng
Giả, thấy các con vì ỷ lại cha thương lo cho
mình rồi không nghe lời cha dạy. Cha biết con có
bịnh, nhưng không lo tìm thuốc. Cha có khuyên dạy,
nhưng chẳng nghe lời, nên ông tìm cách lánh mặt,
trước khi lánh mặt, ông tìm cách dạy con ở nhà lo
uống thuốc và chỉ rõ cái lợi ích của
người biết dùng thuốc, cái hại của
người có bịnh không lo uống thuốc v.v…
Khi ông vắng mặt, các con vì thương
nhớ cha mới suy gẫm lời dạy của cha mà
trước kia mình không nghe nay phải khổ, phải
chịu mất cha v.v… Từ đó họ ăn năn sám
hối, lo dùng thuốc đúng liều nên lành mạnh,
bấy giờ cha về được sum họp an vui.
Ông Trưởng Giả khéo tạo
phương tiện để vừa thử thách vừa
thức tỉnh con. Đó chính là Đức Thích Ca Từ
Phụ.
Chúng ta hôm nay cũng thế, sự vắng
mặt khá lâu dài của Đức Thầy là một cơ
thử thách mà cũng là một phương tiện khéo léo
của đấng cha lành.
Thế nên, nếu ta biết nghe lời
Thầy dạy dùng thuốc, tức tu theo Giáo Lý của Ngài
để trị cho hết bịnh tà quấy, mê si, thì
nhứt định ngày Long Hoa sẽ có mặt.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
Sau Thầy tớ gặp nhau Phật
cảnh.
(Sa Đéc)
Ngoài ra, người thiện tín còn
được ban thưởng xứng vị, xứng
ngôi, và được coi hội của Phật Tiên
chuyển lập, như câu:
Dương trần bỏ bớt tánh tham,
Đừng chơi cờ- bạc,
đừng làm ác- gian.
Để
sau coi Hội coi hàng,
Coi Tiên coi
Phật mới ngoan bớ trần.
(Quyển
3 Sám Giảng)
Mẩu chuyện thứ 26
LỘ VẺ TỪ BI
Năm Quí
Dậu (1933), lúc Đức Thầy tuổi đời còn
niên thiếu mà đã biểu lộ đức tánh từ bi
cao cả. Ai để tâm theo dõi câu chuyện lạ ở
làng Hòa Hảo sau đây, chắc không khỏi suy nghĩ
luận bàn.
Thời
nầy dân cư trong làng Hòa Hảo còn thưa thớt,
cỏ cây rậm rạp. Sau nhà Đức Ông, một
vườn tre rộng đến hàng mẫu Tây,
đến mùa nước lên, chẳng biết từ
đâu vô số cò trắng tập trung về làm ổ,
đẻ rất nhiều ổ trứng. Cò mẹ, cò con
thật đông đảo.
Thấy
vậy Đức Ông ra lịnh cấm người ngoài và
người nhà, bất cứ ai chẳng đặng vào
vườn tre hốt trứng và bắt cò mẹ, cò con.
Nhờ vậy nên mỗi lúc loài cò rủ nhau về càng
đông. Việc nầy thiên hạ đồn vang, thấu
đến tai viên chủ quận Tân Châu. Một ngày kia
Đức Ông có việc đến Quận
đường, dịp nầy viên chủ quận Tân Châu
liền ngỏ ý với ông Cả:
Thưa
bác, nghe đồn sau nhà vườn bác có nhiều cò
trắng, vậy xin phép cho tôi phái người đến
bắn một bữa về làm tiệc nhậu chơi, có
được không bác Cả?
Đức
Ông suy nghĩ một chút rồi đáp:
– Thưa
chủ Quận, chẳng mấy khi quan Quận hỏi tôi
mà chẳng đáp ứng được, tôi thấy
cũng hết sức e ngại, nhưng tôi xin quan Quận
suy nghĩ, giải quyết giùm sự nan giải trong lòng
tôi. Số là trước đây mấy tháng, loài cò nầy
chẳng rõ từ đâu về làm ổ tại vườn
tre của tôi khá nhiều. Tôi cũng đã cấm
người trong nhà, ngoài làng xóm, không ai được
hốt trứng, bắt con ăn thịt, bởi tôi
nghĩ rằng chim cò là loài cầm thú thường rất
sợ người, thế mà khi chúng làm ổ tôi ra xem chúng
chẳng hề sợ sệt chi cả. Chúng dạn dĩ
lạ lùng. Tôi thiết nghĩ từ hồi nào tới bây
giờ chưa từng xảy ra như vậy. Rất
lạ là chúng nó không hề đậu, hay làm ổ ra ngoài,
mà chỉ trú ngụ trong phạm vi vườn của tôi mà
thôi, chắc chúng nó tin tưởng có sự che chở an
ổn của tôi. Rồi ngày qua tháng lại được
ở yên, nên chúng mới rủ nhau về làm ổ đông
như thế.
Thưa
quan Quận, chẳng những ở trong làng Hòa Hảo, dân
có tới xin bắt chim cò, mà cá nhân viên ban Hội Tề lân
cận như Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Bình
Thạnh Đông, Tân Huề, Phú An cũng đến xin
như vậy. Trước sau tôi đều nhứt
nhứt không cho. Tôi nghĩ chắc có số người nào
đó, bởi tôi không thỏa mãn yêu cầu ấy mà họ
đến nhờ quan Quận cho người đến
bắt cò mở đường trước cho họ
tấn tới chăng?
Quan
Quận nghĩ coi, bấy lâu nay lũ cò mẹ, cò con
đều tin tưởng sự che chở của tôi,
bỗng hôm nay tôi thuận để cho quan Quận bắn
giết chúng nó, thì hóa ra tôi gạt gẫm bầy cò tới
cho đông để rồi cho người vào sát hại
như vậy. Đối với chúng chim cò là tôi bất
tín, còn đối với người làng nước là tôi
bất uy. Vì từ đầu chí cuối, ai đến yêu
cầu vào vườn sau bắn tôi cũng đã từ
khước hết kia mà. Thưa quan Quận, theo tôi
nghĩ Ngài muốn ăn mỹ vị cao lương gì mà
chẳng được, không thiếu món chi. Thế mà
cần chi thịt cò, rất tanh hôi tầm thường
ấy.
Nói
tới đây ông ngưng nghỉ. Viên chủ quận
chưa tha còn dài dòng lý sự:
– Thưa
bác Cả, tôi nghe loài chim cò săn được đem
nhổ sạch lông rồi ram, đem ướp vị,
nướng cho vàng, rồi mỗi người một con,
rứt thịt mà ăn từ ngoài tới trong. Nhậu
rượu thú vị lắm. Hôm nào nhờ bác Cả cho
bắn một mớ để làm mồi uống
rượu chơi, xin bác vui lòng.
Thấy
thái độ cương quyết của quan chủ
Quận Đức Ông mới trả lời:
– Thưa
quan chủ Quận, những nỗi khó khăn nơi lòng
tôi, như tôi đã vừa cạn tỏ. Nếu quan
Quận quyết ý, thì ngài lấy tư cách chủ Quận,
cứ đến đó muốn bao nhiêu tùy ý. Sau đó
Đức Ông ra về.
Chỉ
mấy bữa sau, một buổi sáng vào khoảng 8 hay 9
giờ, một chiếc xe hơi từ Tân Châu đến
ngừng trước nhà Đức Ông. Có hai nhân viên
xuống xe định vào gặp ông Cả để trình
lịnh chủ Quận, xin bắn cò. Ông cả đi
vắng, họ gặp bà Cả và nói:
– Thưa
bà Cả, chúng tôi xin trình lịnh quan chủ Quận xin
bắn cò. Nay ông đi vắng, xin bà trao lịnh nầy
đến ông Cả. Đoạn hai người ra xe nay
nịt bì đạn, súng trường rồi đi thẳng
vào sau vườn.
Hai người chưa ra tới vườn,
bỗng họ gặp một trang thiếu niên, dáng mạo
khôi ngô, tráng kiện khác thường. Đó là Đức
Thầy, Ngài đứng giữa lối đi, chận hai
người lại và ôn tồn hỏi:
– Hai ông phải là người trên quận
bảo xuống bắn cò chăng?
Một trong hai người đáp:
– Phải. Rồi hỏi lại:
– Cậu đây có phải Cậu Tư con bác
Cả không? Đức Thầy đáp:
– Phải.
Và Ngài nói tiếp:
– Tôi nhận thấy hai ông tiền căn có
chút duyên với Phật, nên vì hai ông mà tôi khuyên đây.
Mặc dầu hôm nay hai ông thi hành lịnh trên làm việc sát
sanh, nhưng thảo nào tránh khỏi ngày cộng nghiệp
do luật nhơn quả bất di bất dịch, hai ông sao
không nghĩ câu: “Nhơn
vật dử đồng”
của cổ nhân. Đây là đồng tình thương,
cùng một bản giác. Nếu con người có tình
thương vợ chồng, thì loài chim chóc, cò diệt, chúng
cũng có tình trống mái ấp yêu. Nếu con người
biết ham sống sợ chết, thì chúng cầm,
điểu cũng đồng như ta vậy. Nay hai ông có
thấy không? Loài điểu thú cũng ấp yêu đẻ
trứng nở con, lớp trưởng thành hình vóc, lớp
mới nở, lớp ra ràn. Nếu hai ông bắn giết
mẹ cha chúng nó, chồng hoặc vợ chúng nó rồi, hai
ông hãy hình dung cảnh chia ly, tử biệt, con mất cha,
vợ mất chồng. Rồi đến cái chết
dần mòn thê thảm của ổ trứng hoặc của
đoàn con thơ dại như thế nào? Chắc hai ông thừa
hiểu, khi vợ hoặc chồng, khi mẹ hay cha chúng
bị giết hại rồi thì trứng sắp nở kia
cũng bị ung thúi, chim cò non thì phải chết đói,
chết khô rũ xác tiêu hình. Các ông bắn giết một
hai con thì sẽ chết theo năm bảy con khác, hoặc
đến nguyên cả tổ, cả đàn chim vô tội,
thử coi cái cảnh bi thảm là dường nào? Thế
thì tại sao nỡ đành lòng, chỉ vì miếng ăn mà
sát sanh hại mạng.
Hai tay xạ thủ nãy giờ đứng yên
nghe Đức Thầy nói tới đó, thấy đầu
óc có vẻ bồi hồi cảm động. Mắt
họ đăm chiêu nhìn xuống, tỏ ra rất tư
lự.
Bỗng một anh nói:
– Thưa Cậu Tư, lời cậu vừa
khuyên thật là quí báu, song bổn phận chúng tôi hôm nay
chẳng gì hơn là phải săn cho được
thịt cò để mà về phục lịnh trên. Xin
Cậu Tư biết cho hoàn cảnh nầy của chúng tôi.
Tiếp theo đó hai bóng người lầm
lũi tiến bước. Đức Thầy cũng
bước từng bước, Ngài vừa đi vừa
nói:
– Tôi vì tình thương mà phải nói, hai ông vì
bổn phận mà phải làm. Do đó tôi báo cho hai ông
biết trước, hai ông sẽ bắn không
được con cò nào đâu!
Kế Ngài rẽ qua lối khác trong
vườn vào nhà. Câu nói đó của Đức Thầy
khiến cho hai xạ thủ đều sanh nghi, vừa
rảo bước chân, một anh nói nhỏ với bạn
mình:
– Nghe người ta bảo Cậu Tư
đang lên cơn thì phải? Người kia đáp:
– Anh thấy chưa, chim cò đông
đặc, chúng sống chen chút như thế nầy.
Thứ súng nhạy và đạn chày nầy nổ ra
một phát thì chúng sẽ chết hàng lũ hàng đàn.
Vậy mà cậu ấy nói bắn không được,
đó chẳng phải là lên cơn sao?
Lúc bấy giờ hai tay xạ thủ quả
đang thấy tận mắt, cò đứng đó đây
dẫy đầy trên các bụi tre, lớp lớp
điệp trùng, ổ trứng không đếm xuể. Có
điều rất lạ là chúng chẳng hề biết
sợ người, chúng tỏ ra rất tự nhiên,
mặc cho loài người xuất hiện, lướt xông
đến tận sào huyệt chúng. Cả hai đều
đinh ninh rằng chỉ nổ ra một phát đạn,
ít ra cũng lượm hàng chục con mồi. Chuẩn
bị xong đâu đó, họ liền cho nổ phát súng
đầu.
Đùng … ùng … ùng … làm vang động cả
khu vườn xưa nay có tiếng yên tĩnh nhứt.
Đàn cò nghe động đột ngột nhứt tề
chúng bay bổng lên không trung. Chúng bay đi lượn
lại, kế rồi dần dần đáp xuống
chỗ cũ, không thấy con nào bỏ tổ bay đi
loạn hàng bỏ ngũ. Quan sát kỹ, hai anh quả
chẳng tìm thấy và không lượm được
một con cò trống mái nào. Thế có lạ không?
Sau đó tiếng đùng … ùng … ùng … thứ
hai, rồi thứ ba kế tiếp.
Thật kỳ lạ, từ phát súng
đầu cũng như phát súng cuối cùng, hễ sau
tiếng nổ thì đàn cò lập tức bay lên, và hễ
dứt tiếng nổ một tí thì chúng bay về y tổ
cũ, tuyệt nhiên không có con nào bị đạn, thọ
thương. Có điều lạ hơn nữa là hễ
góc vườn nào bị bắn có tiếng nổ thì lũ
cò bay lên đáp xuống. Chổ khác không nhắm tới thì
thấy con nào con nấy tỏ ra bình thản xem như không
có gì xẩy ra. Hai ngươi trước sau đã làm tiêu
hao hết mười mấy viên đạn trong số
mười tám viên đã lãnh, thế mà chẳng hề
lượm bắt được con mồi nào, thế
mới lạ. Không biết làm sao hơn, cả hai xạ
thủ đều thất vọng não nề, đành mang
súng dài với viên đạn cuối cùng lủi thủi ra
xe.
Họ bàn nhỏ với nhau, phải chi nghe
lời Cậu Tư không bắn từ đầu, bì đạn
còn, rất dễ phục lịnh cấp trên. Giờ thì
đạn đã hết, mà không lượm được
chim cò gì, thất bại sẽ về ăn nói làm sao?
Thế nào cũng bị quở trách nặng nề.
Khi cả hai tiến bước ra
đường cái, bỗng Đức Thầy đi
đến Ngài hỏi:
– Hai ông có biết tại sao bữa nay
bắn chẳng được cò chăng?
Thấy cả hai đang lúng túng chưa tìm
được câu đáp, Ngài liền tiếp:
– Hai ông có duyên lành kiếp trước nên
gặp may mắn, nên khi lãnh mười mấy viên
đạn, song chỉ một viên đạn thiệt mà
thôi, còn bao nhiêu là đạn giả cả. Cho nên bắn
chẳng được chim cò. Từ này về sau
đừng lãnh việc sát sanh nữa! Nếu lãnh
được đạn thiệt thì ôi thôi cái cảnh
đoạn trường, giết mẹ bỏ con,
chồng xa vợ, vợ bỏ chồng, tội ác ấy
chừng nào mới hết.
Thế là hai xạ thủ được
nghe Đức Thầy thuyết về luật nhân quả
một lần nữa. Trước những lời lẽ
đầy hiền hòa nhơn ái của Đức Thầy,
cả hai người đều thừ người ra
như tượng gỗ. Thấy vậy Ngài giục thúc:
– Thôi hai ông cứ yên lòng, đừng quá lo
phiền về việc vừa rồi không kết quả
sẽ bị quở phạt. Không sao đâu, nếu
thất bại về việc nầy sẽ thành công vào
việc khác để bù lại. Gặp hoàn cảnh ấy
thì ta nên nhớ câu: “Nhứt ẩm nhứt trác giai do
tiền định” của người xưa vậy. Hai
ông hãy về đi, hai người quên rồi sao? Giờ
này mà về đến nơi là trễ giờ qui
định rồi đó.
Tới đây hai người liền cúi chào
Đức Thầy rồi bước ra chỗ xe
đậu. Anh tài xế rất đỗi ngạc nhiên vì
thấy cả hai nhà thiện xạ về tay không. Họ
đã qua nhiều khâu chuẩn bị, phí cả buổi
trời đi săn bắn. Theo tưởng tượng
của người lái xe, sau những phát súng nổ vang
dội, chắc chắn hai người lượm xác chim
cò mang không xuể, đàng nầy hóa ra công dã tràng xe cát
rồi.
Hai xạ thủ từ từ lên xe, họ
nặng nề ngả người lên nệm êm, chậm rãi
trả lời tài xế đang dồn dập hỏi lý do
về không, tay trắng. Một anh nói trong não nề,
thất vọng:
– Bữa nay dở quá, bắn hết
đạn mà chẳng lượm được con cò nào.
Thế rồi anh tài xế rồ xe thẳng
đường về Tân Châu, còn trong tâm trí của hai
người kia thì đầy nỗi ưu tư. Họ
linh cảm giờ nầy quan quận đang băn
khoăn chờ đợi, chắc ông ấy đang
sẵn sàng tổ chức các món phụ tùng để
nhắm vào món chính là thịt cò, mà cò chim ở đâu
đâu. Hơn nữa trong chuẩn bị, quan quận
đã mời thực khách là những đại biểu
của hương chức hội tề trong chín xã.
Chương trình như có báo trước là sau vài tiếng
đồng hồ bàn việc nước việc làng là
tới giờ liên hoan hội ẩm, mà thịt cò chiên
bơ là món đặc biệt hơn hết. Thế mà hai
ta đi không về rồi, như thế nầy biết
lấy chi mà đỡ đòn?
Trong khi cả hai đang miên man suy nghĩ,
bỗng xe tới hồi trục trặc. Tài xế cho xe
dừng lại, bước ra lục lạo buồng máy
sửa chữa. Hai xạ thủ cũng xuống xe xả
mát, coi lại nơi đây là trước đình thần
Phú An. Thình lình có hai đứa trẻ từ sau đình
chạy tới kêu nói:
Hai chú ơi! Hai chú có súng ra đây bắn hai
con chim lớn quá kia kìa, chúng đang đậu ở cây sao
đó.
Hai anh nghe báo mừng ra mặt, vội xách
súng chạy ra, quả thấy hai con chim khoang cổ to
đậu ở ngọn cây sao khá cao. Hai anh khoát tay bảo
hai hứa trẻ vô ẩn ở dưới mái hiên đình,
để mình kiếm chỗ khuất giấu mình ngắm
nghía. Một anh nói vừa đủ nghe:
– Đã hết mười bảy viên không
được con nào, giờ chỉ một viên độc
nhứt, chắc gì bắn trúng mục tiêu.
Anh xạ thủ xách tòn ten con mồi chạy
vào phủ đường, quan quận nãy giờ chờ
đợi, thoáng thấy xe về, lên tiếng hỏi
dồn dập:
– Cò đâu? Sao tụi bây lâu lắc quá, đã
gần 11 giờ rồi, chỉ có hai con đó à?
Hương chức hội tề vừa tan
hầu, mỗi ông một câu hỏi han rộn rịp,
bầu không khí ồn ào thiếu ổn định. Hai
xạ thủ trả lời ngắn gọn:
– Bắn cò chẳng đặng, chỉ
được hai con nầy.
Một vị trong ban hội tề làng nào
đó đưa ra một câu hấp dẫn góp phần xoa
dịu bầu không khí đang căng thẳng. Câu nói
của ông nầy vừa góp phần cứu vãn tình hình,
cũng vừa khen ngợi cho vui:
– Thịt cò đâu bằng thịt chim khoang
cổ. Nầy nhé, có mười con vịt Xiêm trống
tơ cũng chưa đổi được cặp chim
khoang cổ nầy, nhứt là bộ đồ lòng của
nó đem xào chua uống rượu là tuyệt hảo.
Quả nhiên cặp khoang cổ đồng
loạt hy sinh, chúng đã chết đúng lúc để góp
phần cứu vãn tình thế. Bây giờ thay vì bị quan
khiển trách tối đa thì bộ đồ lòng của
cặp chim to lớn nầy trở thành món khai vị, làm
phát pháo đầu cho bữa tiệc liên hoan hôm ấy. Rõ
thật là rượu nồng thịt béo dễ gây phấn
khởi trong lòng của bao thực khách lúc bấy giờ.
Nhứt là hai xạ thủ đã tỏ ra bất tài, suýt
hỏng việc lớn của quan ngài, đáng trách mà không
bị quở phạt, trái lại họ còn được
phép oang oang kể lại giữa tiệc về mẩu
chuyện lạ họ vừa mục kích ở tận
dưới làng Hòa Hảo cho quan đầu quận và
đại biểu hương chức chín xã hội tề
cùng nghe.
Món lòng chim khai vị cạn dần. Tiếp
theo chương trình là món thịt chim khoang cổ xào
lăng, gia vị bún, nắm, củ hành tiều thơm
nức mũi. Buổi liên hoan vui nhộn diễn ra trong
không khí cởi mở sôi động. Các quan chức vừa
thưởng thức món chim rừng thêm có bồ đào
mỹ tữu. Tất cả vừa thích thú nghe hai xạ
thủ thi nhau kể chuyện dài dài. Hai anh luân phiên nhau
kể lại từng chi tiết mà chính họ là vai
thường trực từ giờ đầu cho tới
phút cuối. Từ lúc gặp Cậu Tư Hòa Hảo,
Cậu Tư đã khuyên can như thế nào, Cậu Tư
nói tiên liệu những gì sắp đến, cuối cùng
kết quả đưa tới đều y như lời
báo trước, như có việc sắp xếp
trước vậy. Lạ nhứt là đàn cò đông vô
số mà chúng chỉ làm tổ sống tự nhiên trong
phạm vi vườn nhà ông Cả Hòa Hảo mà thôi.
Đến việc tốn hết mười mấy viên
đạn mà chẳng lượm được con chim cò
nào. Ly kỳ hơn nữa, ngẫu nhiên mà y như
Đức Thầy cho biết trước rằng nếu
thất bại việc nầy, bắn cò không kết
quả, sẽ thành công việc khác. Hai người lấy
làm thích thú quay lại cuốn phim vừa diễn ra ban sáng
ở làng Hòa Hảo, không bỏ qua một chi tiết
nhỏ nhặt nào.
Trong buổi liên hoan ai cũng chăm chú theo
dõi. Trong số thính giả hôm ấy, có ông Đào Thành
Đô, Hương cả làng Tân An là ít ăn thịt
uống rượu hơn hết, và ông đã lắng nghe
câu chuyện một cách say mê. Hai anh xạ thủ vừa
kể hết câu chuyện làm cho thính giả đều
ngạc nhiên, cho là việc chưa từng có. Mọi
người đều miên man suy nghĩ. Riêng quan chủ
quận Tân Châu, người chủ trì buổi liên hoan hôm ấy
thì tỏ ra dửng dưng. Chắc ở tận đáy
lòng ông quận không khỏi gợn lên một sự sỉ
hổ, bởi ông không đạt được ý muốn
ban đầu mà ông đã dùng quyền uy quá đáng, có
lẽ bất công đối với vị Hương
Cả ở Hòa Hảo.
Thế là quan Quận lên tiếng kết thúc,
vừa cũng để chữa nỗi thẹn thầm:
– Đối với tôi thì chỉ là một
sự thường nên không lấy gì làm lạ, chẳng qua
là phước chí tâm linh vậy thôi.
Bữa tiệc chưa tàn hẳn, vị
Hương cả làng Tân An, cụ Đào Thành Đô đã
cáo say. Thật ra trong bữa tiệc cụ ít ăn
uống. Xuống ghe hầu về làng, mang theo tâm sự
miên man, suy nghĩ nhiều chuyện lạ ở Hòa Hảo
mà cụ vừa được nghe kể lại.
Thuật theo lời của ông Lê văn Phú
tự Tho.
PHẦN NHẬN XÉT:
Theo tài liệu Phật học, thì mỗi khi
Phật lâm phàm để hóa độ chúng sanh trong thời
niên thiếu đều có lộ từ bi. Chính Đức
Phật Thích Ca xưa kia cũng thế. Đó là báo hiệu
cho chúng sanh biết Phật sẽ ra đời, cứu
độ chúng sanh thoát khổ.
Về việc đàn cò, nhận xét cốt
truyện nầy có ba ý chánh:
1- Đức Ông với Bi, Trí, Dũng.
2- Đức Thầy với việc chúng sanh
ăn nuốt chúng sanh.
3- Cứu đàn cò thoát chết có ý chi?
Đức Ông đối với Bi Trí Dũng
trong thời kỳ đạo đức đang xuống
dốc, con người cứ trụy lạc hoan chơi,
rượu chè, cờ bạc, chơi bời, không phải
riêng một ai, mà đâu đâu cũng thế, lúc ấy ở
Hòa Hảo có ông Cả khác thường. Khi đàn cò
đến làm ổ trùng điệp, nào là trứng cò, cò
con, cò mẹ, sao không bắt hoặc hốt trứng mà
ăn? Trái lại còn đùm bọc, chở che nhiệt
liệt.
Đứng về đạo đức mà
xét, ta thấy Đức Ông đã thể hiện
đức Bi. Hơn nữa thời nầy là thời Pháp
thuộc, thế lực đang thịnh hành, nên ai có
quyền thế thì người ta tìm cách để cầu
thân. Trái lại quan chủ quận Tân Châu xin bắn cò, mà cò
là loài chim rừng thế mà Đức Ông dùng tài lưu loát
để khuyên can ông Quận đừng ăn thịt cò,
là Đức Ông đã có đức trí.
Ở vào thời Pháp thuộc tức nhiên
chức vụ quan chủ quận là người có
quyền sinh sát nằm trong tay, nếu ai nghịch lại ý
muốn của họ, người đó coi như là
xấu số. Thế mà Đức Ông lại
được quan quận thành khẩn tới hai lần,
nhưng ông vẫn không cho. Đó là: “Uy vũ bất năng
khuất”, ấy là đức Dũng.
Lòng từ bi của Đức Thầy, khi
thấy chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau. Bởi vô minh che
mờ tâm trí, nên chúng sanh cứ vì miếng ngon thịt béo mà
sát giết lẫn nhau, để rồi phải chịu
sự luân chuyển xuống lên mà trả nợ nần, nên
phải tiếp nối cái khổ triền miên theo bánh xe
Lục Đạo. Thật đúng với lời của
Đức Thầy cho biết rằng:
Chuyển luân trong nhân vật các loài,
Căn mờ ám làm điều dại
dột.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Bởi thế Phật mới biểu lộ
từ bi. Mặc dù chưa tới thời kỳ khai cơ
lập giáo, nhưng cũng đánh dấu cho chúng sanh
biết là đã có Phật ra đời để cứu
khổ.
Cứu đàn cò thoát chết có ý chi? Có
rất nhiều ý, nhưng chúng tôi xin dẫn ba ý chính:
a- Ý thứ nhứt: Xét nhận linh tánh con
người và vạn vật, căn cứ theo nhân sinh
luận và tâm linh học thì loài người linh hơn
vạn vật, đều đó ai ai cũng công nhận.
Nhưng cũng có cái ta thua chúng. Bằng chứng vào
thời hạn hán chỉ nghe tiếng con ếch kêu ta
biết trời sắp mưa, quả thật có vậy.
Loài kiến cũng biết tha trứng dời chỗ
ở khi sắp có nước lũ. Chim hồng, chim
nhạn cũng biết vầy đàn dời chỗ khi
tiết trời sắp đổi. Thế thì chúng ta thua
chúng nó rồi, vì chúng nó biết trước mà chúng ta
chưa biết. Vậy đàn cò cũng thế, sở
dĩ chúng lũ lượt kéo đến làm ổ tại
vườn Đức Ông là vì chúng đã biết nơi
đây đã có Phật ra đời, kéo đến làm
ổ mà không sợ một ai. Vì nương theo hồng
đức của bực Lưỡng Túc Tôn che chở cho
chúng được an toàn, nên khi bị bắn chúng vẫn
bình tĩnh an nhiên không bao giờ sợ hãi. Như vậy
mới năm 1933 mà chúng đã biết có Phật ra
đời tại nhà Đức Ông rồi, nên mới kéo
đến mà nhờ sự đùm bọc che chở của
bậc Đại Giác Ngộ. Còn ta phải đợi
đến năm 1939, được Thầy mở
Đạo Thuyết pháp ta mới biết mà quy y. Như
vậy ta thua chúng rồi, vì chúng biết trước mà ta
không biết.
b- Ý thứ nhì: Để cho người
vững niềm tin, bởi loài cò là giống chim muôn mà còn
được Phật bảo bọc an toàn. Huống chi là
loài người, nếu chịu làm đúng theo Thánh giáo
của Ngài thì tin chắc sẽ được Phật
lực gia hộ vạn bội lần như thế
nữa.
c- Biểu lộ vạn năng: Ở vao
thời kỳ cuối của buổi hạ nguơn
nầy, nền văn minh khoa học họ đủ
sức tiêu diệt loài người, nhưng Đức
Thầy đã ung dung cho biết là:
Đầu ngưỡng vọng đất
trời minh chứng,
Tấm lòng thành quyết dựng đạo
đời.
(Thu Đã Cuối)
Vậy dựng Đạo lập Đời
do sắc lịnh của Phật và Trời để
chấm dứt cái Nguơn đen tối bạo tàn nầy
mà lập lại cái Nguơn trong lành và toàn thiện. Nên khi vâng
sắc lịnh lâm phàm, Ngài đã hé lộ huyền cơ qua
nhiều nơi trong Sấm Thi của Ngài không sao tả
xiết. Như là:
Trần thế lợi danh giấc mộng
tràng,
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,
Tầm đấng hiền từ cứu
thế gian.
(Lộ Chút Huyền Cơ)
Vậy nếu là người trí, thì nên
hết lòng tuân thủ giới quy, kiên tâm tu tiến, dù
gặp cảnh thiên nan vạn khổ chớ nên nãn chí nao
lòng. Bởi Ngài đã báo cho ta biết trước là:
Ra kệ nầy hai chữ Bảo An,
Cho trần thế được tâm thanh
tịnh.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Vậy Bảo là bảo bọc che chở,
còn An là an toàn mọi sự. Đức Thầy chúng ta là
Phật nên có đủ đức độ vạn
năng để bảo bọc che chở cho ai là
người thiệt tâm tu sửa. Vậy chúng ta hãy
vững niềm tin mà nghe lời chỉ dạy của Ngài
để được bao bọc che chở an toàn
mọi sự để tiến đến chỗ thanh
tịnh giải thoát.
Mẩu chuyện thứ 27
PHẬT, LÃO, NHO
Ông Cả Đào Thành Đô, Hương
cả làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc là
một nhà nho uyên thâm. Ông cả Đô nặng lòng ái quốc
ưu dân, gặp cảnh nước mất nhà tan, ông luôn
thao thức trước tiền đồ Tổ Quốc.
Ông mượn chức vị Hương cả,
đứng đầu Ban hội Tề làng Tân An làm bình
phong để tiện bề hoạt động theo ý
muốn. Ông cả có sắm chiếc ghe hầu bốn
bổ chèo. Khi có việc lên quan xuống huyện, ông
xuống ghe bảo gia nhân chèo đưa ông đi. Ông mượn
phương tiện nầy chu du khắp Hậu giang,
Tiền giang để tìm người tri âm, tri kỷ. Ông
cả chẳng những thông suốt Tứ Thư, Ngũ
Kinh của Khổng Mạnh mà còn am hiểu về
đạo Phật, đạo Lão nữa. Sĩ phu trong vùng
đều nghe danh ông Cả. Ông thường lui tới
vấn đáp họa thơ với các nhà nho như Năm
Di, Bảy Hinh v.. .v.. .
Ngày kia ông Cả nghe Đức Thầy
mở Đạo dạy đời ở Hòa Hảo.
Đức Thầy có biệt tài trị bịnh bằng
giấy vàng nước lã mà bịnh chi cũng lành. Ngài
cũng có đặc tài cải tử huờn sanh, làm
chấn động y giới lúc bấy giờ.
Ông cả Đô nhớ lại giữa
thế kỷ trước, tức thế kỷ
mười chín, ở miền Tây Nam Việt nầy đã
có Đức Phật Thầy Tây An cứu đời,
cũng bằng phương pháp tương tợ như
Đức Thầy đang áp dụng ngày nay. Cùng với
chuyện lạ ở làng Hòa Hảo mà ông được
nghe từ bữa tiệc liên hoan có thịt chim ở
quận đường Tân Châu, nên ông quyết đến
Hòa Hảo để dò xem hư thực.
Chỉ mới lần đầu đến
yết kiến Đức Thầy mà Ngài tỏ ra am
hiểu nhiều về ông Cả. Ngài ôn tồn nói:
– Mừng ông Cả Tân An mới đến,
mời ông ngồi.
Nếu ai để ý một chút cũng
đều thấy Đức Thầy bình đẳng
tuyệt đối. Với bất cứ ai cũng
vậy, Ngài không chút gì tỏ ra kẻ trọng người
khinh, Ngài đối xử giống nhau với hết
thảy mọi người đến viếng Ngài. Có
điều đặc biệt là gặp ai Ngài cũng biết
tất cả, biết rõ họ tên và chỗ ở nữa.
Đức Thầy tiếp tục hoằng Pháp độ
sanh, trong hàng thính giả bây gờ có thêm ông Đào Thành
Đô. Ông cả làng Tân An cũng chú ý ngồi nghe
Đức Thầy Thuyết Đạo mà quên mõi mệt, và
ông nghĩ rằng bình sinh mình chưa từng gặp
Thiền sư hoặc Pháp sư nào có biện tài như
Đức Thầy. Thật là danh bất hư truyền.
Về Nhơn đạo, Ngài khuyên ai nấy
học theo Khổng Mạnh, cư xử với nhau. Trai
thì giữ trung hiếu, gái thì lo tròn tiết hạnh.
Đức Thầy chỉ dạy một cách rành mạch
lớp lang làm cho ông Đào rất khâm phục. Có lúc ông
Đào muốn đứng lên vỗ tay hoan hô tán thán lời
Thuyết Pháp lỗi lạc của Đức Thầy,
nhưng ông Đào trấn tĩnh ngồi yên theo dõi. Kế
Đức Thầy tạm ngưng thuyết Pháp, Ngài xoay
sang trị bịnh, bởi lúc bấy giờ có lắm
bệnh nhơn chờ đợi thôi kể sao cho xiết.
Bịnh thì ung thư nội ngoại,
người đau gan kẻ lại đau tim, đau
huyết vận, thổ tả, loạn thần kinh cũng
có, lắm bịnh đã đi tới Bác sĩ, các danh y
đương thời đều cho là nan y. Thế mà khi
chở đến Đức Thầy chỉ dùng giấy
vàng, nước lã cho bịnh nhơn uống, kỳ diệu
thay, hết thảy đều được Ngài cứu
khỏi, được lành mạnh rồi về nhà.
Có lần Đức Thầy nói:
– Có bà con cho rằng tôi lên cơn khùng,
người đời nói thế cũng phải. Bởi
trước cảnh chết của chúng sanh sông máu, núi
xương, tôi biết mà không khùng sao được.
Vậy tôi cũng nên nói tiếp chuyện tôi phát khùng,
rồi mùa Thu năm nay (1939) bắt đầu trên thế
giới từ Âu sang Á, vì danh lợi mà nhơn loại
tương tranh chủ nghĩa, họ gây ra cảnh máu
đổ thịt rơi, cha lìa con, vợ mất chồng,
đệ huynh ly tán, cảnh tóc tang bi thảm, kể sao cho
xiết.
Ngài ngâm một đoạn Sấm giảng:
Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng Rồng Rắn máu đào
chỉnh ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề
gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mời ngưng.
(Quyển 1Sấm Giảng Khuyên Người
Đời Tu Niệm)
Đức Thầy nói thêm:
– Bà con nên biết, đến đó canh khuya
gà gáy chiến tranh tạm ngưng chứ chưa dứt.
Ấy cũng bởi nhân háo sát nên phải chịu quả
tận tiêu, và khi lòng từ bi của Phật Tổ nơi
cõi trung ương cho Phật mở đạo cứu
đời, thì đồng thời cũng cho mở bốn
cửa Trời, sai hung tinh xuống thế tạo ra các
thứ dữ để tiêu diệt kẻ hung. Bởi
đó họ ngưng tiểu chiến tranh để
chuẩn bị đại chiến tranh. Hẳn bà con còn
nhớ chuyện Phong Thần, khi trận Tru Tiên kết
liễu, chết tất cả là bao nhiêu, nhưng phải
đợi đến trận Vạn Tiên, cái chết ôi thôi
vô số. Đến đó mới dứt cuộc
đại loạn của thời mạt Thương, qua
kỷ nguyên nhà Châu hưởng tám trăm năm an lạc.
Nói đến đây Ngài ngâm lên một
đoạn kệ trong quyển thứ nhì:
Khắp thế giới cửa nhà tan nát,
Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu.
Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,
Nay tận diệt lập đời trở
lại.
Khắp thế giới biến vi
thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thương
Nguơn.
(Quyển 2 Kệ Dân Của Người
Khùng)
Đoạn Ngài thuyết tiếp:
– Bởi tôi biết cái chết của chúng
sanh như thế, vì quá thương thảm cho chúng sanh mà
tâm trí tôi dường thể điên khùng.
Kế Đức Thầy xoay qua ông cả
Đô, Ngài hỏi:
– Ông Cả Tân An hôm nay muốn hỏi tôi
về Lý Tâm Truyền của tôn giáo phải không?
Ông Đào chưa kịp nói thì Đức
Thầy nói tiếp:
– Ông Cả nên biết, từ cổ chí kim,
khi các vị Giáo chủ ra đời lập giáo đều
có chủ thuyết của riêng mình. Muốn được
truyền bá chủ thuyết ấy, theo không gian và thời
gian bất diệt, gồm có ba yếu tố chính:
1- Phải được thầy khẩu
truyền.
2- Phải được trợ tâm
đắc.
3- Sau hết thầy mới tâm truyền.
Về Giáo chủ Phật đạo, do
Đức Thích Ca Mâu Ni khai sáng, lấy chân không tịch
diệt tức là Chánh Pháp Nhãn Tàng Niết Bàn Diệu Tâm làm
Tông. Trước khi tịch diệt, Phật Tổ truyền
cho Ca Diếp tại Linh Thứu Sơn. Sau đó Ca Diếp
truyền xuống ba mươi hai đời Tổ do
đó mà đạo Phật trải qua hơn hai ngàn năm
rồi mà vẫn còn được thạnh hành.
Đức Thầy giảng tiếp:
– Về Giáo chủ Đạo Tiên là do Lão
Tử mở đầu. Trong thời của Ngài,
đạo lấy Hư Vô Thanh Tịnh làm Tông, nhưng vì
thiếu tín đồ tâm đắc, nên Ngài Lão tử
phải truyền qua văn tự, viết bộ
Đạo Đức Kinh trên năm ngàn lời. Cho đến
một trăm năm sau, Trang Tử học Đạo
Đức Kinh được tâm đắc, sẽ
được tâm truyền. Trang tử đã làm cho Lão
Tử học thuyết vang tiếng một thời và
được truyền mãi mãi đến ngày nay.
Kế Đức Thầy thuyết về
Đạo Nho:
– Về Giáo chủ Đạo Nho, do Khổng
Tử chủ trương, lấy Nhất Quán làm chánh Tông.
Phu Tử truyền cho Tăng Sâm, Tăng Sâm mới
truyền cho Khổng Cấp là con Khổng Lý, tức cháu
nội Đức Khổng Tử. Khổng Cấp tâm
truyền cho Mạnh Kha tức Mạnh Tử, do đó mà
Đạo Nho được truyền bá cho đến ngày
nay.
Đến đây Đức Thầy tạm
ngưng để dùng bữa. Trong hàng thính giả hôm
ấy được dịp bàn tán sôi nổi, họ
thầm phục tài biết nhiều hiểu rộng
của Đức Thầy, bởi Ngài chỉ có hai
mươi mốt tuổi đời, mà bác lãm quần
thơ, suốt thông Tam Giáo. Cuối cùng ai cũng nhận
Đức Thầy là bậc Sanh Nhi Tri.
Riêng ông cả Đào Thành Đô, từ khi
được Đức Thầy gọi cho tới khi Ngài
dứt lời để dùng cơm, ông Đào dường
như bị phép định thân, ông ngồi yên như
một pho tượng, cho đến khi số
người nghe Pháp ra về gần hết, bấy giờ
ông Cả mới đứng lên đi thẳng xuống ghe
hầu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ông cả Đô tuy là một nhà Bác Lãm Nho Gia,
nhưng khi diện kiến Đức Thầy,
được nghe lời thuyết giảng của Ngài
cũng phải hết lòng kính phục. Mà không phục làm
sao được? Xưa nay người chuyên học
Phật thì rành Đạo Phật, người học Nho
thì am hiểu về nho là lẽ thường của
thế sự, nhưng ở đây Đức Giáo Chủ
lại khác hẳn với kẻ phàm tình. Nghĩa là Bác
Học Nhi Tri, quán thông mọi lẽ. Chẳng những quán
thông mọi lẽ theo thế trí biện thông của hàng
hữu học, mà lại còn thấu triệt cơ
huyền cả vũ trụ càn khôn. Nếu không phải là
Phật thì còn ai mà bác lãm như thế nầy? Đọc
qua về chữ Khùng mà Ngài đã đề cập
đến, ta thấy chỉ có lòng từ bi của bậc
Đại Giác mới có tình thương sâu rộng thế
kia. Tu hàng nhị thừa cũng không có được
đức từ bi thế ấy. Điểm nầy Ngài
cũng biểu lộ ở câu:
Thương quá sức bắt cuồng tâm
não,
Quyết cứu đời dùng Đạo
phổ thông.
(Đến làng Nhơn Nghĩa)
Về việc tiên tri của Ngài, ta thấy
ở quyển Nhứt (1939), khởi đầu Đệ
Nhị Thế Chiến năm Mèo cho tới hai quả bom
Nguyên tử của Đồng minh dội xuống
nước Nhựt để chấm dứt chiến
cuộc ở tháng Tám năm Dậu:
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
(Sấm Giảng Quyển 1)
Đây chỉ mới ngưng mà thôi, sau
cuộc tổng kê con số chết của cuộc
chiến hai phe Đồng Minh và Phát Xít từ năm
Mẹo tới năm Dậu, nghĩa là từ đầu
đến cuối Đệ Nhị Thế Chiến, con
số chết trên năm mươi triệu dân:
Lật
qua các báo mà coi,
Thấy
con số chết có mòi kinh nguy.
(Khuyến
Nông)
Nhưng
Ngài còn cho biết thêm, đó chỉ là tiểu thế
chiến mà thôi. Bởi cơ tận diệt của Lý Tam
Nguơn, thì đây khúc cuối của Hạ Nguơn, nên
phải có một cuộc tẩy trần để lập
lại Thượng Nguơn Thánh Đức. Để sáng
tỏ vấn đề hơn, Ngài còn cho biết, vào
cuối đời Thương khi chư Tiên lập
Bảng Phong Thần, chỉ nội trận Tru Tiên mà
chết vô số kể. Thế mà còn chưa hết,
phải chờ đến khi Thông Thiên Giáo Chủ lập
trận Vạn Tiên, con số chết còn thê thảm gấp
mấy lần. Bấy giờ Hồng Quân Lão Tổ mới
ra cứu vớt và chấm dứt chiến cuộc
đời Phong Thần.
Đọc
chuyện trên ta thấy cơ nghiệp của nhà Châu
được dựng chỉ có tám trăm năm mà còn
phải trải qua một cuộc chết chóc hãi hùng,
huống chi đây là cuộc Đại Tam Tai của
buổi tận Hạ Nguơn, lọc lừa người
hiền trở về với nguơn Thánh Đức, đâu
phải là chuyện tầm thường. Nhưng có
điều rất hân hạnh cho ta là, chúng ta đã
được Đức Thầy vâng sắc lịnh
của hai vị Phật Tổ lâm phàm, đã báo
trước cho ta biết rằng đây sắp đến
ngày tận diệt, những tai họa hãi hùng và chỉ
đường cho ta thoát khổ, mà con đường
đó là con đường thẳng, tắt dễ đi,
đó là đường về Tịnh Độ,
đường an lành xác thể, dầu sóng gió dập
dồn.
Thời
giờ có hạn, chúng tôi xin miễn bàn việc truyền
giáo của Khổng Mạnh và Lão Trang, mà chỉ kết thúc
lại ở ba yếu tố căn bản mà mỗi
người học đạo nào cũng phải
được mới đạt đến kết
quả hoàn mãn:
1-
Được khẩu truyền.
2- Tâm
đắc.
3- Mới
được Thầy tâm truyền.
Chúng ta hãy
bình tâm mà xét lại, về khẩu truyền thì hiện nay
mỗi người chúng ta tuy không trực kiến với
Đức Thầy để lãnh lấy khẩu giáo
của Minh Sư, nhưng cũng được phúc duyên mà
tiếp nhận toàn bộ giáo lý của Ngài, thì đó là ta
đều được tiếp nhận khẩu
truyền của Ngài rồi đấy.
Tâm
đắc, về điểm nầy nó thuộc bản
tâm, nên phải đòi hỏi ở mỗi bản ngã tự
mình biết lấy, nghĩa là khi mình học giáo lý của
Thầy mình thì tự tiếp nhận và trau sửa
được những gì. Nếu điều nào chưa
làm được thì phải nổ lực thiệt thi cho
bằng được ở bản tâm mình. Nếu
được hai điều ấy rồi thì sẽ
kết quả là Thầy mình tâm truyền cho mình vậy.
Cũng như Phật Thích Ca đã tâm truyền cho Tổ Ca
Diếp, và Tổ Ca Diếp tâm truyền cho Tổ A Nan.
Tóm
lại học Giáo lý là khẩu truyền và hành Đạo
là Tâm Đắc, mà được Thầy Tâm Truyền thì
kết quả chứng đắc vậy.
Mẩu chuyện thứ 28
CÙNG MỘT SỰ ĂN
Lúc
Đức Thầy đang lưu trú nơi tư gia ông Võ
Mậu Thạnh, tại xã Nhơn Nghĩa Cần Thơ. Có
ông Sáu Viên một tín đồ từ Long Xuyên đến
viếng thăm Đức Thầy, tiện việc, ông
Viên bạch hỏi Thầy về sự ăn uống
của người tu ra sao?
Đức Thầy bèn giảng cho ông Viên nghe:
– Sự ăn uống là giúp cho cơ thể
mạnh khỏe hầu thi hành việc đạo nghĩa.
Thân xác ví dụ như chiếc xe, cơm là xăng, vật
thực là nhớt. Xe có xăng nhớt chạy mới
được. Xe chạy bằng xăng nhớt, nếu
nói rượu là quí, đem đổ vào thì xe chết máy.
Thịt của các loài cá thì nặng nên chìm, song mau tiêu, còn
thịt của các loài thú có dầu mở nên nổi,
nhưng lâu tiêu. Ông xét coi món gì mau tiêu và ít tội thì cứ
dùng. Nên nhớ rằng: Ăn để mà sống, chớ
không phải sống để mà ăn, và người tu
không nên chấp thức ăn ngon dở, nhiều ít,
hoặc chú tâm đến các thức ăn trước khi
dùng. Cũng như hiện giờ là mười giờ, tôi
khỏi cần biết lát nữa đây ông Hương
Bộ cho tôi ăn món gì.
Được nghe lời Thánh huấn
ấy, ông Viên rất vui mừng, cởi mở, và ghi
nhớ mãi trong tâm tư.
Thuật theo lời ông Sáu Viên.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời dạy sáng suốt của Đức
Thầy như một huấn từ của bà mẹ thân
yêu. Thật vậy tuy cái ăn nó là sự sinh hoạt
rất tầm thường, ai cũng phải nhờ nó
mới sống được, nhưng nếu
người không biết làm chủ được cái ăn
thì cái ăn là thứ trở ngại không nhỏ
đối với con người. Xưa nay kẻ tiểu
nhơn thường đặt cho sự ăn làm quan
trọng, nên họ vì cái ăn sanh oán sanh thù, vì cái ăn mà
không màng tới lẽ phải trái nghĩa nhân, vì cái ăn
mà họ không từ chối những điều tội ác,
nếu có ai làm mất món ăn thích khẩu của họ,
họ sẽ không ngần ngại để cho ngọn
lửa sâu độc phóng ra, đôi khi đến chỗ
nồi da xáo thịt, tương sát tương tàn.
Đối với Giáo lý của nhà Phật
thì cái ăn là một trong năm món dục lạc,
chướng ngại cho kẻ tu hành, nếu không biết
điều phục nó. Xưa nay người
được coi là tu hành chính chắn thì lúc nào họ
cũng không quan trọng món ăn và luôn gìn lòng vị tha xả
kỷ. Xưa Tôn Giả Ca Thiên Diên chỉ dùng phương
cách ăn uống của Ngài mà hóa độ
được Ác Sanh Vương là ông vua đầy gian ác.
Ai có từng theo chơn Đức Thầy
trong thời gian vân du hóa chúng, đều nhận thấy
ở nơi Ngài rất đầy đủ đức
độ qua sự ăn uống. Chẳng những Ngài
không chú trọng mặc đẹp, ăn ngon, lại còn vì
chúng sanh mà ban tình thương cho các loài vật nhỏ.
Bởi vì: “Muôn loài đều có đạo, chớ sát
hại loài nào”, lời của Đức Lục Tổ.
Câu nói của Đức Thầy: “Ăn
để mà sống, chớ không phải sống
để mà ăn”, có một giá trị tuyệt
đối. Nếu ai biết áp dụng câu nầy thì
người ấy nhất định sẽ là
người tốt đẹp đối với xã hội
nhơn quần, hay nói một cách khác là họ cũng
một bậc hiền nhân quân tử.
Muốn cho tín đồ lấy trí mà xét
được việc tội phước của mình, nó
ảnh hưởng rất lớn trong cái ăn. Thay vì
khuyên hạn chế việc sát sanh để tránh bớt
điều tội lỗi thì Ngài mách khéo cho tín đồ
biết rằng: “Xét coi món gì ăn vào mau tiêu và ít tội
lỗi thì cứ dùng”.
Cao quý thay lời từ huấn của
đấng cha lành, không phải chỉ để dạy
riêng ông Sáu Viên mà chúng ta đều có diễm phúc
được học theo kim ngôn ngọc ngữ nầy,
để áp dụng cho mình, nhứt định sẽ
trở nên một con người cao đẹp và
hưởng quả phúc tốt tươi ở
tương lai.
Mẩu chuyện thứ 29
LÒNG QUẢNG ĐẠI
Năm Đinh Hợi (1947) Đức
Thầy về Phú Thành, ngày 14 tháng 2 Âm lịch, lúc 10 giờ
đêm tại nhà Hương Chủ Bộ. Thầy
tỏ ra cử chỉ băn khoăn không vui. Thầy
hỏi tôi và tướng Nguyễn Giác Ngộ rằng:
– Mấy
người thù Việt Minh không?
Tôi và ông
Nguyễn làm thinh không dám trả lời. Thầy tiếp:
– Thôi thù
làm chi, lỡ mình với họ xô xát với nhau, chết
một mớ ít, mình cũng nên bỏ qua. Đó chẳng qua
là duyên nghiệp với nhau, nếu thù mà xô xát với
họ nữa càng chết nhiều thêm chớ có ích gì! Vì
mình là nhà cách mạng từ bi, bác ái, dĩ đức háo
sanh, khoan hồng đại độ, mềm mỏng
dẻo dai, dung hòa nhẫn nại để thu phục
nhơn tâm họ. Đến chừng tôi trở về
bọn họ theo mình hết trơn.
Tới
câu Thầy nói Thầy trở về Thầy chỉ ra oai ra
lịnh. Lúc ấy tôi nghe Thầy nói: “Đến ngày
Thầy trở về”, tôi lấy làm lạ, tôi liền
lập tâm hỏi Thầy thì Thầy nói tiếp thêm
nhiều vấn đề. Rồi Thầy đi tới
đi lui tỏ ra không yên tâm. Đúng 12 giờ khuya tôi
bạch với Thầy lúc ra về. Đức Thầy vịn
vai bên trái của tôi cùng đi chậm chậm một khúc
đường, vừa đi vừa dặn dò công việc
làm. Lúc ấy tôi còn nhớ, bỗng nhiên Đức Thầy
dừng lại, buông vai tôi và bảo:
– Rán lo cho đoàn thể.
Khiến gì chừng đó tôi quên đi, không
hỏi đặng một lời nào nữa. Bặt qua ngày
22 tháng 2 Nhuần năm Đinh Hợi (1947) Thầy đi
hội nghị với Trần văn Nguyên và Bữu Vinh.
Đến ngày 25 Thầy vắng mặt cho đến ngày
hôm nay.
Viết theo lời ông Huỳnh Hữu
Hạnh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lòng quảng đại của bậc
Đại Giác Ngộ đối với chúng sanh lúc nào
cũng ban tình thương sâu rộng, bởi có lòng Từ,
Bi, Hỉ, Xả nên tha thứ hết những ai tối
tăm lầm lỗi. Chẳng những tha thứ họ,
mà còn vì họ mình chấp nhận mọi nỗi khó khăn
khổ sở.
Xưa Đề Bà Đạt Đa quyết
lòng hại Phật nhiều phen và Ương Quợt hành
hung với Đức Thế Tôn, nhưng Ngài vẫn từ
bi hóa độ. Và có một lần bọn Lục Sư
ngoại đạo xúi đệ tử lập mưu
hại Phật. Vì quá mê tín nên người ấy nghe theo.
Một hôm hắn đào một cái hầm ở
trước cửa nhà, rồi lấy chông nhọn cặm
đầy ở dưới, phía trên y ngụy trang bằng
một lớp đất thật mỏng, nằm trên
lớp sậy, rồi y giả bộ thỉnh Phật
đến cúng dường. Y còn ác tâm nấu đồ
ăn để thuốc độc cho Đức Phật
ăn. Nếu Phật đến nhà y tức phải đi
qua hầm chông đó, sẽ bị rơi chết vì chông
nhọn. Nếu Ngài có qua khỏi không chết, thì vào nhà
cũng bị tử vì thuốc độc. Làm thế cho
thỏa lòng ghen ghét của tên ngoại đạo là
thầy của y.
Tuy biết rõ cái độc của ngoại
đạo, Đức Phật chuẩn hứa sẽ
đến nhà anh để hóa duyên. Khi Đức Phật
đến thì hoa sen dưới hầm chông nổi lên
đỡ chơn Ngài, tên ngoại đạo hoảng
sợ, đến lạy Ngài xin sám hối. Đức
Phật vào nhà, vợ tên ngoại đạo dọn cơm
có thuốc độc để cúng dường Ngài, anh ta
sợ Phật dùng phải độc dược liền
cản lại:
– Bạch Đức Đại Bi Thế Tôn,
xin Ngài nán lại giây lát, chờ con dâng cơm khác cho Ngài vì
trong cơm nầy có thuốc độc. Bạch Ngài, xin
Ngài chứng cho con sám hối, vì con là kẻ độc ác,
mê muội vô cùng, xin lượng từ bi tha tội cho con.
Đức Phật mĩm cười bảo:
– Không sao, thuốc độc chỉ hại
người còn chứa tâm độc, còn Như Lai đã
trừ sạch ba thứ ấy trước khi thành
đạo dưới cội Bồ Đề, Thế nên
thuốc độc không làm hại được Như
Lai.
Nói xong Ngài an nhiên thọ thực, còn anh
ngoại đạo vừa run rẩy vừa sợ hãi,
vừa kính phục Ngài. Khi Phật dùng cơm xong, anh
lạy xin sám hối một lần nữa, cầu
được xá tội.
Đức Phật từ bi phán dạy:
– Không sao, con chớ sợ. Như Lai nói cho
con biết, Như Lai có Tứ Vô Lượng Tâm, nên
thường hành Bình Đẳng Hạnh. Dù có người
vừa tán dương ta, vừa lễ bái ta, cùng một lúc
người vừa sỉ nhục ta, vừa đánh
đập ta, hai người đó Như Lai vẫn
thương yêu như nhau không khác.
Gương từ bi vô lượng của
Đức Phật ngày xưa và lòng từ bi của
Đức Huỳnh Giáo Chủ hôm nay, cũng như
trường hợp Đức Thầy uống
nước acid do ông Tâm đưa, thế mà Ngài vẫn cứu
vợ và mẹ ông Tâm khỏi bịnh nan y và nhận ông làm
đệ tử. Thật vậy, nước acid làm gì có
thể làm hại Ngài đã tận trừ tam độc. Sở
dĩ chúng ta còn khổ là tại ta đã chứa nhiều
nhân tội ác. Tâm ta còn tham, sân, si nên gặp thuốc
độc ta phải chết bởi lòng ta độc ác.
Lòng quảng đại của Đức Thầy hôm nay
giống như của Đức Thế Tôn ngày xưa
vậy.
Ta đọc lại
Đại Đức của chư Phật để
thấy được tâm hồn giác ngộ cao cả
của đấng cứu thế. Tóm lại nhờ
bốn đức độ cao siêu và lời phán dạy
đầy lòng từ bi hỉ xả như trên của
Đức Thầy, nên chỉ một thời gian ngắn
Ngài đã thành công trên bước đường
độ tha hóa chúng.
Mẩu chuyện thứ 30
THẦY CHỨNG SỰ QUY Y
Ông Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý tỉnh
Phong Dinh có nhắc mẩu chuyện của ông Bảy ở
Xà No như sau:
Số là ông Bảy nầy có cất nhà ở
giữa đồng để làm ruộng, thường xem
Sấm Giảng của Đức Thầy để tu
hiền. Ông lập ngôi Tam Bảo và bàn Thông Thiên, khấn
nguyện nhờ Đức Thầy chứng giám. Ông tự
khép mình vào hàng tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, ăn
chay giữ giới, cúng lạy theo lời Đức
Thầy chỉ dạy. Đến tháng 6 Âm lịch,
Đức Thầy về Cần Thơ Khuyến Nông, ông
Bảy đến xin Đức Thầy cho qui y. Ông Bảy
sắp trình thưa công việc thì Đức Thầy nhìn
ngay ông và nói:
– Ủa ông đã qui y vào lúc 12 giờ trưa
tháng Giêng hôm trước mà, tôi đã chứng kiến
một lần cho ông rồi, còn qui y gì nữa? Qui y một
lần thôi chớ!
PHẦN NHẬN XÉT:
Tâm lý chung của con người thì khi họ
ân cần mong muốn một điều gì, hoặc van xin
với ai, thì họ rất sợ không được
người đó chấp thuận. Nếu được
chuẩn hứa một điều nào quan trọng thì
họ thường lập lại đôi lần để
cho người kia đừng quên. Thế nên ông Bảy tuy
đã âm thầm phát nguyện qui y, nhưng vẫn còn lo ngại,
không biết sự phát nguyện của mình có
được Thầy chứng không?
Vốn là một bậc Đại Giác thì làm
gì chẳng rõ được tâm niệm của chúng sanh,
thế nên không để cho đệ tử thắc
mắc lo âu, Ngài liền cởi mở cho ông Bảy mà
cũng cởi mở chung cho đa số tín đồ.
Về điểm nầy Ngài có viết
Mấy người bê trễ chậm chơn
tới Thầy,
Nghe theo lời chỉ sau đây.
Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
Tuy lãnh bài cầu nguyện mà tu như vẫn
được như đã gặp Ngài. Bởi vì:
Tuy là hữu ảnh vô hình,
Chớ dân lòng tưởng sân Trình đáo lai.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Bởi Phật chỉ dụng chữ tín
thành, khi được sống bên cạnh Thầy mà không
sửa tánh răn lòng thì sao bằng người ở xa
ngàn dậm mà ngoan đạo, tiến tu. Xưa Phật còn
trụ thế, lúc Ngài đi thuyết Pháp ba tháng ở Thiên
Cung mới trở về, các đệ tử đưa
nhau đến yết kiến Ngài, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa
Sắc đến cúi đầu, lễ sát chơn Phật
mà bạch:
– Bạch Thế Tôn, đệ tử Liên Hoa
Sắc, người đã đến yết kiến
Phật trước nhứt, để lạy mừng Ngài
từ Thiên Cung vừa trở về Tịnh xá. Đức
Phật từ bi đáp:
– Liên Hoa Sắc, con không phải là
người đến yết kiến Như Lai
trước đâu!
Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc nhìn đi nhìn
lại chung quanh, chưa ai đến trước mình, bà
mới bạch:
– Bạch Thế Tôn, chớ vị nào
đến trước con, sao con không thấy?
Đức Phật ôn tồn đáp:
Chính Tôn Giả Tu Bồ Đề là
người đến viếng Như Lai trước
nhứt. Tuy ông chưa đến bằng hình thể,
chớ tâm ông đang hướng về làm lễ Như Lai
trước hơn các môn đệ khác.
Vậy chúng ta là người trí không lo sợ
là Thầy mình không biết rõ việc làm phải của
mình, mà phải sợ mình không sáng suốt và đủ
nghị lực để bỏ những thói hư tật
xấu của mình và cũng đừng nên lo tìm hiểu cái
quấy dở của kẻ khác mà phê phán. Khách quan, can
đảm và nhận xét mà bài trừ cái quấy dở
của mình, vì lúc nào bên mình cũng có:
Lưỡng Thần ghi chép liên miên,
Nào tội, nào phước dưới
miền trần gian.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Hơn nữa đối với Đức
Thầy thì:
Cặp mắt thánh dòm xem tứ hải,
Thương hồng trần mượn xác
tái sanh.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Chớ lo chi Ngài không biết được
việc làm của mình, nhưng sở dĩ đôi khi cái
phải chưa đến với ta là bởi cái phải ta
mới làm mà cái quấy ta đã làm trước hơn, nên
đợi khi:
Quả dữ trả rồi nhân thiện
đến.
(Bài Thơ Cho Cô Hai Gương Cần Thơ)
Nhứt định không có việc làm nào
lại không được sự chứng biết của
bậc vô hình và Thầy Tổ.
Mẩu chuyện thứ 31
TU QUANH VÀ TU TẮT
Lúc
Đức Thầy bị thực dân Pháp an trí tại làng
Nhơn Nghĩa, Cần Thơ, thì sự lui tới của
các tín đồ đã gặp nhiều trở ngại. Tuy
vậy có một số xả thân mộ đạo
hằng len lỏi đến thăm.
Ông Hai Huê
và ông Ba Ngà là hai trong những người mộ đạo
kể trên, đã chèo thuyền từ Phú An, Tân Châu
đến Nhơn Nghĩa để thăm Thầy. Trên
đường đi hai ông đã đồng ý với nhau,
là khi đến nơi, ông Ngà sẽ xin phép Đức
Thầy cho ông được ở lại để
hầu hạ Ngài, còn ông Huê sẽ chèo ghe về một mình.
Khi
đến nhà ông Hương Bộ Thạnh, nơi
Đức Thầy tạm trú, sau 24 giờ thăm viếng
và nghe lời huấn dụ, ông Ba Ngà trình với
Đức Thầy ý định ở lại hầu
hạ Ngài. Đức Thầy không nói gì, đôi mắt
từ bi nhìn ông Ngà với vẻ cảm động,
rồi Ngài đi thẳng vào phòng. Lúc sau trở ra, Ngài trao
cho ông Ngà 7 đồng bạc và nói:
– Ông
muốn tu về cất cốc ở sau nhà mà tu, và đây
là 7 đồng bạc, ông hãy cầm lấy đi
đường.
Ông Ngà do
dự không muốn lấy, thưa rằng:
– Con
đi ghe không tốn tiền.
Đức
Thầy bảo:
– Thầy
cho thì phải nhận, rồi sẽ rõ!
Khi về
đến Tổ Đình Hòa Hảo thì ông Ba Ngà lâm bịnh,
ông Hai Huê phải chèo một mình về Phú An báo cho thân
thuộc ông Ngà hay. Hôm sau ông Ngà được người
nhà mướn xe ngựa đến Tổ Đình chở
về nhà.
Đúng
bảy ngày từ hôm giã biệt Đức Thầy thì ông
Ngà bỏ xác. Mộ phần chôn cất phía sau nhà ông,
dưới một túp nhà mồ theo phong tục thời
đó, cất để che mưa che nắng cho
người chết. Chín hôm sau nữa ông Hai Huê đến
Xà No báo tin cho Đức Thầy hay, nhưng ông chưa
kịp nói thì Đức Thầy đã bảo:
– Kiếp
sống của ông Ba Ngà chỉ có bấy nhiêu đó thôi!
Ông Hai Huê
thực thà bạch với Đức Thầy rằng:
– Không
biết ông Ba ngà chết như vậy mà linh hồn có
được an ổn để tu hành không?
Đức
Thầy đáp:
– Thầy
đã độ cho ông Ngà, nhưng đó chỉ là tu quanh vì
ông Ngà mới vừa biết đạo kế thì bỏ
xác.
Ông Hai Huê liền
hỏi tới:
– Bạch
Thầy thế nào là tu tắt?
Đức Thầy giảng cho ông Hai Huê nghe:
– Nếu còn xác thịt, vừa lo làm ăn,
vừa lo tu hiền, để tự mình sửa mình,
độ người, khiến họ với mình
đồng tu, thì đó là tu tắt.
Ông Hai Huê lãnh hội được tâm pháp
của Đức Thầy. Từ đó ông vừa làm
để sống, vừa nổ lực hoằng Pháp, hành
thiện.
Thuật theo lời ông Nguyễn văn
Đô.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ông Ba Ngà là một môn đồ có duyên với
Đức Thầy nên mới được gặp
Thầy và sớm qui y. Tuy rất thương đệ
tử, nhưng Thầy chỉ cho 7 đồng bạc
để báo cho ông biết là ông chỉ sống có 7 ngày
nữa mà thôi. Thầy cho biết Ngài đã độ linh
hồn ông, nhưng đó là tu quanh, vì người chết
chỉ tu bằng tâm linh, nên không thể làm được
việc lợi tha như người có thể xác.
Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là
đạo nhập thế, là một nền đạo
vị nhân sanh, thế nên giáo lý của Ngài luôn chú trọng
đến sự tế nhân lợi vật, như Ngài
đã từng phán dạy. Cách tu hành đúng theo nghĩa xác
thực của nó là làm thế nào phát hiện
được những đức tín cao cả, và thực
hành trên thực tế, bằng mọi biện pháp
để đem lại cái phước lợi cho toàn
thể chúng sanh, thì đó là thỏa mãn trong đời hành
đạo của mình. Những điều nầy
người chết không thể làm được. Nếu
người có thân xác mà làm đúng theo lối Đại
Thừa của Ngài chỉ giáo thì còn có sự cao quí nào
hơn. Phúc duyên thay cho chúng ta, vừa uống
được suối Ma Ha, lại vừa được
có thân xác vẹn toàn, như đèn đã có sẵn dầu
tiêm, chỉ chờ đốt lên là sáng tỏ.
Mẩu chuyện thứ 32
ĐẬU RỚT
Vào khoảng thượng tuần tháng Giêng năm
Canh Thìn (1940), Ông Ngô Thành Bá hân hạnh được
Đức Thầy hướng dẫn đi núi Tà Lơn.
Sau khi trở về được ít hôm thì ông Bá phát
bịnh khá nặng, chạy chữa đủ thuốc men
nhưng không thấy giảm. Càng trị thuốc nhiều
chừng nào thì bịnh ông Bá càng gia tăng chừng nấy,
mà hễ ông nằm yên niệm Phật hễ uống theo
mấy toa thuốc Nam của Đức Thầy thì
bịnh cầm cự lại đó chớ không hết
dứt. Bấy giờ ông Ngô Thành Bá mới nhớ lại
lúc đi non gặp nhiều gian khổ ông có than với
Đức Thầy là đi non cực khổ quá.
Đức Thầy liền nói:
– Trò có duyên lớn cùng Thầy, nên trên
trước bảo Thầy đem trò đi non giải
căn quả đặng tu hành. Trò đi với Thầy
năm sáu ngày sau khỏi sa địa ngục năm sáu
tháng.
Ông Bá Thưa:
– Giải căn quả gì mà cực khổ
quá, con xin Thầy có giải thì để về
dưới thế sẽ giải.
Giờ đây ông Bá mới biết lời nói
ấy ứng nghiệm không sai. Gần hai tháng bịnh
trạng của ông bá cứ dây dưa mãi. Bỗng một
hôm Đức Thầy đến thăm và bảo ông
Hương Quản Diệp đem xe máy chở ông Bá về
Tổ Đình cho nằm ở phía sau dưỡng bịnh.
Thời gian ông Bá ở đây bịnh lần lần
bớt. Hôm nọ Đức Thầy từ phía
trước đi vào thấy ông Bá ngồi trên chiếc
giường với gương mặt lộ đầy
vẻ hân hoan, Đức Thầy liền nói:
– Sau hôm nay coi bộ trò vui mừng thế?
– Bạch Thầy, con thấy Thầy mở
Đạo chẳng bao lâu mà người ta biết tu hành
đông quá nên con mừng.
– Đông gì trò ơi! Sau nầy rồi họ
cũng bị rơi rớt lần lần, chỉ còn
một số mà thôi!
Nói đến đây, Đức Thầy
lấy ngón tay chỉ cây xoài sau hông nhà đang trổ bông
vàng ánh mà kêu ông Bá nói tiếp:
-Trò thấy các bông xoài kia không? Bây giờ
mỗi bông đậu cả mấy chục trái, nhưng
đây rồi bị giông qua gió lại, nó sẽ rụng
dần dần. Tới lúc xoài già không còn bao nhiêu đâu!
Chẳng những thế, đến khi đem lồng hái,
nó bị nhảy lồng bớt một mớ, và đem giú
nó còn úng nữa chớ. Tín đồ của Thầy sau
nầy cũng như thế đó!
Thuật theo lời ông Ngô Thành Bá.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời tiên tri của Đức Thầy
quả thực không sai. Dò lại trang sử Đạo, ta
thấy từ khi Đức Thầy vắng mặt
đến nay, hơn bốn mươi năm tròn, bóng
người đi vẫn biền biệt phương nào,
để lại cho bao triệu tâm hồn thiết tha mong
đợi. Lời Thánh ngôn đã bảo: “Trường
đồ tri mã lực, sự cữu chí nhơn tâm”.
Đường xa mới biết sức giỏi của ngựa,
ngày dài mới thấy được lòng người. Ngài
cũng đã từng phán dạy:
Đường xa mới rõ biết tài
ngựa ký,
Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô
lương.
(Bài Không Buồn ngủ)
Phải chăng vì sự mong đợi quá
dài mà tin hồng vẫn bặt, lại còn phải trải
qua nhiều lần pháp nạn, mà nhứt là Pháp nạn
triền miên. Khác nào xoài mới đơm hoa mà trải
nhiều trận giông cuồng bão lớn. Thế nên
đường tu đối với người nhẹ dạ
sao khỏi thối chí nãn lòng.
Song song với những điều
chướng ngại lúc Phật Pháp suy đồi còn
biết bao sự quyến rủ. Nào là danh, nào lợi, nào
tình; còn tà sư ngoại đạo nổi lên như
nấm, thì đối với kẻ thiếu kiên trinh, có
mong gì mà bền gan chờ đợi. Đã biết rõ
điều nầy, Đức Giáo Chủ mới ân cần
phán dạy:
Tín nữ thiện nam gìn mối đạo,
Dầu cho lăn lóc rán kiên trinh.
Kiên trinh mà chịu lúc nàn tai,
Dẫu có gian nan dạ chớ nài.
Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
Chì, thau lắm chuyện lúc non hài.
Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp.
Gắng chí trông mong bữa tiệc khai.
Thiên địa tuần huờn gom một
mối,
Phàm trần vẹn kiếp kiến Bồng
Lai.
(Bài Tỉnh Bạn Trần Gian)
Ta thử nhận xét, một lớp học
tuy có nhiều học sinh, nhưng khi thi cử thì đâu khi
nào đậu hết cả lớp. Tức nhiên số
rớt sẽ nhiều hơn số đậu, nhưng
số rớt đó không phải là lỗi ở tại giáo
sư hoặc giám khảo, mà là lỗi ở sự chăm
học của học sinh, nên kết quả phải thua kém
bạn bè. Rồi dần dần học lên lớp càng cao,
thì bài vỡ khó khăn hơn nữa, nhứt là vào lúc thi
cử, có thế văn bằng của họ mới có giá
trị. Huống chi đây là trường thi Đạo
lại càng khó khăn hơn, bởi vì:
Phật thi Đức, Tá quốc thi văn,
Nhơn tùng thi chánh, Nhơn Tăng thi lòng (lời ông Ba Thới).
Xưa có một vị Quốc vương
lòng quá kính mộ Phật Pháp nên ông ra lịnh nếu ai phát
tâm tu hành ông sẽ ủng hộ triệt để. Ông
thường ưu đãi các nhà tu và trọng như cha
mẹ. Trong nước của ông người tu rất
nhiều nhưng có người tu không thiệt tâm tu, nên
cửa Thiền môn có đôi khi xảy ra những
điều đáng tiếc. Ông tự nghĩ, có lẽ ta
quá ưu đãi cho nên số người không thiệt tu
mới lợi dụng làm xằng. Thế là ông ta ra chỉ
dụ thứ hai: Nếu ai tu bị tội tử hình.
Từ khi được tin vua ra chiếu chỉ ai tu
sẽ bị chém đầu thì họ ùn ùn sa ngã, ngoài
đường không bóng dáng người tu, cửa
Thiền môn thì Tăng, Sư đều vắng bặt.
Thời hạn kỳ đã đến, vua sai quân lính đi
lục soát hết am, cốc, chùa chiền, non núi, tìm nơi
nào có nhà tu bắt hết về triều.
Trải mấy ngày lùng kiếm, họ
bắt về được một ông nhà tu, ông tên Thanh
Tiến Sĩ.
Vua hỏi:
– Ngươi không nghe chỉ dụ của
Trẫm sao mà còn tự nhiên lo tu hành thế nầy?
– Tâu Bệ hạ, Bần đạo có nghe
chiếu chỉ của Bệ hạ chớ!
– Thế Ngài không sợ chết sao mà còn dám
tu?
– Tâu Bệ hạ, thế thường thì ai
cũng sợ chết cả, nhưng bần đạo
xét, sợ cũng không khỏi bao giờ, vì cái chết có
tư vị một ai đâu! Nên Bần tăng chấp
nhận cái chết hôm nay để rồi không còn chết
nhiều lần khác nữa.
Nhà vua hỏi:
– Ngài nói thế nghĩa là sao?
– Tâu Bệ hạ! Bần đạo muốn
nói đường tu của bần đạo là con
đường vượt nẻo tử sanh, chỉ
một kiếp được trực vãng Tây Phương
an lạc, không còn chết đây sanh kia, nhiều
đời tử sanh nghiệp nối. Còn nếu bần
đạo sợ tội tử hình của Bệ hạ mà
thối chuyển đường tu thì phải chấp
nhận đường sanh tử, luân hồi nối
tiếp. Cho nên bần tăng quyết chí tu hành dù có bị
rơi đầu cũng không hối tiếc.
Nhà vua sai võ đao đem Thanh Tiến Sĩ ra
pháp trường. Trước cái chết Ngài vẫn bình
tĩnh vui cười. Nhà Vua vô cùng kính phục, mới
bước lại sám hối và nói rõ dụng ý của mình
muốn thử coi ai là người tu thiệt, và
đồng thời tôn Ngài làm Quốc sư.
Câu chuyện trên cho ta thấy sự thử
thách của người xưa so với ngày nay thì có là bao.
Tuy phải trải qua bao nhiêu trận gió giông nhưng không
rơi rụng mới là chơn giá trị. Và nên nhớ
lời Thánh huấn của Đức Tôn Sư:
Tuy ngày nay chúng nó hùng cường,
Chừng phân định thì ta cao quí.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Và:
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong thả.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Mẩu chuyện thứ 33
TÙY CƠ HÓA ĐỘ
Anh Năm Tính người ở tỉnh Phú
Yên, Trung Phần, di cư vào miền Nam từ năm 1940
ngụ tại nhà ông chủ Trưởng Chân xã Kiến An,
quận Chợ Mới, An giang. Vốn người chất
phát làm ăn, nên ở đây ai cũng mến thương
và anh cũng trở thành tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo từ độ ấy.
Nhơn một buổi tiếp chuyện
với ông cả Mười, ông thấy anh Tính có lòng
nhiệt thành đối với Đạo, nên kêu anh đi
với ông lên Sai gòn thăm Đức Thầy một
lần. Anh Tính rất vui mừng và xin được cùng
đi theo. Chuyến đi nầy gồm có ông cả
Mười, ông Lâm Thơ Cưu, anh Tính và một ít anh em
đồng đạo khác. Trời vừa rựng sáng, con
thuyền từ từ tách bến, lướt nhanh trên giòng
nước cuồn cuộn đưa đi, anh em cứ
luân phiên chèo không ngừng nghỉ, suốt ba ngày đêm
mới tới.
Thời gian nầy, Đức Thầy ở
số 168 đường Lefèvre, Sai gòn. Hôm ấy mọi
người đều lên hết, duy có anh Tính ở
lại giữ ghe và cùng chờ người hướng
dẫn xin phép với Đức Thầy xong mới
được lên.
Anh ở tại ghe đợi tới
chiều, không thấy ai xuống hết, bèn bước lên
đường đi thơ thẩn gần tới ngang
cửa lầu chỗ Đức Thầy ở.
Lúc bấy giờ Đức Thầy đang
nói chuyện với số tín đồ ở các tỉnh,
Ngài bèn đứng phắt dậy, khoát cánh cửa,
đưa tay ngoắc anh Tính vào, giữa lúc ấy mọi
người đều ngạc nhiên.
Được lịnh Thầy, anh Tính
rất mừng rỡ, nhưng cũng phập phồng lo
sợ, nên vừa đi vừa niệm Phật. Vào
đến nơi, Đức Thầy chỉ chiếc
ghế bảo anh Tính ngồi và hỏi:
– Ông ra đây làm gì?
– Con ra đây thăm Thầy và nhờ
Thầy chỉ cho phương pháp để về lo tu
hành.
– Ông muốn tu để được
như thế nào?
– Con hiện giờ không vợ, không con nên
muốn tu giải thoát. Bạch Thầy!
Đức Thầy lấy quyển Khuyến
Thiện in khổ nhỏ trao cho anh Tính và dạy rằng:
– Ông đem về xem theo đây mà tu giải
thoát.
Được Đức Thầy tặng
cho quyển Giảng, anh Tính cảm thấy lòng mình thơ
thới, tràn ngập nỗi vui mừng. Khi về nhà anh Tính
học thuộc lòng quyển Khuyến Thiện và
thường suy nghiệm nghĩa lý trong đó. Nhờ
thế, chẳng bao lâu anh thấu đạt con
đường hành đạo, lo chuyên trì Lục Tự và
tránh mười điều ác. Đời sống anh không
bị ngoại vật chi phối và sự tu hành càng ngày
càng tiến triển.
Sau thời gian, trong chuyến đi buôn
nồi, anh vừa đến vàm kinh xáng Vĩnh Hanh, anh
định ghé lại để bán số nồi, kế
anh bị trúng gió khá nặng. Xóm nầy nhằm anh em tín
hữu thuộc Đại Đạo Tam Kỳ. Họ
hết lòng lo chạy thuốc men cho anh, nhưng không
giảm được. Các vị ấy bèn hỏi:
– Nếu anh có từ trần, chúng tôi làm
lễ theo nghi thức đạo Tam Kỳ được
không?
Anh Tính gượng gạo trả lời:
– Tôi cám ơn quí ông nhiều lắm, nhưng
tôi đã qui y theo Phật Giáo Hòa Hảo rồi. Vậy xin
quí ông làm lễ an táng tôi theo nghi thức Phật Giáo Hòa
Hảo.
Nói xong anh Tính nằm xuôi tay thẳng chân mà
niệm Phật, và hơi thở anh từ từ dứt
hẳn.
Thuật theo lời cô Mai Yến.
PHẦN NHẬN XÉT:
Anh Năm Tính người miền Trung tuy sống
xa Đức Thầy, nhưng rất có nhiều thiện
duyên, hữu phước nên mới gặp Đức
Thầy liền phát tâm tu giải thoát, lại có đủ
điều kiện. Nhứt là được Ngài cho
quyển Khuyến Thiện, nội dung dạy trừ
thập ác, Thiền Tịnh song hành, như là:
Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho
trơn.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Và Ngài còn chỉ rành về yếu môn tịnh
độ vì đó là pháp kết quả rốt ráo như:
Môn tịnh độ là phương cứu
cánh,
Rán phụng hành kẽo phụ Phật
xưa.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Ngài còn quả quyết, nếu chúng sanh nào cò
đủ ba điều kiện thì chỉ một kiếp
là vượt thoát khỏi các khổ Ta Bà, được
vãng sanh về An Dưỡng Quốc qua câu:
Dầu Tiên phàm Ma Quỉ Súc sanh,
Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành.
Được cứu cánh về nơi an
dưỡng,
Chỉ một kiếp Tây Phương
hồi hướng.
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Đồng thời Ngài còn chỉ rõ cái
khổ ở cõi Ta bà, luôn luôn lúc nào cũng có vô số,
nhưng Ngài chỉ tóm lại thành tám điều, còn cõi
Cực Lạc thì Y báo, Chánh báo đều được an
vui.
Sự truyền Pháp của Đức
Huỳnh Giáo Chủ rất khế cơ và khế lý,
khiến anh Tính đã được thắm nhuần Pháp
vũ. Anh áp dụng Thiền Tịnh song hành và luôn cầu
sanh Lạc quốc. Kết quả anh được bình
tĩnh lúc bỏ xác, chứng tỏ được vãng
sanh. Anh giữ được chánh niệm lúc lâm chung và sáng
suốt, từ khước đề nghị của tín
hữu Cao Đài. Vì anh là tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo nên xin được an táng theo nghi thức của đạo
mình. Cao quí thay anh đã giữ đúng câu:
Một đời một đạo
đến ngày chung thân.
(Tự Thán)
Đọc chuyện trên ta thấy anh Tính là
một người đáng coi là đàn anh gương
mẫu. Chẳng những riêng anh Tính mà chúng ta hôm nay,
mỗi người đều đã có trong nhà quyển
Sấm Thi của Đức Tôn Sư. Nếu ta chịu
gắng gổ trì hành và một lòng trung kiên, nhẫn nại
thì lo chi không sánh kiệp người xưa.
Thật vậy, nếu người tín
đồ Phật Giáo Hòa Hảo, dù là cư sĩ tại
gia mà giữ đúng lời chỉ dạy của
Đức Thầy thì đó là tại gia Bồ Tát Tăng
vậy.
Mẩu chuyện thứ 34
THEO THẦY HAY THEO GIÁO LÝ
Thời gian luân lưu đó đây để
hóa chúng độ tha, những lời thuyết Pháp vi
diệu thậm thâm của Đức Thầy đã
đánh thức biết bao triệu con tim trở về
nguồn giác, khác nào ánh thái dương rọi tan đám
sương mù. Họ hân hoan vì được nếm ân
vị của suối Ma Ha, nên rất hăng say theo gót chân
Thầy để có dịp được thêm thắm
nhuần Pháp vũ.
Một hôm, sau buổi thuyết Pháp, bỗng
Ngài đưa quyển giảng lên hỏi lớn rằng:
Tất cả bổn đạo theo Thầy
hay theo Giáo lý của Thầy?
Tất cả đồng loạt đưa
tay lên và đồng thanh ứng:
– Con theo Thầy! Con theo Thầy!
Đức Thầy để quyển
giảng xuống, nét mặt từ bi nhìn khắp các
đệ tử bảo:
– Bà con theo Thầy đến khi Thầy
vắng mặt rồi theo ai? Phải theo Giáo lý của
Thầy mới đúng chớ.
Tất cả những người có mặt
nơi đấy, vừa được nghe câu Kim ngôn
của Ngài như một tiếng chuông cảnh tỉnh,
họ đều cúi đầu lãnh giáo ngọc ngữ
của đấng cha lành.
Theo lời thuật của ông cựu Hội
Trưởng quận Thốt Nốt.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đức Thích Ca Mâu Ni ra đời, trụ
thế hoằng pháp chỉ có 49 năm mà chánh Pháp của
Ngài đến nay trên 25 thế kỷ, vẫn còn chói
rạng bốn phương. Thật vậy Chánh Pháp là
chơn lý, mà chơn lý là lẽ thật, thì lẽ thật
làm sao mất được. Bởi Đức Thầy
tiên tri là Ngài sẽ xa cách tín đồ, và thời gian xa cách
đó là một trận thử thách gay go, nên hành giả
phải nắm chặt giáo lý siêu thượng của Ngài,
cũng như người đi biển phải có la bàn,
nếu không họ phải chịu lạc lõng bơ vơ
giữa bao la trời nước, lại gặp sóng to
chắc phải làm mồi cho lũ cá. Cũng thế,
người tu tự xưng mình là tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo mà không nắm vững Giáo lý của Ngài
sẽ dễ bị sai đường lạc lối, dù
người rất có tâm thành với đạo. Bởi có
tâm với đạo mà thiếu trí nên khi Thầy Tổ
vắng bóng thì dễ bị kẻ giả trá tà mị
lợi dụng. Họ nhân cơ hội nầy mà xưng
Tiên Phật, hoặc là Thầy Tổ trở lại.
Đức Tôn Sư đã biết rõ nên báo trước cho
ta điều nầy, trong Sấm Thi, Ngài có nói rất
nhiều không sao kể xiết, như đoạn:
Các đạo tà mưu khéo âm thầm,
Dân rán tránh kẽo lâm mà khổ.
Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
Ai ham linh theo nó tập tành,
Sa cạm bẫy khó mong sống sót.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Ai đọc kỹ Sấm Thi của Ngài và
theo dõi mẩu chuyện chung quanh Thầy, đều
nhận thức được bao lần dặn dò của
Đức Tôn Sư. Bởi Ngài đã biết rõ sau nầy
Ngài sẽ có thời gian dài vắng mặt và tà đạo
sẽ lộng hành. Nếu không ôm chặt giáo lý của Ngài
thì sẽ dễ bị ngoại đạo cám dỗ,
nhứt là nghe linh ứng, kỳ hạnh, hoặc xưng
Thầy trở lại và mượn xác cậu nọ cô
kia, họ cũng dựa theo giáo lý của Ngài rồi
viết trại theo, khiến những người nhẹ
dạ dễ tin, có tâm nhưng thiếu trí, tưởng là
Thầy mình trở lại, thật là một sự đáng
thương, đáng tiếc làm sao! Ta hãy xét kỹ, Thầy
ta là một vị Phật có sắc lịnh của hai
vị Phật Tổ lâm phàm, Ngài vắng mặt vẫn còn
để lại cho ta một kho tàng Pháp bảo và đã
dạy là:
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Thế là mình hãy xét kỹ coi mình có làm y theo
lời chỉ dạy của Ngài không? Nếu có thì lo gì
không gặp Ngài. Về điểm nầy có lần ở
Sai gòn, Thầy gọi ông Lê Bá Thế mà dạy rằng:
– Ông hãy nói lại cho bổn đạo
của Thầy biết, đừng một ai lo lắng cho
Thầy, mà hãy tự lo cho chính mình. Hãy tu tâm luyện trí và
cần xem quyển Khuyến Thiện của Thầy mà tu
hành. Những người tu hành chơn chánh đúng theo
lời dạy của Thầy thì về sau sẽ
được Thầy cho người tìm đến,
chớ bây giờ đừng ai đến để tìm
Thầy.
Vậy nếu ta có theo sát Giáo lý của Ngài,
thì dù có xa cách nghìn dặm, nhưng cũng như ở bên
Tôn Sư. Trái lại nếu không nghe lời dạy của
Ngài thì càng tìm kiếm chừng nào lại xa Ngài chừng
ấy và không tránh được mưu khéo của kẻ
tà đạo thì khổ não vô cùng. Cũng như ông Ba
Thới cho biết:
“Lầm tà đạo nhân hư bất
dụng.”
Mẩu chuyện thứ 35
ÔNG THẦY THUỐC ĐI TRỊ BỊNH CHO ÔNG TỔ THẦY THUỐC
Lúc Đức Thầy ở Bạc Liêu,
một hôm ông Nguyễn Tấn Bảy đến xin xem
mạch cho Đức Thầy vì lúc đó thể xác
Thầy có bịnh. Đức Thầy đưa tay cho ông
Bảy xem mạch. Ông Bảy vừa đặt tay vào tay
Thầy thì Ngài liền giựt lại và nói:
– Nóng quá!
Ông Bảy không hiểu ý cứ ngỡ
Thầy nói tay mình nóng, nên xin Thầy cho ông tiếp tục
xem mạch. Đức Thầy đưa tay ra, ông Bảy
vừa rờ đến Thầy thì Ngài cũng bảo:
– Nóng quá!
Và giựt tay lại như lần
trước. Luôn cả ba lần như vậy. Ông Bảy
nghĩ chắc Đức Thầy muốn dạy cho mình
điều gì đây, nên cung kính bạch:
– Bạch Thầy! Xin Thầy dạy cho con
biết ý gì mà mỗi khi con chạm đến tay Ngài thì
Ngài bảo là nóng. Có phải Thầy muốn nói sự tu
của con còn nóng nảy chăng? Nhờ Thầy chỉ
giáo.
Với nét mặt từ hòa, Ngài hoan hỉ
phán dạy:
– Ông Bảy à! Tôi nói cho ông biết nghe,
nhịn người ngoài thì dễ chớ nhịn ở
trong nhà thì khó lắm ông à!
Ông Bảy khâm phục Đức Thầy vô
hạn, bởi Ngài nói rõ tâm trạng của ông. Ông Bảy
nhớ lại, từ khi mình biết lo tu hành, luôn luôn
cố giữ sự nhẫn hòa với những
người chung quanh, nhưng đối với vợ con
thì sao ông cảm thấy khó nhẫn quá, nên thường
xảy ra chuyện to tiếng đối với gia
đình, đến khi qua rồi ông mới thấy hối
tiếc, luôn luôn như vậy. Hôm nay Thầy đã thấy
rõ tâm niệm của mình, vậy mình nhờ Thầy chỉ
dạy cho phương pháp diệt lòng sân với gia
đình. Nghĩ xong ông cung kính bạch:
– Bạch Thầy! Quả đúng như
vậy Thầy ơi! Nhẫn với người ngoài thì
dễ chớ nhẫn với vợ con khó quá. Con chẳng
biết làm thế nào để khắc phục tánh nóng
giận đối với gia đình, nhờ Thầy
chỉ dạy cho con.
Đức Thầy tươi cười
đáp:
– Ông biết tại sao nhịn trong gia
đình khó không?
Không đợi ông Bảy trả lời,
Đức Thầy từ bi dạy tiếp:
– Tại mình thấy có quyền làm cha, làm
chồng, mình cứ nghĩ mình lớn quá, nên mỗi khi có
chuyện bực tức làm sao nhịn được.
Ông Bảy liền nói:
– Bạch Thầy! Thật đúng vậy,
tại ý nghĩ nầy khiến con không diệt được
lòng sân hận của mình nỗi chớ gì. Xin Thầy
dạy cho con phương pháp diệt nó.
Đức Thầy dạy:
– Muốn diệt nó, mỗi khi khởi lòng
sân, ông phải nhớ là phải cuốn cái lưỡi lên.
Lãnh hội được huấn từ
của Ngài, ông vô cùng hoan hỉ. Và từ đó ông đem áp
dụng đều được kết quả như ý
và đem chỉ lại cho đồng đạo khác
đều được kết quả tốt
đẹp cả.
Thuật theo lời ông Nguyễn Tấn
Bảy Hội Trưởng Tỉnh Bạc Liêu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Thật vậy, tánh sân hận là một trong
ba thứ độc chướng đã có từ lũy
kiếp đến nay, nên muốn diệt nó đâu phải
là chuyện dễ dàng. Nếu không diệt được
nó thì khó đến bên kia bờ giải thoát. Ông Bảy
cũng là một hành giả quyết tâm tu sửa, nhưng
không nhẫn được với vợ con, bởi
thấy mình là chủ quyền nên không muốn vợ con làm
trái ý. Đó chẳng qua là bản ngã của con
người.
Nếu đứng về mặt đời
mà nói thì cư sĩ thường mắc kẹt ở
điểm nầy. Bởi cái ngã nhơn cứng chắc nó
bao bọc mờ đục tâm giác ngộ, nên họ không
muốn ai chạm đến danh vị quyền lợi
của họ cả. Nếu ai vô tình hay cố ý chạm
đến họ sẽ sân hận quát tháo bảo thủ cái
ta của họ. Ông Bảy được Đức
Thầy khai ngộ đúng bịnh của ông, mà cũng là
bịnh chung của quần chúng. Đồng thời Ngài
còn dạy cách diệt nó bằng cách là khi nóng giận nên
cuốn lưỡi lên, đây là một phép lợi ích
lớn của người Phật tử thường hành
trong yếu môn Tịnh độ, vì phép nầy dễ
đình chỉ vọng tâm và điều hòa cơ thể.
Hơn nữa lưỡi đã cuốn lên thì đâu còn nói
được mà sân, và nếu cuốn lưỡi thì mình
đã hành theo pháp Hành Trì Tịnh Độ. Thế nên
chẳng những ông Bảy mà chúng ta cũng nên lấy pháp
nầy để áp dụng sẽ được lợi
ích không nhỏ, Ngài khéo dạy ta dùng phương tiện
để dẹp tánh sân của mình vậy.
Mẩu chuyện thứ 36
ĐỨC CẢ BAO DUNG
Thuở Đức Thầy độ tha hóa
chúng càng lúc càng đông, do tài trí vượt hẳn mọi
người của Ngài, khiến cho kẻ bán nước
buôn dân sanh lòng ganh tị, lúc nào chúng cũng coi Ngài là một
chướng ngại không nhỏ cho sự bán giống buôn
nòi của chúng. Muốn giữ câu: “Tiên hạ thủ vi
cường” nên họ tổ chức cuộc bí mật ám
sát Đức Thầy để dễ bề thao túng theo
hành động bất lương.
Một hôm chúng mướn anh Bê mới 21
tuổi, với số tiền khá lớn, bảo làm sao ám
sát cho được Ngài. Anh Bê nhận lời và lấy
khẩu súng nhỏ, hứa là mai sẽ thi hành. Khi về nhà
anh lộ nét mặt băn khoăn lo nghĩ. Chị Bê
vợ mới cưới của anh, thấy chồng có
vẻ khác thường nên cứ theo han hỏi nguyên do. Ban
đầu anh còn giấu, nhưng chị cứ hỏi
nhiều lần, anh mới tỏ bày sự thật là
định mai nầy anh ám sát ông Tư Hòa Hảo. Vợ
anh nghe rõ câu chuyện toát mồ hôi, liền than thở
với chồng:
– Anh đừng nên làm chuyện đó không
nên. Ông Tư Hòa Hảo là người đức hạnh,
hiền từ, cứu dân độ thế, lại là
một nhà cách mạng chơn chánh, ích nước lợi
dân. Mình ham chi tiền thưởng, dẫu lớn bao nhiêu
thì cũng xài tiêu hết, chứ việc làm tội lỗi
sẽ gây ảnh hưởng xấu cho con cháu về sau.
Chị tha thiết với chồng, nhưng
anh Bê nhứt quyết, còn rầy vợ:
– Việc của tôi làm tôi biết, bổn
phận của đàn bà không nên xen vào việc riêng của
tôi.
Chị cố khuyên nhủ mãi nhưng không
thức tỉnh được chồng. Đêm đó
chị cứ thao thức vì lo sợ cho việc làm tội
ác của chồng sắp diễn ra ngày mai. Ngồi bên
cạnh chiếc đèn dầu leo lét, nhìn chồng đang
ngủ say, chị lắc đầu sầu thảm.
Đến canh ba chị chợt nghĩ, bất cứ giá
nào cũng không để chồng mình giết hại ông
Tư Hòa Hảo. Rồi chị lén lấy khẩu súng
nhỏ của anh tháo hết đạn ra, xong rồi
chị mới yên lòng đi ngủ.
Sáng ra, anh Bê thức sớm, lập tức
mang súng đi thẳng lại khúc đường mà anh
thấy Đức Thầy thường đi ngang mỗi
sáng sớm. Chờ khoảng 30 phút, bỗng thấy
Đức Thầy từ xa đi tới chỉ có một
mình. Giờ may mắn đã đến, anh Bê chuẩn
bị tư thế để ra tay. Thầy vừa đến,
nhìn anh Bê cười và khẻ nói:
– Mới 21 tuổi sao dám lãnh tiền đi
giết mướn chi vậy? Không sợ quả báo sao? Nè!
Cây súng không có đạn đâu, vợ em đã lấy ra
hết hồi khuya rồi, đừng làm bậy sẽ
bị họa lớn nghe! Tôi tuy đi một mình chớ
lính Bình Xuyên lúc nào cũng theo hộ vệ mật đông
lắm. Làm không được việc mà còn mắc họa
nữa à!
Đoạn Thầy nói tiếp:
– Tôi có sứ mạng dạy đạo
cứu đời nên em không thể giết được
đâu.
Anh Bê nãy giờ đứng thừ
người ra như tượng gỗ, mặt tái mét không
còn chút máu, vội đi nhanh về nhà. Vô buồng móc súng ra
coi thì không có một viên đạn nào cả, hỏi ra thì
chị Bê mới chịu thiệt, và khuyên chồng một
lần nữa. Anh Bê nói:
Thôi mình đừng nói nữa, tôi đã
biết tội của tôi rồi. Vậy vợ chồng
mình nên tìm tới ông Tư Hòa Hảo để quy y, vì
chắc chắn Ngài là Phật rồi, không còn nghi ngờ gì
nữa.
Thấy chồng thức tỉnh chị Bê
mừng vô hạn. Vợ chồng đồng tìm
đến Đức Thầy phát nguyện qui y.
Thuật theo lời của cô Tu sĩ Võ
thị Đồng.
PHẦN NHẬN XÉT:
Câu chuyện nầy cho ta thấy, lòng từ
bi của bậc Đại Giác thật vô lượng vô
biên, đối với kẻ giết mình mà không giận
hờn, mà con ban rãi tình thương cao cả. Nếu không
phải là Phật thì có ai làm được hạnh
đức nầy. Bởi Ngài lâm phàm với sứ mạng
thiêng liêng là:
Phổ tế chúng sanh qua bể khổ,
Di Đà miệng niệm lánh trần gian.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
Và
Định ngôi phân thứ, gây cuộc hòa bình
cho vạn quốc chư bang.
Huống chi Ngài đã từng xông đuốc
khói từ bi từ lũy kiếp, nên đối với
chúng sanh bao giờ Ngài cũng ban tình thương bình
đẳng như nhau, và đã:
Nguyện uống cho đời chén thuốc
cay.
Nếu khi xưa Đức Thế Tôn đã
thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa và từ bi
độ Vô Não. Đức Lục Tổ độ cho
Hạnh Xương là người đến thích khách Ngài.
Thì hôm nay, từ hạnh của Đức Kim Sơn
Phật cũng không hơn không kém. Vợ chồng anh Bê
quả là người có túc duyên với Phật Pháp. Tuy gieo
nhân đen đúa mà khi biết được đức
độ cao cả của Ngài lại kịp thời giác
ngộ phát nguyện quy y.
Vậy chúng ta là người tín đồ
ngoan đạo phải rán học theo gương hạnh
cao cả của Ngài để tiến vững trên
bước đường tu thân hành thiện.
Mẩu chuyện thứ 37
KHÔNG NÊN CHỦ QUAN
Vào khoảng tháng 12 năm Bính Tuất (1946),
tại nhà ông Tư Đức ở Miền Đông,
Đức Thầy ra lịnh về Miền Tây. Ngài đòi
trên 40 tín đồ lên để dạy việc.
Đúng ngày 28 tháng Chạp tất cả có
mặt đầy đủ tại Tổ Đình Hòa
Hảo. Đức Ông bảo anh em hãy trở về lo cúng
Tết, qua chiều mồng Một sẽ trở lại
đây và mùng Ba sẽ lên đường. Trong số
nầy có ông Tạ Hùng Vĩ một tín đồ đã qui
y theo Phật Giáo Hòa Hảo nhưng chưa được
diện kiến Đức Thầy lần nào. Ông Vĩ
bị bịnh sốt rét đã nửa tháng qua đến
nay chưa bớt, cơm cháo gì cũng ăn không
được, nhưng khi nghe có lịnh Đức
Thầy đòi thì lòng ông rất vui mừng hăng hái.
Đoàn người đi bằng xuồng nhỏ băng
qua Đồng Tháp Mười để đến
Miền Đông. Suốt bốn ngày mới tới vị
trí. Trong bốn ngày nầy ông Vĩ vẫn còn bị nóng
lạnh, nằm luôn trong nóp, không ăn chi cả. Khi nào khát
nước quá thì vói xuống múc một hớp nước
rồi niệm Phật mà uống; nhưng có điều
lạ là khi đến nơi ông Vĩ trong người
hơi khỏe và nghe đói bụng, nên yêu cầu cô Tư
người có trách nhiệm nấu cơm trong văn phòng,
nấu cho ông ít chén cháo. Ông Vĩ dùng luôn hai chén cháo, thấy
ngon miệng quá nên múc thêm chén thứ ba, chưa kịp
ăn, bỗng thấy cô nữ cán bộ tuổi
độ hai mươi, vai mang một túi đồ,
vừa bước vào vừa kêu cô Tư nói:
– Tôi đi công tác về đói bụng quá, cô
Tư có cơm cho tôi ăn ba hột.
Để túi đồ xuống, cô Cán bộ
hỏi tiếp:
– Anh Tư đi đâu vắng rồi cô
Tư?
– Thầy tôi hôm nay đi hội nghị
chưa về.
– Thật anh đó lần nào đi hội
cũng về tối hết.
Nãy giờ ông Vĩ ngồi lặng yên theo dõi
từ cử chỉ và lời nói của cô Cán bộ. Lúc
đầu ông chưa biết cô hỏi thăm ai, chừng
nghe cô Tư trả lời Thầy tôi hôm nay đi hội
nghị chưa về, ông Vĩ mới rõ cô Cán bộ
hỏi thăm về Đức Thầy. Bỗng nhiên ông
thấy nơi ngực mình có vật gì ngăn tức,
cặp mắt hoa lên, đầu mặt nóng phừng
phừng và tay chơn đều run run khó kềm lại
được. Bởi theo ông là cách xưng hô của cô Cán
bộ đó đối với Đức Thầy là quá vô
lễ. Cả triệu tín đồ Miền Tây chưa
một ai dám dùng ngôn ngữ như thế. Ông nghĩ
nếu không phải mới đến thì ông sẽ cho cô
ấy một bài học đích đáng, nên ông cố
dằn xuống, nhưng không thể nuốt
được chén cháo thứ ba nữa. Ông Vĩ sợ
ngồi lâu đó rồi không dằn được lòng
tức giận mà sanh chuyện lôi thôi, nên ông bỏ đi ra
ngoài cho khuây khỏa. Ông Vĩ lần bước theo con
đường cặp mé rạch, độ mười
phút sau, bỗng thấy một người từ xa đi
lại. Mặc dù từ trước ông Vĩ chưa
từng gặp mặt Thầy lần nào, nhưng khi trông
thấy tướng mạo người ấy thì ông chắc
đây là Đức Thầy. Qua cái chắp tay chào mừng,
Đức Thầy liền hỏi:
– Ông ở Miền Tây lên tới hồi nào?
Tất cả đều mạnh giỏi hết phải
không?
Đoạn rồi Đức Thầy
một tay choàng qua vai ông Vĩ cùng bước đi, còn
một tay Ngài vừa vuốt ngực ông vừa nói:
– Thầy của mình chớ Thầy của
người ta sao mà buồn tức!
Đức Thầy lập lại câu nói và
động tác luôn ba lần. Nghe qua ông Vĩ quá ngạc
nhiên, run sợ và tự nghĩ tại sao mình chưa trình
bày việc nầy mà Đức Thầy lại biết
trước, và lúc nãy mình tức giận không đúng lý.
Thế rồi ngực ông bắt đầu nhẹ lại
và cảm thấy bịnh trạng trong người
dường như dứt hẳn.
Thuật theo lời ông Tạ Hùng Vĩ.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đọc chuyện trên ta không nên chê trách ông
Vĩ sao quá chủ quan và hãy bình tâm nhận xét. Bởi ông
Vĩ quá tôn kính Đức Thầy nên khi nghe lời nói
của cô nữ chiến sĩ Bình Xuyên, tự nhiên thấy
lòng bực tức khó chịu. Thật vậy bởi tâm
niệm chủ quan là căn bịnh của chúng sanh, mà nó
cũng do tích-lũy-nghiệp của con người,
nhưng ông quên rằng, cô ấy chỉ là người
ngoại đạo. Câu nói của Đức Thầy
vừa an ủi đệ tử vừa biểu lộ lòng
hỷ xả của bậc Giác Ngộ hoàn toàn nên tự
tại. Đối với chúng sanh không phân biệt hay
chấp trước kẻ phàm tình, bởi vạn vật
đều vô thường thì âm thanh và ngôn ngữ
đều là một thứ giã tạm, còn danh vị
thế trần cũng như thế. Thế nên Ngài
từng phán dạy:
Kêu thằng hay gọi là ông,
Cũng không có muốn ai hòng tôn ti.
(Mượn Cây Đuốc Huệ)
Còn kẻ phàm tình như chúng ta thì cũng không
khác chi ông Vĩ, bị cái ái ngã chấp thủ quá nặng,
nên cứ bênh vực cái ta. Cái gì mình thương kính quí
trọng thì muốn ai cũng tôn quí như mình. Nếu
ngược lại là giận hờn ghen ghét, đôi khi
họ phải đi đến chỗ giết chóc nữa.
Mẩu chuyện thứ 38
QUY Y THÌ PHẢI LÀM Y
Năm Canh Thìn (1940), một ngày đẹp
trời, quần chúng đến yết kiến Đức
Thầy rất đông. Họ sắp hàng nhau, kẻ
đứng, người ngồi, tụ họp đầy
trước đường ở Tổ Đình để
nghe Đức Thầy thuyết Pháp. Lời của
Đức Thầy trong sáng, hấp dẫn lạ lùng,
khiến mọi người chăm chú như say ngây
ngất.
Bỗng một đoàn phụ nữ
khoản 20 người từ ngoài tiến vào vái chào
Đức Thầy rồi xếp hàng chen vào đám đông
nầy.
Đức Thầy hỏi:
– Các bà từ xa đến đây hẳn là
mộ đạo và chắc là có quy y?
Bà đứng tuổi cuối đầu
nhỏ nhẹ thưa:
– Bạch thầy! Chúng con đã quy y
đầu Phật, mong theo Phật để tu hành.
Đức Thầy đáp:
-Được lắm, biết đạo
là quí, nhưng từ trước đến nay phần
đông quy y là chỉ để y, không làm theo. Bây giờ qui
y thì phải làm y. Mấy bà nên sửa mình, trau tâm và niệm
Phật.
Rồi Thầy nói thêm:
– Việc niệm Phật phải cho bền.
Phải niệm niệm tùng tâm khởi niệm sáu chữ
Di Đà, đi đứng, nằm ngồi đều
tưởng niệm không quên. Bửa củi, giã gạo,
xách nước, nấu cơm, đều niệm
được cả.
Thuật theo Đuốc Từ Bi.
PHẦN NHẬN XÉT:
Hai chữ qui y đã có từ 25 Thế
kỷ trước, và người qui y từ xưa
đến nay không số đếm tính cho hết
được. Nhưng phần đông người ta
thường qui y rồi cứ để y, chớ không
hề cải sửa. Để ý thức chung cho quần
chúng, ngài nói với mấy bà tín nữ như trên, cốt
để cho chúng ta biết sự tu hành là do ở chỗ
trau tâm sửa tánh và chuyên nhứt niệm Phật. Ngài
dạy:
– Nam mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi,
đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không
đợi gì thời khắc.
Và
Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng
chấp.
Việc biến chuyển Thiên cơ rất
gấp,
Khuyên chúng sanh hãy rán tu hành.
Cầu linh hồn cho được vãng sanh,
Đây chỉ rõ đường đi
nước bước.
(Quyển 2 Kệ Dân Của Người
Khùng)
Nếu quy y mà cứ để y thì dù có
trải qua vô lượng kiếp cũng chẳng
được thành. Bởi muốn cho tín đồ
biết được ý nghĩa của chữ quy y mà
nhứt tâm trau sửa, nên Ngài đã viết ở
đoạn khác như sau:
– Quy y đầu Phật là nương
nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy.
Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện
theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc đạo
dạy ta, ta cũng làm theo cách ấy. Thầy cảnh
tỉnh, giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng
lời, cần nhứt ở chỗ giữ giới
luật hàng ngày.
Chúng ta là người học đạo
muốn khỏi khổ luân hồi, tiến triển trên con
đường giải thoát thì lúc nào cũng cúi đầu
tuân thủ lời Thánh huấn của Tổ Thầy,
mới khỏi uổng công Cửu Huyền trông đợi
nơi chín suối.
Mẩu chuyện thứ 39
TÔI LÀM HUẤN LUYỆN VIÊN
Bước truyền đạo của
Đức Thầy trong thời nước Việt Nam còn
dưới ách thống trị của thực dân Pháp
thật là vất vả. Chính Ngài rày đây mai đó gần
ngót một năm.. Từ ngày 7 tháng 7 năm Canh Thìn (1940)
tới ngày 19 tháng 5 năm Tân Tỵ (1941) Thầy bị
người Pháp quản thúc tại nhà thương Chợ
Quán. Sau đó họ mới trả tự do cho Ngài.
Nhưng khi Ngài đến Bạc Liêu, cư
ngụ tại nhà ông ký Giỏi thì họ cũng buộc
Ngài mỗi sáng thứ hai phải đến trình diện
tại sở Cảnh sát. Ở đây họ dòm ngó mãi, làm
cho nhiều người muốn đến viếng
Đức Thầy đều phải thất vọng. Sau
đó thì sự kiểm soát của họ mới lơi
dần, người ta lần lượt kéo nhau nghe
Đức Thầy Thuyết Pháp và xin thọ giáo qui y càng
lúc càng đông.
Cứ mỗi lần có ai đến xin quy y
thì Đức Thầy kêu ông ký Giỏi bảo chép giùm bài
nguyện cho họ. Suốt tháng qua, ông Ký cứ ngồi
viết ngày nầy sang ngày khác. Hôm nọ ông đang ngồi
bỗng buông viết xuống suy nghĩ: “Đức
Thầy ở đây ngót mấy tháng rồi, mình cứ lo
viết bài nguyện cho người ta mà chính mình chưa
được Đức Thầy cho bài quy y nào hết”.
Ông Ký bèn rời chỗ ngồi, bước đến
gần Đức Thầy thưa:
– Bạch Thầy! Hôm rày con lo chép bài cho
người nầy người kia, mà phần con chưa
có, nay nhờ Thầy cho con một bài để con quy y.
– Thì sẵn đó ông Ký cứ chép mà học,
nhưng hễ qyi y thì phải cúng lạy cho đủ hai
thời sáng và chiều mới được à!
– Thưa Thầy con học bài nguyện thì
được chớ cúng lạy không được.
– Tại sao vậy?
– Vì từ trước tới giờ chưa
quen quì lạy, nay quì lạy đau đầu gối quá.
Đức Thầy vừa cười
vừa bảo:
– Thôi thì cứ học cho thuộc đi.
Cách một tuần sau, Đức Thầy
gọi ông ký Giỏi đến:
– Hôm nay tôi mượn ông một việc
được không?
– Bạch Thầy! Thầy dạy việc chi
con cũng sẵn sàng làm hết.
– Kể từ nay tôi cử ông làm Huấn
Luyện Viên nghe.
– Huấn luyện việc chi bạch
Thầy?
– Thì có ai đến qui y, ông cứ chỉ
dạy người ta cách thức cầu nguyện và
lễ bái chớ gì!
Ông Ký vui vẻ ưng chịu. Trưa hôm
ấy có ba người tới xin qui y, ông Ký lấy bài trao
cho họ và dắt họ lại bàn thờ chỉ cách
thức. Ba người ấy thưa:
– Chúng tôi hồi nào tới giờ chưa
biết lạy Phật, ông Ký gần gũi Đức
Thầy, có thấy Ngài lạy ra sao, nhờ ông vui lòng
lạy trước cho chúng tôi lạy theo.
Ông Ký chần chờ, miệng chắc
lưỡi, tay rờ rờ đầu gối và cố tìm
cách lý thuyết cho ba người hiểu. Bấy giờ
Đức Thầy ngồi từ ghế trước trông
vào nói lớn:
– Lãnh trách nhiệm làm Huấn Luyện Viên thì
việc gì cũng phải làm trước cho người ta
học theo chớ.
Ông Ký giựt mình bèn quì xuống nguyện và
lạy cho ba người ấy làm y theo. Bắt đầu
từ đó hễ có ai đến qui y với Đức
Thầy, ông Ký cũng tiếp tục làm như vậy.
Thế rồi mỗi ngày hai thời cúng, ông Ký vẫn
thường hành mà chẳng sợ đau đầu
gối như lúc trước. Ông mới chợt hiểu
Đức Thầy dùng phương tiện khéo léo
để giúp ông lễ bái được một cách
dễ dàng.
Viết theo lời ông Võ văn Trì.
PHẦN NHẬN XÉT:
Ông ký Giỏi là một cao đồ của
Đức Thầy, chức thầy ký của thời Pháp
thuộc, rất sang và có giá trị lắm. Sau khi bà Ký
được thấy linh mộng và tìm về Hòa Hảo
mà qui y, còn ông thì chưa chịu qui y mà cũng không chống
bán. Mãi cho tới khi Đức Thầy xuống tại nhà
ông và cũng chính ông được chứng kiến sự
nhiệm mầu như chữa cháy cho kho xăng ở
Bạc Liêu bằng một ly nước trà, và sử
dụng quạt máy mà không cần điện. Đồng
thời ông nhận ở đức độ cao cả
cũng như giáo lý tuyệt vời của Ngài, nên phát nguyện
qui y. Sau khi qui y, ông rất tinh tấn tu hành, và cũng có
nhiều đức tánh tốt. Đến khi lâm chung ông
biết trước ba tháng và rất sáng suốt bình
tĩnh. Bởi là người trí nên thường dè dặt
mọi vấn đề, nhứt là vấn đề
đức tin.
Khi nhận xét kỹ lưỡng ông liền
phát nguyện qui y, nhưng ngặt nỗi mình sống trong
cuộc đời sang trọng đã quen, giờ lại
quỳ sao cảm thấy khó chịu quá, nên ông bạo
dạn tấu trần sự thật với Thầy mình.
Dĩ nhiên là Đức Thầy biết rõ tâm niệm
của ông, tuy nhiên cũng phải tùy phương tiện
cho khế cơ để nhiếp hóa đệ tử, nên
Ngài chẳng buộc ông cúng lạy mà cử làm Huấn
Luyện Viên. Thế là ông Ký chẳng những lễ bái hai
thời mà còn lạy thêm nhiều thời nữa, bởi
nhiệm vụ Huấn Luyện Viên. Nhưng ông vẫn hoan
hỷ vì đã quen chớ không than thở chút nào.
Đọc qua câu chuyện trên, ta mới
thấy tài phương tiện khéo léo vô hạn của
Đức Thầy. Thật vậy, Bồ Tát lợi sanh vi
bổn, nếu không phương tiện khéo léo, thì khó
thực hành trên phương diện Giác tha.
Muốn lo toan độ thế
Phương diện phải sẵn sàng
Chớ để người nghi hoặc
Tánh họ mới minh quang.
(Lời của Lục Tổ)
Bởi sợ tín đồ cứ lo khoa
trương hình thức bằng sự lễ bái, tu mà không
lo trau sửa tâm mình, nên Đức Thầy dạy:
Còn lễ bái là điều phụ thuộc.
Còn sự cúng lạy là một điều
cần thiết để trợ trưởng cho sự tu
hành, nên Ngài đã khuyến tấn:
Sớm chiều bình đẳng chớ
lơi,
Thường hành như vậy nhớ
lời đừng sai.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
Và:
Sớm với chiều gắng chí nguyện
cầu,
Thì sẽ được tòa chương
dựa kế.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Tuy sự lễ bái là điều phụ
thuộc, nhưng lại cũng là món trợ đạo
để giúp ta trên phương diện tu hành. Nếu
thiếu nó cũng khó đưa ta đến chổ thành
công, bởi vì:
“Hữu vi chi mỹ, giả chi tắc
Phật Đạo năng thành”
(Kinh Kim Cang)
Lễ bái không chỉ giúp ta nhớ phận
sự mà còn bớt tánh ngã mạn của ta. Chẳng
những bớt tánh ngã mạn mà giúp ta diệt tội
chướng và tăng đức hạnh.
Tuy hàng cư sĩ tại gia bận rộn
với gia đình, ngoài đồng áng, nhưng ít nhứt
cũng có hai thời rảnh rỗi để đến
trước ngôi Tam Bảo mà chiêm bái Đấng Từ Bi,
và để nhớ làm theo đức độ cao cả
của Ngài. Chớ nếu bỏ hết hình thức thì
cũng khó kiểm nội tâm. Bởi muốn đến
nấc thang thứ mười thì ta không thể bỏ qua
nấc thang thứ nhứt được.
Thế nên chẳng những ông ký Giỏi
được Đức Thầy tạo phương
tiện cho ông quen, siêng cúng lạy hàng ngày, mà ông Đổ
văn Viễn và ông Vĩ ở chợ Nhà Bàng cũng xin
miễn cúng lạy mà được Đức Thầy
giải thích là không nên làm biếng cúng, vì Phật Tây
Phương không chứng cho người làm biếng, và
phải cúng lạy mới ra vẻ người tu, vì đó
là bổn phận của mình.
Mẩu chuyện thứ 40
KHẨU NGHIỆP
Nơi Kim Sơn Tự (Tổ Đình Hòa
Hảo) khoảng thượng tuần tháng 11 năm Kỷ
Mão (1939), vào một ngày nắng sớm chan hòa, ấm áp,
Đức Huỳnh Giáo chủ đang ngồi trên chiếc
ghế dựa bàn bạc việc Đạo cùng một
số tín đồ: Ông Năm Chơn, ông Biện Hùm, ông
Năm Hiệu và ông Đặng Thành Tựu. Đang nói
chuyện, bỗng Đức Thầy ngừng lại,
đứng dậy hướng mắt ra cửa nói:
– Đem đi đâu vậy? Đem về
đi, mượn người ta thì mang ơn người
ta chớ!
Lúc ấy chẳng ai hiểu Đức
Thầy muốn nói gì và ám chỉ việc chi. Thì một bà
lão từ trên chiếc xe lôi ngoài đường đang
bước xuống, trên tay bà đang bồng một em bé
độ bảy tám tuổi, tay chơn buông thỏng
như một xác chết đi vào. Bà lão vừa đặt
đứa bé xuống bộ ván ngựa thì Đức
Thầy cũng lập lại câu nói ban nãy:
– Đem đi đâu vậy, mượn
người ta thì mang ơn người ta chớ.
Bà lão có vẻ lo lắng, giọng trầm
buồn bạch với Ngài:
– Bạch Thầy! Nhờ Thầy ra ơn
từ bi cứu giùm cháu tôi. Số là buổi chiều hôm
qua, dâu tôi là mẹ đứa bé nầy vì tức giận nên
đã kêu Thần Thánh mà trù rủa con nó rất nhiều,
thành ra hôm nay mới xảy ra việc nầy.
Bằng một giọng buồn rầu bà
tiếp:
– Nó đau nặng quá Thầy, xin Thầy làm
phước cứu giùm nó.
Thật vậy, đứa bé kia chỉ còn
chút hơi thở yếu ớt mà thôi. Mặc dầu nói
vậy, nhưng Đức Thầy: “… Vì lòng từ ái
chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa …
dưới dùng huyền diệu của Tiên gia độ
bịnh để cho kẻ ít căn lành nhờ
được mạnh mà cảm lòng từ bi …” (Bài Sứ
Mạng)
Ngài đi ngay lại bàn Phật, lấy chung
nước lã, đem trao cho bà lão cho đứa bé uống,
chẳng mấy chốc đứa bé tỉnh lại
như thường.
Viết theo lời ông Đặng Thành
Tựu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời xưa đã bảo: “Nhứt ngôn
khả dĩ hưng bang, Nhứt ngôn khả dĩ tán bang.”
Đức Giáo Chủ đã phán dạy: “Trong
đường tu nương theo Tam nghiệp thì khổ
não lắm, chúng sanh tịnh được Tam nghiệp thì
mới mong về cõi Phật.
Tam
nghiệp là:
– Thân
nghiệp.
– Khẩu
nghiệp.
– Ý
nghiệp.
Nhưng
Thầy xét lại khẩu nghiệp các trò nặng nề
hơn hết.”
Thật
vậy, cái lưỡi là một lợi khí không nhỏ
của nhơn sanh. Người ta không ngần ngại dùng
cái lưỡi để bóp méo sự thật và biến
kẻ ân thành oán, rồi dắt tay nhau đến chỗ
tương sát tương tàn, biết bao thảm kịch
do miệng lưỡi.
Đức
Giáo Chủ cho biết cái lưỡi đã tạo những
sự chia rẽ, những sự phân tranh phá tan sự
đoàn kết, tình thân yêu của nhơn loại. Nó cũng
là nguồn cội của bao sự bất hòa, hiềm
khích. Phụ nữ ở nước ta cũng có nhiều
người không cẩn hạnh, cẩn ngôn, nên khi tức
giận thì buông lời nói ác, hoặc trù rủa, kêu mời
không nể kiêng Thần Thánh. Đến khi lâm bịnh khóc
than khấn vái. Nếu không mãn nguyện thì trách móc Phật
Trời. Để khuyến cáo kẻ mê mờ, Ngài phán
dạy ở điều răn cấm thứ tư:
“Ta
chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay
hoặc nguyền rủa vì Thần Thánh không can phạm
đến ta.”
Một
nơi khác Ngài cũng từ bi phán dạy:
Bịnh
ôn dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ
hành chẳng khá réo kêu.
Hãy gìn lòng
chớ khá dệt thêu,
Nói xiên xỏ cũng không no béo.
(Quyển 2 Kệ Dân Của Người
Khùng)
Đức Giáo Chủ ra đời như
vầng thái dương rọi tan đám sương mù
đã từ lâu che lấp ánh sáng trí tuệ. Chẳng
những dạy con người sớm tỉnh ngộ lên
đường giải thoát, mà còn dạy họ hoàn bị
hạnh tu nhân. Nên phận làm cha, mẹ cũng không quên làm
gương hạnh cho con cháu. Ngài dạy:
Dạy rồi những việc đức
ân,
Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào?
Lỗi lầm chớ có hùng hào,
Đừng chửi đừng rủa
đừng cào đừng bươi.
Đem lời hiền đức tốt
tươi,
Đặng mà giáo hóa vàng mười chẳng
hơn.
Cũng đừng gây gổ giận hờn,
Cho con bắt chước sạ duơn
mới là.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Từ khi nghe được lời phán
dạy của Tổ Thầy, đa số tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo đã trau sửa, nói lời chánh
ngữ, nên đã trở thành con người tốt
đẹp từ lời nói lẫn việc làm, và tránh
khỏi bị tai họa do khẩu nghiệp gây ra.
Đăng nhận xét