Mẩu chuyện thứ 41
CHÂN VÀ GIẢ
Tháng 10 năm 1939, tức sau ngày Đức
Thầy mở đạo năm tháng. Sau khi đến viếng thăm Ngài và nghe Pháp, một số đồng
đạo xúm nhau ngồi trước khách đường tại Tổ Đình để trao đổi ý kiến. Kẻ tán thán
công đức nói pháp kỳ diệu của Đức Thầy, người bàn bạc thiên cơ biến chuyển
trong thế chiến thứ hai. Có người than thở rằng:
– Bây giờ nhiều đảng nhiều đạo mọc
lên, ai cũng cho mình hay, mình đúng, làm chúng sanh trong chỗ mịt mờ tối tăm,
càng mờ mịt tối tăm hơn, không biết đâu là chơn lý mà nương tựa.
Đức Thầy từ trong nhà thong thả tiến
tới bên anh em đang xúm nhau đàm đạo. Đúng vào lúc có sự thắc mắc của một đồng
đạo, lo lắng dùm cho chúng sanh sẽ lầm đường không biết đâu là chơn lý như đã
nêu trên, thì Đức Thầy dừng chơn và Thuyết Pháp:
– Các ông hãy nhìn đây là chiếc đèn
hột vịt và đây là cái lồng đèn bốn mặt bao phủ chung quanh bằng bốn màu kiếng,
xanh, đỏ, trắng, vàng. Các ông hãy nhận rõ ánh sáng của đèn rồi để chiếc đèn
vào lồng, bấy giờ các ông sẽ thấy gì? Có phải các ông tùy theo chỗ ngồi của
mình mà thấy rõ ràng ánh sáng của ngọn đèn là ánh sáng của màu kiếng phía mình
ngồi đó chăng?
Đức Thầy dừng một chút rồi tiếp:
– Cũng như thế đó, chơn lý chỉ có
một là ánh sáng chơn thật của chiếc đèn tủa ra, còn sự trông thấy xanh đỏ trắng
vàng của chúng sanh là tùy thiên chấp chủ quan của tự mình hoặc của ngoại cảnh
chi phối mình mà thôi. Vì không chịu tìm tòi chơn lý nên không phân biệt được
nẻo chánh đường tà, khiến người ta phân vân, hoặc có khi vì biên kiến mà sanh
lòng tranh chấp, ghen hờn với nhau nữa. Điều đó thật đáng thương.
Giảng xong mấy câu, Đức Thầy ung
dung rảo bước, còn đồng đạo thì như sực tỉnh cơn mê, trầm ngâm nét mặt.
Thuật theo lời ông Võ Quang Lệ.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời giảng của Đức Thầy trên đây có ý
nghĩa không khác bài pháp nói người mù rờ voi của Phật Tổ. Người ta bị vô minh
che lấp chơn tâm rồi nhìn đời thiên lệch theo tà kiến nên nhận giả làm thiệt,
chấp không ra có. Muốn diệt trừ phải giữ sự bình lặng của chơn tâm và phải tập
trung tư tưởng suy nghĩ cho minh đúng lý rồi mới phán đoán sự vật. Ánh sáng
chiếc đèn là sự thật mà các lớp màu của kiếng bọc bên ngoài là giả cảnh, làm hư
vọng sự thật mà thôi.
Mẩu chuyện thứ 42
ĐOÀN KẾT ĐỂ CHUNG LO
Ngày mùng một tháng sáu năm Aát Dậu,
sau khi làm lễ rước lư hương về An Hòa Tự, Đức Thầy qua Năng Gù để đi Khuyến
Nông Thuyết Pháp.
Tại Long Xuyên, nơi đây Ngài được
tiếp rước trọng thể. Thính chúng nhiệt liệt hoan nghinh trên diễn đàn đặt tại
từng lầu một công sở xã Mỹ Phước nay là phòng thông tin tỉnh An giang. Bấy giờ
tại Long Xuyên, Ban Trị Sự Tỉnh Bộ có sự bất đồng ý kiến giữa ông Phó Hội
Trưởng và ông Thủ Bổn, khiến việc đạo có phần ngưng trệ. Hình như đã biết trước
một cách tinh tường, nên khi dùng cơm trưa tại tư thất của ông Võ Tăng Sâm, có
sự hiện diện của nhiều nhơn vật cao cấp, Đức Thầy với giọng cương quyết truyền
rằng:
– Người làm đạo phải dẹp bỏ mọi tị
hiềm cá nhơn, phải chung lo việc đạo với nhau. Kẻ nào chia rẽ về sau sẽ bị đứt
đầu.
Tất cả đều im lặng trong bầu không
khí nặng nề, răm rắp kính vâng lời dạy của Đấng trọn lành trọn sáng.
Viết theo lời của ông Lê Bá Thế.
PHẦN NHẬN XÉT:
Định luật xưa nay cho biết, chia rẽ
thì diệt vong, tự mình diệt lấy mình chớ khỏi đợi đối phương tiêu diệt.
Lời phán của Đức Thầy ở trên là một
bản án không hơn, không kém, mà nó cũng có giá trị cao trên việc động viên góp
phần tài bồi đạo cả. Nếu hàng ngày tâm niệm và nhứt cử nhứt động đều lấy đó làm
phương châm thì người tín đồ Phật Giáo Hào Hảo sẽ làm sáng danh Thầy Tổ và vững
vàng Đạo Pháp biết chừng nào.
Mẩu chuyện thứ 43
MỘT BÀI NGỤ NGÔN
Buổi mai vừa vén màn sương lạnh của
ngày tàn Đông năm Kỷ Mão. Mấy chậu kiểng, khóm hoa, trúc nơi Kim Sơn Tự đều có
vẻ thơi thới. Nhứt là cây huỳnh mai trên mỗi cành đều ôm đầy ấp nụ vàng như
cười tiển tiết Đông Thiên và sẵn sàng chờ đón mùa xuân bước tới.
Đức Thầy dừng chơn giữa sân hoa,
Ngài vừa nhìn kiểng vật vừa trầm ngâm suy tư. Bên đường làng người qua lại tấp
nập. Bỗng Đức Thầy chú ý đến toán người vừa lướt nhanh qua cổng ngoài, trên tay
họ hoặc mang, hoặc xách những chiếc bội đương rất mỹ thuật với những chú gà
nòi, cắt lông, cạo cựa trông rất oai phong. Chúng cất lên những tiếng gáy hăng
độ, ý chừng muốn ăn tươi nuốt sống đồng loại chúng, hoặc vừa nghe tiếng gáy,
hoặc vừa trông thấy được bồng ẫm trên tay của người đồng hành bên kia. Cảm xúc
trước cảnh ấy, Đức Thầy ngâm lên một bài thơ tứ tuyệt:
Gà cồ coi
vậy thiệt là ngu,
Nòi giống
không thương lại oán thù.
Thiến tích
cạo đầu làm mặt lạ,
Chém đâm
nhau chết máu lu bù.
Ngâm xong
bài thơ, Đức Thầy trở lại Trai phòng tiếp tục công trình hoằng Pháp.
Theo Đuốc Từ
Bi.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Trên đây là
một bài ngụ ngôn không hơn không kém. Nếu xưa Phan văn Trị làm bài ngụ ngôn:
“Vịnh cá lia thia” để dụng ý chê trách những người vì lon, vì đai mà chạy theo
thực dân Pháp để trở lại buôn nước hại nòi, thì ở đây Đức Thầy cũng đem câu
chuyện “Gà nhà bôi mặt đá nhau” mà ngụ ý khuyên can những ai vì lơi quyền, vì
ích kỷ mà đành quên nhân nghĩa và đạo lý để đến phải trở mặt thù hằn, ganh ghét
lẫn nhau.
Chỉ vỏn vẹn
28 chữ, những câu thơ trên quả là lời thuyết Pháp, thuyết về lòng nhân không
hiếu sát, thuyết về si mê biên kiến, nhẩn tâm sát hại lẫn nhau, thuyết về lòng
người tráo trở, xoay lưng sấp mặt với đồng loại. Nhìn vào tấm gương hoen ố mà
loại gà trống đã thể hiện, loài người nên tránh xa. Suy nghĩ ít vẫn thấy hay,
mà càng ngẫm nghĩ thật nhiều thì cái ngụ ý của Đức Thầy cho ta một bài học thâm
trầm biết mấy.
Mẩu chuyện thứ 44
THEO BẦY MỚI SỐNG
Miền Đông, ở
tại nhà ông Tư Đức, vào một ngày cuối năm 1946. Khi vầng dương vừa ngã bóng
nghiêng về đỉnh núi, tại đây một bầy vịt ước chừng vài chục con, sắc lông trắng
ngà, kéo nhau đi ra bờ sông. Trong một bầy vịt đang đi thì thình lình có hai
con ngã lăn ra vì bị gió độc.
Bấy giờ Đức
Thầy hiện có nơi đây, Ngài bước tới chỗ hai con vật mắc bịnh kia rồi lấy tay vỗ
nhẹ lên lưng chúng, hai con vật từ từ đứng dậy. Ngài đưa tay nâng lên và đẩy
nhẹ chúng đi. Hai con vật nhờ vậy chạy theo nhập bọn với đàn vịt vừa đi phía
trước. Đức Thầy đứng dậy, lúc ấy có sự hiên diện của ông Nguyễn Thành Hiệp.
Ngài phán rằng:
– Vịt nhờ
nương bầy nên mới sống, nếu đứng riêng thì nó đã chết rồi.
Thuật theo
Đuốc Từ Bi.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Điểm trước
tiên chúng ta nhận thấy nơi đây một huyền diệu mà bước đầu độ bịnh cho nhơn
dân, Đức Thầy thường áp dụng Mật Giáo. Kế đến ta thấy Ngài cho ta một bài học
đoàn kết thân ái với nhau, mà nhiều nơi Kinh Giảng Ngài thường nhắc lại:
Lòng trẻ
thảo biết đoàn biết kết,
Phí xác phàm
mê mệt đâu nài.
(Thu Đã
Cuối)
Và
Anh em lớn
nhỏ quày về,
Hiệp nhau
một khối chớ hề phân ly.
(Tiếng
Chuông Cảnh Tỉnh . SG TT tr 462)
Hoặc:
Chớ chia rẽ
phải đồng tâm lực,
Khua giọng
vàng đánh thức bốn phương.
Chấn hưng
Phật Giáo học đường,
Dưới trên
hòa thuận chọn đường quy nguyên.
(Thu Đã
Cuối)
Mẩu chuyện thứ 45
HẠNH KHIÊM TỐN CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
Đệ nhị thế
chiến bùng nổ, thế giới khủng hoảng trước chiến tranh, dân chúng lâm vào cảnh
điêu linh thống khổ, sự truyền giáo của Đức Huỳnh Giáo Chủ lúc đó cũng lắm
truân chuyên khổ khó. Thực dân Pháp lo ngại trước uy tín của Ngài, họ buộc Ngài
đi an trí nhiều nơi do họ chỉ định. Mãi đến năm 1942 Ngài mới thoát khỏi sự kềm
kẹp của chúng và cư ngụ tại Saigòn.
Lòng nhớ
thương Thầy, tín đồ lần lượt đến viếng Ngài. Năm Giáp Thân (1944), có một số
tín đồ từ Cao Lãnh rủ nhau đi Sai gòn viếng Ngài. Họ đi bằng chiếc ghe tam bảng
bốn bổ chèo. Chuyến đi này gồm các ông Hội Trưởng, Phó Hội Trưởng Quận Cao
Lãnh, ông Hội Trưởng xã Tân Tịch, ông Hội Trưởng xã Tân Thuận Tây, các ông Hai
Đấu, và Bùi văn Triển. Ngày mùng 2 tháng 3 nhuần 1944 thuyền rời Cao Lãnh đi
theo những con sông lớn đến rạch, ngòi heo hút, trải qua ba ngày mới đến Sai
gòn.
Bốn ông Hội
Trưởng lên trước, ông Đấu và ông Triển nhờ bốn ông xin phép Đức Thầy cho hai
ông diện kiến. Khi công việc của các ông Hội Trưởng trình xong, họ bạch với Đức
Thầy cho hai người cùng đi được viếng Ngài. Đức Thầy chấp thuận, nhưng Ngài dặn
sáng hãy dắt lên.
Sáng ngày đi
quanh lộn trên đường Sai gòn một lúc lâu, hai ông được đưa đến sau một dãy phố
hai tầng. Bước vào căn phố, đứng trước một cái bàn dài. Hai ông chờ đợi một lát
sau, Đức Thầy ở ngoài cửa đi vào, vẻ mặt hiền hòa từ ái. Ông Đấu đứng lên xá
Đức Thầy. Ngài nghiêm nghị thân hình, tay buông thẳng và đầu từ từ cúi xuống.
Bấy giờ như có một mãnh lực vô hình thúc đẩy, ông Triển làm y theo ông Hai Đấu,
dẫu rằng từ trước đến giờ ông chưa bao giờ gặp mặt Đức Thầy lần nào và trong ý
ông nghĩ rằng có lẽ đây là Đức Thầy mà mình đang hằng mong gặp mặt.
Hai ông chào
hỏi Đức Thầy xong, Ngài nhỏ nhẹ tỏ lời:
– Cám ơn các
ông chẳng ngại xa xôi đến viếng Thầy. Vậy về nhà rán thực hành theo những điều
mà tôi đã dạy trong Sấm Giảng.
Khi ấy ông
Đấu bạch cùng Ngài cho ông được lạy Thầy, vừa nói xong, vừa quì xuống. Đức Thầy
nghiêm nét mặt đưa tay chận lại và nói:
– Không!
Ông Đấu vẫn
cúi xuống.
Không!
Không!
Tiếng Ngài
gắt lên, nhưng ông Đấu vẫn cúi lạy xuống.
Liền đó Đức
Thầy liền quay bước vào trong tránh cái lạy mà Ngài đã không chấp nhận.
Một lát sau
Ngài trở ra trước cái ngại ngùng của ông Đấu, Ngài nói một cách nghiêm nghị và
quả quyết:
– Trước mặt
tôi những việc làm tôi không cho mà ông còn làm như vậy, khi không có tôi ông
hành động bướng bỉnh như thế nào nữa?
Một chập sau
Ngài tiếp tục nói, có rất nhiều về những pháp môn hành đạo, chỉ điểm những yếu
lý trong giáo lý Phật Đà. Ngài cho biết đời Hạ Nguơn ma quỉ tà thần hay lộng
hành á vị, xưng phật, xưng Thần nhiểu hại thế gian.
Qua hàng giờ
với lời khuyên bảo cặn kẽ của Đức Thầy, đã làm cho tâm tư hai ông thơ thới như
được uống bát nước cam lồ. Ở đó tiếp chuyện với mấy đồng đạo khác, chặp sau hai
ông mới trở ra. Lúc ấy Đức Thầy đứng coi mấy anh em đang chùi rửa mấy chiếc xe
hơi trước nhà. Bấy giờ ông Đấu và ông Triển đi đến chào Ngài để về, Đức Thầy
đứng thẳng người để đáp lễ với cử chỉ như lúc Ngài chào hỏi hai ông ban đầu.
Ông Triển
cho biết với phong thái khoan hòa của Đức Thầy đối với hàng tín đồ, từ xưa đến
nay ít người sánh kịp. Ông quả quyết không thế nào lầm lạc với những người hiện
nay xưng cậu, xưng thầy mà tư cách của họ chẳng đúng vào đâu.
Viết theo
lời ông Bùi văn Triển.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Đem sự lễ
bái mà sùng ngưỡng các bậc siêu nhân Phật Thánh là điều đáng khuyến khích, song
ta cũng không nên ngang bướng trước việc làm mà Thầy Tổ đã nhiều lần khuyên
giải.
“Chỉ thờ lay
Đức Phật, tổ tiên, ông bà cha mẹ lúc còn sống, và các vị anh-hùng cứu-quốc. Với
những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy-lục người sống., cho đến Thầy mình cũng vậy,
chỉ xá thôi”. Thế mà hiện giờ còn lắm người tự cho mình là chứng đắc quả vị
Phật hầu lòe đời phỉnh gạt thế nhơn. Họ ngang nhiên để thế nhơn lễ bái, phụng sùng,
sống phè phỡn bằng mồ hôi nước mắt của những kẻ cuồng tín, trái với câu chuyện
trên cho ta thấy đức độ của Đức Giáo Chủ đối vơi tín đồ có giá trị khó lường.
Hạnh đức khiêm tốn của Ngài thật vô cùng thánh thiện. Nhưng trong khi thời kỳ
nầy nhiều Quỷ Vương xuống thế, bao mối đạo mới mọc lên như cỏ dại, kẻ xưng thầy
xưng Phật lộng hành á vị, thì làm sao chúng ta phân biệt được ai tà ai chánh,
gút mắt ấy được Đức Giáo Chủ phân giải:
Bây giờ bất
luận người nào,
Không dùng
của thế sắc màu cũng không.
Nói cho bổn
đạo rõ lòng,
Ấy là chơn
chánh mới hòng vinh vang.
(Quyển 3 Sám
Giảng)
Bởi vậy giáo lý siêu thượng của Ngài mỗi ngày
mỗi lan dần vào quần chúng, mỗi ngày hàng tín đồ càng lúc càng đông. Ấy cũng
bởi đức khiêm tốn của Ngài trùm khắp. Lời tiên tri của Ngài tất thể chứng minh. [next]
Mẩu chuyện thứ 46
CHỈ CÓ MỘT NẤC
– Chiều nay
anh em đừng đi chơi đâu xa.
Lời nói ấy
là khẩu lịnh của Đức Thầy phán dạy trước một số anh em đồng đạo vào chiều ngày
2 tháng 3 Dương lịch 1945, tại căn phố số 150 đường Lefèvre Sài gòn. Anh em
đồng đạo mãi thắc mắc trước khẩu lịnh ấy, họ tự cật vấn nơi lòng, có chuyện gì
xảy ra trong đêm nay. Ông Lê văn Phán, một đồng đạo hiện có mặt trong thời gian
ấy, lòng cũng nghi nan, ông bèn hỏi ông Chủ Cưu:
– Đêm nay bộ
có chuyện gì sao mà Đức Thầy không cho đi chơi vậy ông Chủ?
Vẻ trầm ngâm
chen lẫn trong sự áy náy làm hiện rõ trên nét mặt ông Chủ trước câu hỏi của
người bạn Đạo. Ông đáp:
– Việc nầy
Thầy cấm không cho ai biết, đêm nay Nhựt đảo chánh Pháp đó.
Tâm tư ông
Phán một vùng trời tự do lóe ra, vừa mừng và cũng vừa lo. Chập sau đèn điện
cháy sáng, 7 giờ 40 phút, một phát súng lệnh nổ lên, hàng trăm tiếng khác phụ
họa, và rồi liên tiếp tiếng ì ạch.. .đạch đùng.. .tiếng người la ó, hò hét, rên
rỉ. Một thứ âm thanh hổn loạn, kỳ hoặc, được dâng lên từ mặt đất lên cao và cao
mãi.
Nhựt đảo
chánh Pháp, lời nói thì thầm qua cửa miệng của người dân Việt. Quyền hành của
thực dân Pháp sau đêm kinh hoàng ấy đã mất tất cả, phải nhường lại cho anh lùn
Nhựt Bổn. Sáng ngày 10 tháng 3 Dương lịch 1945 hầu hết anh em đồng đạo cư ngụ
bên cạnh Đức Thầy được cơ hội đi viếng đó đây. Ông Lê văn Phán cũng đồng tâm
trạng như những đồng đạo khác. Sau khi dạo cảnh xong ông trở về đúng bữa cơm
sáng, đang lúc nên ông Phán cũng ăn cơm với anh em, thì Đức Thầy từ trên lầu đi
xuống, Ngài hỏi ông:
– Bộ ông
mừng lắm hả?
– Dạ thưa
Thầy con mừng lắm.
– Đó chỉ là
một nấc thôi ông ạ!
Viết theo
lời ông Lê văn Phán.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Khi trí huệ
đã mở thì những gì gút mắt bí ẩn của giòng đời, của cơ tạo hóa, các bậc Đại
Giác đều biết trước một cách rành rẽ.
Đức Huỳnh
Giáo Chủ cũng thế, trước sự hân hoan nô nức của mọi người, trước niềm tin vào
thế cờ của đất nước, sự chuyển hướng qua giai đoạn mới, thì Ngài cho biết đó
chẳng qua mới có một nấc. Quả thật sau đó một thời gian thì hai trái bom Nguyên
Tử rơi xuống Trường Kỳ (Hiroshima) và Quảng Đảo (Nagasaki), Nhựt hoàng đầu hàng
vô điều kiện. Pháp trở lại thêm một lần giẫm bừa gót giày xâm lược trên đất
Việt, một lần nữa người dân vô tội ôm hận với bạo lực cường quyền.
Thế là lời
tiên tri của Ngài đã chứng thực, thảm thê thay, khổ não, khốc hại nào phải có
một nấc mà hết đâu.
Đã biết khổ
não còn bi thiết hơn trong ngày cơ tận diệt, chúng ta hẳn phải trì chí bền lòng
tu tỉnh để đón tiếp một ngày mai huy hoàng.
Mẩu chuyện thứ 47
LÒNG THÀNH CẢM ỨNG
Ông Lê văn
Phán và ông Phạm văn Rạng là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, ngụ tại xã Kiến An, Chợ
Mới, An giang đến thăm Đức Thầy ở Bạc Liêu, vào khoàng tháng 6 năm Tân Tỵ
(1941).
Khi đến nơi,
cửa ngõ nhà ông Ký Giỏi đã đóng kín. Thấy vậy, hai ông đứng ngoài chờ đợi. Giây
lát cô Ký trong nhà bước ra, thấy hai ông cô vui vẻ:
– Chào hai
cậu, hai cậu đến đây thăm Thầy? Tốt lắm, song độ nầy Thầy cấm vì lính kín dòm
vô theo dõi gây sự khó khăn cho anh em đồng đạo, mong hai cậu thông cảm cho.
Tuy không
vào thăm Thầy được, nhưng hai ông vẫn nuôi hy vọng sẽ gặp mặt Thầy, dầu chỉ là
gặp mặt. Đêm đến, hôm đó rạp hát ngang cửa nhà ông Ký Giỏi có hát xướng. Người
đi xem qua lại xôn xao, nên hai ông lẫn trong số người đó đi qua đi lại mà mắt
luôn dòm vào nhà ông Ký Giỏi, lòng vẫn nuôi hy vọng gặp được Đức Thầy. Mỗi bước
đi của hai ông là mỗi tiếng niệm Phật, mỗi nhịp thở của hai ông là mỗi lời van
vái sao cho thấy được mặt Thầy.
Chặp sau
bỗng cánh cửa nhà ông Ký hé mở, Đức Thầy từ trong nhà đi ra, Ngài vói tay lên
vặn công tắc điện. Một tiếng cắc khô khan, chiếc đèn bật sáng. Ngài đi qua đi
lại trước hành lang ba hiệp, mắt nhìn ra ngõ, rồi sau đó Thầy đưa tay khóa công
tắc đèn. Bóng đêm mờ mờ lại về, lúc bấy giờ ở ngoài hai ông lòng chi xiết nỗi
hân hoan khi Đức Thầy đã đáp ứng đúng nguyện vọng của mình mong muốn, chỉ thấy
mặt Thầy thôi cũng đủ rồi.
Lời hai ông
to nhỏ với nhau từ cửa miệng qua tâm tư cởi mở vui mừng.
Viết theo
lời ông Lê văn Phán.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Dở trang
Phật sử, ta thấy Chư Tổ, Chư Sư trong khi giáo hóa quần sanh đều tùy duyên hóa
độ, các ngài đều cảm thông nguyện vọng chí thành của mỗi chúng sanh mà ứng
hiện, hoặc dùng lời nói, hoặc một cái nhìn, hoặc một hành động v..v.. . nhứt
nhứt đều đáp ứng những gì thế nhơn mong muốn trong phạm vi chơn chánh
Xuyên qua
chuuyện bên Thầy nêu trên, hẳn chúng ta đã thấy nơi Thầy một Tha Tâm Thông của
vị Hoạt Phật. Mặc dù chuyện vái thì thầm của người bổn đạo, song đã cảm nhận
đến mối từ tâm của Ngài. Cho nên dù hiện giờ Thầy còn ở tha phương, nhưng nếu
với lòng thành tin tưởng với số mạng độ đời của Ngài, thì Ngài tất cũng sẽ đến
với ta:
Tuy là hữu
ảnh vô hình,
Chớ dân lòng
tưởng sân trình đáo lai.
(Từ Giã Bổn
Đạo Khắp Nơi)
Có hiểu như
vầy, trên đường hành đạo của chúng ta, dầu cho phải chịu ngàn cay đắng, phải
trải qua bao khổ khó gian truân, bao sự thử thách lọc lừa cũng không thể lung
lay tâm trí, và khi chọn đạo làm hướng Bắc của địa bàn, chúng ta sẽ đạt đến chỗ
thành công.
Có thế mới
được:
Nấc thang
vinh hạnh Thầy riêng cho mình.
Mẩu chuyện thứ 48
ĐỨC HÁO SANH
Thời thơ ấu
của Đức Thầy còn đi học tại trường quận Tân Châu, hàng năm hễ đến độ nghỉ hè
thì Đức Thầy về nhà, tức tại Thánh Địa Hòa Hảo. Ngài thường ra đồng ngắm cảnh,
hay đi vòng theo các đám rẫy bắp, đậu đang trổ cờ, trổ trái, nhứt là Ngài
thường đứng nhìn những thửa ruộng xanh non vừa cao vài tất, ngọn quặc cần câu
đang lượn mình theo chiều gió. Thỉnh thoảng ngài đừng lại một nơi với trạng
thái im lặng như nghĩ ngợi một vấn đề gì đó, không ai hiểu đặng.
Một hôm nọ
cũng như thường lệ Ngài lần bước theo xem một số người đang làm cỏ trong một
đám đậu. Đức thầy thấy người nào cũng bắt cóc xỏ xâu và cột ở bên lưng. Ngài
nhìn theo các xâu cóc thương hại.
Bỗng có một
con cóc từ mấy người làm cỏ nhảy hoảng tới ngay mặt Ngài, Ngài mới lẹ làng lấy
chơn đè lên mình con cóc để che khuất nó. Bấy giờ số người làm cỏ mới đổ dồn về
phía con cóc vừa nhảy. Đức Thầy lại lanh trí hơn, Ngài đưa mắt nhìn về chỗ chòm
cỏ cao ở bên trái rồi la lớn:
A! Con cóc!
Ai nấy đều
cứ tưởng con cóc nhảy về phía đó thật, liền tìm kiếm hồi lâu không được, họ bèn
trở lại tiếp tục làm cỏ. Khi ấy Đức Thầy mới dở chơn lên cho con cóc nhảy đi
nơi khác, thế là Ngài cứu thoát được con cóc khỏi vô xâu của số người làm cỏ.
Câu chuyện
nầy kể theo lời ông Nguyễn Hữu Truyền.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Xưa nay
người có lòng nhơn lúc nào cũng muốn thấy sự sống vui chứ không muốn thấy sự
chết khổ, kiến kỳ sanh bất kiến kỳ tử. Huống hồ chi các đấng giác ngộ tâm tư
của các Ngài đã xông ướp khói từ bi từ lũy kiếp cho nên các Ngài đâu nỡ ngồi
yên nhìn cảnh chúng sanh đang đau khổ mà chẳng ra tay cứu vớt. Chính vì điều
ấy, nên Đức Thầy đã thốt:
… Vì thể
lòng từ-bi bác-ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp
giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, Ta hóa hiện ra đời
cứu độ chúng sanh …
Đọc câu
chuyện trên chúng ta hồi tưởng lúc Thái tử Sĩ Đạt Ta còn niên thiếu, một hôm
Ngài theo Vua cha tức Tịnh Phạn Vương dự lễ Hạ Điền, theo tục lệ xứ Ấn Độ thời
ấy khi làm lễ xong Vua phải xuống ruộng cày trước ba vòng, sau đó dân chúng mới
bắt đầu làm mùa.
Lúc Vua cày đất
bật lên, các loài dế, trùng bày ra, liền đó các loài chim đáp xuống tranh nhau
mổ những côn trùng ấy mà ăn. Thái Tử đứng nhìn cảnh bi đát than rằng: “Thế thì
tất cả chúng sanh trong cõi Ta bà chỉ biết ỷ mạnh hiếp yếu, ăn thịt lẫn nhau
vậy sao?”.
Ngài thấy
mình có bổn phận tìm ra cách giải khổ chúng sanh. Khi vua cha cày đất xong bước
lên xe giá về thành mà Thái Tử vẫn còn đứng im tại chỗ, suy tư mãi. Đó là cái
cơ duyên ung đúc một ngày kia: Thái tử
Lìa cha già
vợ đẹp con cưng,
Thân chẳng
sá xông pha bờ bụi.
Ngài thuở ấy
nên mười chín tuổi,
Tâm đại hùng
cương quyết tu trì.
(Khuyến
Thiện)
Và cho đến
lúc:
Ấy mới vừa
đắc đạo hoàn toàn,
Và lần bước
phô trương độ chúng.
(Khuyến
Thiện)
Còn Đức Thầy
của chúng ta hiện nay cũng thế, cũng chứng kiến cảnh chết khổ của chúng sanh,
cũng tâm từ bi và ý chí đó Ngài mới lâm phàm:
Lòng yêu
sanh chúng luân chuyển kiếp,
Dạ ái dương
trần đổi xác thân.
Và
Thuyền từ bi
thẳng cánh lướt sang,
Qua Đông Độ
vớt người hữu đức.
Cho nên lúc
lâm phàm dầu gặp hoàn cảnh chua cay thử thách Ngài chẳng hề nao núng:
Lòng từ bi
chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền
giác rước đưa sanh chúng
(Giác Mê Tâm
Kệ)
Ngài còn cho
biết:
Thân ta dù
lắm đoạn trường,
Cũng làm cho
vẹn chữ thương nhơn loài.
Vả lại quả
vị Chánh đẳng chánh giác tức là quả bồ đề do cây từ bi mà thành, mà cây từ bi
thì phải phát xuất hạt giống lòng nhơn, thương người mến vật, kẻ học Phật phải
đúc kết từ điểm nhỏ lòng nhân mới đạt được kết quả to lớn là bồ đề. Cho nên đối
với một loài vật nhỏ bé như một loại cóc, Đức Thầy cũng xúc động từ tâm cứu độ.
Ấy cũng là
gương cho tín đồ noi theo:
“Muôn loài
đều có đạo, Chớ sát hại loài nào.”
Ngài thường
dạy rằng:
Thế nên ta
hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các loại gia
súc: Trâu, bò, ngựa, chó, mèo chẳng khá sát hại vì chúng đã giúp ích cho ta
trong sinh hoạt hàng ngày. Tóm lại không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha
thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn.
Đức Thầy còn
đưa tầm nhận thức cho mọi người sâu hơn chút nữa:
Ta đây tuy
không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài
người tàn bạo gây nên.
Đây là nói
đến sự trả vay của luật nhơn quả lúc nào cũng nghiêm minh.
Luật nhơn
quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim
chẳng lọt một ai.
Hễ loài
người sát sanh nhiều, tức chịu quả chiến tranh nhiều, làm cho người và vật đau
khổ nhiều thì chính mình phải chịu đau khổ nhiều, không thể nào sai chạy được.
Vì thế ta có thể quả quyết rằng. Ai muốn khỏi sự chiến tranh đau khổ, muốn giải
thoát sanh tử luân hồi, cần phải tu tập trước hết đức háo sanh như câu chuyện
vừa kể.
Mẩu chuyện thứ 49
“THÀNH LÒNG NƯỚC LÃ NÊN HỒ”
Chuyện nầy
chúng tôi ghi lại theo lời thuật của anh Huỳnh ăn Góp, cháu đích tôn của cụ
Huỳnh Ngọc Kha (tự Sáu Khá).
Ông Huỳnh
Ngọc Kha là Bác Sĩ tốt nghiệp tại Pháp, đồng thời cũng là Đông Y Sĩ thuộc gia
truyền vào hệ thứ Bảy của tộc họ.
Vào thuở đó,
năm 1939 ông được 40 tuổi, ngụ tại làng Tân Long, quận Châu Phú, tỉnh An giang,
ông có kiến thức rất uyên bác về ngôn ngữ, ngoài 7 ngôn ngữ của khối Âu và Mỹ
châu, ông còn nói thông thạo 17 thổ ngữ của khối Đông Dương.
Ông gia nhập
vào đoàn thể trí thức yêu nước, bị Pháp bắt bỏ tù ở khám lớn năm 1940, cùng
chung phòng với cụ Trần văn Hương (Sau nầy là Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng
Hòa). Nhân khi bàn quốc sự với các vị trong tù, các vị nầy có đề cập đến nhân
vật trẻ vừa mới xuất hiện, có tầm vóc lớn lao trong công cuộc quang phục đất
nước, đó là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ. Do đó, ông Sáu có cảm tình với Ngài.
Năm 1945, Đức Thầy có đến giảng đạo
tại làng Khánh Bình, ở gần làng ông Sáu đang ngụ.
Vì có sự quen biết trước, nay ông có
dịp tiếp xúc với 5 nhà sư đến từ Miên quốc. Năm vị sư nầy trình bày với ông là
họ đi tìm Phật, bởi Đức Phật đã ra đời tại đất nước Việt Nam, nay đến để nghe
Đức Phật giảng Đạo.
Ông Sáu Khá biết rõ ràng như vậy mà
ông không cũng đi với các vị sư kia đến để nghe Đức Thầy giảng Đạo, nguyên cũng
bởi sự dè dặt của những người trí thức đã trở thành căn bịnh. Tuy không đến tận
nơi, nhưng khi ở tại nhà, ông cho lập bàn hương án ngoài trời, bông hoa, nhang
đèn và ba chung nước lã để cầu nguyện. Ông có phát đại nguyện là:
– Nếu Thầy Tư quả thật là Phật, xin
cho tôi uống 3 chung nước lã nầy mà giải được ghiền á phiện của tôi, thì tôi
nguyện thân tứ đại nầy cúng dường cho Phật.
Quả nhiên qua ngày hôm sau cơn ghiền
nó không còn đến với ông Sáu nữa, mà chuuyện hết sức đặc biệt là hễ khi nào
ngửi mùi á phiện là ông Sáu buồn nôn ói mữa. Bởi vậy ông tức tốc cho dẹp bàn
đèn (thuở đó ông có mâm đèn hút á phiện tại nhà).
Không còn nghi ngờ gì nữa, ông sáu
chuẩn bị sẵn sàng đến để thọ giáo quy y với Đức Thầy. Tuy vậy chớ ông cũng còn
vướng mắc vào cái ngã của những người trí thức thời đại. Thâm tâm ông khi gặp
Đức Thầy, ông sẽ dùng ngoại ngữ để tiếp chuyện với Ngài. Từ nhà ông đến Hòa Hảo
cũng phải mất trên sáu mươi lăm cây số và ông tháp tùng vào đoàn người đến qui
y càng lúc càng đông
Với tư cách của một người trí thức,
ông đâu thể nào chen lấn với người khác, bởi thế chờ đợi cho đến buổi chiều ông
Sáu mới tiến được gần Đức Thầy. Như vậy ông Sáu có dịp chuẩn bị không biết bao
nhiêu câu nói khi được tiếp xúc cùng Ngài. Nhưng khi sắp được đến gần, từ xa
Đức Thầy nhìn ngay ông và gọi:
– Ông Sáu! Ông đã đại nguyện qui y
với Phật rồi! Nay sao còn đến quy y nữa!
Không biết có phải vì Phật lực của
Đức Thầy, hay bởi tại Tha Tâm Thông mà Ngài biết ông Sáu. Mặc dù chỉ lần đầu
tiên tiếp xúc mà Ngài biết rõ ông Sáu đã âm thầm lập bàn hương án phát nguyện
quy y. Cái xúc động lớn lao đó làm cho ông Sáu ngẩn ngơ, đứng chết trân tại
chỗ, tiếng Việt ông còn chưa nói được nên lời hà huống chi là tiếng ngoại quốc.
Cả khi ông quì xuống cúi lạy Đức Thầy ông cũng còn làm chưa được, mãi khi Thầy
đến cầm tay ông nâng lên; ông mới sực mình như vừa thoát qua cơn mộng.
PHẦN NHẬN XÉT:
Từ xưa đến nay, những bậc Đại Giác
đều hiểu thấu tâm trạng của chúng sanh. Tuy rằng trong bao la vạn hữu, nhưng
mỗi khi tâm chúng sanh thành kính hướng về các Ngài đều được đáp ứng trọn vẹn,
tùy cơ duyên, cơ cảm của mọi người mà hóa độ. Cho nên trường hợp của ông Sáu là
điều chúng ta cần phải suy gẫm.
Ông Sáu là một Bác sĩ Tây y lẫn Đông
y Sĩ, tuy cả hai mặt Tây và Đông về y học, nhưng ông đành bó tay trước căn bịnh
của ông đã lâm phạm, mặc dù ông Sáu chưa lần nào diện kiến Đức Thầy, nhưng với
người trí thức thuở đó cũng như ông Sáu chắc đã ít nhiều có nghiên cứu Giáo Lý
và Giớiù luật của Ngài. Do đó, ông Sáu mới lập bàn hương án tại nhà, nguyện xin
Đức Thầy giải cho ông nạn ghiền á phiện. Ông Sáu là người đã có túc duyên với
Phật Pháp, nên ông đã được Đức Thầy cảm ứng chứng tri tấm lòng thành của ông mà
hóa độ cho ông.
Nhưng dù sao tâm bịnh của chúng sanh,
ông Sáu không thể nào tránh khỏi. Tâm bịnh nầy thường xảy ra cho người trí thức
đã hấp thụ nền văn minh của Âu Tây, nhứt là ông Sáu đã hấp thụ trên đà tiến bộ
của khoa học thì cái ngã chấp ít nhiều cũng phải có.
Cũng bởi đã rõ căn bịnh của chúng
sanh, nên Đức Thầy cùng một lúc chữa lành cho ông Sáu cả hai căn bệnh.
Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Bởi có túc duyên nên ông Sáu dễ dàng
chuyển hóa tâm của ông hướng về Đức Phật trọn lòng thành nên từ ba chung nước
lã của ông Sáu tự múc lấy đã trở thành ba chung nước Cam lồ của Đức Thầy ban
cho ông, cứu được cơn bịnh ngặc nghèo của ông và còn giải được cho ông cái tâm
trần để ông hướng trọn vẹn về nẻo Đạo. Bởi có hướng về nẻo Đạo thì ông Sáu mới
thoát được sanh tử luân hồi mà người tu hầu hết ai cũng mong được như vậy.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.
Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh.
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
(Khuyến Thiện)
Mẩu chuyện thứ 50
MUỐN TÌM PHẬT
Vào khoảng mùa Đông năm Giáp Thân
1944 lúc Đức Thầy đang cư trú tại Sai gòn, thì có ông Xã Bộ từ tỉnh Châu Đốc
đến viếng Đức Thầy, qua công tác giáo sự. Trong thời gian ông còn lưu lại mấy
ngày, nhân một buổi sáng đẹp trời Đức Thầy kêu ông Bộ bảo:
– Ông Bộ hôm nay đi dạo phố với tôi.
Được lịnh Đức Thầy cho phép, ông Bộ
hết sức mừng rỡ. Ông thay đổi y phục rồi theo Đức Thầy. Hai thầy trò đi bộ rẽ
sang nhiều ngã đường, khi đến cổng của một ngôi chùa thì ghé vào. Nhà sư trụ
trì bước ra tiếp rước hết sức ân cần niềm nỡ. Khi bước vào khách đường thấy một
ông khách đang ngồi sẵn ở đó. Sư mời Đức Thầy và ông Bộ ngồi lại cùng bàn, rồi
nhà Sư vừa rót nước mời uống và vừa giới thiệu ông khách với Đức Thầy và ông Xã
Bộ.
– Thưa hai vị, ông khách đây là
người Tây Tạng vừa mới đến Việt Nam ta mấy hôm rày. Ông cũng là một Phật tử,
nên có viếng qua ít cảnh chùa nơi đô thành và còn lưu ngụ lại đây mấy hôm. Tôi
thiết nghĩ cuộc hạnh ngộ của chúng ta hôm nay, ắt có duyên tiền định.
Qua sự bắt tay chào mừng, ông Xã Bộ
liền hỏi ông khách:
– Từ xa ông đến nước Việt Nam chúng
tôi có việc chi quan trọng chăng? Hay là chỉ viếng qua danh lam thắng cảnh, có
thể nào cho chúng tôi biết được thêm lý do.
Lúc đó, với vẻ mặt vui tươi ông
khách Tây Tạng đáp:
– Tôi sang đây với ý định để tìm
Phật, vì ở bên tôi có một chân sư cho biết hiện giờ tại xứ Việt Nam có vị Phật
vừa giáng sinh khai Đạo.
Lúc đó ông Bộ hỏi tiếp:
– Làm sao ông biết ai là Phật mà
nhìn.
Ông khách nói:
– Biết chớ, ông Phật thì luôn luôn
nơi cổ có ba ngấn, theo nhà sư ở bên tôi dặn dò tôi như vậy.
Ông Xã Bộ liền nói:
– Nếu hiện giờ có người ba ngấn cổ,
ông dám nhìn không?
Ông khách trả lời:
– Tôi nhìn liền, vì người thường
không một ai có được tướng hảo như vậy.
Lúc ấy Đức Thầy biết ông Bộ muốn ám
chỉ Ngài, nên Ngài dùng ngón chân cái ấn mạnh lên bàn chân của ông Bộ. Ông liền
hội ý biết Đức Thầy không cho mình chỉ ra, nên lái câu chuyện sang vấn đề khác.
Đoạn rồi ông
nhìn lại Đức Thầy, mới sực nhớ ra lúc mới vào cổng chùa Ngài đã dùng khăn bàn
quấn kín cổ lại và giữ tư thế ấy cho đến bây giờ. Thì ra Ngài biết trước và có
dụng ý trong việc nầy. Hết câu chuyên tìm Phật sang câu chuyện đạo lý, Đức Thầy
luôn để cho ông Bộ đàm thoại với hai người kia, còn Ngài vẫn im lặng cho đến
khi từ giã ra về.
Câu chuyện
nầy thuật theo lời ông Xã Bộ.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Thông bệnh
của người học Phật thường trải qua nhiều giai đoạn dò dẫm như mù rờ voi, phải
nắm được chơn lý. Đầu tiên họ ngỡ là muốn tìm Phật phải vào am, chùa, liêu, cốc
hay núi cao rừng thẳm mới gặp. Tiến thêm một bước họ tưởng tượng ông Phật phải
có những gì linh diệu thần thông, hoặc có tướng trạng khác với người thường như
có ba mươi hai tướng tốt, tám chục vẻ đẹp chẳng hạn.
Trường hợp
ông Phật tử Tây Tạng nói trên, cũng chưa thoát khỏi thông bệnh ấy. Đành rằng
các tướng trạng tốt đẹp là do người tu thiện nghiệp mà được, song hành giả còn
chấp nê sự tướng thì không dễ gì gặp được ông Phật thật của chính mình. Kinh
Kim Cang từng nói: “Phàm hữu sở tướng giai thị hư vọng” Chúng ta thử ôn lại lời
vấn đáp của Đức Phật và ông A Nan, đại khái như vầy:
Đức Phật kêu ông A Nan hỏi:
– Tất cả trong giáo pháp của ta, ông
nhận thấy cái gì mà xuất gia tu hành?
A Nan bạch:
– Con thấy ba mươi hai tướng hảo của
Phật trang nghiêm rực rỡ mà tu.
Phật liền bác:
– Ông nhân như vậy cũng tạm được,
song các thứ ấy chỉ là ngọn ngành là vọng tưởng, huyễn thuật chứ chưa phải là
căn bản, vì vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng hảo và Ma
Vương cũng có thể giả hình Phật được.
Ở đây ông Phật tử Tậy Tạng tuy có
nhiệt tâm tìm Phật, nhưng chưa phá được cái vỏ hữu vi, nên ông tu hành đã lâu
năm và gặp được chơn sư mà vẫn chưa có ngộ được chơn lý. Thảo nào Đức Lục Tổ
khi xưa chẳng bảo:
“Người đang đội nón mà đi tìm nón,
kẻ đã cỡi trâu lại cứ đi tìm trâu”.
Thưa quí vị: Sở dĩ vị chơn sư của
ông khách Tây Tạng dạy ông cần phải qua Việt Nam tìm Phật với tướng trạng nơi
cổ có ba ngấn là sự dụng ý khi kiến diện với Đức Thầy Hòa Hảo may ra ông Phật
tử nầy sẽ tìm được lối vào Phật tâm, “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”. Thế
là vị chơn sư đã biết Đức Giáo Chủ Phật giáo Hòa Hảo đang khai hóa vô vi chánh
đạo, nhưng khi ông Phật Tử đối diện với Đức Thầy, Ngài lại dùng thật tướng vô
vi, không cho thấy tướng trạng và tuyệt đối ngôn ngữ tức là im lặng. Khiến ông
Phật tử ôm thất vọng trở về bổn quốc, chớ tìm đâu ra được người cổ có ba ngấn.
Nếu ông ấy cứ tu như thế, tìm Phật như thế, dẫu cho ông có tu suốt kiếp nầy qua
kiếp khác, hay tìm khắp nơi cũng không hề gặp Phật.
Xét ra Đức Thầy đối với ông khách
Tây Tạng có thái độ như vậy chẳng phải Ngài thiếu lòng từ bi mà Ngài có tác
dụng đặc biệt. Nếu Ngài cho ông khách Tây Tạng thấy tướng mạo và được nghe lời
giáo lý thì sự việc đó nhà sư ở bên Tây Tạng đã dùng với ông quá nhiều rồi, mà
ông vẫn chưa thấy đạo. Đây là một điều tâm Phật với tâm phàm, dẫu cách xa vạn
dậm vẫn cảm thông nhau, nên Đức Thầy phải dùng phương cách khác để cảm hóa ông
ấy, nghĩa là sau thời gian ông tìm theo hình tướng, văn tự mà không thấy được
Phật, tức nhiên ông phải xét lại mà quay về tìm tâm vô vi thật tướng:
Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tầm kiếm
ở trên non núi.
Và
Hãy bền lòng
tìm Phật trong tâm.
Hoặc giả ông
khách trở về tìm thầy cũ của ông. Bấy giờ nhà sư mới đủ dữ kiện chỉ cho ông
thấy được Phật lòng tức là tỏ ngộ được bản tâm.
Xưa lúc Thái
Tử Sĩ Đạt Ta mới xuất gia, Ngài cũng tìm các thầy tu vấn đạo, khi nhận pháp tu
của các vị ấy không được giải thoát rốt ráo. Ngài đến Khổ Hạnh Lâm tu lối ép
xác hành khổ suốt sáu năm vẫn chưa chứng đạo. Sau cùng, Ngài đến ngồi dưới cội
Bồ Đề dùng tâm quán tâm bốn mươi chín ngày mới đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Cho nên Ngài hằng cảnh giác chư Phật tử:
“Nhược dĩ
sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh
cầu ngã
Thị nhân
hành tà đạo
Bất năng
kiến Như Lai”
(Nếu dùng
sắc mà ra mắt ta. Lấy âm thinh cầu ta. Thật người hành tà đạo. Không hề thấy
được Như Lai).
Thưa quí vị.
Thêm một gương hạnh nữa: Thần Tú tu sát bên Ngũ Tổ bao chục năm trời vẫn chưa
thấy tánh, vì Thần Tú chỉ tu theo văn tự hình tướng. Còn Huệ Năng tu không đầy
một năm mà tỏ ngộ, được Ngũ Tổ trao truyền tâm ấn cho làm Tổ thứ Sáu, là vì Huệ
Năng biết trực nhận nhân tâm kiến tánh thành Phật. Thời nay Đức Thầy cũng muốn
ông Phật tử Tây Tạng noi theo gương hạnh đó, cho nên Ngài chẳng nói gì, chớ thật
ra Ngài đã nói với ông Phật tử Tây Tạng rất nhiều rồi đó. Cũng như lúc Ngài Tu
Bồ Đề đang trầm tư trong hang đá bỗng nhiên Chư Thiên rải hoa trời tán thán,
Ngài Tu Bồ Đề liền hỏi:
– Những
người rải hoa tán thán là ai vậy? Chư Thiên liền nói:
– Chúng tôi
là Chư Thiên ở Thượng Giới.
Tu Bồ Đề
bảo:
– Chư Thiên
đang tán thán gì vậy?
Chư Thiên
thưa:
– Chúng tôi
tán thán Ngài đang giảng thuyết Bát Nhã Ba La Mật.
Ông Tu Bồ Đề
liền nói:
– Ta chưa hề
thốt một lời giảng thuyết Ba la Mật và chẳng có gì để các ngươi tán thán. Nhưng
Chư Thiên quả quyết:
– Ngài không
giảng gì hết, cái được nói là không, cái được nghe cũng không và chính đây mới
thật Bát Nhã Ba La Mật. Cũng trùng hợp như vậy, Đức Thầy hằng khuyên dạy tín
đồ:
Nhàn thanh tầm kiếm kiếm nơi tâm,
Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm.
Vịnh theo ý nầy, ông Thanh Sĩ một đệ
tử Đức Thầy có luận:
“Rằng nước vốn nguồn sâu ban bủa,
Phật do tâm mà có danh ngôn.
Thấy tâm thấy được Thế Tôn
Bỏ tâm tìm Phật luống công tu hành.”
Thưa quí vị. Riêng phần ông Xã Bộ là
khi tiếp chuyện với ông khách Tây Tạng, ông đinh ninh rồi đây ông sẽ giới thiệu
Đức Thầy có ba ngấn cổ với khách và khách sẽ rất sung sướng mà nhận Ngài là
Phật và cũng sẽ được nghe Ngài giảng dạy đạo lý. Nhưng bất ngờ Đức Thầy lại
không nói rõ ra, khiến sau đó ông phải suy nghĩ mấy ngày. Khi nhờ Đức Thầy gợi
ý ông mới hiểu ra. Còn phần nhà sư trụ trì hẳn nhiên ông được nghe nhiều về Đức
Thầy, nên khi gặp Ngài và ông Bộ đến Sư mới ân cần niềm nỡ và giới thiệu.
Tóm lại tác dụng của Đức Thầy đối
với ông khách Tây Tạng làm cho ba người trong cuộc học được bài học vô giá:
Vô pháp tướng mới là thiệt tướng.
Và
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Thiết nghĩ không riêng gì ba vị ấy
mà còn là bài học chung cho tất cả những ai muốn tìm Phật và tu học.
[next]
Mẩu chuyện thứ 51
TÀ HAY CHÁNH
Chuyện nầy xảy ra năm Canh Thìn, tức
năm 1940.
Lúc đó người Pháp vừa vời Đức Thầy
xuống Sa Đéc, rồi ra lịnh cấm không cho Ngài truyền đạo ở các tỉnh Châu Đốc,
Long Xuyên, Sa Đéc.
Thế là Ngài phải lưu trú đến nhà ông
Hương bộ Võ Mậu Thạnh tại Xà No, làng Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ.
Thời gian Ngài ở đây ít lâu, có ông
Hương quản Diệp ở xã Hòa Hảo và ông Út Trác ở Mỹ Hội Đông đến viếng.
Sau khi tỏ lời thăm hỏi và được nghe
Đức Thầy thuyết giảng đạo đức, hai ông liền trình hỏi thêm một việc:
– Bạch Thầy, hiện giờ ở trên Long
Xuyên có ông Đạo mới ra đời, họ trị bịnh cũng na ná như Thầy. Người ta tới lui
rất đông đảo, nhưng không biết ông ấy tà hay chánh, nhờ Thầy phân giải giùm để
anh em tín đồ khỏi lầm lạc.
Đức Thầy không trả lời ngay ông đạo
đó tà hay chánh, mà Ngài chỉ cầm viết, viết ra mấy giòng chữ như sau (lúc đó
Ngài kêu hai ông đứng lại coi):
– Từ đây sắp tới, bất luận ai ra đời
độ thế, nếu còn ăn tiền bạc là tà.
– Còn dùng màu sắc là tà.
– Còn lên xuống xưng hô Thần Thánh
là tà.
– Còn bỏ tóc xả để đầu đanh là tà.
Thưa quí vị, câu chuyện nầy do ông
Út Trác ở Mỹ Hội Đông thuật lại.
PHẦN NHẬN XÉT:
Xưa nay hễ có Phật ra đời khai hóa
nhân sinh, thì luôn có tà ma theo dõi để phá rối người tu Phật.
Phật ma ma
Phật mới ra vở tuồng.
Hay nói cách
khác là thời nào tà ma ngoại đạo lọng hành để gạt người mê tín và nhiểu hại lê
dân, thì Phật Tiên cũng lâm phàm khai thông chánh đạo, dẹp tan tà thuyết để
giác tỉnh chúng sanh trở về con đường chánh tín:
… Bởi đời
nầy pháp-môn bế mạc, Thánh đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma-Vương
khuấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc-độ nào thì
cũng phải trở về quốc-độ ấy mà trợ tế nhân dân; …
Hoặc là:
Thời kỳ nầy
nhiều quỉ cùng ma,
Trời mở cửa
Qủi Vương xuống thế.
Nên Ta mới
ra tay cứu tế,
Kẻo chúng
sanh bịnh khổ quá chừng.
(Giác Mê Tâm
Kệ)
Trong số ma
qủi, hoặc tả đạo theo phá quấy Phật Giáo Hòa Hảo hiện nay, cũng như thời Đức
Thích Ca ra đời, có Lục Sư ngoại đạo và ma Ba Tuần theo chống báng và phá hoại
đạo Phật.
Khi Phật
Giáo Hòa Hảo gặp cơn pháp nạn liền có nhiều người ra đời cũng thuyết đạo trị
bịnh na ná như Đức Thầy, làm cho người tu phân vân, không biết đâu tà đâu
chánh.
Do đó, ông
Diệp và ông Trác mới đến Nhơn Nghĩa để hỏi Đức Thầy:
– Có ông đạo
ở Long Xuyên mới ra đời trị bịnh cũng giống như Ngài, chẳng biết ông ấy tà hay
chánh?
Sở dĩ Ngài
không phân biệt ngay ngày hôm đó, mà nói chung tất cả, vì Ngài biết chẳng phải
một người đó, mà còn nhiều người khác, ở nhiều nơi khác nữa, nên Ngài chỉ cho
toàn thể một ý thức căn bản để nhận rõ đâu tà, đâu chánh và có tin nghe theo
Ngài cũng phải là chánh tín, chớ đừng tu mê tín.
Điểm thứ
nhứt Ngài nói: “Còn ăn tiền bạc là tà”.
Nếu nhìn về
hình thức bên ngoài của hai ông đạo tà và chánh đều giống nhau khó mà phân
biệt, nhưng bên trong của phái tà lợi dụng tiền bạc, còn phía chánh thì thật
tâm độ đời bất vụ lợi.
Cũng như hai
ông quan, hình thức và chức vụ giống nhau, nhưng một ông ăn hối lộ, còn một ông
là không, rất dễ hiểu ở chỗ đó.
Để sáng tỏ
hơn ta thử đọc lại một đoạn giảng của Đức Thầy:
Bây giờ bất
luận người nào,
Không dùng
của thế sắc màu cũng không.
Nói cho bổn
đạo rõ lòng,
Ấy là chơn
chánh mới hòng vinh vang.
(Quyển 3 Sám
Giảng)
Qua điều thứ
hai:
“Còn dùng
màu sắc là tà”, màu sắc ở đây phân ra làm hai loại:
Một là loại
có màu sắc đỏ, xanh, vàng chỉ cho hạng người đồng bóng, lên xác cô năm, cô
mười, họ thích mặc lụa hàng, lãnh nhiễu màu sắc sặc sỡ. Khi lên xác làm bịnh
thì đội khăn nhiễu màu dài năm thước, buộc người ta phải cung ứng các thứ đó.
Còn loại có
hình tướng thì đối với vô tướng, vô vi. Đây chỉ cho các ông đạo tu hành, chủ
trương theo hình tướng, tức là hữu vi, tức còn chạy theo âm thinh sắc tướng,
như các thầy dưng bông, đi làm đám, tụng kinh mướn, không đúng chơn lý của đạo
Phật.
Kinh xưa đã
bảo:
“Sắc tướng
âm thinh chư ngoại giáo,
Chơn truyền
phụ thất đạo năng hành.”
Nếu thấy nhà
tu nào còn dùng hai màu sắc như trên, đều là không chơn chánh.
Thứ hai là
loại sắc đẹp của người nam hoặc nữ, đây chỉ các ông đạo còn lợi dụng hoặc đắm
mê nữ sắc.
Điểm thứ ba
là “Còn lên xuống xưng hô là tà”. Đây chỉ hạng thượng xác cỡi đồng, tức là
những người lên sắc tướng, các cô đồng, bà bóng, thầy pháp, thầy phù thủy, làm
bịnh bằng cách có vô xác, ra xác, coi bói, coi căn, cầu hồn, đoán số mạng hoặc
bùa chú, trù ếm và sát sanh cúng tế Quỷ Thần. Đức Thầy từng bảo:
Bàn- môn tài phép nào tường,
Kêu Trời giậm Đất cũng thì dạ rân.
Nói cho trần-thế liệu toan,
Chớ theo tả-đạo mà tan xác hồn.
Nó làm nhiều phép nhiều môn,
Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng-sanh.
Thành binh sái đậu cũng rành,
Nếu tin thì mắc tan tành về sau.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Và
Dương-gian làm huyễn nói càng,
Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
Hò reo giục trống nhiều câu,
Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười.
Ta khuyên hết thảy các người,
Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
Đừng hò đừng réo làm chi,
Nghinh-ngang kêu múa có khi hại
mình.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Qua điểm thứ tư, Đức Thầy bảo: “Còn
bỏ tóc xả để đầu đanh là tà”.
Tức chỉ những thầy tu hay làm ra vẻ
đạo mạo khác thường để lừa dối bá tánh. Họ lo trang điểm những tướng đạo bên
ngoài, như bỏ tóc xã dài không bới, hoặc không chải gở lâu ngày tóc đanh lại,
giống hình cái mão, hoặc chơn đi không mang dép, bước nối gót đi chữ đinh,
không ngó qua ngó lại. Họ thường tự xưng là đã tu luyện lâu năm, từ non nầy
động nọ, vừa xuống núi để cứu thế độ dân, khiến bá tánh tưởng lầm các ông đạo
ấy khổ hạnh cao, công phu luyện đạo không ai bằng, liền chạy theo rần rộ. Chẳng
ngờ trong thâm tâm của các ông ấy vẫn còn ô nhiễm danh, lợi, tình như hàng thế
tục.
Hạng người nầy thường tu lệch đạo
Tiên, vọng tưởng quá độ mà ra, và cũng một trong Lục Sư ngoại đạo từ trước còn
truyền lại.
Thưa quí vị, để mọi người khỏi lầm
lạc theo tà sư ngoại đạo, Đức Thầy dặn dò cặn kẻ:
Cho được tránh những điều ấy, trước
khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm phán đoán kỹ-càng;
chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu
mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho
mình cả … (Trong Việc
Tu Thân Xử Kỷ)
Tóm lại qua bốn điểm mà Đức Thầy dạy
ông Diệp và ông Trác trên đây là một quy định tất yếu cho tín đồ sau nầy lọc
lừa tà chánh.
Mẩu chuyện thứ 52
LỜI KHÉO KHỎI TAI NẠN
Câu chuyện nầy vào lúc Đức Thầy mới
khai Đạo, tức là năm 1939. Ở chợ Mới có ông Phủ Nẵm, làm Quận Trưởng, lãnh
trách nhiệm của nhà cầm quyền Pháp, cho người theo dõi Đức Thầy. Hắn mật báo
với Chánh tham Biện tỉnh Long Xuyên là Đức Thầy mưu toan quốc sự. Mặt khác, hắn
luồn bắt những người truyền bá kinh giảng Phật Giáo Hòa Hảo và ra lịnh cho Ban
Hội tề các xã trong quận Chợ Mới hãy biên tên những ai đã quy y với Đức Thầy,
nạp hết danh sách lên để hắn căn cứ vào đó mà lừa lọc, rồi cho lính bắt đánh
đập, tù đày.
Lúc bấy giờ tại xã Long Điền có hai
ông Năm Cống và Nguyễn văn Sóc, thấy tình thế như vậy liền bơi xuồng lên Hòa
Hảo để gặp Đức Thầy (vì sợ lộ chuyện nên không dám đi bộ). Khi hai ông bước vô
Tổ Đình vừa kỉnh lễ xong, thì quay ra chào Đức Thầy. Ngài liền hỏi:
– Có gì không? Ở dưới họ biên tên
những người theo Đạo và bắt bớ phải không?
Hai ông Năm Cống và Nguyễn văn Sóc
bạch với Thầy rằng:
– Thật đúng vậy, chúng tôi sợ quá
không biết phải làm sao.
Đức Thầy ôn tồn bảo:
– Hai ông về yên tâm, nếu họ có đến
hỏi thì cứ nói: Tôi theo Đạo Ông Tư Hòa Hảo, ông dạy tôi ăn chay, làm lành,
lánh dữ, sưu đi, thuế đóng.
Hai ông lấy viết ghi lời của Đức
Thầy dạy xong xuôi thì Thầy liền đứng dậy. Mặt Ngài bừng đỏ và nghiêm trang đưa
cánh tay ra và xòe bàn tay nghiêng vừa dằn xuống, vừa nói:
– Không chỉ sưu đi thuế đóng như vầy
thôi đâu.
Ngài lập lại câu nói ây ba lần. Nghe
xong ông Cống và ông Sóc kỉnh lễ rồi chào xá Đức Thầy từ gĩa ra về.
Qua hôm sau thì có làng lính đến
hỏi, ghi tên vào danh sách. Hai ông đều trả lời đúng theo câu Đức Thầy đã dạy,
họ chép y văn, báo lên quận, nên hai ông khỏi bị bắt trong đợt đó.
Câu chuyện này thuật theo lời của
ông Nguyễn văn Sóc.
PHẦN NHẬN XÉT:
Người xưa thường bảo: “Một lời nói
có thể làm cho nước thạnh nhà an, và cũng vì một lời nói mà làm cho tan nước”
(Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ tán bang). Thật vậy, lời nói nó
có hiệu năng tạo ra muôn hình vạn trạng khác nhau, có khi hòa ái khi trở thành
thù nghịch, từ thù chia rẽ trở nên hòa nhã yên vui. Cho nên người đời cẩn trọng
trước khi sử dụng lời nói, phải tùy thời, tùy chỗ mà áp dụng chớ không cố định.
Có lúc lời nói phải cương cường, nhưng có lúc phải nhu hòa mềm dẽo, miễn làm sao
đem lại sự kết quả tốt đẹp là được.
Cổ Đức răn dạy: “Trước khi nói phải
uốn lưỡi bảy lần”. Người đời vì không biết thận trọng lời nói nên thường chuốc
lấy tai hại, như vua Tề thời chiến quốc, ỷ ngôn khinh ngạo Trường Vạn trong
cuộc đánh cờ, nên bị Trường Vạn đập cho một bàn cờ chết tốt. Còn người biết cẩn
ngôn cẩn hạnh sử dụng lời nói đúng thời đúng cảnh, thì dù ở trong hang hùm bẫy
rập, cũng có thể yên thân. Như trường hợp ba anh em Lưu Bị lúc thất thời còn ở
đậu với Tào Tháo, tấm thân như cá nằm trên thớt, Lưu Bị chỉ có suốt ngày lo
trồng rau cải, ai thấy cũng cho là kẻ tầm thường. Một hôm Tháo mời Lưu Bị dự
tiệc và hỏi?
– Đương thời với chúng ta ai là kẻ
anh hùng?
Lưu Bị chỉ quanh quẩn nào là Vương
Thực, Vương Thiệu, v.v… Tháo bác hết, cho kẻ ấy đều là hạng tầm thường, rồi
nói:
– Chì có Lưu Sứ Quân với Tháo đây
mới là kẻ anh hùng!
Lưu Bị giựt mình buông rơi chiếc
đũa, may lúc đó có tiếng sấm sét. Bị liền giả vờ xin lỗi với Tháo:
– Vì tiếng sét bất ngờ làm tôi giựt
mình rơi đũa!
Nhờ thế từ đó Tào Tháo coi thường
Lưu Bị, nên ba anh em mới thoát thân và sau làm nên sự nghiệp. Nếu Lưu Bị không
có lời khôn khéo chưa chắc gì thoát chết dưới tay Tào Tháo.
Thưa quí vị, ở đây dưới thời Pháp
thuộc họ muốn tiêu diệt những người cốt cán của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo nên hai
ông Năm Cống và Nguyễn văn Sóc làm sao chẳng lo sợ, song để trấn an và giải cứu
tín đồ, Đức Thầy dạy hai ông câu nói: “Hai ông an tâm, nếu họ đến hỏi thì cứ
nói. Tôi theo Đạo ông Tư Hòa Hảo, Ông dạy tôi ăn chay, làm lành, lánh dữ, sưu
đi thuế đóng”.
Một câu nói tuy thấy thông thường
nhưng vô cùng khéo léo. Trong lúc có người vì quá sợ không dám nhận mình là tín
đồ Phật Giáo Hòa Hảo để khỏi bị bắt. Đức Thầy dạy hai ông trả lời trong vế đầu
của câu nói tỏ ra cứng rắn không mất chí khí. “Tôi theo Đạo Ông Tư Hòa Hảo”,
qua vế sau của câu nói tỏ ra mềm dẽo nhẫn nại. “Ông dạy tôi ăn chay, làm lành,
lánh dữ, sưu đi thuế đóng”. Làm cho bọn làng lính và người Pháp hiểu rằng người
theo Đạo Phật Giáo Hòa Hảo rất hiền lành dễ trị, nên họ có giảm bớt phần nào về
việc ám hại người theo đạo. Do đó, hai ông đều khỏi bị bắt.
Thưa quí vị sở dĩ Đức Thầy dạy tín
đồ ẩn nhẫn như thế là vì chưa phải lúc cho ta chống cự với người Pháp.
Rán nhẫn trăm phần dù khó nhẫn,
Dạ thưa quan chức phận làm dân.
Còn điểm chót Đức Thầy nhấn mạnh ba
lần.
– Không phải sưu đi thuế đóng như
vầy thôi đâu.
Ý Ngài muốn tiên tri cho tín đồ biết
sau nầy sẽ còn nhiều hơn nữa, thật đúng như vậy. Từ ấy đến nay qua mấy thời kỳ,
nạn sưu cao thuế nặng mỗi lúc mỗi tăng, mà dân chúng phải gánh chịu. Đức Thầy
đầy lòng thương xót bá gia nên thường nhắc đến.
Hết đây rồi tới dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.
Hoặc là:
Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương.
Mẩu chuyện thứ 53
TÙY BỊNH CHO THUỐC
Mẩu chuyện nầy xảy ra cuối năm Kỷ
Mão 1939. Lúc bấy giờ anh em đồng đạo thường tới Tổ Đình Thánh Địa Hòa Hảo để
nghe Đức Thầy thuyết pháp và chép kinh giảng, trong đó có ông Đặng Thành Tựu,
người ở xã Kiến An, quận Chợ Mới.
Một sáng hôm nọ ông Tựu thấy có một
đồng đạo ở xa đến viếng Đức Thầy. Bắt đầu câu chuyện Đức Thầy hỏi thăm về tình
hình địa phương và giảng dạy một ít lời đạo lý. Sau hết Ngài khuyên đồng đạo
ấy:
– Ông muốn tu hành phải bớt làm ăn
một chút chớ! Công việc đa đoan quá làm sao tu được.
Thế rồi trưa lại cũng có người khác
đến viếng, vừa giáp mặt chào hỏi thì Đức Thầy vỗ vai người ấy bảo:
– Ông muốn tu hành phải lo làm ăn
chớ, nếu không làm ăn lấy gì bảo vệ đời sống và đâu có dư tiền của để bố thí
giúp đời.
Thưa quí vị, ông Tựu thấy một ngày
mà Đức Thầy dạy hai vị đồng đạo với hai ý khác nhau. Ông bèn suy nghĩ, chắc có
cơ duyên nào đây, ông bèn lại gần hai vị đồng đạo ấy gợi chuyện hỏi thăm từng
người, thì vị đồng đạo mà Đức Thầy khuyên bớt làm ăn lại một chút, thì được ông
đó cho biết:
“Ở nhà tôi làm ruộng không giờ nghỉ,
có khi làm thâm tới ban đêm nữa, bỏ cả giờ lễ bái, vì tôi nghĩ mình lo làm ăn
cho có tiền thật nhiều rồi sẽ ở không ăn mà tu. Nay được lịnh Đức Thầy kêu nên
mới bỏ công việc làm ăn đến đây”.
Còn người được Đức Thầy khuyên tu
hành, cần phải lo làm ăn, thì nói với ông Tựu rằng:
“Từ ngày tôi xem kinh giảng và quy y
với Đức Thầy thì tôi liền bán cả bò ruộng. Chỉ ở không mà lo tu thôi, vì tôi
nghĩ đời sắp tới một bên, ở đó lo làm ăn hoài rồi tu sao kịp, và nếu còn lo làm
ăn, còn bận rộn tâm trí mãi, làm sao an tâm được mà tu”.
Nghe hai đồng đạo kể rõ hoàn cảnh
của mỗi người thì ông Đặng Thành Tựu mới hiểu ra Đức Thầy tùy theo cơ duyên của
mỗi tín đồ mà giáo hóa.
Câu chuyện nầy thuật theo lời của
ông Đặng Thành Tựu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Xưa nay về việc mưu cầu cho sự sống,
trong giới tu hành có nhiều quan niệm khác nhau, như có người cho rằng hễ tu
thì phải buông bỏ hết công việc làm ăn, hễ còn làm ăn là còn bận rộn với trí
lực và còn gây nghiệp tội, không thể tu giải thoát được. Lại có số người khác
thì quan niệm rằng hễ tu thì có lòng vị tha giúp đời, nên cần làm cho có tiền
của, để vừa đủ cung ứng cho đời sống và vừa trợ tế cho xã hội và đời sống gia
đình đầy đủ không bị thiếu hụt, thì tâm trí mới an nhiên mà hành đạo.
Câu chuyện của hai đồng đạo kể trên
cho chúng ta thấy rằng, tuy cùng theo một đạo học, chung một thầy, nhưng quan
niệm đời sống không đồng nhất, là vì chưa nhận rõ tôn chỉ của nền đạo mình đã
hướng theo.
Đức Thầy thấu suốt tâm trạng và hoàn
cảnh của mỗi tín đồ, nên khi gặp hai đồng đạo ấy, Ngài liền tùy nghi mà chỉ
dạy, cũng như vị lương y tùy bịnh mà cho thuốc.
Thứ nhất là vị đồng dạo nghĩ rằng
cần lo làm ăn cho có tiền của thật nhiều, rồi mới ở không mà tu, ý nghĩ nầy có
nhiều lệch lạc. Cái lầm thứ nhứt là nếu còn muốn tiền của thật đầy đủ, thì biết
bao giờ mới đầy đủ. Bởi nó không có con số cùng, hễ có được số chục thì muốn số
trăm, mà hễ có số trăm thì muốn thêm có số ngàn rồi số muôn, ức, triệu v.v. . .
Khó dừng lại được chính đó là nguyên nhân tạo cho mình có một ý tham, biết sao
đầy được túi tham, không ngăn, không đáy. Thế thì đồng đạo nầy có khi suốt kiếp
không tu được vì phải lo làm ăn hoài, nên ông chưa chịu biết đủ.
Cũng như anh cày ruộng xưa kia sinh
một thời với Đức Phật còn trụ thế, khi anh thấy Đức Phật và môn đồ đi ngang qua
cánh đồng, anh muốn buông cày để quy y, nhưng anh nghĩ để cày xong vạc cày rồi
đến qui y cũng chưa muộn. Phật biết rõ tâm cơ của anh ấy, Ngài liền kêu các đệ
tử bảo:
– “Các ông có thấy chăng, thấy anh
cày ruộng kia chưa? Đã trải qua chín mươi mốt kiếp và gặp bảy vị Phật ra đời, mà
anh ấy vẫn còn cày ruộng, chưa tu được. Mỗi lần anh gặp Phật thì anh cũng muốn
tu, lúc nào cũng nghĩ như thế, nghĩa là đợi cày hết vạc cày sẽ tu. Rồi mãi cho
đến kiếp nầy và trong tâm anh hiện giờ cũng nghĩ như vậy.”
Nghe được lời Phật nói, anh cày
ruộng giựt mình, liền buông cày, chạy đến trước Phật quỳ xuống và xin được quy
y tu niệm.
Đức Thầy của chúng ta hiện nay cũng
vậy, hằng thức tỉnh tín đồ:
Lo giàu nghèo lo cũng chẳng rành.
Và
Để sau đến việc tả tơi,
Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành.
Cho nên để đối lại các bệnh lầm của
đồng đạo nói trên, Đức Thầy khuyên ông ấy “Bớt lo làm một chút”, bớt làm chớ
chẳng phải là không làm, nghĩa là hành giả phải biết tri túc thường lạc, vừa
tu, vừa làm.
Cái lầm thứ hai là đồng đạo ấy chẳng
chịu tu ngay.
Đời còn tu gấp kịp thì.
Mà còn lần lựa không xét nghĩ số vô
thường đến bất ngờ, chẳng ai đoán trước được, tử thần gõ cửa không từ một ai,
dù vua quan hay dân giả, nó không đợi tuổi già, từ mới chào đời cho đến răng
long tóc bạc, hạng nào cũng có người chết, không một ai trì huởn được. Như câu
chuyện của ông Trương Tố Lưu. Một nhà sư khuyên Lưu nên làm lành niệm Phật. Lưu hẹn lại khi làm xong ba việc:
– Một là quan tài của ông thân còn
quàn tại nhà mồ chưa chôn.
– Hai là đứa
con trai chưa cưới vợ.
– Ba là cô
gái út chưa gã chồng.
Chờ ba việc
ấy xong rồi tôi sẽ vưng lời. Mấy tháng sau ông Lưu phát bịnh nặng rồi chết, nhà
sư đến cầu siêu và điếu ông Lưu bài thơ:
“Bạn tôi tên
là Trương Tố Lưu,
Khuyên ông
niệm Phật hẹn ba điều.
Ba điều chưa
vẹn Vô Thường bắt,
Đáng trách
Diêm Vương chẳng nể nhau.”
Thưa quí vị,
với đồng đạo thứ hai thì quan niệm rằng: Còn làm ăn thì tu không kịp và bận rộn
tâm trí không yên mà tu. Cái lầm thứ nhứt của đồng đạo nầy là: Thiên về thời
cơ, không theo chơn lý, mà nếu chưa tu học giáo pháp để nắm vững chơn lý thì
đoán thời cơ đâu đúng, cũng như người chưa nghe giảng phương pháp làm toán đố
thì đâu biết cách làm. Hơn nữa Đức Thầy dạy:
Thiên cơ đạo
lý để lòng mà thôi.
Theo đây
thiên cơ và đạo lý phải hiểu song đôi và để lòng chớ không nên bàn rộng ra, vì
bàn trật có tội, mà bàn trúng cũng có lỗi.
Thứ nhì ông
tưởng đâu sự tu tấn mau thành, chớ không ngờ phải tu suốt kiếp.
Mãn kiếp
Hồng trần sanh Lạc quốc.
Số tiền của
ông dự trữ chắc gì đủ dùng đến trọn đời, hễ ngồi không mà ăn, chẳng chịu làm
thêm, thì dầu của tiền như núi cũng hết “Tọa thực sơn băng”. Bằng lo gom góp
của tiền dành để xài riêng không biết giúp ai, thì lối tu vị kỷ ấy quá thấp
kém, chẳng đúng theo tôn chỉ của Phật Giáo Hòa Hảo, cho nên trong điều răn cấm
thứ nhì Đức Thầy dạy:
Điều thứ
nhì: Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm sốt sắng lo làm ăn, và lo tu hiền
chơn chất …
Thứ ba là
đồng đạo ấy quan niệm còn lo làm ăn thì còn bận rộn trí lực, không yên mà tu.
Thế lại càng lầm xa hơn nữa. Tổ Bách Trượng đã nêu một phương châm trong thiền
viện của Ngài để các môn đồ hành theo: “nhứt nhựt bất tác nhứt nhựt bất thực”
(một ngày không làm một ngày không ăn). Đức Lục Tổ Huệ Năng thì giã gạo cho đồ
chúng ăn suốt ngày mà vẫn kiến tánh thành Phật.
Theo tôn chỉ
Phật Giáo Hòa Hảo hiện nay, Đức Thầy dạy tín đồ trong chỗ tu, ăn ở, nói làm,
nói năng xử sự miễn làm sao giữ cho tư tưởng, ngôn ngữ thuần chánh là được.
Nằm đi đứng
hay ngồi chẳng chấp
Và
Sớm tối đi
nằm y chánh pháp.
Ông Ba Thới cũng bảo:
“Chẳng thấy ai cấm việc lo làm
Lòng Trời lòng Phật lòng Phàm khác
nhau.”
Do đó Đức Thầy mới khuyên vị đồng
đạo thứ hai: “Ông muốn tu hành phải lo làm ăn chớ”. Tóm lại theo Phật Giáo Hòa
Hảo dạy người tu phải đi đúng theo con đường Trung Đạo, bồn chồn cũng không
được, lần lựa, không nên làm việc nhiều quá, không được ở không, chẳng làm gì
hết cũng không xong, mà phải vừa làm vừa tu, nên sấp xếp công việc cho vừa
chừng để có thì giờ công phu bái sám và học đọc kinh giảng, mở mang trí huệ,
siêng năng làm theo chánh nghiệp để không gây nên tội “Nhứt Lục Nghi Giới” và
biết tiết kiệm để còn dư tiền bố thí giúp đời “Nhứt Thiện Nghiệp Giới”, ấy là
Phước Huệ song tu và đủ phương tiện nhiếp hóa chúng sanh lần trên con đường
giải thoát “Nhiêu Ích Hữu Tình Giới”. Đó là hạnh tu Đại Thừa của chư Bồ Tát
trong Tam Tụ Giới. Tam Tụ Giới nầy là ở trong Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, do
Đức Phật Thuyết Giáo từ nghìn xưa, nay Đức Thầy “Nối theo chí Thích Ca ngày
trước” mà khai hóa nhân sinh, tức dạy lại chúng ta.
Mẩu chuyện thứ 54
CÁI DŨNG CỦA THÁNH NHÂN
Mẩu chuyện nầy phát xuất từ năm 1946.
Lúc đó là lúc Đức Thầy đang lưu trú tại chiến khu miền Đông. Bấy giờ ông Lê
Trường Sanh làm tổ trưởng tiểu đội tình báo, thường ở sát theo Đức Thầy.
Hôm đó Đức Thầy hội nghị suốt buổi
chưa về. Ở nhà tới bữa cơm chiều, anh em chừa riêng cho Ngài phần cơm, đựng
trong cái thau nhỏ và một con khô sặc rằn.
Vị trí đóng quân cập theo bờ kinh
nhỏ, xuồng đậu sát mé, tối lại, anh chiến sĩ có trách nhiệm đi chung xuồng với
Đức Thầy, để thau cơm ấy xuống khoang. Tuy ở trên đã có vạc sạp, nhưng anh còn
kéo thêm tấm ván lót xuồng, vừa dài, vừa nặng, dằn một đầu lên tấm sạp, vì sợ
chuột ăn thau cơm. Còn anh thì lật nóp ngủ đàng sau lái xuồng, chiếc xuồng đậu
ghim mũi vào bờ, số anh em khác nằm dọc theo bờ kinh. Ông Lê Trường Sanh thì
nằm gần xuồng của Đức Thầy hơn hết.
Đêm ấy trời rất trong, trăng tỏ sáng
choang, vào lối 11 giờ đêm, thì Đức Thầy đi hội nghị mới về. Anh chiến sĩ gác
giờ đó, lơ đễnh hay là ngủ gục, nên Đức Thầy về tới mũi xuồng mà anh không hay.
Nhưng ông Lê Trường Sanh mới nằm mơ màng, ông nghe tiếng người đi, bèn hé mí
nóp dòm thử, thì thấy Đức Thầy đã ngồi xuống mũi xuồng.
Sự việc đã lỡ, ông Lê Trường Sanh
nằm, giả vờ không hay, song cặp mắt của ông thì luôn luôn theo dõi từ cử động
của Ngài. Ông Lê Trường Sanh thấy Đức Thầy ngồi tại mũi xuồng, hai tay nắm vào
đầu tấm ván, bưng để lên trên bờ kinh coi nhẹ nhàng như là để cây dầm, đoạn rồi
Ngài dỡ vạc lấy thau cơm. Ngài dùng cơm như thường lệ, nhưng chỉ ăn nửa con khô
sặc mà thôi. Còn lại nửa con thì Ngài gở xương sạch sẽ rồi úp xuống dĩa, đậy
cái chén lên, để cái thau cơm xuống khoang xuồng, lót vạc sạp lại và hai tay
bưng tấm ván để xuống như cũ, rồi Ngài rút cái nóp lên bờ nằm ngủ. Mọi cử động
của Đức Thầy thật là hết sức nhẹ nhàng, đến đỗi anh chiến sĩ ngủ sau lái xuồng
cũng không hay. Có lẽ Đức Thầy sợ làm động mất giấc ngủ của anh em binh sĩ.
Sáng lại trước khi đi hội nghị, Đức
Thầy kêu ông Lê Trường sanh nói:
– Hồi hôm tôi cố ý làm cho anh gác
không hay, chớ không phải tại anh gác ngủ quên đâu.
Đó rồi Ngài mới đi hội.
Đức Thầy đi rồi ông Trường Sanh mới
tập trung anh em hết lại, kêu anh gác giờ đó mà cảnh cáo. Rồi bảo mỗi anh em
bưng thử tấm ván như động tác của Đức Thầy hồi hôm coi nổi không? Mỗi người đều
thử sức, nhưng không ai bưng nổi cả, cho đến hai người hiệp lại cũng không sao
cất lên. Bởi tấm ván ngựa ấy dài 2 thước năm, bề ngang 5 tất và dầy 5 phân, một
người đứng ngay chính giữa cặp nách lên mới nổi, chớ ở một đầu thì không sức
nào cất lên được.
Đoạn rồi ông Sanh thuật rõ Đức Thầy
dùng cơm cho anh em nghe. Nhứt là bữa ăn của Ngài, vừa kỹ lưỡng nhẹ nhàng, vừa
tiết kiệm, còn sức khỏe thì như thế đó.
Câu chuyện nầy thuật theo lời của
ông Lê Trường Sanh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Thời nào người đứng ra lãnh tụ khối
quần chúng, hẳn nhiên phải có đủ tài đức và gương mẩu, người ta mới đặt niềm
tin và thực hành theo.
Câu chuyện trên, qua đức độ và sức
khỏe của Đức Thầy mà ông Lê Trường Sanh đã chứng kiến, chúng ta có thể rút ra
những bài học đáng kể:
Thứ nhứt là từ vị trí họp trở về,
Ngài không muốn làm mất giấc ngủ của anh em binh sĩ, nên mọi cử động của Ngài rất
nhẹ nhàng, đến đỗi làm cho anh gác giờ đó không hay, thật là tình phụ tử chi
binh.
Điểm thứ hai là Đức Thầy biết rõ là
lúc về tới xuồng anh gác không hay, mà ông Lê Trường Sanh còn thức, thì sáng
lại anh gác thế nào cũng bị phạt nặng, vì kỷ luật của quân sự rất nghiêm khắc.
Cho nên sáng ra trước khi đi họp, Đức Thầy kêu ông Trường Sanh nói: “Hồi hôm
tôi cố tình làm cho anh gác không hay, chớ chẳng phải anh ta ngủ quên”. Thật là
chu đáo làm sao, vừa làm cho ông Sanh biết rằng hồi hôm ông còn thức, mà giả vờ
ngủ. Đức Thầy thông hiểu và làm cho anh gác chỉ bị cảnh cáo chớ không bị phạt
nặng.
Điểm thứ ba là sự ăn của Đức Thầy,
ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn, đành rằng chế độ ăn của mỗi người
trong thời ấy, chỉ một con khô sặc, cấp chỉ huy cũng thế, nhưng Ngài rất tiết
kiệm, chỉ ăn với nửa con khô mà thôi, phân nửa còn lại, Ngài gở xương kỹ lưỡng.
Tuy việc nhỏ nhưng gương hạnh cho mọi người noi theo.
Điểm thứ tư là về sức mạnh của Đức
Thầy như trong cậu chuyện vừa kể, ở đây thay vì bình luận, chúng tôi xin kể
thêm một chuyện khác do một chiến sĩ trong quân đội thời ấy kể lại:
Hôm nọ trong vị trí đóng binh, cũng
ở miền Đông khoảng 5 giờ sáng, bộ đội chưa kịp cơm nước, bỗng được tin quân
Pháp bao vây bằng phi cơ và bộ binh. Chúng đông gấp 5 lần quân ta, thế là liền
trong giờ đó quân ta phải rút ra khỏi vòng vây.
Được lịnh, ai nấy đều lo ba lô súng
đạn lên vai, khởi hành. Riêng Đức Thầy chỉ vác một bao gạo khoảng 60 ký lô.
Nhiều người ngạc nhiên, tự hỏi sao Ngài không vác gì quý hơn bao gạo, nặng quá,
đoạn đường khá xa, đoàn quân phải vượt qua khoảng sình lầy, ai cũng bước từng
bước, nhảy cho đúng lên góc lúa Trời, nếu trịch một chút bị sa xuống lầy lún
sâu tới vế, khó bườn lên đặng.
Đoàn người phải vất vả lắm mới được
đến ẩn trú trong cụm rừng tràm. Bấy giờ ai nấy đều đói và mệt lả, kẻ thì ngồi
dựa gốc tràm, người thì nằm dài ra thở. Còn Đức Thầy để bao gạo xuống xem vẻ tự
nhiên, không mệt nhọc gì hết, gương mặt tươi cười đi khắp vòng quân, thăm hỏi
anh em, đoạn Ngài phân phát số gạo cho từng tiểu đội nấu cháo đỡ lòng.
Lúc anh em binh sĩ vừa húp chén cháo
nóng, vừa tán thán. Nếu không có cái thấy biết chu đáo và sức khỏe của Đức Thầy
thì tụi mình bị chết đói liệt ở đây, chớ ai tiếp tế kịp.
Quân Pháp lùng bố tới hai giờ chiều
mới rút, đoàn quân liền trở về vị trí an toàn.
Qua mẩu chuyện chúng tôi vừa kể và
có một vài nhận xét, mong rằng anh chị em đồng đạo chúng ta bình tĩnh lắng nghe
từ cốt chuyện, từ lời nói. Tuy rằng trong mỗi chuyện có vài câu nói ngắn, một
lời dạy dỗ vắn tắt của Đức Thầy, nhưng trong đó hàm chứa bao nhiêu ý nghĩa, nói
lên bao nhiêu lời khuyến khích dạy dỗ nhân sinh, nhứt là toàn thể anh em đồng
đạo. Chúng ta biết rằng trong quyển Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ của Ngài có biết
bao nhiêu lời lẽ, biết bao nhiêu giáo lý pháp môn để chúng ta thực hành theo.
Tuy nhiên qua những lời dạy ngắn gọn mà Đức Thầy còn nói riêng cho những anh em
đồng đạo có dịp gần gũi bên Ngài, rồi được họ thuật lại và sau khi nghe những
câu chuyện ấy, chúng ta nên suy nghĩ câu nào đúng chơn lý, câu nào đúng theo lẽ
phải, thì chúng ta cố gắng kinh nghiệm thêm để áp dụng đời sống tu hành của
mình. Chúng tôi thiết nghĩ cũng không kém bổ ích.
Mẩu chuyện thứ 55
ĐẠO KHÔNG THỂ MẤT
Năm Kỷ Mão 1939 nhà nhà đều rộn rịp
đón xuân, các chậu hoa thọ, hoa cúc được đặc chung quanh bàn Thông Thiên hoặc
trước nhà. Những chiếc lục bình trên bàn thờ, bàn khách được cắm nhiều cành hoa
tươi, hoa giấy, đủ màu sắc sặc sỡ. Rồi cờ xí đèn lồng, đèn giấy cũng được treo
bày mời cửa ngõ, cho đến đường sá giậu phên đều được hớt sửa, quét dọn. Nhìn
đâu đâu cũng thấy mát dịu, thật vui tươi.
Bấy giờ ông Ngô Thành Bá và ông
Hương Quản Diệp, trong chiều hôm đó đi xe đạp đến Tổ Đình để nghe Đức Thầy
thuyết giảng Đạo Pháp. Cũng như thường lệ, khoảng bảy giờ tối, đồng đạo kẻ mới
người cũ đều tề tụ chật nức. Từ nhà khách đến ngoài sân, ai nấy đều yên lặng
chờ nghe lời giảng khuyên của Đức Thầy.
Ngài thuyết giảng đến chín giờ tối,
thì dừng lại. Phần đông tản mác ra về, chỉ còn lại vài người. Lúc đó Đức Thầy
mới kêu ông Biện Đài và ông Hương Quản Diệp biểu nhắc ghế ra sân ngồi. Khi mọi
người đều ngồi, Đức Thầy cũng ngồi lại môt cái ghế. Bấy giờ trời thật trong,
sao tỏ, mùi thơm các loại hoa hòa với khói trầm hương ngào ngạt, khiến ai nấy
nghe lòng thanh thoát như phủi hết bụi trần.
Đức thầy bàn luận đạo lý thêm một hồi,
đoạn Ngài chỉ cho ông Diệp và ông Biện Đài, cùng tất cả mọi người ngồi đó xem
một điềm trời vừa xuất hiện, đó là sao Tử Vi.
Hình như Đức Thầy thấu rõ tâm niệm
cho nên Ngài nhìn ngay ông Diệp và ông Biện Đài nói:
– Độ nầy các ông sợ lắm phải không?
Thời kỳ Thầy chuyển Pháp độ đời, dẫu cho thế lực dân Pháp và bọn tay sai có ác
độc đến đâu, cũng không thể nào làm hại Đạo được. Chừng nào hào quang trên mặt
trăng không còn chiếu xuống đất, thì Đạo Thầy mới mất. Bằng ánh sáng mặt trăng
còn chiếu thì Đạo Thầy vẫn còn cứu đời và lan rộng mãi mãi.
Đức Thầy còn cho biết thêm:
– Tất cả uy quyền hay thế lực đàn
áp, chỉ là vun phân tưới nước cho Đạo tốt thêm, các ông cứ an tâm hành Đạo,
đừng lo sợ gì hết.
Lời nầy của ông Nguyễn Chi Diệp
thuật lại.
PHẦN NHẬN XÉT:
Qua dòng lịch sử, ai cũng thấy từ
những bậc được người đời xưng tụng là Phật, Thánh, Triết nhân hay Dị nhân v.v.
. . cho đến những sự nghiệp vẻ vang và vĩ đại được liên tiếp lưu tiến nghìn
thu, tất cả đều thành công trong gian khổ, nhứt là Đạo Phật.
Bởi Đạo Phật vạch một lối đi ngược
dòng luân lưu của nhân loại để đưa họ ra khỏi bờ sanh tử, nên thảo nào người
đời chẳng ngăn, chẳng chận, đàn áp. Vì họ xem đó là một chướng ngại lớn đối với
họ. Họ đâu có ngờ, trong lòng từ bi của vị khai sáng Đạo Phật thật vị nhân sinh
và những người kế tiếp đối với chúng sanh thật bao la vô bờ bến. Dầu phải đương
đầu với chông gai khổ khó:
Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh
chúng.
Và
Dầu cho gặp lắm hùm beo,
Từ- bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng.
Đâu nản chí mà ngừng việc phải,
Cuộc tan thương biến cải cảnh trần.
(Thu Đã Cuối)
Đó là một trong trăm ngàn lần mà Đức
Thầy đã thốt, để giác tánh tín đồ vững lòng đương đầu với những cơn pháp nạn.
Câu chuyện nói trên, tuy Đức Thầy
ngắn gọn nhưng rất hiệu năng cho những tín đồ ngoan đạo đủ niềm tin và kiên trì
trên đường hành đạo và truyền đạo. Về việc điềm trời xuất hiện như Ngài đã nói:
Điềm trời xuất hiện Tử Vi,
Quang minh sáng suốt vậy thì dân ôi.
Ở đây chúng tôi xin miễn bàn mà chỉ
đề cập tới ánh sáng của mặt trăng lúc nào cũng tràn đầy và chiếu khắp trái đất.
Sở dĩ trăng có lúc tròn lúc khuyết
và lúc sáng nhiều, lúc sáng ít hoặc có hai đêm đầu và cuối tháng vắng bặt, là
do sự xoay chuyển của quả địa cầu. Hễ bên nầy sáng nhiều, thì bên kia sáng ít
và ngược lại cũng thế, chớ ánh sáng mặt trăng không bao giờ bị mất.
Cái Đạo cũng vậy, nó rộng lớn bao
trùm cả vũ trụ vạn hữu và lúc nào cũng như lúc nào, vẫn lào lào sáng tỏ. Nó
chan hòa vào lòng người, tất cả chúng sanh vạn vật, không nơi nào mà chẳng có.
Dầu là một vật rất vi tế nhưng nó lại không có hình tướng, sắc màu và ngôn ngữ
đối đãi:
“Đạo khả Đạo phi thường Đạo,
Danh khả danh phi thường danh.”
Nên gọi nó là chơn không, nhưng
không mà chẳng không, nên gọi nó là diệu hữu. Khi nào muốn cứu đời thì cái Đạo
ứng dụng ra muôn ngàn phương diện, nên gọi là chơn không diệu hữu.
Song khi Đạo ứng dụng vào đời cứu độ
chúng sanh “Quyết cứu đời dùng đạo phổ thông” thì nó phải đi theo luật thăng
trầm, suy thạnh do nghiệp quả của chúng sanh mà ra.
Cũng như mặt trăng có mờ, có tỏ, có
tròn, có khuyết là do sự xoay chuyển chớ không phải tại ánh sáng của mặt trăng
có tròn khuyết mờ tỏ.
Ở đâu Phật Giáo Hòa Hảo sắp đương
đầu pháp nạn, là bị quân Pháp theo dõi và họ quyết dập tắt trong khi Đạo vừa
khai mở. Đức Thầy mới dùng lý lẽ trên để trấn tĩnh tín đồ. Ngài không cho đây
là một dịp rủi trọn vẹn, mà còn có dịp may.
Ta còn thương thương trò liệu điệu.
Chớ cũng mừng được dịp phổ thông.
Và
Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ
thông.
Đức Thầy cũng tiên đoán chẳng những
một lần pháp nạn nầy thôi mà còn chịu qua mấy lần nữa, nên Ngài nói thêm:
– Tất cả uy quyền thế lực đàn áp chỉ
là vun phân tưới nước cho Đạo tốt thêm.
Thật là một lời dặn dò son sắt, còn
hơn liều thuốc trường sanh, nó làm cho toàn thể tín đồ giữ vững niềm tin ghi
nhớ mãi mãi.
Đạo Phật vi diệu thậm thâm,
Dầu mà tận thế ngàn năm vẫn còn.
Nghe dứt câu chuyện, tôi ngồi bưng
ly nước hớp từ ngụm nhỏ, nghe lòng cảm xúc, nhớ lại quãng đời hành đạo của mình
trải năm lần thoát nạn. Bây giờ đây, vẫn được an toàn ngồi nghe kể chuyện bên
Thầy đượm đầy đạo vị. Và nghĩ rằng việc đã qua chỉ là cơ thử thách người tu
vậy.
Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn ngơ bỏ giống hay sao?
Nấu lọc ranh mới biết vàng thao,
Ai thật tánh, ai người giả Đạo.
Và ấy cũng là định luật bi quan ly
hiệp.
Đời cùng Đạo bi quan ly hiệp,
Tấm lòng thành gian truân chớ thiết.
Đức Từ Bi tiếp dẫn linh hồn,
Tóm lại, trăng có khi tròn, khi
khuyết, đạo có lúc thạnh lúc suy, gặp thời thịnh hưng thì đạo phô bày hình thức
và áp dụng mọi phương tiện với đời để độ chúng. Còn gặp lúc nghịch cảnh suy di,
thì đạo hòa ẩn trong lòng của mỗi người, mọi giới, để hoài tàng đạo đức, “Ẩn
nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Cho nên chúng ta có thể khẳng định rằng: Hễ
loài người còn tức đạo còn, mà đạo còn tất sẽ còn người truyền đạo mãi mãi.
Do đó, người hữu tâm hữu chí quả
quyết Đạo không thể mất, và:
Bại rồi thành lại nên tuồng,
Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma Ha.
[next]
Mẩu chuyện thứ 56
Y KINH DIỄN NGHĨA
Câu chuyện nầy xảy ra vào khoảng
cuối năm Canh Thìn 1940, Đức Thầy đang lưu trú tại nhà ông Hương Bộ Võ Mậu
Thạnh ở tại Kinh Xáng Xà No, làng Nhơn Nghĩa, Cần Thơ. Nguyên nhân nhà cầm
quyền Pháp bắt Đức Thầy đem qua Châu Đốc rồi họ đưa luôn đi Sa Đéc. Ở đây qua
một cuộc điều tra cật vấn, họ tuyên bố lưu xứ Ngài, tức cấm không cho Đức Thầy
cư ngụ và truyền Đạo trong các tỉnh như: Châu Đốc, Sa Đéc, Long Xuyên. Ngoài
ra, Ngài muốn đi đâu tùy ý. Họ tưởng làm như vậy là chận đứng được sự truyền
giáo của Ngài, chẳng ngờ khi Đức Thầy đến làng Nhơn Nghĩa thì dân chúng kéo đến
nghe Pháp và nhờ trị bịnh càng lúc càng đông, cũng như lúc ở Tổ Đình Hòa Hảo
vậy.
Sáng hôm nọ Đức Thầy trị bịnh và
thuyết giảng đạo lý đến 11 giờ trưa Ngài mới dùng cơm. Xong, Ngài vào phòng
riêng an nghỉ. Bỗng có ba ông khách đến. Ông Bộ Thạnh, tức chủ nhà có trách
nhiệm tiếp rước mời khách dùng trà nước và hỏi thăm nơi ở và lý do, thì được ba
ông khách cho biết:
– Chúng tôi đều là người ở Cần Thơ,
hôm nay đến đây xin được gặp Đức Thầy để hỏi chút việc.
Ông Bộ đáp:
– Các ông hãy đợi chừng một tiếng
đồng hồ nữa vì Đức Thầy mới vào phòng nghỉ. Lúc đó thấy ba người khách có hơi
nôn nóng, ông Thạnh liền nói tiếp:
– Nếu có việc chi cần gấp, các ông
cứ trình bày, nếu thấy được tôi sẽ giải quyết, bằng không thì phải đợi Đức
Thầy, chớ tôi không thể báo tin liền bây giờ được, vì Đức Thầy mới vào nghỉ.
Lúc đó một trong ba ông khách đại
diện nói:
– Không có chuyện gì quan trọng lắm.
Chúng tôi đã quy y với Đức Thầy hôm Ngài mới đến đây, nhưng vì chúng tôi có xem
chút ít Kinh Phật và đọc qua bốn quyển sấm giảng của Đức Thầy, thấy rằng muốn
giải thoát sanh tử mà còn sát sanh cung ứng cho khẩu dục mỗi ngày, tức là còn
ăn chay kỳ mỗi tháng bốn ngày, như thế thì trong hai mươi sáu ngày kia còn ăn
mặn, tức nhiên phải còn sát sanh, ắt khó mong được ý nguyện. Nên hôm nay đến đây
định xin Đức Thầy cho phép chúng tôi ăn chay trường luôn.
Nghe ba ông khách nói xong, ông
Thạnh vội vàng đáp:
– Vấn đề gì chớ việc ăn chay trường
Ngài không cho rồi!
Ông Thạnh vừa nói tới đó thì Đức
Thầy cũng vừa mở cửa phòng bước ra đi ngay lại bàn khách. Ông Thạnh vì ngồi
xoay lưng lại cửa phòng nên không thấy Ngài, còn ba người kia vì ngồi đối diện
nên cùng đứng dậy cúi đầu chào Đức Thầy, khiến ông Thạnh giựt mình quay lại.
Đức Thầy liền nói:
– Tôi không cho tín đồ ăn chay
trường hồi nào mà ông Bộ nói vậy?
Lúc đó ông Bộ miệng mấp máy muốn
biện lẽ, Đức Thầy biết ý nên tiếp:
– Cách mấy hôm rày, vợ chồng ông Sáu
bên sông có qua đây hỏi xin ăn chay trường. Sở dĩ tôi không chấp nhận mà bảo
ông bà nên ăn chay kỳ lần lần rồi sẽ tiến lên, là vì trình độ hoàn cảnh của ông
bà ấy chưa ăn chay trường được ngay bây giờ. Còn cơ duyên của ba người nầy thì
ăn chay trường được. Vậy ba anh về thực hành đi! Thầy sẽ chứng cho.
Ngài vừa nói vừa xoay qua ngó ba
người ấy. Đến đây ông Bộ mới vỡ lẽ.
Thưa quí vị, câu chuyện nầy chúng
tôi thuật theo ông Trương Minh Ký lúc đó có mặt tại nhà ông Bộ Thạnh.
PHẦN NHẬN XÉT:
Chủ yếu của Đạo Phật là đưa chúng
sanh ra khỏi biển khổ sanh tử. Cho nên người Phật tử khi đặt chân vào cửa Đạo
phải giữ hạnh trai giới, bởi sự trì chay giữ giới là phương tiện thoát ly luân
hồi, Đức Thầy thường dạy:
Đồ lao muốn lánh sớm nghe Ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
(Ai Người Tri Kỷ)
Do đó nhà tu rất quan tâm đến sự ăn
chay. Tuy nó là hình thức bên ngoài, song muốn thực hiện cũng không phải dễ
dàng, vì những vị ngon thịt béo của sinh vật, con người đã ô nhiễm từ lũy kiếp.
Thế nên trong qui luật của Đạo Phật, có phân định từ ăn chay kỳ, đến chay
trường, để cho tín đồ dễ bề tu tập, ấy là tùy theo cơ duyên và trình độ của mỗi
hành giả mà áp dụng.
Thế mà cũng có nhiều người chưa nhận
xét tinh tường nên còn thiên chấp chê khen hoặc áp dụng không đúng tiết, như có
người đọc đến hai câu giảng:
Chay bốn bữa ấy là quy tắc,
Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng sanh.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Thì cho rằng ăn chay mỗi tháng bốn
ngày là quá thấp, cũng có người khác khi thấy ai ăn chay vượt lên hơn bốn ngày
liền cho đó là sai quy tắc giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo.
Sự nhận xét của hai hạng người nói
trên đều là phiếm diện đáng tiếc. Nếu ai chịu nhìn toàn diện giáo lý Phật Giáo
Hòa Hảo và suy cứu sự dụng ý của Đức Thầy một cách chính xác ắt họ không còn bị
lầm lẫn nữa.
Đạo Phật rất cao sâu và thực tế, ấy
là chơn lý xác thật, song khi áp dụng cứu đời thì nó hòa hợp cơ duyên của mỗi
chúng sanh. Nói cách khác vừa khế lý và vừa khế cơ, nếu không đủ hai dữ kiện ấy
là mất hết thực chất của Đạo Phật, cho nên người xưa đã bảo: Y
kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan. Ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết.
Có nghĩa là: Nói Đạo mà không hợp căn cơ của người nghe thì mắc phải cái lầm là
nói oan cho Phật ba đời. Bằng nói Đạo mà không đúng chân lý thì lạc vào Ma
thuyết.
Trường hợp ông Hương Bộ Thạnh nghe
Đức Thầy khuyên vợ chồng ông Sáu không nên ăn chay trường, chỉ nên ăn chay kỳ
lần lần. Khi gặp ba người khách ông Thạnh cũng nói y như vậy, ấy là ông kẹt ở
chỗ y kinh diễn nghĩa là nói oan cho Phật, nên ông Thạnh bị Đức Thầy rầy:
– Tôi không cho tín đồ ăn chay
trường hồi nào mà ông Bộ nói vậy?
Nếu bảo mỗi người mới tu phải ăn
chay trường thì không khế cơ, bằng bảo tất cả Phật tử không được phép ăn chay
trường lại là không khế lý. Vậy chúng ta hãy đào sâu vấn đề, tại sao lúc mới
khai Đạo, Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo dạy tín đồ:
Chay bốn bữa ấy là quy tắc,
Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng sanh.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Và chính Ngài cũng vẫn ăn chay kỳ,
bởi có hai lý do:
Lý do thứ nhứt: Sự ăn chay đối với
người chưa tu hoặc mới tu đâu phải chuyện dễ dàng, vì chưa quen và lòng từ bi
giác ngộ chưa cao. Nếu Đức Thầy ra quy tắc mỗi tín đồ phải ăn chay trường thì
dù họ muốn tu cũng ngán không dám vào Đạo vì sợ ăn chay theo không nổi. Thế thì
hột giống lành của họ chưa có cơ nẩy nở.
Điểm thứ hai nếu Đức Thầy ăn chay
trường thì tín đồ thấy vậy bắt chước ăn theo, trong lúc họ chưa hiểu được chính
xác lý do gì mình phải ăn chay trường, thì họ chỉ ăn thời gian rồi thối chuyển,
hoặc giả người mới tu thường có cao vọng mau thành và hiểu lầm rằng ăn chay sẽ
được thành Phật. Hạng người nầy chỉ tu được thời gian, khi gặp nghịch cảnh thử
thách liền bỏ đạo thôi tu, đành rằng hễ tu thì phải ăn chay, hoặc nhiều hoặc
ít.
Trong bá gia nhiều ít lòng chay.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Và
Chữ Nam mô trì giái giữ chay
(Sa Đéc)
Nhưng hành giả phải nhận cho rõ:
Chay được tánh tâm chay mới quí
(Sa Đéc)
Vì mục đích của sự ăn chay là để
tăng trưởng lòng nhơn, nuôi dưỡng đức tánh từ bi và diệt lòng tham sát để khỏi
luân hồi quả báo. Cho nên ăn chay muốn được kết quả, tâm phải cần thanh tịnh,
chớ chẳng phải ăn chay ngoài cửa miệng hay bằng hình thức suông.
Tu hành nào luận mặn chay,
Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư.
Để cho hầu hết nhân sinh dễ bề tu
tập, Đức Thầy tùy cơ duyên của mỗi người mà giáo huấn. Bắt đầu từ quy tắc,
người mới vào đạo phải ăn chay mỗi tháng 4 ngày, tức là năm 1939, nhưng đến năm
1942 – 1945 Ngài bảo tín đồ ăn lên mỗi tháng là 6 ngày. Ngoài ra còn có những
tín đồ ăn lên 10 ngày mỗi tháng, hoặc ăn chay trường. Ngài cũng tùy theo trình
độ mà mặc nhận, song có điều Ngài quyết định toàn thể tín đồ phải tuân thủ là
tu đúng theo con đường Trung Đạo, chớ không được tu theo lối ép xác hành khổ và
trong đó Ngài có viết một đoạn:
“… Vậy Phật chẳng buộc ai ăn ở khổ
hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai
ăn mặn, tùy theo trình độ và lòng nhơn của mình …”
Theo ý của đoạn văn trên, qua mặt
văn phạm ta thử tìm hai từ ngữ chẳng “xúi” và chẳng “ép”: Thấy rằng chữ chẳng
xúi là ý Thầy tín đồ làm việc gì đó, nhưng tại họ muốn làm, hoặc chừa bỏ chưa
được, còn chữ chẳng ép là ý muốn bảo tín đồ làm những gì họ còn yếu sức, hoặc
kém giác ngộ nên chưa thực hiện được, chờ khi trình độ và lòng nhơn của họ tiến
bộ lên, tất sẽ thi hành được.
Tóm lại diệu dụng của Phật Pháp đối
với chúng sanh bao giờ cũng khế cơ và khế lý. Vậy nhà tu nên nhận xét cho thấu
đáo mới khỏi bị hiểu lầm lời chỉ giáo của Tổ Thầy trong việc hành đạo và truyền
đạo của mình.
Coi rồi phải nhận cho hiểu lý
Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Mẩu chuyện thứ 57
PHÉP THẦN THÔNG
Mẩu chuyện nầy phát xuất từ năm Giáp
Thân 1944, người Pháp cố tình chận đứng, không cho Đạo Phật Giáo Hòa Hảo bành
trướng, chúng lùng bắt những người đang hoạt động cho Đạo. Họ bắt giam vào khám
tù ở các tỉnh, hoặc đày đi Côn Đảo. Bấy giờ Đức Thầy đang cư trú tại Sai gòn,
Ngài kêu gọi những anh em đồng đạo cùng lên ở với Ngài để ẩn lánh một thời
gian. Trong đó, có ông Giáo Khương là người ở tỉnh Châu Đốc.
Một hôm nọ ông Khương đang ngồi lo
nghĩ, chẳng biết hiện tình trong tỉnh nhà ra sao? Ông liền khởi lòng mong ước,
phải chi mình có được phép thần thông để mình nghe thấy hết mọi việc khắp nơi
coi như thế nào. Lúc đó Đức Thầy vừa đi ngang chỗ đó, chừng như Ngài đã rõ tâm
ý của một đệ tử, Ngài bèn tươi cười hỏi:
– Bộ ông Giáo muốn có thần thông lắm
sao?
Ông giáo nghe Đức Thầy hỏi giựt mình
và cười thẹn chứ không đáp được, còn dức Thầy hỏi rồi Ngài bỏ đi luôn.
Lúc đó ông Khương ngồi suy nghĩ,
mình mới tu mà nhiều cao vọng quá. Sau đó vài phút ông Khương thấy rõ ràng: Bà
xã Bộ và ba đồng đạo chèo một chiếc ghe chở đầy thực phẩm từ Châu Đốc tiếp tế
lên Saigòn, ghe đi đến đâu và mọi người trong ghe nói chuyện hay là tắm giặt,
dùng cơm ra sao thì ông Khương nhìn thấy, nghe hết không sót điều nào. Bấy giờ
ông rất mừng rỡ, nhưng không dấu kín được trong lòng, nên đem thố lộ cho hai
người bạn nghe. Ông nói:
– Ghe tiếp tế của bà Xã Bộ lên gần
tới.
Lúc đó hai người ấy cùng hỏi:
– Anh ở trên nầy có ai báo tin trước
mà anh biết chuyện ấy?
Ông Khương nói:
– Không ai cho tin, nhưng tôi biết
có như vậy, chắc khoản 10 giờ ghe sẽ đến đây.
Hai người bạn không tin cho rằng ông
Khương nhớ nhà rồi đặt chuyện nói láo cho vui, bèn rủ ông đánh cá.
– Nếu y như vậy thì chúng tôi thua
anh hai tô hủ tíu và hai ly café, còn bằng không có việc đó thì anh phải bao
chúng tôi đủ số như vậy, anh chịu không?
Ba người bằng lòng trong cuộc ăn cá
với nhau, nhưng không dám nói lớn vì sợ Đức Thầy hay mà quở trách.
Qua hôm sau ba người cùng ngồi chung
một bàn, đàm thoại và chờ xem kết quả. Đợi tới 9.30 cũng chưa thấy gì hết, hai
anh bạn kêu ông Khương nói:
– Giờ nầy anh Giáo lấy tiền cùng hai
đứa tôi ra tiệm hủ tíu là vừa.
Ông Khương đáp:
– Chưa đâu, đúng 10 giờ đồng hồ gõ
mới biết ăn thua chớ.
Hai người bạn với nụ cười đắc thắng
nói:
– Đợi tới đó cũng được.
Lúc đó đồng hồ gõ 10 giờ, bỗng thấy
người gác cửa bước vào trình với Đức Thầy:
– Bạch Thầy, có ghe tiếp tế của bà
Xã Bộ ở Châu Đốc lên tới.
Hai người bạn đồng ca ngợi ông
Khương rồi trọn ba người dắt nhau ra tiệm hủ tíu ăn uống. Xong, họ trở về an toàn,
và yên trí rằng không ai hay biết. Nhưng sau đó ít phút, Đức Thầy từ trên gát
đi xuống, Ngài nhìn ngay ông Khương:
– Ông Giáo vừa được ăn hủ tíu và
uống café rồi là phải, nghe thấy bao nhiêu đó thôi nghe ông!
Từ giờ phút ấy về sau ông Khương
không còn được nghe thấy như lúc trước nữa.
Mẩu chuyện nầy thuật theo lời ông
Giáo Khương.
PHẦN NHẬN XÉT:
Thường tình khi gặp cảnh nghèo khổ,
hoặc bị đàn áp buộc ràng, thì người ta mới nẩy sinh những cái ước muốn làm sao
cho mình được vượt qua. Từ đó xã hội loài người xảy ra những cuộc ghét thương
hiềm khích và đấu tranh gây gổ cho nhau. Ông Khương lại không biết thận trọng,
để lại phải vương vấp những điều sai lầm như sau:
Điểm thứ nhứt: Giữ kín nhưng sự mầu
nhiệm trong lòng không được, lại đem khoe với hai người bạn. Điều nầy đối với
người tu gần chứng đắc rất là cấm kỵ. Bởi Bồ Tát còn thấy mình chứng đắc, chưa
phải là Bồ Tát, đã thấy mình có được sở đắc, hoặc có chút vui mừng cũng chưa
được, huống hồ là đem khoe với mọi người.
Điểm thứ hai: Lợi dụng sự thấy nghe rõ
ràng, nắm phần chắc ăn trong tay, ông Khươ~g đem đánh cá với hai người bạn để
được ăn cuộc. Tuy đây là cuộc mua vui nhỏ nhặc, nhưng trong đó cũng có dụng ý
ăn thua, điều mà hầu hết nhà tu phải tránh hẳn.
Điểm thứ ba: Đã biết điều mình đánh
cá với hai người bạn là sai, vì Đức Thầy hay được sẽ khiển trách, nhưng ông
Khương cũng cố giấu, quên rằng sức tu của mình chưa chứng được phép thần thông
nầy, mà phải nhờ đến tha lực và người ban cho tha lực ấy là Đức Thầy, chớ còn
ai nữa mà hòng che giấu Ngài. Do đó, ông Khương và hai người bạn từ tiệm nước
trở về, tưởng đâu an toàn. Không ngờ Đức Thầy rõ hết sự tình, nên Ngài nhìn
ngay ông Khương và nói:
– Ông Giáo vừa được ăn hủ tíu và
uống café rồi là phải, nghe thấy bấy nhiêu đó thôi nghe ông!
Thế là sau giờ phút ấy ông Khương bị
mất hết thần thông và lúc bấy giờ ông mới nhận được các điều sai sót của mình.
Đọc câu chuyện trên, chúng ta không
nên vội chê trách ông Khương, mà vướng thêm cái bịnh lo thấy lỗi của người
khác. Vậy người mới vào Đạo lâm vào hoàn cảnh ấy, chưa chắc mấy ai khỏi lầm.
Vậy điều cần thiết là chúng ta nên rút bài học kinh nghiệm cho đường tu của
chính mình là hơn.
Mẩu chuyện thứ 58
CHẾT KHÔNG MẤT
Đây là nhắc đến chuyện của ông Dương
văn Xoàn, thường gọi là ông Hai Xoàn, nhà ở Vàm Nao, Mỹ Hội Đông, quận Chợ Mới,
Tỉnh Angiang. Bình nhựt ông có lòng hào hiệp, hay giúp đỡ người cô thế. Đến lúc
quy y với Đức Thầy thì ông Hai rất nhiệt tình lo cho Đạo
Ông thường mang Sấm Kinh đến nơi nào
chưa có thì ấn tống và khuyến khích người tu hiền. Thuở ấy từ năm 1940 tới năm
1944 nhà cầm quyền Pháp tại quận Chợ Mới ruồng bắt những người hoạt động cho
Đạo, tra tấn và đày đi Côn Đảo. Dầu vậy ông Hai chẳng hề lùi bước.
Hôm nọ ông Hai thấy có bốn người bị
trói đang ngồi trên chiếc xe lôi đang đậu ở phía trên Mỹ Hội Đông, ông động
lòng nghĩa hiệp, liền bước đến hỏi thăm duyên cớ làm sao, thì các người ấy trả
lời
– Chúng tôi vì gia đình nghèo quá
ông Hai, không đủ tiền đóng thuế thân nên bị lính bắt giải lên quận.
Ông Hai liền hỏi;
– Vậy lính đi đâu hết rồi? Các anh
em đó trả lời:
– Họ và anh chạy xe đang uống nước ở
tiệm nước đàng kia.
Nhanh như cắt, ông Hai liền nhảy lại
mở hết giây trói và bảo bốn người trốn lẹ đi. Bốn anh y lời chạy thoát hết, còn
ông Hai lập tức trở về ga đình soạn quần áo và gói 200 quyển Sám Giảng. Ông đi
luôn vô vùng Rạch Giá phát giảng khuyên người tu. Hai tháng sau ông mới trở về
Mặc Cần Dưng cư ngụ.
Khi bọn lính uống nước xong trở ra,
thấy bốn người đi đâu mất, chúng chia nhau lục soát, nhưng không tìm được. Sau
đó họ điều tra, biết là ông Hai mở trói thả tội nhân, những người lính cấp báo
về quận. Quận đã có dự tính bắt ông Hai, vì ông hoạt động Đạo đức. Nay được
thêm tin nói trên, họ liền ra lịnh bắt ông Hai.
Bọn lính tới nhà ông bao bắt mấy
phen, nhưng không gặp. Sau rốt chúng biết nơi ẩn trú của ông, liền đến bao vây
và bắt được ông. Chúng đánh đập tra tấn một cách tàn nhẩn. Cuối cùng chúng đày
ông ra Côn Đảo một lượt với ông Xã Hay ở Kiến An. Sau ông Hai chết luôn ở tại
đây. Hôm ngày 29 tháng 9.
Đến tháng 6 năm Ất Dậu 1945, Đức
Thầy đi Khuyến Nông về tới xã Mỹ Hội Đông. Trước khi lên diễn đàn, Đức Thầy đến
tận gia đình ông Hai để thăm. Ngài kêu hết vợ con của ông Hai ra hỏi:
– Từ ngày ông Hai bị dày đi Côn Đảo
và mất tới giờ, sự sanh sống ra sao?
Người con gái thứ Hai đứng ra đại
diện gia đình trả lời:
– Bạch Thầy, chúng con làm ăn có khi
đủ cũng có khi thiếu!
Đức Thầy ngỏ lời an ủi và khuyến
tấn:
– Ông Hai chết không mất đâu, các cô
đừng buồn, hãy rán lo tu hành, làm lành, làm phải. Thầy sẽ hộ cho từ đây làm ăn
khá giả và tới ngày lập hội được gặp lại ông Hai.
Thật đúng như lời, từ độ ấy đến nay,
bốn người con của ông Hai người nào cũng làm ăn giàu có hết.
Câu chuyện nầy thuật theo lời của
Ban Trị Sự xã Mỹ Hội Đông.
PHẦN NHẬN XÉT:
Nghe câu chuyện kể trên chắc ai cũng
bùi ngùi cảm động, giữa lúc người Pháp dùng chính sách bạo tàn chèn ép đạo
giáo, nhứt là Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng ông Hai vẫn cương quyết làm tròn bổn
phận của người tín đồ đối với Tam Bảo, thật là một tấm gương đáng kính. Lại nữa
sống dưới thời Pháp thuộc, mỗi năm công dân từ 18 tuổi trở lên đều phải đóng
thuế thân, tức là thuế người, là bốn đồng sáu. So với giá lúa thời bấy giờ là 3
cắc một giạ thì phải tốn trên 15 gịa lúa cho mỗi đầu người. Những gia đình
nghèo, vợ con nheo nhóc, lo chạy hàng bữa, làm sao có đủ tiền để đóng thuế. Vậy
mà những kẻ thân Pháp chẳng rũ lòng thương xót, họ nỡ bắt trói đồng bào mình
hành hạ đủ cách. Vì hận bọn xăm lăng, nghĩa đồng bào cốt nhục, nên ông Hai giải
tỏa cho bốn người ấy.
Với một người vì Đạo, vì dân, xem
gia đình và thể xác là thường như ông Hai, nên Đức Thầy đến tận nơi thăm viếng
và an ủi gia đình:
Ông Hai chết không mất đâu và đến
ngày lập hội được gặp lại ông Hai.
Một câu nói vừa xoa dịu vết thương
lòng vừa vững niềm tin trên bước đường tu học cho gia đình ông Hai
Tam giáo đều công nhận trong mỗi
người có hai phần: Xác thể và linh hồn. Khi chết, xác thể bị mất, nhưng linh
hồn vẫn còn mãi mãi.
Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất.
Ví như cái nhà và ông chủ nhà, cái
nhà nầy hư thì ông chủ nhà đi ra cất lo cất lại cái nhà khác, rồi cái khác nữa.
Trường hợp ông Hai đây lại là đặc biệt, tuy xác thịt ông bị mất, song danh
nghĩa của ông vẫn sống muôn đời và linh hồn được dự hội Long Hoa:
Dõi gót theo Thầy nương Phật cảnh,
Vui vầy xem hội hội Long Hoa.
Điều nầy có lần Đức Thầy khuyên ông
Tham Tá Ngà:
Kìa hỡi ai giữ phận cho tròn,
Sau huynh đệ có ngày hòa hiệp.
(Cho Ông Tham Tá Ngà)
Và Ngài cũng dạy cô Hai Gương:
Đến hội trăm quan còn hiện được,
Thì ra xác thịt có cần đâu.
Khuyên con nghĩ cạn đừng ưu lự,
Mượn chước huyền cơ giải mạch sầu.
(Cho Cô Hai Gương Cần Thơ)
Riêng về vợ con ông Hai, Đức Thầy
khéo dẫn từ đức tin tới nhân quả “Các cô đừng buồn, hãy lo tu hành, làm lành,
làm phải Thầy sẽ hộ cho từ đây làm ăn khá giả”. Lời an ủi của Đức Thầy tuy đơn
giản song có hiệu lực làm cho gia đình ông Hai tan hết sự ưu sầu lo lắng và đặt
trọn niềm tin vào nơi Tam Bảo, vừa sốt sắng lo làm ăn, vừa lo tu hiền chơn
chất. Nhờ đó các con ông Hai giờ được phước báu trở nên giàu có. Bền chí tu
hành, hễ nhân toàn thiện thì quả do đó mà được toàn thiện vậy. Còn việc sum họp
gia đình tại hội Long Hoa, phải đợi thời gian và sự tu tiến của các người con.
Mẩu chuyện thứ 59
GÌN GIỚI LUẬT
Vốn có sẵn lòng từ bi và trách nhiệm
cứu nguy dân tộc, Đức Thầy không thể lặng nhìn đồng bào Miền Bắc đang bị giặc
đói hoành hành, nên Ngài đứng ra cổ võ đồng bào Miền Nam chung sức gạo tiền để
chở ra cứu trợ miền Bắc. Mặt khác Ngài kêu gọi toàn dân nổ lực tăng gia sản
xuất. Bởi:
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên.
Cuộc hành trình nầy mệnh danh là
Khuyến Nông kéo dài từ mồng một tháng 5 đến cuối tháng 6 năm Ất Dậu 1945. Đức
Thầy khởi hành từ Sai gòn rồi đi khắp châu thổ sông Cửu Long và đăng đàn thuyết
pháp 107 nơi. Mỗi nơi đều có số dự nghe ngoài sức tưởng tượng. Vào ngày mùng 6
tháng 6 Ngài thuyết giảng tại sân vận động Mỹ Hội Đông. Từ lúc được tin ấy, ai
ai cũng chuẩn bị. Chỉ để một người coi nhà còn bao nhiêu đều đi dự hết. Có
nhiều gia đình đóng cửa bỏ đó, người nhà đồng kéo đi hết, nhưng khi trở về,
chẳng nhà nào bị mất đồ đạt. Trong số, có gia đình cô Ba Tuội.
Số dự thính nơi đây, ngoài những tín
đồ đã quy y với Đức Thầy từ năm Kỷ Mão 1939 còn có đủ mặt đồng bào các giới.
Hôm đó, ngoài việc khuyến nông Đức
Thầy còn khuyến tu và đề cập đến giới luật thật nhiều. Ngài giảng giải rành về
Tám Điều Răn Cấm và đọc đi đọc lại ba lượt. Mỗi lần đọc dứt Tám Điều Răn Cấm
thì Ngài kêu hỏi:
– Tất cả bổn đạo và bà con có mặt
hôm nay, nếu ai bằng lòng gìn giữ theo đây, hãy đưa tay lên.
Bấy giờ mọi người đồng đưa tay, qua
ba lần như vậy, Ngài dừng lại một phút rồi nói tiếp:
– Sau nầy Thầy sẽ vắng mặt một thời
gian, rồi Thầy trở về với nguyên xác cũ, tất cả bổn đạo hãy nhìn Thầy cho kỹ
kẻo sau nầy bị lầm kẻ giả trá.
Thưa quí vị, câu chuyện nầy chúng
tôi thuật lại theo lời của cô Ba Phạm thị Tuội ở xã Nhơn Mỹ.
PHẦN NHẬN XÉT:
Nếu xưa Cổ Đức đã bảo: “Tam thế Phật
pháp giới nghi căn bản, bản chi bất tu đạo diễn hồ tai”. Thì nay Đức Huỳnh Giáo
Chủ cũng dạy: “Điều cần nhứt là giữ giới luật hàng ngày”. Giới luật là điều căn
bản của các hạng tu hành, không luận kẻ xuất gia hay cư sĩ, thiện tín hay tăng
ni. Tuy có kẻ giữ giới nhiều, người thọ giới ít, chung qui mỗi người đều phải
giữ giới, chính đó là hàng rào để ngăn chận các điều tội lỗi.
Một nhà tu nếu không giữ giới luật
thì khó mong hết lỗi, mà tội lỗi chưa hết, thử hỏi đường đạo đi đến đâu. Cho
nên tại vị trí nói trên Đức Thầy giảng đi giảng lại Tám Điều Răn Cấm ba lần, đó
là Ngài muốn cho mỗi tín đồ nhận định chính xác để gắng công trì giới. Ngài xét
biết đối với làn sóng văn vật hiện nay, người tu rất dễ vi phạm giới luật, mà
nếu vi phạm giới luật thì công phu tu hành khó mong thành đạt, lại còn uổng phí
một kiếp tu hành khó mong gặp lại cơ hội:
Kỳ xả tội nay còn một lúc,
Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Phương chi yếu điểm của nhà tu là
cần đạt huệ, mà muốn có trí huệ trước tiên phải giữ giới, nhân giới mới sanh
định và nhân định mới sanh huệ. Tức là nhờ Giới Định Huệ tam học mới trừ được
Tham Sân Si là tam độc để chứng thành Phật quả. Trong Sấm Kinh Đức Thầy chỉ
dạy:
Nếu ai mà biết chữ tu trì,
Tâm bình tịnh được thì phát huệ.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Hoặc
Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp
Niệm Phật thì phải diệt lòng tà.
(Quyển 4 Giác Mê Tâm Kệ)
Và
Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
Phật Đạo trau giồi tâm tánh lại,
Giác thuyền chuyên chở lúc can qua.
Còn việc Đức Thầy tiên tri sau nầy
Ngài sẽ vắng mặt một thời gian rồi Thầy trở về nguyên xác cũ. Trường hợp nầy
Ngài cũng có nói với ông Ngô Thành Bá trong dịp đi viếng núi Tà Lơn:
“Ngày sau Thầy phải xa cách bổn đạo
một thời gian, trong thời gian ấy tín đồ phải chịu đau khổ, và không một ai
biết Thầy ở nơi nào.”
Từ độ ấy đến nay, qua những lần pháp
nạn, đủ chứng minh một cách rõ ràng cho lời tiên tri nói trên.
Vậy trên đường tu dầu gặp nhiều đau
khổ, ta không nên bi quan chùn bước vì đây chỉ là định luật:
Đời cùng đạo bi quan ly hiệp.
Và
Thế gian hiếm kẻ thánh tài,
Ra đời phải chịu ít ngày gian nan.
Cổ kim nghiệm biết đừng than,
Để cho Trời Phật lo toan việc nầy.
Chỉ e nhiều người thiếu đức tin và
lòng kiên nhẫn rồi chùn chân thối bước. Vậy mỗi tín đồ nên lo tròn bổn phận,
chứ đừng lo ngại Đức Thầy không trở lại và nhiệm vụ chẳng thành công như Ngài
đã thốt:
Mãn sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp,
Lo chi Ô Thước chẳng xong cầu.
Và Ngài còn hứa hẹn với các tín đồ:
Ít lâu Ta
cũng trở về,
Khuyên trong
bổn đạo chớ hề lãng xao.
Trì lòng chớ
có núng nao,
Từ đây nhơn
vật mòn hao lần lần.
Còn điểm
chót hết Đức Thầy căn dặn:
“Rồi Thầy
trở về nguyên xác cũ, tất cả bổn đạo hãy nhìn Thầy cho kỹ, kẻo sau nầy bị lầm
kẻ giả trá.”
Câu nầy Đức
Thầy cũng có nói với nhiều người. Như cô Cò ở Sài gòn và ông Nguyễn Phước Còn ở
Long Kiến. Bởi đoán biết sau nầy có ba ngàn sáu trăm mối tà đạo ra đời “Tam
thiên lục ba khắp tràn hại dân”. Thừa lúc Đức Thầy vắng mặt, bọn chúng giả xưng
là Ngài mượn xác, hoặc là bày ra mưu nầy chước nọ gạt gẫm các tín đồ nhẹ dạ
thiếu trí mê tín làm điều xằn bậy mà hư hỏng cuộc đời. “Lòng tà đạo nhân hư bất
dục”. Nên Ngài hằng khuyên:
Đừng bạ đâu
tin bướng nghe càng,
Làm ngu muội
đọa thân uổng kiếp.
Và để tăng
lòng tin mọi người, Ngài hứa hẹn một cách chắc chắn:
Can qua dân chúng chớ buồn lo,
Tích đức chờ ta chốn hẹn hò.
Tiên cảnh Phật đài xem rực rỡ,
Hoàn cầu đến đó ấm cùng no.
Cùng no bốn biển một cha thôi,
Bỏ dứt thói hư với tật tồi.
Trên có Phật Trời soi việc thế,
Dưới đầy cơm áo lão về ngôi.
Mẩu chuyện thứ 60
MUỐN DIỆT MÊ SI
Đức Thầy có nói:
Diệt mê si phải nương thuyền giác,
Muôn việc làm chính trực khôn ngoan.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Trời càng về Đông tiết càng thêm
lạnh, nhưng lòng người chẳng thấy lạnh, phải chăng vì nôn nóng việc đạo đức.
Bởi Phật Pháp rộng sâu như rừng như bể mà người học Đạo khi bước vào ngưỡng cửa
thì còn biết bao cái chưa hiểu, bao nhiêu cái nghi ngờ thắc mắc cần phải tìm
tòi nghe học.
Do đó, lúc Đức Thầy mới khai Đạo tại
Tổ Đình Hòa Hảo, hằng ngày người ta thường tới lui tấp nập, hoặc nhờ khi trị
bịnh, xin thuốc, thỉnh giấy vàng, hoặc để nghe Ngài thuyết giảng đạo lý hay
chép kinh giảng về nhà tu học. Cũng đồng một tâm trạng nói trên, ông Đặng Thành
Tựu người ở xã Kiến An, Chợ Mới An giang, khi đã quy y với Đức Thầy, ông để tâm
suy tầm đạo lý, thấy có nhiều điều tự mình không thể giải nghi, nên hôm nọ vào
cuối mùa Đông năm Kỷ Mão 1939, ông Tựu có đến Tổ Đình, đợi lúc vắng khách, ông
mới bước gần lại Đức Thầy thưa hỏi:
– Bạch Đức Thầy, trong kinh Phật có
dạy Tam Độc: Tham, sân, si. Theo trí cạn hẹp của tôi hiểu là muốn trừ tánh tham
thì tôi đừng ham muốn vật nào hết là được, cũng như muốn trừ sân thì tôi đừng
nóng giận chút nào nữa dù việc nghịch lý ấy lớn hay nhỏ. Còn cái mê si nầy tôi
không biết làm sao diệt được nó, nhờ Đức Thầy từ bi chỉ dạy cho.
Đức Thầy tươi cười bảo:
– Muốn diệt mê si tâm mình phải
giác.
Nghe vậy ông Tựu muốn hỏi thêm,
nhưng lúc nầy có các bịnh nhân đau nặng, người nhà vừa chở đến, Đức Thầy liền
sang qua chữa bịnh cho họ, nên ông không hỏi được.
Câu chuyện nầy thuật theo lời của
ông Đặng Thành Tựu.
PHẦN NHẬN XÉT:
“Muốn diệt mê si tâm mình phải giác”
Câu Đức Thầy giải đáp cho ông Đặng Thành Tựu, xét ra nó bao hàm một ý nghĩa vừa
sâu, vừa rộng. Bởi mê si là chúng sanh là nguồn gốc sanh tử, còn giác là Phật
quả, mục đích giải thoát. Song con đường từ chúng sanh đi đến Phật quả chẳng
phải dễ dàng được, vì cái tâm mê mờ tức là vô minh, không nhận rõ chơn lý đã
sẵn có của mỗi người từ vô thỉ.
Ác thứ mười đoạn chót mê si,
Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
Màn vô minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Từ đó chúng sanh cứ dệt thêm nhiều
lớp mê, tạo thêm nhiều nghiệp tội, rồi sanh tử, tử sanh mãi trong sáu cõi phàm
chưa bao giờ dừng lại. Giờ đây muốn chận đứng sự luân hồi thống khổ ấy nhà tu
cần diệt ngay cái gốc mê si, mà muốn trừ được nó hãy bỏ mê về giác. Tức là phải
có lòng tự giác, cho nên Đức Thầy mới dạy ông Tựu: “Muốn diệt mê si tâm mình
phải giác”. Vậy làm sao cho ta có lòng tự giác đây? Y cứ vào Kinh Giảng của Đức
Phật và Đức Thầy, có thể phân làm hai phương cách để thay đổi lòng mê si trở
thành tâm giác ngộ.
Thứ nhứt là với bậc hạ căn thiểu
trí, trước nhứt hành giả phải qui thuận theo tinh thần đạo đức và phải nương
thuyền giác, tức là phải nương về Giáo lý, Kệ Kinh, Sấm giảng của Đức Thầy, bởi
Giáo lý là ánh sáng của ngọn đèn chơn lý, ví như ngón tay để chỉ mặt trăng, như
chiếc thuyền để đưa người đến bên kia bờ giác.
Nhờ có tu học giáo lý và kiên trì
giới luật, thân tâm hành giả lần lần thanh tịnh, huệ nhựt hiện bày, thấy biết
mọi việc, mọi cảnh một cách sáng tỏ đúng với chơn lý. Ấy là tự giác, từ đó sẽ
tiến lần đến chỗ hoàn toàn giác ngộ, là Phật quả.
Thứ hai với bậc thượng căn, thượng
trí, tức là hạng tiến hóa đã tu học giáo lý từ nhiều kiếp trước, hành giả tự
mình tỉnh ngộ xét biết những hành động ngôn ngữ tư tưởng tà quấy sai lầm, mê mờ
ô nhiễm mà diệt trừ tức khắc gọi là Giác Sác và khi trừ sạch các điều ấy gọi là
Giác Liễu. Được trọn vẹn hai phần đó gọi là Tự Giác, song có tự giác không chưa
đủ. Vì đây mới được vào hàng Thinh Văn mà thôi, nên cần tiến đến Giác Tha,
nghĩa là phải làm cho nhiều người khác được Tỉnh Ngộ, thấy biết không lầm như
mình để bước lên hàng Duyên Giác Bồ Tát rồi cứ thế mà thi hành mãi cho đến khi
Giác Hạnh Viên Mãn, tức là hạnh nguyện tròn đầy. Tới đây hành giả đạt đến mục
đích tối thượng nhứt thừa cũng gọi là Phật quả hay Như lai. Đại khái chỉ có tám
chữ: “Muốn diệt mê si tâm mình phải giác”. Thật nó diệu mầu vô hạng dầu có bao
nhiêu văn từ lý lẽ cũng không sao luận bàn cho hết được.
Đăng nhận xét