BỔN TUỒNG
Phần 3
XƯỚNG VIẾT:
Lọng lạc Càn Khôn môn đại đạo
Ô hô hung bạo đạo tà tinh
Quỉ cụ thần kinh linh giáo thế
Nhơn nhơn vong phế tuế viễn thiên
Thánh đạo tà tiên khuyên nhứt lệ
Tiền sư tam đệ đệ giáo truyền
HỰU VIẾT:
Xưa nhiều kẻ làm hiền
Nay dám phiền đa bạo
Thậm thậm khổ sư tiền giáo đạo
Nạn ngôn hậu bạo bất văn
Bất ưu kỳ nhựt nguyệt hiệp căn
Hằng bất kiến song đăng Thìn Tỵ (Thời)
Điềm ứng hữu lưỡng hình loạn trị
Quả điềm nầy Thìn Tỵ loạn thâm
Diêm chúa khởi binh âm
Hoàng thiên lâm Thìn Tỵ, xong !
Phần 3
XƯỚNG VIẾT:
Lọng lạc Càn Khôn môn đại đạo
Ô hô hung bạo đạo tà tinh
Quỉ cụ thần kinh linh giáo thế
Nhơn nhơn vong phế tuế viễn thiên
Thánh đạo tà tiên khuyên nhứt lệ
Tiền sư tam đệ đệ giáo truyền
HỰU VIẾT:
Xưa nhiều kẻ làm hiền
Nay dám phiền đa bạo
Thậm thậm khổ sư tiền giáo đạo
Nạn ngôn hậu bạo bất văn
Bất ưu kỳ nhựt nguyệt hiệp căn
Hằng bất kiến song đăng Thìn Tỵ (Thời)
Điềm ứng hữu lưỡng hình loạn trị
Quả điềm nầy Thìn Tỵ loạn thâm
Diêm chúa khởi binh âm
Hoàng thiên lâm Thìn Tỵ, xong !
VÃN VIẾT:
Thìn Tỵ
Thế xây vần loạn trị một ngôi
Than đời chắc lưỡi thương ôi!
Việc lành người nỡ phụ tôi sao đành
Tỵ Thìn, Thìn Tỵ tranh hành
Hai ngôi như một người lành tốt tươi
Bạo tàn hổ thẹn cho ngươi
Tu hành thêm phước tốt tươi mới mầu
Loạn ly dư chín mười sầu
Trước người chẳng dạ vọng cầu quốc vương
Xét đời thương cũng lỡ thương
Ghét thôi lỡ ghét oan ương tấm lòng
Chừng nào trở lại đất đồng
Trồng khoai tỉa bắp đỡ lòng nhân dân
Bao giờ về chốn cựu lân
Ngó cho thấy mặt từ thân tỏ tường
Trung thu mua đậu bán đường
E người vào quán bất tường sử kinh
HỰU VIẾT:
Xưa quán thị bất linh
Tâm sử kinh tri thế
Kim diệc hữu nhơn mưu kế
Minh tường Thánh Đế thừa ân
Chúc chúc thọ nhơn dân
Nhơn dân giai bất thọ (Thương hại ấy)
Thương hại thay trăm họ
Đường thượng thọ đều chê
Xóm xào nấu rất quê
Đều bê bê theo đó
Chẳng xét trong việc khó
Thêm mắt ngó tâm lầu
Sung sướng ấy bất cầu
Lạc tâm lầu xem đủ
Đền rủ nhau cả lũ
Dùng nha phiến tửu tình
Bằng hữu thuận chí bình
Ở khác tình bất cố (Thầy ôi! như tôi nay đây)
Thấy trái đạo lòng phiền ái ố
Hỉ nộ tình nan tố hiền lương (Thầy ôi! như tôinay là)
Ai lạc tâm giả dại nhà Thương (Thầy ôi! tôi elà)
Cang cường chí vương mang lưới thỏ
VÃN VIẾT:
Lưới thỏ
(Thầy ôi! như tớ nguyện phen này là)
Bước khỏi vòng ngọn cỏ mới ngoan
Chốn ải quan giàu sang trối kẻ
Người trung thần không lẽ Trời chôn
Dại cãi mòn thua khôn một gã
Kẻ suy thời nhồi nhã tả tơi
Ở đời như kẻ se lơi
Mới săn mới sợi cũ rơi tơi mành
Chớ chê lũng liễu tầm lành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Gậy Kim Cang sư trưởng cầm tay
Bao giờ trở lại nơi đây trao lời
Nạn dân ách nước tận đời
Rồng bay đám lá tối trời buông câu
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)
Tâm phiền não bấy lâu
Lầu son đâu chưa thấy
Hồ Việt trước phân nhau chầy bấy
Tam thu dư chẳng thấy tin hồi
Thân tôi làm sao sóng dập gió dồi
Thất hạ đọa chưa rồi quả báo (Như đời nay)
Người chê Phật rằng lời nói láo
E nỗi nay quần áo không lành (Chừng mà ngườitưởng lại)
Nhắc nhở việc tu hành
Thân đã đành chí tử, ma! (Như tôi nay)
Nhớ tưởng cựu tình ơn trí ngữ
Ai hoài thiên sử dĩ tử quy, hà!
THÁN VIẾT:
Ta hồ nhựt nguyệt dĩ biệt ly
Hạn bán tam niên bi lụy ngọc
Trình tường lưỡng tộc ngọc tinh vi
Tý Ngọ bất di điềm qui hiện
Phương viên ngũ diện ứng hiện tiền
Đáo tuế tân thiên huyền cơ hậu
Hà sầu chưởng đậu đắc hậu ân
Vãng cựu lai tân thiên phân đoạn
Ta hồ xử loạn đoạn phân ly
HỰU VIẾT:
Thấy sự thế ai bi
Nhơn bất tri quá thảm (Chư nhơn ôi!)
Khổ thêm tới xem không chừng giảm
Bịnh mười phần thương giảm bảy phần
Chẳng ai lo thân nải lập thân
Chẳng ai tưởng nghĩa nhân rằng trượng
Thấy chẳng kẻ thương ôi cung Thượng
Thiệt ít người độ lượng nghĩa nhơn (Ý làm saomà người)
Chẳng lo bề phụng hiến kỳ thân
Ngõ lập hậu vi ân trở lại
VÃN VIẾT:
(Thầy ôi! như tôi là)
Nhớ bắc nam dưỡng ơn tứ đại
Việc tu hành nào nại thủy chung
Thương Thầy dạ nhớ lời trung (Thầy ôi!)
Tôi nào biết mặt Tiên cung về rồi
No nao đức Phật phản hồi (Phụ hoàng ôi!)
Bâng khuâng nhớ Chúa dạng ngồi thuở xưa
Nổi gió mưa nhớ xưa thắt thẻo
Vái Phật Trời độ nẻo đường truông
Lụy sầu nước mắt nhỏ tuôn
Biết là có đặng tròn vuông như lời (Chư nhơnôi!)
Cách nhau có một chữ thời
Sang giàu trân trọng nghèo lời gay go (Huynh đệôi!)
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Chí tâm niệm Phật, Trời cho duyên lành
Chí dốc tu thời phải học hành
Cớ sao người bỏ việc lành chẳng lo (Huynh đệôi!)
Nỗi đói no khó lo rách rưới
Nắng lâu ngày mưa tưới mấy chung
Thương vì tuổi hạc huyên chung
Làm trai thủ hiếu thất trung lỗi nghì
Chữ hiếu trung chẳng phải vị vì
Thiệt tình, tình thiệt bái quỳ cúc cung
HỰU VIẾT:
(Như việc làm ở người đời nay)
Phải xét việc nịnh trung
Giặc tứ tung mặc giặc, ma! (Như tôi mà ở đờinay)
Gió phưởng phất non Nam ủ mặt
Còn mưa lâm râm thắt ngặt nắng nồng (Ai đi)
Đạo vợ chồng lòng chẳng thuận lòng (Ai đi)
Niềm phụ tử đèo bòng nghịch nhĩ
VÃN VIẾT:
Nghịch nhĩ (Như tôi nay là)
Cám thương đời ma quỷ đa đoan
Gió dào kẻ khóc người than
Tiểu khê Kỷ Dậu đại giang tới rồi
Vĩ xà thủ mã Tây hồi
Dê đi dưới đất Khỉ ngồi trên non
Thứ nầy giấy mực chờ son
Còn hai thứ nữa trên non dưới đồng (Huynh đệôi!)
Khá rèn đinh sắt tấm lòng
Chờ cơn có Chúa lên giồng ấm no
HỰU VIẾT:
(Huynh đệ ôi!)
Sung sướng chi quốc loạn chẳng lo? (Huynh đệôi!)
Mà hằng gọi ấm no lành quần áo (Trong sách cóchữ rằng)
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
(Ý làm sao mà người chẳng xem trong kinh sử,
Thánh nhơn xưa ngày có để chữ)
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì
Họa phước nhơn do cánh vấn thùy (Mà người)
Hằng dụng bạc chì tì đúc Phật
Trời Phật trước sở sanh nhơn vật (Ý làm sao)
Hà nhơn sanh Phật di kỳ!
Cám thương kẻ biên thùy
Bất tri kỳ sự chánh, ma (Như tôi mà lòng sầunay là)
Từ lịnh phụ xe loan trở bánh
Khiến loạn ly bá tánh đảo quyền
Trâu thả lang nhiều kẻ trách phiền
Ngưu phùng hổ đáo miền lao lý, xong
VÃN VIẾT:
Lao lý
Chí Mẹo Dần Phật ký Hiền ra
Thân nầy người thị quỉ ma
Ví như bèo tấp mé nga bập bều
Thân nầy người thị rác rều
Chẳng ai cám tưởng cái lều tranh hư
Dạ sầu phiền não ưu tư
Khi nầy bất túc hữu dư nhờ Trời
Nói ra người chẳng nghe lời
Người thêm khiến lại chịu đời cắn răng
Nỗi khó khăn cắn răng mà chịu
Dạ lo đời toan liệu thiên cơ
Gẫm mình tất bật tơ bơ
(Trời Phật ôi! có hay đến nỗi nầy chăng ?)
Đạo lành nắm giữ ngẩn ngơ lòng người
Khéo líu lo vượn hú thú cười
Thon von đạo Phật nhiều người không tu
Thân nầy người thị rằng ngu
Lòng ai nấy biết khó tu đỡ đàng
Mây giăng khói tỏa mịt đàng
Thương người tôi nói tỏ tàng chẳng nghe
Lưỡi câu liêm ruồng váng nhện che
Thương người chỉ ngõ chẳng nghe tự tình
HỰU VIẾT:
(Tôi nói thiệt mà)
Ai ai khá giữ mình
Việc thình lình sấm dậy (Huynh đệ ôi!)
Việc tội nghiệp khó toan che đậy (Còn như)
Việc phước tài ai nấy giành đâu?
Họa phước nầy Trời khiến cạn sâu (Huynh đệôi!)
Nam mô Phật tới đâu hay đó
VÃN VIẾT:
Hay đó
Nước Ó Rằn người có qua đây
Thương người nhiễu thịt bỏ thây
Lòng không niệm Phật hỏi đây mấy lời
Ở đâu chẳng vái Phật Trời
Bây giờ nói thiệt việc đời khổ đa
Trách mẹ cha ai la hồi đó?
Đến bây giờ thấy khó kêu cha
Bậu đừng nhí nhảnh lảnh la
E sau để lỗ đôi ba năm trường
HỰU VIẾT:
(Cơn vắng vẻ nay)
Mà người chẳng hỏi thăm đường
E hậu nhựt khó tường nẻo bước (Cơn bịt bòngnày)
Thấy hiền ngõ a dua lấn lướt
Chẳng lo sau xét trước mà nhờ (Người thấy tôi)
Hình dạng dại khờ (Người e)
Hậu nhựt khó nhờ
Cho nên người chẳng tưởng (Đó ma !)
Cao vọi vọi kìa ơn sư trưởng (Còn)
Rộng thinh thinh cám tưởng càn khôn
Hội tề tiên đồng đẳng nhứt môn (Thầy ôi!)
Đạo vi tử vi tôn tận ý
VÃN VIẾT:
Tận ý
Cám thương trường khảo trí thức tâm
Học hành tính đã bảy năm
Trường an vô tự giáo tâm thi tài
Đố ai lập đặng sách ngoài?
Văn thơ trí tuệ phép tài đậu câu
Xem rồi mắt thấy đâu đâu
Thiên cơ liễu đắc cạn sâu mới rằng
Cuộc nào mặt đất trải bằng
Nước còn xao xuyến người rằng tôi ngây (Huynhđệ ôi! như tôi)
Hình dạng đây mắt ngó bên Tây
Liếc xem Tào Tháo bị vây lâu ngày (Huynh đệôi!)
Rồi đây ngó thấy Ông Thầy
Ra nơi chiến địa xử rày muôn binh
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)
Chơn bước ván hầm hinh
Miệng niệm kinh trừ quỉ
Nam mô Phật thường hành tịnh thủy
Úm ma ha khử quỉ tiêu tà
Cầu sanh lai phước thọ nhà nhà
Đồng minh tánh thượng hòa hạ lục
Chớ mê muội noi theo ngu ngục
Nương tràng phang tị tục bớ người
Bửu Cái đây hớn hở vui cười
Qui cõi thọ số mười đề hiệu
Tội chư quốc dấy loàn vạn triệu
Thị sát nhân nan liệu tội thâm
Phạm luật hình nhơn bất tu tâm (Tôi nói thiệt)
Sát nhơn thị ngàn năm tu không hết tội
Đường oan trái trả ba bảy hội (Người)
Mê tục trần bất thức tội nan (Cho nên)
Chẳng thấy người lòng thở dạ than (Há rằng dễa!)
Nói ngang lòng toan nói dọc
Chớ chớ âm thầm tra mưu độc
Đừng đừng toan ngang dọc học rằng ngoan (Nhưtôi nay là)
Tầm tích hiền tầm chốn hiển vang
Đường danh lợi dọc ngang trối kệ (Cha chả!)
Sức bây giỏi cho bằng Tào phạt Hớn
(Còn như người chưng mặt lớn nay)
Lớn cho bằng nhà Ngô cầu hôn sát Hớn (Á, lớnlàm chi kìa)
Huynh đệ đoạn phân lìa
Chỉ thị ngu si chưởng khoái
Thủ túc đoạn tình bất ái (Mà người)
Người chẳng e sự quấy chê rằng
Dạ quyết đoạn xích thằng dấu mối, xong
VÃN VIẾT:
Dấu mối
Tấm lòng người bối rối như tơ
Của tiền bất phải vất vơ
Chẳng dùng nhơn nghĩa như tơ lộn cuồn
Lao xao dưới biển trên nguồn
Cù lao sụp hết ghe xuồng vắng sông
Sài Gòn trở lại lập công
Đất đồng còn đặt hóa sông bây giờ (Huynh đệ ôi!)
Mãn tứ niên Trời Phật thượng cờ
Thanh Long Mỹ diệu tới bờ bước lên
HỰU VIẾT:
Chẳng xét việc hư nên
Khó ngồi trên thiên hạ
Từ thuở Láng Linh khởi họa (Mới)
Khiến nên tấc dạ hao mòn
VÃN VIẾT:
Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Khó xít xăng trong ăn phần thịt
Nhảy tưng bừng đấm đít xây lưng
Sự đời thấy dửng dừng dưng
Chẳng thương trước mặt sau lưng kể gì
Hổ long quì bất tùy bay bổng
Cửa Thiên đường trống lỏng khó vô
Từ từ lỗ miệng nam mô
Phật Trời ngồi đó phơi khô mấy ngày
Khổ hội nầy vái Thầy cứu độ
Trái cái lòng trước ngộ sau ly
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)
Mới biết rằng tiền vị hậu khi
Thời vận khiến bất tôn ti thượng hạ
Bải hoải ngậm ngùi trong dạ
Ngã ngu nga mục đọa Hạ Bì
Nhơn lưỡng tâm nay nghịch mai tùy
Người lưỡng cốt nay bì mai nhục
Chớ bán lụa đầu hồi bất phục
Chế đồng vàng tứ lục còn cao
Nhận thủy xoàng hai mắt như sao
Ngồi hai nạng thấp cao xem thấy, hà
OÁN VIẾT:
Dạ sầu vì giấy bán mấy đồng
Thắt thẻo năm canh lạnh tấm lòng (Thầy ôi!)
Thọ nạn non đồng lòng thọ nạn
Trong đồng khởi loạn nhạn kêu sương (Thầy ôi!)
Thảm thảm thương thương đương đương đạo (Vậychớ)
Hàm oan oán bạo cạo đầu sài
Tôi tớ ăn mày đều cạo trọc
Nhị triều ngang dọc độc tâm nan
HỰU VIẾT:
Bất dụ tất tà gian
Lòng thở than đời cạn
Đoái nhìn thấy nhơn dân đại nạn
Phong trần đà khởi loạn tứ phương (Nhơn dânôi!)
Dân lỡ bề thọ hại tử ương
Đường oan trái mạt Thương mới biết (Chư nhơnôi!)
Nước bối rối giả câm làm điếc
Dầu tài năng chẳng biết dễ hơn (Huynh đệ ôi!)
Chưa phải thời ra mặt cao sơn (Mà)
Người làm túng tiếu vô ơn thọ tử
Trên Trời Phật chưa tờ chỉ sử
Dưới chúng dân tích cử xuất binh
Mặc thế tình vinh nhục loạn ninh
Nào nào biết trần binh hà đạo?
Tôi tưởng chúa lo đền cơm gạo (Chư huynh ôi!)
Tớ tưởng thầy giữ đạo trọn ân (Chư nhơn ôi!)
Chư nhơn đừng nghịch vu thân (Chư nhơn ôi!)
Vậy mới gọi lập thân hành đạo
VÃN VIẾT:
Hành đạo
Cám thương người nghịch bạo mạng vong
Tới đời vỡ ổ chòm ong
Khi không mình lại mang vong lao tù
Kẻ hiển vinh lên võng xuống dù
Nhện giăng trước mặt mịt mù thấy đâu
Phước bao sâu họa cũng bao sâu
Làm người sao chẳng lo âu nước nghèo
Chúa lỡ cơ lên đèo quá hải
Nước nghiêng nghèo người phải lo âu
Thương thầm cá ẩn bực sâu
Chim bay ngàn dậm thấy đâu chùa chiền
Chốn võ môn tam cấp chiêu hiền
Long Cu cỡi đặng gởi phiền non sông
Lẽ nào biệt tích biệt tông
Mà người chẳng vái Bà Ông cứu đời
Dạ thở than vái Phật cầu Trời
Dân như cá cạn khó đời dân ôi!
Nực cười ai chẳng thương tôi
Thân nầy khác thể bí bôi xấu màu
HỰU VIẾT:
Cách địa tịch ưu sầu
Xem bất cầu hiền sĩ
Thấy ít kẻ bồi thiềng đắp lũy
Nhìn không ai lập kỷ Trần Cang
Cám thương đời nay hiệp mai tan
Đò tạo hóa thở than đà chích bánh
VÃN VIẾT:
Chích bánh
Xem ít người vi cánh Đường bang (Thầy ôi!)
Kẻ giàu sang khó than đạo lý
Xem ít người hiệp ý đồng tâm
Bảy ngày sau hiệp mười lăm
Đạo làm tôi tớ xiển thâm nhờ Thầy
Nỗi tớ nay như kẻ ăn mày
Nay tan mai hiệp nhờ Thầy khiến xui (Thầy ôi!)
Dạ Thầy vui đệ tử cũng vui
Thầy buồn tệ tử cũng xuôi lòng buồn
Nỗi xuân ai nam bắc thơ tuồng
Thầy vui dầu tớ lòng buồn cũng vui (Thầy ôi!)
Kẻ săn chồn dặm tới bước lui (Huynh đệ ôi!)
Chó vầy sủa bóng nai xuôi vào rừng (Chư huynhôi!)
Chắc lưỡi ôi! đôi mắt ngó chừng
Kìa kìa mé biển chưn rừng lao xao
HỰU VIẾT:
Kiểng buồn ai bích lịch nghêu ngao
Nay thoại chí thấp cao vui vẻ
Lần lần kể từ năm chẵn lẻ
Ai ngay gian có Thẻ ngăn đường (Như tôi nay)
Vái Nam bang vĩnh viễn miên trường
Cầu Hớn thất Minh đường kiến thọ
Trai thơ thớ ứng tường Tý Ngọ
Gái đường đường hai họ hòa duyên (Ấy làm vậy)
Mặc tình ai hòa ý Tây phiên
Người khá giữ chí căn duyên phiền túc
(Còn như bổn phận túc, Huynh đệ ôi!)
Mây tan hiệp hư nên có lúc
Đến ngày nay Trời Phật khiến
Lòng ta hạ bút đề thơ (Chị em ôi!)
Khá rèn lòng đừng dạ lẳng lơ
Nhỉ văn đọc tri cơ trào chánh (Chị em ôi! nhưtôi)
Từ ngó chiếu kiến tường Phật Thánh
Phật hiện tâm minh tánh nan cầu (Chị em ôi!)
Vui nỗi chi mà trong dạ không sầu? (Huynh đệôi!)
Trời Phật nỡ cầu người chẳng tưởng, a
LOẠN VIẾT:
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn (Chị em ôi!)
Thân khá thủ thân ân oán ác
(Tôi dám khuyên cùng anh em, chị em, khá niệmPhật)
Nam mô Bồ Tát ác chi tiêu
Khổ khổ tiêu tiêu phiêu phiêu tận
Bất lưu oán hận tận tình hung (Huynh đệ ôi!)
Thủ hiếu thủ trung hung bất nhập
Côn đồ cổn chiến bất cập vong
VÃN VIẾT:
Dạ nguyền khẩn bái Thầy Ông
Bao giờ cá đặng hóa long an hòa
Rán lòng tin tưởng Ông Bà
Lều tranh có đạo hơn tòa ngói tô
Miệng niệm nam mô nuốt vô có Phật
Nhổ ra rồi chư tật còn y
Muốn quy y nài chi gai góc
Muốn học hành dục tốc bất thông
Kẻ có công gai chông lần bước
Mai sau dầu gặp phước làm nên
Của tiền chất để đôi bên
Một lòng thờ Chúa dưới trên có phần
Trách ai dạ chẳng ân cần
Vùa hương bát nước ân cần báu châu
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)
Cá mắc cạn ẩn hang sâu
Người ở đâu mà ngó thấy
Từ thuở phụ tồn thiểu giấy
Trời khiến nên ngó thấy đường dài
Thậm trách bấy hớn hài
Sau ở ngoài gay gắt
VÃN VIẾT:
Nẻo tử sanh mau dường nháy mắt
Câu bại thiềng gẫm ắt nào xa
Phật bước ra tà ma áp bắt (Huynh đệ ôi!)
Gẫm sự đời gay gắt nhiều phen
Kẻ ghét ghen đua chen khôn dại
Việc tu hành nói lại đôi co
Dạ sầu lụng đói phát no
Thương trần dạ chẳng âu lo thân hình
Vui chi ca miễu hát đình
Trời ra tiếng sấm giựt mình quên tên
Phật Trời phưởng phất một bên (Chị em ôi)
Vái van khẩn nguyện gặp nên mà nhờ
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)
Tai hằng nghe chư quốc sanh cờ
Tài phép lạ một giờ thâu hết
Tử vô số hồn oan theo kết
Nay anh hùng sau hết tài năng (Huynh đệ ôi!)
Hai đoạn nầy day trở khó khăn (Thầy ôi!)
Biết bao thuở tài năng trợ thế
VÃN VIẾT:
Trợ thế (Thầy ôi!)
Cám thương vì phế đế sùng tu (Trung linh ôi!)
Bốn mùa xuân hạ đông thu
Nguyện cầu biển thánh rừng nhu đỏ đèn (Thầyôi!)
Nỗi gian nan tớ chịu khó hèn
Phật Trời chứng chiếu ngọn đèn tinh minh(Trung tinh ôi!)
Việc sử kinh tâm linh ký tự
Hạ bút thần ghi sự cổ kim
Dậm hòe dấu thỏ đường chim
Ai tường sự cổ sự kim đổi dời
Ngặt tình kêu Phật kêu Trời
Thương thương xót xót nạn đời mới kêu
Ở đời nhiều kẻ trớ trêu
Phật Trời chẳng dễ người kêu liền hoài
Biết sao có phép có tài
Ra nơi quan ải hỏi vài tội tham
HỰU VIẾT:
(Ý làm sao)
Kẻ không tội bắt giam?
Còn người gian tham khỏi hại?
Người khiến nhiều lẽ Nam kỳ tồn bại (Ý ngườimuốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần (Tôi nói thiệt)
Đường tử sanh tôi nguyện có Thánh Thần
Nẻo vinh nhục cơ bần tại lịnh
Kế Gia Cát để dành Gia Định
Mưu Tử Trình hiệp lịnh tân quân (Như tôi naylà)
Đãi hậu nhựt huờn xuân
Nhơn hườn tuân bất dục
LOẠN VIẾT:
Yếu lộ mưu thâm ân binh phục
Cổ thiền sỉ nhục phục trào tân
Kim cổ sử nhân thân mãn đọa
Hai ngôi thọ họa hạ Tây trào
VÃN VIẾT:
Lều tranh chẳng kẻ ra vào
Tai nghe phường phố ào ào như giông
Thứ nầy hành đắc hóa long
Ngộ kỳ ngư thủy vi phong hội nầy
Gió day bát hướng lâu ngày
Bâng khuâng tưởng Phật nhớ Thầy đòi cơn
Vận nghèo ai chẳng phi ơn
Của Trời Phật để Thất Sơn thiếu gì
Gian nan ít kẻ bù chi
Mũ ni áo bả nương tùy nhà Thương
Rày mừng quốc thới dân khương
Trên quan sửa trị dưới lương dân tùng
Trải gan vàng ngọc anh hùng
Trên Vua nhơn đức dưới dùng làm tôi
Ngai vàng vững đạt báu ngôi
Trên Vua khai rạng dưới tôi trung thần
Nam mô A Di Đà Phật
Hết quyển 6 – Bổn Tuồng
Đăng nhận xét