Mẩu chuyện thứ 61
Y THEO TÔN CHỈ
Đạo là vốn thiệt cái đàng.
Ta ra sức dọn cho toàn chúng sanh.
Đó là lời của Đức Thầy.
Vào ngày 6 tháng Giêng năm Canh Thìn
1940, Đức Thầy có dắt ông Ngô Thành Bá, tức là ông Biện Đài đi viếng núi Tà
Lơn, một ngọn núi vừa cao vừa rộng nằm trên địa phận Cam Bốt, tỉnh Cần Giọt.
Trên đường về, thầy trò không trở
lại lối cũ, Đức Thầy lại dắt ông Bá đi đường rừng, tức là đến những nơi ít có
một ai đi tới được. Do đó, đường sá rất hiểm trở thật khó đi, có chỗ phải khòm
lưng, có nơi phải bò mới qua được. Lắm lúc phải theo đường của voi đi. Khi vượt
lên đỉnh, lúc thì đổ xuống triền. Hết núi nầy, sang núi nọ. Một hôm Đức Thầy
dẫn ông Bá lên ngọn núi cao hơn hết, trên chót đảnh mặt bằng phẳng ít cây mọc.
Đây là một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, có suối nước chảy chầm chậm và trong như
mắt mèo, dưới đáy có cát trắng, mực nước sâu chừng một thước. Đức Thầy đi trước
lội ngang qua, ông Bá đi sau, thấy có cây ngả nằm vắt ngang qua suối, nên ông đi
trên thân cây mà qua. Đức Thầy nhìn lại thấy liền kêu ông Bá mà rầy:
– Sao không lội nước theo Thầy!
Ông Bá thưa.
– Bạch Thầy cây ngả ngang đi sướng
quá, lội làm chi cho ướt mình.
Đức Thầy nghiêm nghị bảo:
– Thầy đi đàng nào, trò đi đàng nấy,
cấm trò từ đây không được đi như vậy nữa!
Với lời răn dạy trên đây, thời gian
sau ông Bá mới hội ý được là Đức Thầy muốn dạy ông một cách gián tiếp. Hễ quy y
là phải làm y, nghĩa là nếu Thầy phải chịu gian nan cực khổ để giải thoát giống
nòi và nhân loại thì đệ tử cũng phải chịu cực khổ gian lao vì mục đích ấy, chớ
không được tìm nơi sung sướng an nhàn mà học đạo.
Đây là theo lời thuật của ông Ngô
Thành Bá.
PHẦN NHẬN XÉT:
Chúng ta thấy thời xưa lúc Đức Thích
Ca chưa thành Đạo, Ngài đã chuyển kiếp từ vô lượng lần và tu học vô lượng pháp
môn cho đến khi chứng quả Như lai.
Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn toàn,
Và lần bước phô trương độ chúng.
(Quyển 5 Khuyến Thiện.)
Đức Phật nêu lên mục đích giải thoát
và khai sáng một lối đi, tôn chỉ với nhiều phương tiện cho Phật tử y cứ vào đó
mà tiến hành, hầu được kết quả như Ngài. Thời nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế,
trước khi khai hóa nhân sinh, Ngài cũng chuyển kiếp qua nhiều nước trong thế
giới, sau khi “… thu thập những điều đạo học, kinh nghiệm huyền thâm …” và tu
hành giác ngộ, Ngài mới vưng lịnh Đức Phật lâm phàm khai sáng Phật Giáo Hòa
Hảo.
Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
Khắp hạ giái truyền khai Đạo Pháp.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Ngài cũng:
Tùy phong hóa dân sinh phù hạp.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Mà khai dọn con đường, tức tôn chỉ
Học Phật Tu Nhân để đưa nhân loại đến bờ giải thoát. Trong Giáo Lý Phật Giáo
Hòa Hảo Đức Thầy cho áp dụng nhiều phương tiện, ví như người đi đường có các
loại xe và người đi sông có các loại thuyền. Nhưng, dùng phương tiện nào cũng
phải tiến hành theo một lối đi đúng mới đạt mục đích, nếu đi trúng con đường
thì sống, bước trật tất chết. Điều nầy Ngài đã ghi rõ trong tôn chỉ hành Đạo.
Song vì Ngài biết sau nầy sẽ có tín đồ hành đạo sai lệch tôn chỉ, nên không
ngớt khuyên nhắc, mà câu chuyện Ngài dạy ông Bá trên đây là một.
Điểm thứ nhứt: Thấy rằng lúc viếng
núi Tà Lơn, Đức Thầy không hướng dẫn ông Bá trở về đường cũ, mà lại dắt ông đi
trên con đường mới đầy gai chông hiểm trở. Đó là để ông Bà hiểu ý rằng, từ đây
ông không còn đi xuôi theo con đường luân hồi như bao chúng sanh khác, mà phải
đi theo con đường mới tức là con đường giải thoát của Phật Thánh đã và đang
tiến hành. Song bước hành đạo còn phải trải qua nhiều khó khăn thử thách.
“Đường gai gốc thiên sơn vạn ải”, đòi hỏi hành giả cần phải có đủ đức tin và bền
lòng kiên chí mới đạt thành ý nguyện:
Tín nữ thiện nam gìn mối Đạo,
Dầu cho lăn lóc rán kiên trinh.
Điểm thừ nhì: Khi Đức Thầy dắt ông
Bá đến mé suối, chẳng phải Ngài không thấy cây ngã vắt ngang qua suối và Ngài
cũng đoán biết ông Bá đi sau sẽ đi trên thân cây đó mà qua. Ngài muốn mượn cảnh
ấy để dạy tín đồ một bài học làm cho ông Bá phải ghi nhớ mãi mãi, nên Ngài lội
nước qua trước, chờ khi ông Bá đi trên thân cây, Ngài mới quay lại rầy ông:
“Thầy đi đàng nào trò phải đi đàng
nấy, cấm trò từ đây không được đi như vậy nữa.”
Đây là Ngài dẫn sự để bày lý, người
sau như chúng ta càng nghĩ càng thắm thía, một nhà tu như Đức Thầy đã đạt đến
chỗ toàn giác toàn minh, trở lại hướng dẫn tín đồ:
Đạo là vốn thiệt cái đàng.
Ta ra sức dọn cho toàn chúng sanh.
(Sám Giảng, Quyển 3)
Nếu như chúng sanh chẳng đi đúng
theo con đường của Ngài đã vạch thì trông gì gặp lại Ngài, đừng nói chi đến kết
quả:
Ai mà ta dạy chẳng gìn,
Thì sau đừng trách mất tình yêu
thương.
(Sám Giảng Quyển 3)
Con đường Ngài đã vạch ấy chính là
tôn chỉ học Phật tu Nhân mà mỗi tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều phải thiệt thi
trọn vẹn cả hai mặt.
Một là mặt
tu nhân như Ngài đã dạy:
Hồng trần
biển khổ thấy rồi,
Rán tu nhân
đạo cho tròn mới hay.
Và
Thân hành
đạo đắng cay phải chịu,
Phận làm
người phải liệu cho xong.
Cần chi gạn
hỏi viễn vong,
Làm người
chưa vẹn khó hòng thảnh thơi.
Bởi có tu
Nhân mới trả xong nợ thế, xử trọn nghĩa ân, kết quả vô lượng phước đức và có
học Phật mới có dứt mê bày giác, trí huệ phát khai và giải thoát luân hồi sanh
tử.
Điểm thứ hai:
Học Phật tức là tu Phật thì Đức Thầy dạy toàn thể tín đồ hằng nguyện:
Nay con
nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, qui y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật
Đạo.
Hay là:
Thờ Phật Đạo
tỉnh cơn ác mộng,
Thoát mê đồ
thường phóng quang minh.
(Quyển 5 Khuyến
Thiện)
Để tiến đến
Niết Bàn là đường tịch tịnh vô sanh.
Hay là:
Về Cực Lạc
thảnh thơi an dưỡng,
Ấy là ngày
ban thưởng công tu.
(Cho Ông Cò
Tàu Hảo)
Song muốn
đạt đến địa vị ấy, hành giả phải lập thân cõi trần, tức là phải tu thân, như
Đức Thầy hằng dạy:
Bạch trinh
giữ lấy nghĩa nhân,
Muốn về cõi
Phật lập thân cõi trần.
(Thu Đã
Cuối)
Hoặc là:
Tu đền nợ
thế cho rồi,
Thì sau mới
được đứng ngồi tòa sen.
(Quyển 5
Khuyến Thiện)
Tóm lại mỗi
tín đồ Phật Giáo Hào Hảo có tiến hành theo tôn chỉ học Phật tu nhân của Đức
Thầy đã khai dọn, tức là hai phương diện Đạo Nhân và Đạo Phật đã thực hành một
lượt thì sau nầy mới mong được kiến diện Ngài và chứng thành đạo quả như Ngài
thường căn dặn:
Chúng sanh
rán nhớ thì gần cùng ta.
Và
Giảng kinh
đọc tụng chiều mai,
Làm theo lời
chỉ ngày rày gặp Ta.
Ngược lại,
nếu ai không tiến hành đúng theo tôn chỉ của Đức Thầy đã vạch và con đường của
Ngài đã đi “Thầy đi đàng nào trò phải đi đàng nấy” thì chẳng những luốn công tu
hành trong một kiếp mà còn lạc lối theo ngoại đạo, mong gì gặp mặt Tổ Thầy mà
được đắc quả.
Mẩu chuyện thứ 62
TU CÁCH NÀO MỚI CHÁNH
Mẩu chuyện
dưới đây là do anh út Trát ở Mỹ Hội Đông kể cho chúng tôi nghe:
Chuyện của
anh Huỳnh văn Chấn là một giáo chức ở quận Tân Châu, thời Pháp thuộc. Nguyên
khởi anh Chấn theo chủ nghĩa Cộng sản. Trên con đường hoạt động chống Pháp anh
phải chịu nhiều gian khổ, rày đây, mai đó và anh vào tù ra khám không biết bao
nhiêu lần, nên anh chán nãn, anh muốn tìm sư học Đạo. Một hôm anh đi vùng Hà
Tiên, Rạch Giá và gặp được một nhà Sư với đạo hiệu Pha Kia. Ông Sư nói rằng:
“Nếu ai chịu
theo tôi, tôi sẽ dạy cho phương pháp nhập thất, niệm Phật trong vòng một trăm
ngày, tôi hộ cho sẽ được thấy Phật.” Nghe nói tu mau thành, anh Chấn bằng lòng
theo ông Sư.
Thế là anh
phải bỏ tiền ra để anh bạn cất cho anh một cái cốc và nấu cơm hộ thất cho anh,
cùng lúc phải nuôi ông Sư ở trong nhà để dạy anh cách thức niệm Phật. Bắt đầu
anh nhập thất niệm Phật cũng gần đủ một trăm ngày, vì sự lo lắng cho nên đang
niệm Phật mà lòng bị chao động, anh nghĩ rằng ông thầy dặn mình niệm một trăm
ngày sẽ thấy Phật, nhưng mình niệm tới đây cũng gần rồi mà không thấy gì hết.
Bỗng nhiên anh thấy một hình Phật hiện ra trước mắt, rồi phút chốc mất đi, bèn
liền hăng hái lên, anh nghĩ chắc là mình niệm đúng một trăm ngày sẽ thấy. Đúng
một trăm ngày anh Chấn ra thất.
Đã không
thấy Phật mà còn được anh bạn cho hay là ông Sư từ giã bỏ đi ba hôm trước. Lúc
bấy giờ thì anh Chấn mới hiểu ngay, ông sư lợi dụng mình nuôi ông ta một trăm
ngày, chớ không phải dạy cách thức tu để thấy Phật. Anh thua buồn về Tân Châu
làm đơn xin dạy học. Đến năm 1939, Đức Thầy khai sáng nền Đạo tại Hòa Hảo. Anh
Chấn đang dạy học, nghe những người đi Hòa Hảo về, họ nói Đức Thầy là một vị
Phật sống ra đời cứu độ nhân sinh. Anh Chấn lại có tâm muốn tầm đạo, nghe thì
anh muốn đi, nhưng lúc đó mắc bận dạy học ngày hai buổi, bận việc quá anh không
đi được. Mãi đến mùa Hè năm 1940, khi Đức Thầy bị người Pháp lưu đày xuống Rạch
Xà No ở tại nhà ông Hương Bộ Thạnh, thì anh Chấn mới sắp xếp việc để đến viếng
Ngài..
Trong cuộc
đi nầy anh Chấn mặc Âu phục để tỏ ra mình là người trí thức. Vào khoảng hơn 11
giờ trưa tại nhà ông Bộ Thạnh, ba gian cửa đều mở trống, Đức Thầy bảo người nhà
đều ở hết phía sau, chỉ một mình Đức Thầy Đức Thầy ngồi ở bàn và đang cúi xuống
viết. Anh Chấn nhìn thấy tướng mạo thì độ chừng là Đức Thầy, nhưng đứng chờ một
hồi lâu không thấy Đức Thầy ngước lên. Bấy giờ anh mới để giày nón, bước lên
thềm gạch đi thẳng vào và chân ấn mạnh xuống, ý làm cho Đức Thầy hay có khách
đến, nhưng Ngài vẫn điềm nhiên, không ngó lên. Anh liền quay ra sân, lòng thầm
trách:
– Người ta
nói ông nầy là Phật, nhưng tại sao ông có vẻ khi người.
Qua một giây
suy nghĩ, anh đã bước xuống nhà khách, anh tự bắt lỗi mình, hay là tại mình vô
phép nên người ta không tiếp chớ gì? Nghĩ thế, anh Chấn liền lột nón, gở kiếng
và cởi giày để lại rồi bước thật nhẹ trở vào. Bấy giờ Đức Thầy mới đứng dậy
nghiêm trang chào khách và hỏi:
– Ông biết
tôi là ai không?
Anh Chấn
chưa biết phải trả lời ra sao, trong người anh bắt run lên như bị bịnh rét.
Thấy anh
Chấn không trả lời được bấy giờ Đức Thầy mới nói tiếp, ngón tay Ngài vừa chỉ
vừa nói:
– Chúa trùm
Cộng sản là tôi đây!
Nói xong
Ngài ngồi xuống ghế, còn anh Chấn đứng, cả mình và tay chân đều run hết, anh cố
kềm và suy nghĩ:
“Mình đã
từng tiếp xúc với hàng trí thức, lên quan, xuống huyện, với các nhà Sư, nhưng
chưa bao giờ mình biết sợ môt ai, mà hôm nay sao mình chỉ gặp ông nầy mới nói
với mình có mấy tiếng mà mình khiếp sợ như thế nầy. Thật là điều kỳ lạ quá,
chắc ông nầy không phải là bực tầm thường”. Lòng anh Chấn nghĩ đến đó, tự nhiên
trong người bớt run, anh mới chấp tay lại:
– Thưa ông
Tư! Trước kia tôi có gặp một nhà Sư, sư dạy cho cách vào thất niệm Phật trong
vòng một trăm ngày, sư sẽ hộ cho được thấy Phật. Chẳng biết tu như thế là chánh
hay không chánh? Nhờ ông Tư chỉ dạy cho biết.
Đức Thầy vui
vẻ đáp:
– Đó là Ma
Ba Tuần nó hiện ra cảnh ấy, chớ Phật đâu đó mà chánh.
Anh Chấn
nghe Đức Thầy nói thế, anh liền hỏi thêm:
– Vậy phải
tu làm sao mới chánh?
Bấy giờ Đức
Thầy lấy bàn tay thoa vào ngực ba vòng và nói:
– Tu làm sao
hàng phục được lòng tà quấy của mình mới chánh.
Anh Chấn
nghe được câu giải đáp của Đức Thầy, anh nhận thức được chân lý tu hành cho nên
anh hết sức vui mừng khâm phục, bèn quì xuống nhờ Đức Thầy cho qui y thọ giáo.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Một đấng cứu
thế bao giờ cũng thấu rõ tâm trạng của chúng sanh, để tùy cơ cảm hóa, còn người
đời có tánh tự cao mà cũng dễ nghe tức là mê tín.
Anh Chấn
cũng là một con người thì bảo làm sao chẳng có chứng tật ấy.
Câu chuyện
kể trên giúp chúng ta những bài học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhứt: Là
anh Chấn muốn thử Đức Thầy, nhưng Ngài biết trước nên sắp sẵn cảnh trí, chẳng
cần nói một lời cũng đủ dẹp được lòng tự đắc và sự vô lễ của anh. Lại nữa, khi
đối diện với Đức Thầy, anh Chấn chạm phải tư cách đứng đắn và lời hỏi của Ngài,
làm cho anh khiếp phục và hướng về lẽ phải, cộng thêm câu nói:
“Tôi là chúa
trùm Cộng sản đây”. Anh Chấn lại càng khâm phục hơn nữa, vì Ngài đã thấu suốt
tâm trạng của anh. Ấy là ý Ngài muốn cho anh biết: Cái tâm bao trùm cả vũ trụ
vạn hữu không có một việc nào, dù nhỏ, dù lớn, hữu hình hay vô hình hoặc một
chủ thuyết hay một tư tưởng nào mà Ngài chẳng thông đạt, chính Ngài là một nhà
đại cách mạng Phật Giáo: “Nối theo chí Thích Ca ngày trước”. Nay Ngài có sứ
mạng vừa giác tỉnh những người hữu căn lên bờ giải thoát vừa đem lại sự tự do
bình đẳng hạnh phúc cho cả nhân loài bằng chủ nghĩa Đại Đồng của nhà Phật:
Đem nguồn
sống mới cho nhơn loại,
Để tiến tiến
lên cõi đại đồng.
(Tết Ở Chiến
Khu)
Điểm thứ
hai: Vốn sẵn óc dễ tin nên khi gặp nhà sư khoe tài, anh Chấn vội vã tin theo
không kịp suy nghĩ khiến cho đường tu của anh bị lỡ dở, điều nầy Đức Thầy đã
cảnh tỉnh: “Trước khi thờ học đạo nào hay theo ông thầy nào ta phải suy gẫm
phán đoán kỹ càng, chừng hiểu biết rõ ràng ta sẽ hành theo đạo ấy, thầy ấy,
chẳng được như vậy dầu mình theo đạo rất chánh đáng, ông thầy rất thông minh,
chẳng ích chi cho mình cả.”
Và Ngài luôn
nhắc nhở việc ngừa tránh các tà thuyết:
Các Đạo tà
mưu khéo âm thầm,
Dân rán
tránh kẻo lâm mà khổ.
Chúng nó
xuống khuyên răn nhiều chỗ,
Dùng phép
mầu lòe mắt chúng sanh.
Ai ham linh theo nó tập tành,
Sa cạm bẫy khó mong sống sót.
(Giác Mê Tâm Kệ Quyển tư)
Hoặc là:
Ra đi dặn lại ít lời,
Khuyên trong bổn đạo vậy thời rán
nghe.
Dầu ai tài phép bày khoe,
Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
Lựa cho phải cột phải kèo,
Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
Ngọc kia ẩn dạng khó tầm.
Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ
hình.
Qua điểm thứ ba: Lòng ô nhiễm trần
mê của mỗi chúng sanh đã huân tập từ lũy kiếp, nay hành giả muốn trở về thấy
Phật, cần phải nhứt tâm niệm Phật và tiêu trừ các chướng nghiệp ấy:
Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp.
Trái lại anh Chấn chỉ vào thất niệm
Phật một trăm ngày, thêm dụng tâm của anh là muốn mau thành quả, tức là vọng
đắc, thì làm sao tâm hồn được giao cảm với chư Phật, hơn nữa Phật trong tâm
không tìm, anh Chấn lại nghe lời tà sư mong tìm Phật bên ngoài, thảo nào chẳng
bị Ma Ba Tuần ám ảnh, lường gạt. Điều nầy, không riêng anh Chấn mà số người tu
hiện nay bị lầm không ít. Thế nên sau câu hỏi của anh: Vậy phải tu làm sao mới
chánh, thì Đức Thầy xoa tay vào ngực mà trả lời:
“Tu làm sao hàng phục được lòng tà
quấy của mình mới chánh”. Bởi Phật và chúng sanh chỉ có một tâm mà thôi, hễ tâm
còn ô nhiễm tà quấy là chúng sanh, bằng hết ô nhiễm tà quấy là Phật, cũng như
sóng và nước chỉ có một, hễ có gió là nổi sóng, còn hết gió thì sóng lặng, chỉ
còn lại một chất nước trong, tức là phản bổn huờn nguyên. Kinh xưa thường bảo:
“Phiền não là Bồ Đề. Tâm tức Phật” cũng không ngoài ý trên. Đức Thầy nay không
ngớt khuyên nhắc:
Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.
Và:
Hãy bền lòng tìm Phật trong tâm.
Hoặc giả:
Nhàn thanh tầm kiếm kiếm nơi tâm,
Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm.
Còn muốn niệm Phật có kết quả thì
Ngài cũng dạy phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh và
cứ niệm như thế cho đến khi nhứt tâm bất loạn, tức tâm được thanh tịnh và Phật
tánh hiện bày, tự tánh Di Đà vi tâm tịnh độ, bởi tâm tịnh thì quốc độ tịnh.
Ngược lại, nếu ai niệm Phật mà lòng mãi ước mong,tức là vọng đắc, cho thấy Phật
bên ngoài, tất là bị lầm lạc, không bao giờ thành công.
Mẩu chuyện thứ 63
HIỂU LẦM PHẬT DẪN ĐỘ.
Câu chuyện nầy do anh út Trát ở Mỹ
Hội Đông kể lại cho chúng tôi nghe:
Một buổi sáng sớm mùa Đông năm Kỷ
Mão 1939, sương lạnh còn phủ trùm đường đi, cây cỏ thì ông Út Trát từ Mỹ Hội
Đông đã đến xã Hòa Hảo, với ý định thăm Đức Thầy và chờ nghe thuyết pháp. Đến
nơi vào lúc 7 giờ, ông thấy người ở các xã lân cận cũng lần lượt đi tới khá
đông, kẻ thì nhờ trị bịnh, người thì chờ nghe giảng Đạo. Lúc đó Đức Thầy chữa
trị cho các bịnh nhân vừa xong thì Ngài thuyết giảng Đạo Pháp trên một tiếng
đồng hồ. Ngài nói không dừng. Bấy giờ có một ông lão trạc độ 70 tuổi ngồi cách
Đức Thầy không xa, đang tán thán việc Đức Thầy thuyết pháp và trị bịnh. Đức
Thầy liền ngó ngay ông lão nói:
– Bấy giờ đâu có mấy ông, sau nầy sẽ
có nhiều người xuất hiện, họ dùng tà thuyết còn linh giỏi hơn tôi nữa ông à!
Ông lão liền đứng lên chấp tay lại:
– Thưa cậu Tư, cậu nói như vậy, rồi
nữa sau chúng tôi không biết, bị lầm người ta rồi làm sao?
Đức Thầy liền đáp:
– Nếu họ giả ra hình dáng giống Thầy
quí ông không biết, tưởng thiệt mà lầm thì Phật và Thầy có thể cứu độ được. Còn
như thấy ai không giống Phật, Thầy và không có y theo lời dạy tôn chỉ của Thầy
thì các ông đừng tin, bằng nếu có số người đã biết ông thầy ấy không giống,
không chánh mà vẫn tín ngưỡng thì Phật và Thầy không thể cứu độ được.
PHẦN NHẬN XÉT:
Cái không biết và biết của người sơ
tâm tầm đạo, có cao thấp, sâu cạn khác nhau, chỉ có cái biết của các đấng hoàn
toàn giác ngộ mới thông suốt đến chỗ vô cùng tận như nhau. Cho nên câu không
biết tưởng thiệt mà lầm, ở đây chỉ cho hạng người có tâm mà thiếu trí, nghĩa là
họ rất có lòng nhiệt thành tầm đạo, nhưng thiếu sự suy xét chu đáo nên dễ bị
lầm lạc theo tà sư. Tuy nhiên, Đức Phật và Đức Thầy có thể cứu độ được là vì họ
có sẵn hột giống Đạo, tức là có sẵn căn lành, nên khi nguồn mưa Pháp của Phật
Thầy ban đến thì họ lập tức quay về với ánh sáng chân lý.
Cũng như ông Mục Kiền Liên, Xá Lợi
Phất, trước kia các ông cũng theo ngoại đạo, ông Vô Não theo tà giáo, nhưng khi
được gặp Đức Phật giác lĩnh thì các ông trở về với chánh Đạo. Và thời nay có
trường hợp của anh Huỳnh văn Chấn trong câu chuyện vừa kể qua. Còn câu bằng ai
biết họ không chánh mà vẫn tin thì Phật và Thầy không thể nào cứu độ được, là
chỉ cho hạng có trí mà vô tâm. Bởi cái biết của số người nầy còn trong vòng thế
trí chớ chưa phải là trí huệ, nên dù họ có hiểu được ông thầy và mối đạo không
chánh song họ vẫn tin theo để a tùng lợi dụng tiền bạc hoặc nhờ ông ấy ban cho
bùa phép hay tước quyền chi đó, vì thế Phật, Thầy không thể nào cứu độ cho họ
được.
Sở dĩ Đức Thầy nói với ông lão câu :
“Sẽ có nhiều người linh giỏi hơn tôi nữa ông à !” là vì Ngài đã đoán biết lúc
Ngài xa vắng sẽ có số người bị lầm theo tà đạo.
Để tránh tai hại nói trên, Đức Thầy
nhắc nhở: “Người có tâm nếu không tập suy gẫm cho mở trí, thì hay dễ bị lường
gạt, người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá, nên trí và tâm, người học Đạo cần
nên tìm cách cho nó phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí
mà phán xét mọi việc trước khi ta đưa cho tâm làm chủ trì. Được thế chắc chắn
ta học đạo mau thành công đắc quả.”
Mẩu chuyện thứ 64
CÂU CHUYỆN THIÊN CƠ.
Câu chuyện nầy do ông Hương chủ Lâm
Thơ Cưu kể. Ông ở làng Mỹ Hội Đông, quận Chợ Mới, tỉnh An giang, gia đình khá
giả, có danh tiếng nhứt trong vùng. Sau khi thọ giáo với Đức Thầy, ông Chủ phế
hết quyền lợi, thường lui tới Tổ Đình để nghe Pháp.
Khoảng thời gian Đức Thầy bị người
Pháp dời đi từ Châu Đốc đến Sa Đéc, Cần Thơ, nhà thương Chợ Quán, rồi Bạc Liêu,
Saigòn, ông Chủ Cưu đều theo sát bên Đức Thầy. Đến đầu mùa xuân năm Ất Dậu
1945, người Pháp theo dõi ruồng bắt những tín đồ có trách nhiệm trong Đạo ở các
địa phương, cho nên các vị ấy cũng như ông Chủ Cưu đều lên ở chung với Đức Thầy
tại văn phòng Sai gòn.
Sáng hôm nọ mọi người đều ở từng
dưới chỉ một mình Đức Thầy và ông Chủ Cưu ở trên lầu. Trong câu chuyện vui vẻ,
ông Chủ mới nói:
– Rồi đây tôi sẽ kiện Đức Thầy cho
mà coi.
Đức Thầy liền cười và hỏi:
– Tại sao ông Chủ kiện tôi?
Ông Chủ nói:
– Tôi vì nghe lời Thầy mà gia đình
và sự nghiệp đều bỏ hết, tới chức Cai Tổng mới đây tôi cũng bỏ luôn, không ra
tranh cử.
Đức Thầy liền nói:
– Ông Chủ kiện tôi tới Decoux hay De
Latre gì đây và kiện bởi nghe lời lý do gì mới được chớ!
Ông Chủ nói:
– Tôi kiện Thầy lên tới Đức Ngọc
Hoàng vì Thầy nói: “Đến Thân Dậu Thánh Thần náo động, Thảm cho trần nhà trống
ruộng hoang” mà tới bây giờ chưa có chuyện gì xảy ra hết.
Nói tới đây, bỗng có ông Hương Hào
Phỉ dưới lầu đi lên. Đức Thầy nhìn sang ông Phỉ vừa cười vừa nói:
– Hương Hào nghĩ coi, tôi mở Đạo để
khuyên người ta tu hành, mà có người đòi kiện tôi đây nè !
Ông Hương Hào mới lanh trí thưa:
– Tôi nghe Thầy nói: “Tu không tu
cũng không mời thỉnh” chớ đâu có rủ ren hay nài ép ai mà người ta đòi kiện. Vậy
mà ai đòi kiện Đức Thầy vậy chớ?
Đức Thầy nhìn qua ông Chủ vừa nói:
– Thì ông Chủ đây chớ ai !
Đoạn Ngài thuật lại câu chuyện nãy
giờ cho ông Phỉ nghe, rồi Ngài nói qua chuyện khác.
Ít hôm sau công việc cũng bình
thường, bỗng có tiếng còi báo động khắp độ thành, mọi người đều xuống hầm núp,
Đức Thầy cũng xuống theo. Ai nấy đều ngạc nhiên, tự hỏi mấy lần trước đây còi
báo động như thế nào, Đức Thầy cũng không xuống, nhưng hôm nay tại sao Đức Thầy
lại xuống theo với mình. Qua mấy phút im lặng, bỗng một tiếng súng đại bác nổ
thật lớn, rồi cứ liên tiếp nổ rền rĩ khắp nơi, mỗi lần tiếng súng nổ vừa dứt,
Đức Thầy kêu ông Chủ hỏi:
– Có không ông Chủ !
Đức Thầy hỏi luôn ba lần như vậy.
Lúc ấy ông Chủ vừa run sợ, vừa tủi thẹn cho lời nói đòi kiện Đức Thầy của mình
hôm trước thật quá thất lễ. Ông liền van xin Đức Thầy với giọng nói run run:
– Thầy ôi! Bao nhiêu cũng đủ rồi
Thầy.
Câu chuyện nầy thuật theo lời của
ông Hương Hào Phỉ.
PHẦN NHẬN XÉT:
Nghe câu chuyện vừa qua, chúng ta
thấy có những điểm cần lưu ý:
Điểm thứ nhứt: Vì ỷ lại vào bà con,
nên trong lúc trò chuyện với Đức Thầy, ông Chủ thốt ra những lời hình như thiếu
e dè và kính nể.
Điểm thứ hai: Vì quá chú trọng về
thời cuộc, ông Chủ chưa trọn niềm tin nơi Đức Thầy mới hoài nghi, khiến lòng
ông phân vân do dự. Nhớ mình đã bỏ nhiều cơ hội tốt cho gia đình và sự nghiệp,
nên ông mới có những lời nghe như thống trách và tiếc uổng. Đức Thầy rất biết
rõ tâm niệm của tín đồ, song vì thiên cơ bất khả lậu, nên Ngài chỉ hé mở đôi
chút cho mọi người tự tìm hiểu. Do đó, trước lời thống trách của ông Chủ, Ngài
chỉ nói nửa đùa nửa thật vậy thôi.
Điểm thứ ba: Bởi biết trước mọi việc
sắp xảy ra, nên khi còi báo động, Đức Thầy theo mọi người xuống hầm núp, mà từ
trước tới giờ Ngài chưa bao giờ xuống.
Ấy là Ngài biết đã đến lúc cần giác
tỉnh ông chủ Cưu. Riêng về ông Chủ, khi nghe tiếng súng nổ rang rền và liên
tiếp, khiến ông khiếp sợ. Nhưng lúc nghe Đức Thầy hỏi: “Có không ông Chủ?” thì
ông rất ăn năn cho lời nói và ý nghĩ nghi ngờ vừa qua của mình.
Mẩu chuyện thứ 65
ĐỨC LÀ ĐẠO CẢ
Chuyện nầy nhắc lại chuyện của ông Cai
Tổng Nguyễn Trung Chánh ở xã Bình Đức Xuân, Cù Lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh
Long Xuyên (An Giang). Ông Chánh là một nhà Nho học và giàu sang nhất trong
vùng. Tuy theo Nho giáo chớ ông rất sùng kính Đạo Phật. Từ lâu ông cai tổng
Chánh cũng đã nghe tiếng Đức Huỳnh Giáo Chủ khai Đạo độ đời tại xã Hòa Hảo,
lòng ông rất ngưỡng mộ, song chưa có dịp nào lên diện kiến Ngài.
Hôm nay khoảng tháng 6 năm Ất Dậu
1945, được tin Đức Thầy đi Khuyến Nông sắp về đến Long Xuyên, nên ông Chánh
mừng rỡ quá, liền chuẩn bị viết sẵn một bài thơ tứ tuyệt, đem sửa đi sửa lại
nhiều lần, rồi đến Long Xuyên chờ đón trước. Giờ may mắn đã đến, ông Chánh được
nghe suốt lời thuyết giảng Đạo lý của Ngài, lòng không ngớt thán phục.
Ông theo Đức Thầy về đến chỗ nghỉ,
song vì Ngài giải quyết công tác giáo sự, nên phải chờ đợi đến lúc Đức Thầy
dùng cơm, ông Chánh mới được đưa bài thi ra trình hỏi Ngài. Mặc dù đang dùng
bữa, Đức Thầy cũng vui vẻ tiếp lấy và đưa lên xem. Xem xong Ngài lập tức đáp
họa bài thơ ấy, bằng cách ứng khẩu ngâm lên cho một tín đồ chép lại, rồi Ngài
tiếp tục dùng bữa như thường. Đây là bài thi của ông Cai Tổng Chánh:
“Giữ Đạo từ lâu kín nhẹm mầu,
Để lòng tầm Đạo biết nơi đâu.
Ngửa mong Bác Ái Từ Bi hóa,
Rộng lượng ơn Thầy chỉ Đạo sâu.”
Dưới đây là bài thi đáp họa của Đức Thầy:
Kín nhẹm lòng nhơn ấy mới mầu,
Đức là Đạo cả chớ ở đâu.
Duyên lành sẵn có ơn trên hóa,
Bồi đấp nền nhơn đức lại sâu.
Đây là theo lời của Ban Tri Sự tỉnh
Long Xuyên thuật lại.
PHẦN NHẬN XÉT:
Sẵn dịp chúng ta cũng nên tìm hiểu ý
nghĩa qua hai bài thi, bài hỏi của ông Chánh và bài đáp của Đức Thầy.
Đây là bài hỏi của ông Chánh, câu
thứ nhứt: “Giữ đạo từ lâu kín nhẹm mầu”. Câu nầy ý ông Chánh nói rằng: Nhận
thấy lòng ông đã sùng ngưỡng Đạo Phật đã từ lâu, nhưng chỉ gìn giữ và dấu nhẹm
trong tâm chớ chưa bày tỏ cùng ai.
Đức Thầy đáp lại câu đó. “Kín nhẹm
lòng nhơn ấy mới mầu”. Đức Thầy cho ông Chánh biết bước đầu của người tầm đạo
là phải khởi lòng nhơn đối với vạn loại chúng sanh, lòng nhơn ấy cần xuất phát
từ tâm chơn thật không hề ẩn ý mong cầu tiếng khen hay phước báu.
Qua câu hai ông Chánh nói: “Để lòng
tầm Đạo biết nơi đâu”. Có nghĩa là: Tuy ông Chánh đã dốc tâm suy tìm Đạo lý,
nhưng chưa thấu đạt đâu là yếu lý của Đạo.
Đức Thầy đáp: “Đức là Đạo cả chớ ở
đâu”. Ý Ngài dạy rằng: Muốn thấu triệt chánh đạo, tức là đạo cả, cần phải tu
đức, bởi Đạo rất rộng lớn bao trùm cả vũ trụ vạn hữu, nhưng không ngoài bản tâm
thanh tịnh. Còn đức chẳng phải ngoài tâm mà có được. “Trong Đạo Phật quá nên
huyền bí, Chỗ tâm thần tọa vị nơi thân”. Song muốn tu đức phải có lòng từ bi,
bình đẳng, không vị ngã tham lam, không câu chấp, thiên lệch, lìa cái có không
động tịnh, đối với vạn cảnh, vạn pháp, lòng vẫn như như bất động. Bấy giờ hành
giả mới đạt được vô vi chánh đạo “Vô vi chánh đạo hỡi người ơi”.
Ông Chánh hỏi câu thứ ba. “Ngửa mong
Bác Ái Từ Bi hóa”. Có ý nghĩa: nay ông đã nhận nơi Đức Thầy là bậc Từ Bi giác
ngộ nên xin Ngài mở lòng bác ái khai hóa cho.
Đức Thầy đáp lại: “Duyên lành sẵn có
ơn trên hóa”. Đức Thầy nói rõ cho ông Chánh biết: Nhờ sẵn duyên lành với đạo
pháp từ trước nên nay ông mới được Phật Thầy khai hóa cho.
Câu thứ tư của ông Chánh. “Rộng
lượng ơn Thầy chỉ Đạo sâu”. Thêm một lần nữa, ông Chánh tha thiết mong cầu Đức
Thầy chỉ dạy cho nghĩa lý thâm sâu trong đạo pháp.
Đức Thầy liền đáp: “Bồi đắp nền nhơn
đức lại sâu”. Có nghĩa là Ngài nhắc nhở ông Chánh nếu muốn cho sự tu hành được
kết quả như ý thì bắt nguồn từ lòng nhơn ấy lo tu bồi thêm lên mãi mãi cho công
đức lành luôn luôn tươi nhuần tăng trưởng, làm cho muôn loài vạn vật đều được
gội nhuần ơn huệ, ấy là được chứng đạt cái chơn lý thâm huyền của đạo đức.
Xuyên qua lời hỏi của ông Chánh và
lời đáp họa của Đức Thầy, chúng ta phải công nhận đây là bài học quí giá không
riêng ông Chánh, mà Đức Thầy còn có ý dạy chung cho tất cả những ai tu hành
muốn đạt đến nơi cứu cánh của Đạo Phật.
[next]
Mẩu chuyện thứ 66
BÀI TOÁN ĐỐ
Khoảng đầu mùa xuân năm Ất Dậu 1945,
tức sau khi chấm dứt cuộc Khuyến Nông, Đức Thầy trở về văn phòng tại đường
Miche, Sài Gòn. Khi đó ông xã Bộ ở Châu Đốc đến viếng Đức Thầy, và ông lưu lại
một thời gian ở đây. Một hôm nọ vào khoảng 10 giờ sáng ông Bộ đang tiếp rước ba
người khách có vẻ là người học thức và cũng có đọc Giảng của Đức Thầy rồi. Lúc
đó cũng có mặt một số tín hữu tại phòng khách. Trong câu chuyện đàm đạo, quí
ông có đưa ra hai câu giảng:
Lời truyền sấm như bài toán đố,
Ai biết tầm thì được hưởng nhờ.
Để tìm hiểu ý nghĩa, lúc đang bàn
luận, bỗng Đức Thầy từ trên lầu đi xuống và hỏi:
– Các ông bàn luận gì đó?
Ông xã Bộ liền đứng dậy thưa:
– Chúng tôi đang tìm hiểu ý nghĩa
hai câu giảng:
Lời truyền sấm như bài toán đố,
Ai biết tầm thì được hưởng nhờ.
Mà Đức Thầy đã viết ra trong Giác Mê
Tâm Kệ.
Được vậy tốt lắm. Đó là lời Đức Thầy
nói.
– Sẵn dịp nầy tôi đố các ông hai lần
hai là mấy?
Ông xã Bộ bèn đứng lên:
– Bạch Thầy
hai lần hai là bốn.
Đức Thầy
nói:
– Không phải
vậy, đó là các ông tính theo cữu chương, em học trò tính cũng được. Ở đây là
toán đố mà! Các ông hãy tính kỹ lại đi.
Nói xong Đức
Thầy bước thẳng ra các chậu kiểng phía trước, còn ông Bộ và ba người khách bóp
trán tính, bàn tính mãi cũng không ra được đáp số. Độ năm phút sau Đức Thầy trở
lại hỏi:
– Sao! Các
ông tính được chưa?
Mấy người
đồng nói:
– Bạch Thầy
chúng tôi tính chưa được.
Đức Thầy
liền nói:
– Như vậy để
tôi ra thai cho, hai lần hai là ba đó. Nhớ là ba chớ không phải là bốn nghen.
Đây là bài toán đố chớ không tính theo cữu chương, các ông hãy tính nữa đi.
Nói rồi Đức
Thầy đi luôn lên lầu. Mọi người đều ngồi lặng thinh tiếp tục suy tính. Ít phút
sau, Đức Thầy trở xuống hỏi:
– Sao! Nãy
giờ các ông tính ra chưa?
Bốn người đều
đứng lên đồng nói:
– Thưa Thầy!
Chúng tôi suy tính mãi không ra, nhờ Thầy giải giùm.
Đức thầy vui
vẻ bảo:
– Có gì khó
đâu. Đây, các ông nhìn theo tôi. Đoạn Ngài cầm một miếng giấy nhỏ đưa lên, vừa
xé hai, Ngài vừa nói:
– Một lần
hai. Rồi Ngài để một nửa mảnh giấy xuống bàn, còn lại nửa mảnh Ngài đưa lên vừa
xé vừa nói:
– Hai lần
hai là ba. Rồi để hết hai mảnh giấy xuống bàn Ngài nói tiếp:
– Đó, các
ông xem kỹ coi có phải hai lần hai là ba không? Chớ đâu phải là bốn. Tôi đố mẹo
mà!
Mọi người có
mặt đều reo cười tán thán.
Câu chuyện
nầy chúng tôi thuật theo lời ông xã Bộ kể lại.
Thêm một lần
nữa năm 1946 Đức Thầy ở Miền Đông. Hôm ấy nhằm lúc rảnh việc, các tín hữu cùng
một nhóm anh em Bình Xuyên, họp nhau tại văn phòng để bàn luận về sấm kinh. Câu
chuyện đạo đức đang thấm nhuần vào tâm trí của mỗi người thì có một anh đưa ra
hai câu giảng:
“Lời truyền
sấm như bài toán đố,
Ai biết tầm
thì được hưởng nhờ.”
(Giác Mê Tâm
Kệ)
Rồi anh em
nói:
– Chúng ta
thử bàn xem bài toán đố Đức Thầy đề cập trong hai câu giảng nầy ra sao?
Tất cả đều
đồng ý mỗi người bắt đầu suy tới tính lui trên mười phút đồng hồ, kẻ bàn thế
nầy, người luận thế khác, nhưng chẳng có ý nào được toàn thể công nhận. Cuộc
biện giải đang xôn xao, may đâu Đức Thầy vừa đi tới, Ngài liền hỏi:
– Các anh em
bàn luận gì mà nghe sôi nổi thế?
– Bạch Thầy!
Chúng tôi đang suy luận bàn tán về cái bài toán đố trong hai câu giảng: “Lời
truyền sấm như bài toán đố, Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ”. Đó là bài toán gì?
Đức Thầy
liền hỏi:
– Vậy các
anh em có tìm được chưa?
Trong đó có
một người đứng lên thưa:
– Bạch Thầy!
Chưa, và nhờ Thầy giải thích giùm.
Lúc đó Đức
Thầy cười vui và nói:
– Tôi cho
các anh em biết một phần rồi mỗi người tự sắp mà làm nghen! Đây là một bài toán
cộng chớ không có gì hết, gồm có tám con số tám, anh em sắp làm sao cộng cho
được một ngàn là đúng.
Nói xong
Ngài bước sang phòng khác, nghe qua nhiều người chạy đi lấy viết, có người bẻ
cây ngồi vẽ trên mặt đất cho mau. Ai nấy đều sắp số và tính lia lịa. Thời gian
trên hai mươi phút, hết sắp chiều nầy rồi sắp qua chiều khác, lộn tới lộn lui,
đủ cách hết, nhưng chẳng người nào cộng đủ số một ngàn. Bấy giờ kẻ ngồi cắn
bút, người thì đi tới đi lui suy nghĩ. Sau đó Đức Thầy từ phòng bên kia bước
trở lại hỏi:
– Nãy giờ có
ai tính được thử trình bày xem.
Mọi người
đồng nói:
– Thưa Thầy!
Sắp cách nào cũng cộng không trúng, chúng tôi xin chịu thua, nhờ Thầy sắp hộ
cho.
Đức Thầy
liền đi lại tấm bảng đen, tay cầm cục phấn để sẵn tại góc phòng, tất cả đều im
lặng và hướng mắt theo. Ngài cầm phấn viết nhanh lên bảng bài toán cộng như
sau: Thầy viết hàng trên ba con số 8 tức là 888. Kế đó, Đức Thầy viết hai con
số 8 tức 88 ngay hàng chục và hàng lẻ. Còn lại dư ba con số 8 Đức Thầy sắp theo
hàng lẻ, bắt đầu Đức Thầy cộng xuống. Liền đó một tràng pháo tay vang vội hòa
với tiếng cười, tiếng ca ngợi cả phút đồng hồ. Đức Thầy đợi cho các tiếng ấy
chấm dứt, Ngài mới giải thích:
– Đây mới
phần sự của bài toán thôi, còn phần lý của nó trong Tôn Chỉ Hành Đạo Tôi có
viết Tám Điều Răn Cấm, nếu tín đồ nào gìn giữ được kỹ lưỡng, không hề quấy
phạm, dầu việc rất nhỏ, tất được một ngàn việc phước nhân, một ngàn việc phước
nhân nầy nó có hiệu năng đưa mình đến dự Hội Long Hoa và sống với đời Thượng
Nguơn Thánh Đức.
Nghe xong
những người có mặt trong hội trường đều yên lặng, phản tỉnh tâm tư, hầu để ghi
nhớ lời giáo huấn ấy. Thấy không còn ai hỏi gì nữa, Đức Thầy ung dung trở lại
thơ phòng.
Bài toán đố
sau là kể theo lời của ông Trần văn Tươi.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Chúng ta
nghe qua một cốt truyện mà hai trường hợp vừa kể trên, chúng ta có thể rút một
ít bài học kinh nghiệm như sau:
Điểm thứ
nhứt: Toán đố là một phép đố mẹo, học trò muốn làm được, ít ra phải có thầy
giáo chỉ dạy phương thức rành mạch và người học cũng cần lĩnh hội chính xác.
Học toán đố còn khó như vậy, còn học Kinh Sấm của Đức Huỳnh Giáo Chủ lại càng
khó khăn hơn gấp bội. Nếu người tu không quan tâm và cố gắng thì mong gì thấu
đạt.
Điểm thứ
hai: Câu giảng “Lời truyền sấm như bài toán đố” là Đức Thầy ví dụ sự học hiểu
lời truyền sấm khó khăn cũng như học làm toán đố mà các ông ấy đã hiểu lầm cứ
lo tìm bài toán đố chớ không chịu tìm hiểu Kinh Sấm. Tuy nhiên Đức Thầy cũng
chìu theo tánh hiếu kỳ của các ông ấy, Ngài mới dùng phương tiện đưa ra hai bài
toán đố. Khi mọi người làm không được, Ngài mới hướng họ trở về điểm thiết yếu là
am hiểu sấm kinh và giữ gìn giới luật, bởi người tu có “Chuyên chú nghĩ suy từ
nét dấu”, có tìm hiểu nghĩa và làm theo mới đắc đạo.
Điểm thứ ba:
Là vấn đề trì giới là điểm tối quan trọng của nhà tu nên Đức Thầy khéo áp dụng
phương tiện đưa ra bài toán cộng có tám con số 8 để ám chỉ cho Tám Điều Răn Cấm
gồm có sự lẫn lý, khiến cho tín đồ tăng trưởng đức tin nơi sự trì giới như Ngài
đã từng dạy, cần nhứt là ở chỗ giữ Giới Luật hàng ngày. Giới Luật ví như hai bờ
lề trên con lộ, nếu người lái xe chạy vượt khỏi bờ lề thì xe bị lật chết, nhà
tu nếu không trì hành Giới Luật tai hại cũng như thế.
Tám Điều Răn
Cấm trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo, tuy thấy đơn giản nhưng nó gồm nhiếp Tam
Tụ Giới trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới. Nếu ai giữ gìn trọn vẹn Tám Điều Răn
Cấm đó, tất được trọn lành, trọn sáng mà thành Đạo vậy. Tại thế gian, hoặc vãng
sanh Cực Lạc, hai quả vị giải thoát ấy đã thành đạt thì sự có mặt ở Hội Long
Hoa và sống đời Thượng Nguơn sẽ thừa sức bảo đãm. Đức Phật xưa há chẳng dạy:
“Giới minh như nhựt nguyệt, diệc như Anh Lạc Châu vi trần Bồ Tát chúng do thị
thành chánh giác” (Nghĩa là giới sáng như mặt nhựt, mặt nguyệt và cũng như hột
châu Anh Lạc chư Bồ Tát đông như số vi trần đều nhờ sự Trì giới mà thành bậc
Chánh Giác.
Mẩu chuyện thứ 67
MỘT BUỔI KHUYẾN NÔNG
Vào năm
1944-1945 cuộc chiến trở nên ác liệt giữa hai phe Đồng minh và Phát xít. Bấy
giờ nước ta bị phong tỏa, hàng hóa không nhập cảng được, trở nên khan hiếm đắt
đỏ. Ngược lại thì lúa gạo không xuất cảng đặng, nên bị mất giá. Trong lúc đồng
bào Miền Bắc chịu cảnh đói khổ thì ở Sài Gòn tức là miền Nam chúng ta, người
Pháp dùng lúa thế cho than chụm các nhà máy điện. Vì thế lúa quá rẽ, nông dân
bắt đầu bỏ ruộng hoang tìm nghề khác sanh sống. Nguyên nhân:
Cũng là vì
Tây di bày kế,
Phá hoại nền
kinh tế nước ta.
Làm cho điên đảo san hà,
Làm cho điêu đứng con nhà Lạc Long.
Để cứu vãn tình thế, người Nhựt yêu
cầu Đức Thầy đi Khuyến Nông khắp vùng châu thổ sông Cửu Long, bởi họ biết Đức
Thầy có ảnh hưởng lớn đối với đồng bào ở trong các tỉnh Miền Tây. Vì có nhiệm
vụ thiêng liêng đối với dân tộc, Đức Thầy nhân cơ hội ấy nhận lời đi Khuyến
Nông, để vừa khuyến khích nhân dân nổ lực cày cấy và vừa củng cố hàng ngũ Phật
Giáo Hòa Hảo.
Cuộc Khuyến Nông nầy kéo dài suốt
hai tháng từ ngày mồng Một tháng 5 đến 30 tháng 6 năm Ất Dậu 1945 gồm có 107 vị
trí, mỗi vị trí số người dự nghe hàng năm bảy ngàn, nên phần nhiều các nơi
thường tổ chức ở sân vận động.
Vào ngày mùng 4 tháng 6 năm Ất Dậu,
Đức Thầy thuyết giảng ở sân vận động xã Mỹ Luông, Chợ Mới, Long Xuyên. Hai giờ chiều
hôm ấy tôi có mặt tại vị trí. Lòng nôn nao trông ngóng vì bấy lâu nay chưa gặp
Đức Thầy lần nào, mặc dù tôi đã qui y từ bốn năm trước. Nay là ngày tôi thỏa
mãn nhứt vì được trực tiếp nghe lời thuyết giáo của Ngài.
Khoảng 3 giờ chiều trời đang nóng nực,
mây đen phủ tới, ai ai cũng tản mác tìm nhà ẩn trú, rồi một đám mưa thật lớn
như cầm thùng đổ. Qua bốn giờ, mưa tạnh, màn trời trở nên trong lặng, người ta
kéo nhau trở lại sân vận động. Từ hai bên đường xuống đến bến tàu, nơi nào cũng
đông nghẹt, không thể đếm lường con số được. Dầu vậy, nhưng chẳng hề nghe tiếng
động hay tiếng nói chuyện lớn, tất cả đều trong tư thế nghiêm trang chờ đón.
Từ thuyền máy, Đức Thầy vừa đi vừa
chào đáp mọi người cho đến khi bước lên diễn đàn Ngài xây mặt bốn phía, chào
đồng bào bằng cách hai bàn tay nắm chặt vào nhau, đầu hơi cúi. Đoạn Ngài cất
tiếng nói, giọng Ngài nghe thanh ấm như chuông đồng. Tôi ngồi cách rất xa vẫn
nghe được rõ ràng, lời lẽ của đấng Từ Bi tuông ra như suối đổ, mà sức nhớ của
kẻ phàm phu nầy có hạng, nên nơi đây tôi chỉ sơ lược những gì còn nhớ rõ mà
thôi.
Đức Thầy bắt đầu thuật lại cảnh đói
Miền Bắc:
“Có nhiều làng dân chúng chết chỉ
còn lại thưa thớt, hết lúa khoai rau cỏ và thịt cá, gia súc, người ta hái lá
cây mà ăn. Phái đoàn cứu trợ nhìn hai bên đường thấy vườn tược cây cối đều xơ
xác còi cọc. Tại một đống rơm trên mười người nằm chết chung quanh, miệng còn
ngậm vài cọng rơm. Cũng có nhiều người đi chưa tới đống rơm đã ngã chết dọc
đường, thậm chí người ta còn ăn cả da giày da dép, nằm liệt hai bên lộ.
Cảnh rùng rợn hơn tại góc vườn nọ,
năm bảy người ngồi chung quanh một cái nồi lớn đang đun sôi bốc hơi nghi ngút,
đó không phải nồi cháo rau chi cả, mà chính là thịt người, do các đứa trẻ cha
mẹ chết hết, không ai đùm bọc, bị những người ấy bắt làm thịt nấu ăn.
Ngài còn kể lại một thảm trạng bi
đát. Là sau hè một cái nhà nhỏ, bà mẹ đem chôn sống một đứa con 6 tuổi, bởi bà
thấy mình sắp chết. Nếu để con ở lại, người ta cũng bắt làm thịt mà ăn, nên bà
chôn con trước rồi bà chết theo. Song vì sức yếu quá, bà chỉ đào được cái lỗ
sâu chừng ba bốn tấc, rồi nhận đứa bé xuống lấp đất lại. Đôi mắt bà đẫm lệ,
lòng như đứt từng đoạn ruột, đứa bé biết mẹ chôn sống mình, nên kêu khóc với
mẹ:
– Mẹ ơi! Con sống đây, sao mẹ nỡ
chôn con!?
Bà mẹ vừa đùa đất xuống vừa khóc:
– Mẹ thương con mẹ mới chôn con!
Đứa bé cố ngoi lên và kêu một lần
nữa:
– Mẹ ơi! Con còn sống đây mẹ!
Bà mẹ lập lại mấy tiếng:
– Mẹ thương con mẹ mới chôn con!!
Rồi từ đó người ta chỉ còn nghe hai
tiếng đứt quãng … mẹ ơi! … Con ơi! … cho đến khi dứt hẳn, bà mẹ ngã gục bên đứa
con! Rồi mẹ con cùng chết!”
Nghe Đức Thầy thuật tới đây tự dưng
nước mắt tôi trào ra dù là trong lứa tuổi 19 của hàng nam tử. Từ trước chưa lần
nào bị xúc động như thế, tôi liền đưa mắt nhìn chung quanh thấy ai nấy cũng đều
gục mặt, lấy khăn chặm nước mắt. Có nhiều bà nhiều cô khóc ra tiếng, bỗng nghe
Đức Thầy kêu lớn lên ba tiếng:
– ĐÓI! ĐÓI! ĐÓI!
Mọi người đều giựt mình im lặng và
hướng về diễn đàn, Đức Thầy liền cất giọng:
– Hỡi đồng bào! Hỡi đồng bào! Thần
chết đã tràn vào Trung Bắc!
Ngài vừa đọc vừa giải thích hết bài.
Tiếng Ngài nghe vừa vang rền cao vút, vừa thanh ấm thâm trầm, thật là khó tả,
cả mấy ngàn người đều im phăng phắt để lắng nghe từ tiếng.
Ngài vừa đọc vừa thuyết giảng đến
hết bài khuyến nông, rồi Ngài kêu gọi đồng bào hãy xây lưng đoàn kết nổ lực cấy
cày và nhắc đến câu: “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang, Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy
nhiêu.” Ngài còn khuyến tấn mỗi người trong bổn đạo phải tuyệt đối thi hành hai
phương diện: “Phải cần kiệm sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất.” Kế đó,
Ngài đọc bài đính chánh để khuyến cáo đồng bào hãy cảnh giác, đừng để lầm lý
thuyết vu vơ, những mối manh mê tín không đúng với chân lý của Đạo Phật.
Suốt hai tiếng đồng hồ Đức Thầy nói,
tiếng Ngài càng lớn và thanh ấm, lưu loát chẳng hề lạc giọng.
Trên đường về ai nấy đều trầm trồ
thán phục và tiếc uổng không làm sao nhớ cho hết lời thuyết giảng của Ngài.
PHẦN NHẬN XÉT:
Quay lại cuốn phim buổi Khuyến Nông
của Đức Thầy tại xã Mỹ Luông, các tín hữu từ năm mươi tuổi trở lên chắc ai cũng
có tham dự hoặc còn nhớ ít nhiều lời lẽ, một trong những nơi Khuyến Nông khác,
tuy câu chuyện cách đây gần 40 năm nhưng với hình dáng giọng điệu và lý lẽ của
Đức Thầy hình như đang hiện ra trước mắt kẻ cầm bút.
Đạo Phật phát ra từ dân tộc tín với
chủ trương đời đạo liên hoan nhập thế cứu đời. Kẻ hành Đạo đúng theo ý tưởng
xác thực của nó là làm thế nào phát hiện những đức tánh cao cả và thực hành
trên thực tế bằng mọi biện pháp đem lại cái phúc lợi cho toàn thể chúng sanh,
thì đó là thỏa mãn cho đời hành đạo của mình. Do đó, Đức Thầy và hầu hết tín đồ
của Ngài đều có trách nhiệm thiêng liêng cứu nguy dân nước. Trước nạn đói khổ
miền Bắc, Ngài đứng ra kêu gọi:
Cả kêu điền chủ phu nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ
hoang.
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên.
Nam Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung.
(Khuyến Nông)
Với các nhà điền chủ, tiền của đầy
rương, ruộng vườn muôn mẫu, Ngài giác tỉnh họ:
Điền chủ phải một lần chịu tốn,
Giúp áo quần giúp vốn thêm lên.
Muốn cho dân được lòng bền,
Mua giùm canh cụ là nền khuyếch
trương.
(Khuyến Nông)
Với những người nghèo khổ, làm thuê,
làm mướn, như người xưa đã bảo: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, thì
nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:
Kẻ phu tá cũng là trọng trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa
khoai.
(Khuyến Nông)
Sau cùng, Ngài đem tấm lòng từ ái
nhắn gởi các giới đồng bào, hãy xây lưng đoàn kết thương yêu đùm bọc lẫn nhau
để xứng là con cháu Tiên Rồng:
Gởi một tấm lòng son nhắn nhủ,
Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông.
Nắm tay trở lại cánh đồng,
Cần lao nhẫn nại Lạc Long cổ truyền.
(Khuyến Nông)
Riêng phần tín đồ, Ngài dạy mỗi
người cần thể hiện cả hai việc: “Sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất.”
Bởi có làm ăn gia đình mới đủ sống và yên tâm tu học, “Có thực mới giựt được
Đạo”, lại còn dư ra để bố thí giúp đời và đủ phương tiện đền đáp Tứ Ân. “Tứ Ân
đã trả chẳng còn tội căn.” Song sự làm ăn phải đúng theo chánh nghiệp và biết
tiết kiệm để tránh sự tiêu xài xa xí mà suốt ngày dồn hết thân tâm phụng sự cho
vật chất, không rảnh rỗi tu hành. Và có tu hiền chơn chất, hành giả mới đặng
trọn lành trọn sáng để thoát qua tai nạn hãi hùng của cơ tận diệt và vượt khỏi
vòng sanh tử luân hồi:
Tội tiêu phước hưởng trường tồn,
Không còn mắc nẻo dại khôn luân hồi.
Cho nên cả hai mặt nói trên, người
tu theo Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo không thể thiếu một.
Cũng trong thời gian năm 1945 có bọn
tà thuyết tung ra một bài sấm loan truyền ra khắp vùng Hậu Giang nói rằng tháng
8 tới đây sẽ tối trời, tối đất, người chết, nhà tan v. v… Đức Thầy biết đó là
điều mị dối có hại chung cho quốc dân:
Hại cho quốc kế dân sanh,
Ruộng đồng tươi đẹp dân đành bỏ ngơ.
Thương thay những kẻ ngu khờ,
Lầm mưu gian trá ngẩn ngơ ưu sầu.
Bọn chúng còn ngầm mưu toa rập với
nhau làm mất uy tín của Phật Giáo Hòa Hảo, phao tin là chuyện đó do ông Tư Hòa
Hảo truyền ra, nên buộc lòng Đức Thầy phải đính chánh:
Buộc lòng tôi phải đính ngoa,
Cho trong toàn quốc gần xa đều
tường.
Chuyện nầy là chuyện hoang đường,
Của bọn phá hoại chủ trương hại
mình.
Anh em ta hãy đồng tình,
Nếu gặp “nắm óc” đem trình “Công
an”.
Chúng ta giải quyết lẹ làng,
Đừng để chuyện huyễn tràn lan ra
nhiều.
(Đính Chánh)
Mẩu chuyện thứ 68
ÔNG HOÀNG THIÊN BẢO
Khoảng năm 1972, anh Hồng văn Chên
là anh thứ ba của anh Hồng văn Hoạnh, có thuật lại cho chúng tôi nghe một câu
chuyện mà ít người biết:
Vào giữa tháng 3 năm 1947, tức một
tháng trước khi biến cố Phú Thành xảy ra (Ngày Đức Thầy ra đi), Đức Thầy sai
anh đem ảnh của Ngài mặc áo Xá Xẩu giống như một người Tàu đến công ty du lịch
ở Chợ Lớn để nhờ họ xin sổ thông hành đi Hongkong cho Ngài dưới tên là ông
HOÀNG THIÊN BẢO. Một tuần sau anh Hồng văn Chên lấy giấy đem về trao cho Đức
Thầy.
Chuyện của ông Lê Tấn Bửu, niên lão
Phật Giáo Hòa Hảo.
PHẦN NHẬN XÉT:
Sự ra đời của các bậc Thánh Nhân,
các nhà Hiền Triết, tất cả đều không do ngẫu nhiên hay có sự trùng hợp nào. Hễ
nơi đâu có sự biến loạn, lòng người đảo điên, nhân tâm ly tán, thế nước suy
đồi, dưới trên không hòa thuận, thì nơi đó ắt có người hiền, các bậc Thánh Nhân
ra đời để sửa sang lại sự hổn loạn.
Còn nguyên nhân lâm phàm của Giáo
Chủ Phật Giáo Hòa Hảo cũng không ra ngoài những thông lệ đó và còn hơn thế đó
nữa, như Ngài đã từng xác nhận:
Xưa nay không có mấy khi,
Dương trần có Phật vậy thì xuống
đây.
Hiện nay ở cõi Ta bà Ma Vương đã
xuất hiện để phá chánh pháp của Đức Thế Tôn, đúng như lời Ma Vương tuyên thệ
cùng Ngài. Khi Ma Vương đã ra đời thì lẽ tất nhiên phải có chư Phật, chư Bồ
Tát, chư Thiên giáng trần để giữ gìn chánh pháp của Đức Thế Tôn.
Kinh Pháp Hoa chép: “Phật vị nhất
đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế” (Phật vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện
trên đời). Căn cứ điều trên đây thì không còn ai xa lạ gì với sự xuất hiện của
Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo.
Rõ nghĩa quá cho sự xuất hiện của
Ngài, một vị Phật đã đến trong cõi Ta bà nầy, Ngài đang làm hạnh nguyện Bồ Tát.
Bởi muốn cứu chúng sanh trong cái buổi Hạ Nguơn nầy, nên Ngài không quản ngại
chốn nhuốc nhơ:
Tớ với Thầy nào quản thân lươn,
Muốn cứu thế sá chi bùn trịnh.
(Giác Mê Tâm Kệ)
Rời chốn Bồng Lai Phật cảnh, không
nỡ ngồi yên hưởng quả Bồ Đề bất sanh bất diệt, nên đã bao phen lăn lộn xuống
chốn hồng trần, mặc cho đời chê khen. “Kêu Thằng hay gọi bằng Ông”.
Như Ngài đã xác nhận:
Điên nầy vưng lịnh Phương Tây,
Hầu hạ bên Thầy đặng cứu bá gia
Và
Điên nầy vưng lịnh Minh Vương,
Với lịnh Phật Đường đi xuống giảng
dân.
Để tiếp theo hành trạng sự xuất hiện
của Đức Thầy, chúng tôi xin trích một đoạn trong bài Sứ Mạng do chính tay Ngài
viết:
“… Ta là một
trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc
độ ấy mà trợ tế nhân dân; vì thể lòng từ bi bác ái cùng thù đáp những linh hồn
đã trợ duyên nhiều tiền kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm
Kỷ Mão ta hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh …”
Đức Thầy đã
trở lại nơi quốc độ Ngài liễu đạo trước kia mà trợ giúp những linh hồn đã giúp
cho Ngài nhiều tiền kiếp nương cậy tu hành, một minh định quá rõ ràng và cũng
ứng hiện với sự xuất hiện của Ma Vương. Ma Vương đã ra đời, ẩn hiện lẫn lộn vào
làm hàng đệ tử của Đức Phật mà đi ngược lại với giáo lý của Phật Giáo và Phật
Đạo. Phật Đạo tức là con đường của Phật đã đi qua:
* Đức Phật
từ chỗ CÓ, Ngài phế bỏ tất cả để đi tìm cái KHÔNG.
* Ma Vương
thì bắt nguồn từ cái KHÔNG lại đi tìm cái CÓ.
Đức Phật
đang từ một ngôi vị tột đỉnh uy quyền, giàu sang bậc nhất, vợ đẹp, con ngoan,
mỹ nữ đêm ngày hầu hạ, sống trong nhung lụa ấm êm, trong lúc tuổi còn thanh
niên, với lứa tuổi mười chín, nhựa sống đang tràn đầy, đang hăng say trong nhục
lạc thế trần mà Ngài còn phế bỏ tất cả để một mình một bóng, dấn thân vào con
đường tầm Đạo, phải chịu muôn ngàn khốn khổ. Suốt sáu năm khổ hạnh, cho đến khi
đạt thành đạo cả, và suốt bốn mươi chín năm trụ thế tự Ngài ôm bình bát đi xin
ăn khắp thôn làng, khi no, khi đói, đồng thời chịu nhiều tiếng thị phi của kẻ
ngoại Đạo, thế mà Đức Phật vẫn từ bi đem lời lành phổ truyền khắp muôn loài vạn
vật, đưa chúng sanh đến con đường giải thoát sanh tử luân hồi. Hơn 25 thế kỷ,
Vô Vi Chánh Pháp của Ngài càng rạng tỏ khắp nơi nơi.
Còn Ma Vương
thì núp trong hàng ngũ đệ tử của Đức Phật, nếu ta chịu khó chú ý sẽ nhận diện
ra bọn chúng thật dễ dàng, bởi họ luôn luôn đi ngược lại con đường của Đức
Phật.
Giai đoạn
nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nhắc nhở từ năm 1939:
Cả tiếng kêu
cùng khắp chư tăng,
Với tín nữ
thiện nam Phật Giáo.
Nên cố gắng
trau thân gìn Đạo,
Hiệp cùng
nhau truyền bá Kinh lành.
Làm cho đời
hiểu rõ thinh danh,
Công đức
Phật từ bi vô lượng.
Đồng dẹp bớt
âm thinh sắc tướng,
Lo chấn hưng
phật Pháp mới là.
Nói cho đời
hiểu Phật Thích Ca,
Lòng tự giác
xả thân tầm Đạo.
(Quyển 5
Khuyến Thiện)
Dần dần sự
phát triển của Ma Vương càng mạnh, tạo sự hổn loạn trong tăng chúng, trên dưới
không hòa không thuận, tị hiềm ganh ghét, vụn vặt nhỏ nhoi, tranh danh đoạt lợi
trong chốn thiền môn, thay vì kinh kệ hôm sớm trong chốn già lam. Lúc đó thì
bánh xe Chánh Pháp của Đức Thế Tôn sẽ ngưng quay. Quả thật điều nầy xảy ra thì
ứng với lời Đức Thích Ca đã nói cách nay hơn 25 thế kỷ: Ngài cho biết là bánh
xe Chánh Pháp của Ngài có lúc sẽ ngừng quay, đến chừng đó sẽ có một vị Phật
hiệu là Di Lặc ra đời ở cõi Ta ba nầy lập Hội Long Hoa độ chúng sanh trong buổi
Hạ Nguơn mạt Pháp để tiến lên Thượng Nguơn Thánh Đức.(Sự việc nầy được ghi
trong Kinh Trụ Thế)
Còn trên
phương diện đời sống xã hội thì Ma Vương len lỏi vào nắm quyền hành của thế
gian. Chúng tạo chủ thuyết mới mê hoặc lòng người, đưa nhơn loại vào con đường
chiến tranh giết chóc bởi danh vị, lợi quyền, thế lực.
Từ đó, chúng
ta không ai còn xa lạ gì với sự giáng trần của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa
Hảo. Ngài đã đưa nhân loại vào đường Học Phật tu Nhân, xiễn dương Vô Vi Chánh
Pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và hoằng truyền khai mối Đạo của
Ngài.
Trước thế
lực và thời hưng tịnh của Ma Vương, Đức Thầy đã thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ cho
chúng sanh. Trong bảy năm, tuy thời gian quá ít, nhưng Ngài đã đánh tiếng
chuông cảnh tỉnh và báo cho nhân loại hay biết sự xuất hiện của Ma Vương.
Trong Kinh
Kệ, Sấm Thi, Đức Thầy đã chỉ rõ:
Ao sen báu Tây Phương đua nở,
Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm
Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,
Được tâm phát Bồ Đề vững chắc.
Giữ đừng cho Ma Vương dẫn dắt,
Thường nhớ câu Đại Lực, Đại Hùng.
Thắng Thất Tình giữ vẹn Đạo Trung,
Trừ Lục Dục chớ cho ô nhiễm.
Thập tam Ma diệt bằng trí kiếm,
Rứt xong rồi vô sự thảnh thơi.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Trên đây chúng tôi chỉ trích một
đoạn ngắn trong một bài kinh, thật quá ít so với toàn bài, mong làm sáng nghĩa
trong câu chuyện, còn lời khuyên dạy của Đức Thầy thì không một vi tế nào mà
Ngài không nhắc nhở khuyên lơn.
Ai mà ta dạy chẳng gìn,
Thì sau đừng trách mất tình yêu
thương.
(Quyển 3 Sám Giảng)
Đức Thầy khuyên dạy quá đầy đủ qua
Kinh Sấm, Kệ Thi của Ngài, như Đại Chu Thoàn thừa sức chuyên chở con người qua
bên kia bờ giác. Nếu ta chịu khó trì tụng kinh hành thì lo chi không đến được
con đường giải thoát sanh tử luân hồi.
Đức Thích Ca Mâu Ni xưa kia từng
bảo: “Hãy nhìn ánh sáng của mặt trăng chớ đừng nhìn ngón tay của Ngài chỉ mặt
trăng”, thì hôm nay Đức Thầy cũng thường khuyên:
Nhìn Phật Giáo mà tìm cái lý,
Coi tại sao
ta phải tu hành.
Như vậy sự
hiện hữu của Đức Thầy chỉ làm cho chúng ta chểnh mảng trong việc tu tập, vì ta
sẽ ỷ lại là lúc nào cũng có Thầy mình bao bọc chở che.
Vì hiểu quá
rõ ố tật của tín đồ, nên Ngài chọn sự xa vắng để:
Để cho Thầy
đi dạo Ta Bà
Đặng dạy kẻ
đường xa chưa rõ.
(Sa Đéc)
Và cũng để
thử thách những người nhẹ dạ non lòng.
Ngài đã tiên
liệu việc xa vắng. Ngoài ra, ngày Đức Thầy trở lại, thì có nhiều ở những Mẩu
Chuyện Bên Thầy!
Mẩu chuyện thứ 69
TOKYO NHẬT BẢN
Câu chuyện
được kể đúng vào thời điểm của cuộc biến cố năm 1975, khi số lượng mấy mươi
người bị giam trong một phòng giam nhỏ hẹp của Ty Cảnh Sát. Tất cả được tập
trung từ các nơi gởi về vào ngày 25 tháng 5 năm 1975.
Một đêm nọ
trong tuần đầu, qua sự giới thiệu của anh Trưởng Chi Thông Tin Hà Tiên, chúng
tôi tiếp xúc với người cháu của y cũng đang bị giam chung trong phòng. Người ta
không còn rõ tên họ của người cháu nầy, mà chỉ gọi là Cậu Sáu, là danh từ gọi
để tôn trọng những người tu hành. Được biết Cậu Sáu tu nhiều năm trên núi Cấm
(Thiên Cẩm Sơn). Lúc đó Cậu độ khoản 25 hay 26 tuổi, bằng cách nói lưu loát đạo
hạnh của Cậu làm cho nhiều người phải chú ý. Trong đó có tôi (Lê Tấn Bửu).
Cậu thuật
nhiều chuyện nghe khá ly kỳ, trong đó có mẫu chuyện làm tôi chú ý nhứt: Trước
năm 1975, khi đang ngồi thiền trong thạch thất nơi Thiên Cẩm Sơn, Cậu nghe văng
vẳng bên tai lệnh của Sơn Thần bảo cậu phải đi Tokyo để nhận lãnh sứ mạng. Cậu
lập tức lên Sài Gòn nhờ Đại Tá Nguyễn Quang Sanh lúc ấy làm việc trong cơ quan
Giám Sát Viện, vốn là đệ tử của Cậu, lo cho cậu thủ tục xuất ngoại, đồng thời,
Đại Tá Sanh hướng dẫn cậu đi Tokyo. Đại Tá Sanh lúc đầu từ khước vì không đủ
tiền mua vé phi cơ khứ hồi cho cả hai người. Nhưng dường như được sự trợ giúp
của chư Thần, liền theo đó có người Hoa Kiều đến nhờ xin giùm thông hành đi
Hongkong, Đại Tá Sanh liền hỏi xin ông nầy tiền để mua hai vé phi cơ Sài Gòn đi
Tokyo khứ hồi.
Thế là sau
đó hai thầy trò đáp phi cơ đi Tokyo. Tiếng người tiếp viên báo cho biết là sắp
đến nơi. Đại Tá Sanh hỏi:
– Không biết
rồi đây có ai đón chúng mình không?
Cậu Sáu bảo:
– Đừng lo.
Quả nhiên
vừa ra khỏi cửa thì thấy có một người Nhật đến chào hỏi rồi hướng dẫn cả hai
làm thủ tục nhập cảnh Quan thuế. Khi ra tới bãi đậu xe liền được một vị hơi lớn
tuổi, ngồi băng sau, nói tiếng Việt, mời hai thầy trò ngồi chung.
Xe chạy đến
thành phố Tokyo, rồi vào thẳng cổng thành, tường thành cao và đen. Sau khi tiếp
tục chạy thẳng tắp tới ngôi biệt thự tọa lạc ở trong sâu thì xe ngừng lại. Vị
chủ xe mời hai thầy trò vào trong ngơi nghỉ, hẹn sáng hôm sau gặp lại.
Mọi việc ăn
ở đều có kẻ phục dịch chu đáo. Sáng ngày hai thầy trò được mời đến văn phòng và
được tiếp chuyện với vị chủ xe lúc ấy đã ngồi vào bàn giấy. Đang lúc nói
chuyện, Cậu để ý thấy có một vài người Nhật trịnh trọng đến xá chào vị chủ nhà,
nói một vài câu tiếng Nhật rồi lễ phép cúi chào đi ra. Cậu thầm nghĩ vị chủ nhà
nầy ắt có nhiều uy quyền mới được trọng vọng như thế.
Chúng tôi
hỏi Cậu Sáu sứ mạng cậu nhận lãnh của vị ấy như thế nào? Có liên quan gì đến
đất nước của mình không? Cậu đã cho biết là không thể tiết lộ vì đã tuyên hứa
rồi.
Tuy nhiên có
một điểm quan trọng mà cậu sẵn sàng cho chúng tôi biết là vị chủ nhà có tướng
trạng đặc biệt là CỔ CÓ BA NGẤN, mà xưa nay chưa ai có được tướng hảo như thế.
Khi về lại
Việt Nam, trên đường đi qua tỉnh lộ, Cậu mới có sự chú ý đặc biệt và hết sức
sửng sốt khi nhìn lại những bức chơn dung trên Độc Giảng Đường của Phật Giáo
Hòa Hảo, được xây dựng hai bên lộ xe, thì quả đúng là hình của Đức Huỳnh Giáo
chủ và người chủ ngôi biệt thự bên Nhật chỉ là một.
Cuối cùng
Cậu xác nhận với chúng tôi là Cậu được tiếp xúc với vị chủ nhà bên Nhật là Đức
Huỳnh Giáo Chủ bằng xương bằng thịt.
Về sau, khi
bị đày ra Bắc, tại trại Nam Hà đầu năm 1979, chúng tôi có dip may gặp được anh
Nguyễn Quang Sanh. Không bỏ qua cơ hội tốt, chúng tôi liền hỏi về Cậu Sáu ở núi
Cấm. Được anh xác nhận là Thầy của anh, anh có hướng dẫn Cậu Sáu đi Tokyo trước
năm 1975. Anh cùng Thầy của anh có tiếp xúc với vị ẩn danh tại ngôi biệt thự.
Thầy của anh có nhận lịnh với vị chủ ngôi biệt thự nầy, nhưng anh không được
phép tiết lộ câu chuyện. Sự bí mật hoàn toàn bí mật, càng làm cho chúng tôi
thêm thắc mắc. Sau năm 1988, khi được trả tự do về Sài Gòn, chúng tôi được tin
của Cậu Sáu đã qua đời dù tuổi chưa đầy bốn mươi.
Chuyện của
ông Lê Tấn Bửu, Niên Lão Phật Giáo Hòa Hảo.
Mẩu chuyện thứ 70
ĐỆ TAM THẾ CHIẾN
Sau Đệ nhị
Thế chiến Nhựt, Đức, Ý bị đồng minh đánh bại, Nhựt bị 2 quả bom nguyên tử, Nhựt
Hoàng đầu hàng vô điều kiện.
Một hôm Đức
Thầy đang tiếp chuyện với hai vị khách quí thuộc hàng trí thức. Hôm nay nhằm
ngày trực của ông giáo Khương. Ông Khương vừa bưng nước trà đến phòng khách,
nghe một vị khách hỏi Thầy:
– Thưa Ông Tư, sau Đệ nhị Thế chiến
chấm dứt, Ông Tư có thể đoán trận giặc thứ ba sẽ xảy ra không? Nếu có thì vào
năm nào, và ở đâu?
Đức Thầy đáp:
– Trận giặc thứ ba sẽ có, nhưng tôi
không thể định chắc vào năm nào. Vì còn do sự gieo nhân của nhân của nhơn loại,
nếu họ gây tạo nhân ác nhiều thì sớm; bằng ít sẽ muộn hơn, nhưng cũng trong chu
kỳ Hạ nguơn nầy. Còn ngòi chiến tranh thứ ba bùng nổ chắc chắn sẽ khởi từ vùng
Trung Đông. Khi cuộc chiến ở Trung Đông tạm ngưng sẽ đến vùng Á Đông.
Thuật theo lời ông giáo Khương
PHẦN NHẬN XÉT:
Đọc chuyện trên, ta thấy trước đây
nửa thế kỷ thuở mà nền văn minh khoa học chưa được phát triển mạnh, nên dù là
hàng thức giả cũng không dự đoán được Đệ Tam Thế Chiến có hay không, và nếu có
sẽ khởi thỉ từ đâu.
Thật ra, đối với Đức Giáo Chủ điều
nầy Ngài nói rất nhiều ở Sấm Thi. Có lần thuyết pháp tại Tổ Đình, Ngài còn ung
dung cho biết Đệ Nhị Thế Chiến chỉ là tiểu chiến tranh mà thôi. Còn Đệ Tam Thế
Chiến mới là đại chiến tranh! Và đó là lần tận diệt của cơ Thiên định.
Ở đây Ngài cho các thức giả biết
cuộc chiến thứ ba bùng nổ mau hay chậm cũng tùy ở nhân của chúng sanh mà hái
quả, nhưng không ngoài chu kỳ Nguơn hạ nầy. Thế nên Ngài đã cho biết:
Vì thời cơ đã đến, lý Thiên đình
hoạch định, cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan. Ta đây tuy không thể đem phép
huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên …
(Bài Thay
Lời Tựa)
Thế là các thứ nạn khổ là do tội ác
của chúng sanh quá nặng, mới lãnh lấy tai họa hãi hùng!
Đọc lại thánh phẩm của Ngài qua điệu
thơ liên ngâm (bài Ai Người Tri Kỷ), ta mới thấy rõ ý nghĩa này:
Lầm than khói lửa với binh đao,
Âu Á lung tung nhuộm máo đào.
Bá tánh say sưa mùi phú quí,
Sau này sẽ vướng cảnh đồ lao.
Và Ngài còn chỉ cho ta cách vượt khổ
như là:
Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
Phật đạo trau dồi tâm tánh lại,
Giác thuyền chuyên chở lúc can qua.
***
Can qua dân chúng chớ buồn lo,
Tích đức chờ ta chốn hẹn hò.
Tiên cảnh Phật đài xem rực rỡ,
Hoàn cầu đến đó ấm cùng no.
(Ai Người Tri Kỷ)
Tóm lại, nếu nhơn loại không nghe
lời chỉ dạy của đấng cứu thế mà chứa đức hành thiện, thì dù tài trí tới đâu
cũng tránh không khỏi thảm họa hãi hùng của cơ tận diệt. Nếu chúng sanh giác
ngộ, lo tròn đạo lý nghĩa nhân, thì ngày ấy sẽ được Tiên Phật cứu vớt đến chỗ
tột vui mà an hưởng. Vì Ngài đã cho biết:
Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.
(Bài Bóng Hồng)
Có điều ta nên nhớ là Ngài ra đời
với mục đích là cứu khổ cho chúng sanh, mới khuyên dạy chúng ta tu nhân hành
thiện để khỏi khổ được vui, bởi vì:
Cứu lương hiền chẳng cứu người hung,
Kẻ gian ác đến sau tiêu diệt.
(Sấm Giảng Quyển 2)
Tuy Phật thương chúng sanh như mẹ
thương con, nhưng nếu chúng sanh tội ác quá nhiều mà không ăn năn sám hối, cứ
gây nhân bất thiện thì dù Phật có quảng đại thần thông cũng không sửa luật nhân
quả cho mình được.
[next]
Mẩu chuyện thứ 71
LÀM Y THEO GIÁO LÝ
Năm Ất Dậu 1945 Đức Thầy ngụ tại
đường Miche, Sài Gòn, lúc ấy có đông anh em tín đồ ở Miền Tây đi lên thăm Đức
Thầy, được Đức Thầy cầm ở lại chơi vài hôm. Anh em này quá mừng, đồng bàn với
nhau: Chẳng mấy khi mình gần gũi Đức Thầy, mình rình coi Đức Thầy cúng lạy theo
nghi thức thế nào để về mình làm theo cho đúng.
Chiều hôm ấy, khi Đức Thầy cúng lạy
xong, Đức Thầy kêu anh em lại nói rằng:
– Bà con ra đây coi tôi cúng lạy,
đặng về cúng lạy cho trúng để thành Phật, phải không? Còn những người khác
không thấy tôi cúng lạy mà tu hành chơn chánh rồi không được đắc đạo hay sao?
Khi mọi người nghe Đức Thầy rầy, nói
trúng tâm ý của mình, anh em này hết sức sợ, van xin Đức Thầy tha lỗi.
Qua hôm sau Đức Thầy cúng lạy, anh
em cũng liếc xem như bữa trước. Đức Thầy cúng xong kêu anh em lại cho Thầy bảo.
Mấy anh em lén xem lúc nãy lo sợ nét mặt tái mét, cúm rúm đến bên Thầy khoanh
tay chờ nghe phán dạy. Đức Thầy đốt hương phát cho mỗi người một cây. Đức Thầy
nói:
Thôi, bà con muốn làm y theo tôi,
đứng xếp hàng đây, coi tôi làm sao thì làm y như vậy. Tôi nguyện sao thì cũng
nguyện y như vậy.
Dặn xong, Đức Thầy cầm hương xá ba
xá, kế Đức Thầy quì xuống chấp tay lên trán. Anh em cũng xá và quì theo. Đức
Thầy đọc lớn tiếng: “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”.
Lúc bấy giờ anh em đồng đạo ngơ
ngác, nhìn qua lại với nhau, làm thinh không đọc theo. Đức Thầy xoay lại dòm
anh em đang quì, Thầy hỏi “Sao bà con không đọc theo tôi?” Anh em đồng đạo nghe
Đức Thầy hỏi, sợ Thầy rầy, liền đọc theo một rặp “Đạo gốc bởi lòng thành tín
hiệp”. Đức Thầy mĩm cười đứng lên nhìn anh em hỏi:
– Bà con biết tôi đọc bài gì không?
Các anh em đồng đạo thưa:
– Bạch Thầy, chúng con không biết.
Đức Thầy nói tiếp:
– Ủa, không biết sao đọc theo? Tôi
đọc bài nguyện bên đạo Cao Đài mà bà con cũng đọc theo. Như vậy đâu có làm y
theo tôi đâu?
Anh em nghe Đức Thầy rầy, sợ quá,
liền thưa:
– Bạch Thầy, Thầy dạy chúng con Thầy
làm sao thì làm y như vậy, nên chúng con không dám cải.
Với nét mặt nghiêm nghị, Đức Thầy
nói:
– Tôi bảo làm y là làm y theo giáo
lý của tôi dạy, chớ nào bảo làm theo tôi. Nếu Đức Phật Thích Ca hiện xuống bảo
các người làm sai chân lý, các người có làm không?
Anh em đồng thưa:
– Bạch Thầy, không.
Đức Thầy dịu giọng:
– Ừ, vậy đó. Nếu sau nầy có ai giống
tôi và xưng là tôi bảo bà con làm gì, bà con cũng đừng vội tin, hãy xét kỹ lại
lời nói ấy có đúng theo chơn lý hay không, được như vậy mới gọi là làm y, và
không bị gọi là mê tín.
Thuật theo lời ông Lê văn Phú tự
Tho.
PHẦN NHẬN XÉT:
Suốt thời gian hoằng Đạo, Đức Giáo
Chủ đã tay bút sắt, tay gậy kim cang dìu nhơn loại lên đường thoát khổ. Ngài
tiên tri là mình sẽ xa cách tín đồ một thời gian khá dài, thời gian đó, nếu ai
không bền chí kiên trinh, dễ tin thiếu trí, chắc phải bị lầm lạc nẽo tà, hoặc
lợi danh cám dỗ. Còn tín đồ nào sáng suốt hành y theo giáo lý của Ngài, thì dù
có xa cách nghìn dặm cũng vẫn ngoan đạo tiến tu. Trái lại, người có tâm mà
thiếu trí thì lúc nào cũng muốn trực kiến với Thầy để lãnh giáo, bởi quá tôn
kính Thầy, mà không đủ trí tín, nên cứ nhắm mắt làm càn, thì dù có sống bên
cạnh Thầy cũng vẫn làm sai tôn chỉ, và khi Đức Thầy xa vắng có ai xưng Thầy trở
lại thì họ sẽ tin theo.
Thế nên muốn ý thức cho tín đồ nương
theo giáo lý của Ngài, vì đó là chơn lý, mà chơn thì không bao giờ bị hoại
diệt. Nếu không bám sát chơn lý mà chỉ nương vào hình tướng và sự linh ứng,
hoặc đi tìm Thầy Tổ qua hình thức bên ngoài thì dễ bị rơi vào tà đạo.
Xưa có ông trưởng giả rất keo kiết,
bình sanh ông không hề bố thí cho ai. Một hôm Đức Phật hiện đến, với thân 32
tướng tốt, rất trang nghiêm. Khi diện kiến Đức Phật ông sanh tâm kính mộ, liền
tiếp rước Đức Ngài vào Pháp tòa và thỉnh Pháp. Đức Phật dạy: “Ông nên phát tâm
làm 5 đại bố thí được không?”. Ông Trưởng giả liền bạch: “Bạch Đức Thế Tôn, đối
với con một tiểu bố thí cũng không làm được, huống gì là 5 đại bố thí”. Đức
Phật bảo: “Ta không bảo ông đem của tiền bố thí mà bảo ông nên giữ 5 giới cấm.
Đó là ngũ đại bố thí”. Trưởng giả bạch: “Bạch Ngài, năm đại bố thí ấy như thế
nào, và lợi ích ra sao?” Đức Phật bảo: “Một là không sát sanh, vì sát sanh là
vay nợ mạng, bởi cướp mạng sống của loài vật nên làm mất đi hột giống từ bi,
tương lai phải đầu sanh mà đền mạng, đền ác quả.”
Tiếp theo đó, Phật thuyết luôn cả
giới trộm cắp, tà dâm, ẩm tửu, vọng ngữ. Đức Phật giải thích từng giới và nói
rõ tai hại của người phạm giới, lợi ích của người giữ giới v.v… Trưởng giả nghe
xong rất vui mừng, xin phát tâm giữ 5 điều giới cấm.
Ít hôm sau Ma Vương hóa hiện ra
Phật, hiện đến nhà trưởng giả. Trưởng giả mừng rỡ ra nghinh tiếp. Ma vương giả
Phật nói: Hôm trước ta bảo ông giữ giới, đó là huyền pháp vậy thôi; nay mới là
chánh pháp, tức là ông nên phá giới làm ngược lại với lời nói của ta ngày
trước. Trưởng giả suy nghĩ: Lời nói hôm nay là tà thuyết, ta không thể nghe
theo. Ma vương mấy phen lung lạc. Trưởng giả khăng khắng một lòng, quyết gìn
giới cấm không chịu xả bỏ. Thấy không thể thuyết phục được, Ma vương liền hiện
lại nguyên hình và ca ngợi trí tín của vị trưởng giả, tuy mới phát tâm mà rất
sáng suốt vậy.
Chúng ta hôm nay cũng thế, tuy Thầy
Tổ đã vắng bóng nhưng kho tàng bảo pháp vẫn còn đây, ta cứ nương theo đó mà trì
hành, không nên vội vã tìm Thầy, mà phải cố gắng làm y theo lời thánh huấn của
Ngài, chắc sẽ được Ngài tìm ta mà ban thưởng ở tương lai, như câu: “Làm theo
lời chỉ ngày rày gặp ta!”
Mẩu chuyện thứ 72
TÔI SẮM CÂY DÙ
Lúc Đức Thầy an trí tại Bạc Liêu,
một buổi chiều đẹp trời, Đức Thầy đang hóng mát nơi thanh vắng, nét mặt Ngài lộ
sắc buồn, hướng mắt về Phương Tây. Anh Nguyễn Thành Nhân, một tín đồ động lòng,
vì thấy Thầy phải đương đầu với mọi nỗi khó khăn; nào thực dân Pháp kềm kẹp
chúng bắt Ngài phải đi trình báo mỗi tháng 4 lần; nào ngăn cấm không cho tín đồ
đến thăm và nghe pháp. . .vv. Vì muốn chia sớt nỗi buồn của Thầy mình và được
nghe lời chỉ giáo, nên anh Nhân đến bạch Ngài:
– Bạch Thầy, mới như vầy mà mình
chịu chưa nỗi mà Thầy còn nói: “Khổ với thảm ngày nay có mấy, Sợ mai sau dòm
thấy bay hồn.”
Đức Thầy nhìn anh Nhân và nói hơi
mạnh:
– Tôi sắm cây dù, tôi không thể che
kèo cán nó hay sao.
Nói xong Ngài nhìn lại phía trước và
dịu giọng tiếp:
– Tuy nhiên kèo cán ấy phải ở trong
cây dù.
Thuật theo lời ông Nguyễn Thành
Nhân.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đức Thầy ra đời với sứ mạng thiêng
liêng cao cả là “Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc.” Nhưng nhơn loại hiện nay
đang sống trong lúc cuối của buổi tận nguơn, đang và sẽ đương đầu với mọi điều
khốn khổ, mà Đức Thầy dám xông vào gở cái ách xích xiềng thế tục, thì sao khỏi
đương đầu với mọi nỗi khó khăn. Tuy nhiên đã là một đấng giác ngộ hoàn toàn thì
bao giờ cũng giác tha tự tại. Thế nên Ngài mới thí dụ như Ngài đã sắm cây dù,
thì tất nhiên Ngài phải che được kèo cán của nó, chỉ trừ kèo cán ấy sút ra khỏi
dù.
Thật vậy, tuy ngày tận diệt của buổi
Hạ nguơn có muôn ngàn thứ nạn khổ, nhưng may mắn cho chúng ta Đức Tôn Sư ra đời
đem đại Đạo để giáo truyền và che chở cho ta. Nếu người tín đồ biết tuân thủ
giới qui của Ngài, như kèo cán của cây dù, thì có lo gì mưa chan nắng táp. Muốn
cho tín đồ đặt vững niềm tin nên Ngài đã từ bi phán dạy:
Ra kệ nầy hai chữ bảo an,
Cho trần thế được tâm thanh tịnh.
(Sấm Giảng Quyển 4)
Bảo là bảo bọc chở che. An là an
toàn mọi sự.
Còn nếu ai chẳng bền chí kiên trinh,
qui y mà làm sái, và vi phạm điều Răn Cấm của Ngài thì khác nào kèo cán bị sút
hư, thì làm sao mà an toàn cho được, đến khi gặp khổ mới hối tiếc, khóc than,
thì đã quá muộn màng! Thế nên Ngài đã báo cho ta biết trước:
Để sau đến việc tả tơi,
Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành.
Ngày nay chim đã gặp cành,
Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa.
(Sấm Giảng Quyển 3)
Tóm lại, Đức Thầy có đủ công năng để
cứu độ, và bảo bọc che chở cho ta, nếu ta chịu tuân thủ giới qui, bền tâm tu
tiến. Trái lại, nếu ta qui y mà chẳng làm y, miệng tu mà tâm không sửa, cứ sám
hối gian lừa, làm điều xằn bậy, dù Phật còn trụ thế hay là ở cạnh bên Thầy cũng
phải nhận lấy cái luật công bằng của Nhân Quả, như lời ông Ba Thới * đã cho
biết: “Kẻ ác tiêu xác tiêu hồn, Người hiền còn lại tích tồn hậu lai” (Kim Cổ Kỳ
Quan). Còn người thiệt tâm tu sửa, dù có gặp ít nhiều nạn khổ, đó chỉ là:
Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
Lúc nguy nàn thối chí cùng chăng.
(Bài Sa Đéc)
Thế nhất định Thầy ta và các đấng
siêu hình không bỏ rơi ta bao giờ. Ta hãy đọc lại lời thánh giáo của Ngài để
đặt vững niềm tin. “Cần hiểu cái lý vô ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành
sẽ có Thầy ủng hộ.” Vậy ta nên xét coi mình có rán sức thi hành được y theo tôn
ý của Ngài không, các điều thiện mình có làm được ít nhiều chưa, nếu chưa thì
hãy cố gắng thiệt thi, kẻo muộn!
* Ông Ba Thới tức ông Nguyễn văn
Thới (1866-1927): Nguyên quán ở Cao Lãnh, Sa Đéc, là một cao đồ đắc pháp Bửu
Sơn Kỳ Hương, viết nên Kim Cổ Kỳ Quan một đại tác phẩm nổi tiếng trong thiền
phái.
Mẩu chuyện thứ 73
MUỐN CÓ HUỆ THÌ PHẢI BẮT SÂU
Vào năm 1939 lúc Đức Thầy mở Đạo tại
Hòa Hảo, người ta lũ lượt đến viềng Ngài mỗi lúc mỗi đông, kẻ nghe pháp qui y,
người nhờ Ngài phát phù trị bịnh.
Lúc bấy giờ có bà phán Nguyễn thị
Ngọ, vợ thông phán tòa án Châu Đốc, là một Phật tử tại gia cũng đến nghe pháp
và tìm hiểu coi Ngài như thế nào. Trước đa số thính chúng, bà phán hỏi:
– Bạch Thầy, xin Thầy hoan hỉ cho
con biết con tu có huệ hay không?
Đức Thầy tươi cười đáp:
– Bà muốn có huệ thì phải bắt sâu.
Câu đáp ngắn gọn của Ngài khiến bà
phán vô cùng kính phục và rất hài lòng.
Thuật theo Đuốc Từ Bi
PHẦN NHẬN XÉT:
Câu nói của Đức Thầy tuy ngắn gọn mà
hàm súc một ý nghĩa rất sâu xa. Thay vì phải nói đến huệ tâm hay trí bát nhã
thì Ngài lại dùng hoa huệ để ám chỉ trí huệ hay huệ tâm. Đó là Ngài diễn sự để
bày lý.
Thật vậy, người tín đồ hay tăng đồ
nhà Phật ai lại không muốn mình có được huệ tâm, nhưng muốn có huệ mà tâm không
dọn sạch ma trược phiền não, chẳng đốn sạch gốc vô minh, thì có khác nào đem
hột lúa sạ trong đám đế sậy thì làm sao chúng phát triển được tốt đẹp theo ý
muốn của mình. Cũng như người trồng bông huệ, nếu không vun phân tưới nước bắt
sâu thì hoa sẽ bị lụn tàn hư hoại. Thế nên Ngài bảo: “Muốn có huệ thì phải bắt
sâu.” Đại ý là người tu muốn được phát huệ phải tận trừ tánh xấu, như người
trồng bông huệ phải bắt sâu. Nếu dọn mình trong sạch rồi thì tâm được bình tịnh
sẽ được kết quả như Ngài đã cho biết.
Nếu ai mà
biết chữ tu trì,
Tâm bình
tịnh được thì phát huệ.
(Sấm Giảng
Quyển 4)
Chúng ta là
người học Đạo, muốn vượt bể trầm luân, lên đại chu thoàn để qua bờ giác, hãy
rán tìm cho kỹ “các loại sâu” còn ẩn núp nơi tâm mình để bắt hết nó ra thì mới
được “Huệ tâm khai ngử chuyển huyền thông”. Nếu chẳng được vậy thì uổng công tu
niệm!
Mẩu chuyện thứ 74
TỪ BI
Năm Giáp
Thân 1944, khi Đức Thầy còn tạm trú căn phố đường Nguyễn Công Trứ, một chiều nọ
có một nữ tín đồ ở Phú Thuận, Châu Đốc xin vào viếng Ngài. Người tín đồ nầy có
mang theo một gói được bao phong cẩn thận bên ngoài bằng giấy nhựt trình. Khi
diện kiến Đức Thầy, người tín đồ ấy trịnh trọng dâng gói lên và bạch rằng:
– Bạch Thầy,
Con xin phép được viếng Thầy, sau đó dâng Thầy một bộ đồ hàng Long Khánh, Tân
Châu để Thầy thay đổi. Vì con thấy Thầy chỉ mặc toàn đồ trắng hay vải nhuộm dà
mà thôi.
Đức Thầy tươi
cười nhận tặng vật và thốt lời cám ơn. Đồng thời Ngài bảo một nữ tín đồ trong
nhà cất đi, nhưng dặn đừng mở gói.
Sau đó ba
ngày, có một nam tín đồ giã từ, Ngài bảo người tín đồ ở trong nhà lấy gói quần
áo hôm nọ ra, rồi tự tay đưa biếu cho người nam tín đồ ấy. Người nữ tín đồ lộ
vẻ ngạc nhiên có ẩn sự tiếc rẽ bộ đồ nên bạch rằng:
– Bạch Thầy,
bộ đồ mới của chị Hai dâng cho Thầy mà chưa mặc lần nào sao Thầy cho ông Ba?
Đức Thầy
nghiêm trang đáp:
– Cô biết bộ
đồ hàng nầy đã làm hết bao nhiêu con tằm không?
Rồi Ngài
trầm ngâm suy nghĩ!
Thuật theo
Khổng Tước Nguyên.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Ai đã đọc
hết sấm thi và tìm hiểu kỹ nhiều mẩu chuyện bên Thầy, phải đều nhận nơi lòng từ
vô hạn của Ngài đối với chúng sanh. Câu chuyện nầy cũng như nhiều câu chuyện
khác.
Thật vậy,
bởi tam giáo đều chủ trương tế nhân lợi vật. Qua câu: “Nhứt thiết chúng sanh
giai hữu Phật tánh” của nhà Phật cũng đủ cho ta biết giữa ta và các loài vật dù
lớn nhỏ cũng đều có bản tính Phật đồng nhau. Thế thì mỗi chúng hữu tình cũng
đều tiến hóa đến quả vị Phật, Tiên, nên khi giết hại chúng tức là ta làm mất đi
hạt giống từ bi và vay nợ mạng với loài sinh vật. Theo luật Nhân Quả thì sát
sanh phải đền mạng mà giới răn của nhà Phật tội sát sanh đứng ở hàng đầu. Đức
Giáo Chủ là một bậc đại giác đại từ nên lúc nào cũng ban vui cứu khổ cho chúng
sanh nên Ngài đã từng phán dạy:
Hãy vì chúng
sanh còn lao lý,
Nguyện uống
cho đời chén thuốc cay.
Ở một đoạn
khác Ngài dạy:
– Sinh vật
cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống như nhơn loại vậy.
Thế nên hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng. (Bài Luận Về Tam Nghiệp,
Sát sanh)
Tóm lại, bởi
thể hiện từ bi nên Ngài dùng bộ đồ đắc giá đó điển hình thí dụ để cho tín đồ
biết người tu không nên trang sức những loại hàng đắt giá làm mất đức kiệm,
trong khi xã hội nầy còn biết bao kẻ rách rưới cơ hàn. Nhứt là trong bộ đồ đó,
người ta dệt bằng chỉ tơ mà tơ là do biết bao nhiêu nghìn triệu con tằm đã móc
ruột làm tơ và phải chết. Thế nên lời phán dạy đầy từ bi nhơn ái phát ra từ kim
khẩu của Ngài: “Cô biết bộ đồ hàng nầy đã làm chết bao nhiêu con tằm không?”
Đây là ngọc ngữ đáng cho ta ghi khắc để học hành đức độ cao cả mà “Dĩ đức hiếu
sinh”, tương lai sẽ được hưởng quả trọn lành và an lạc.
Mẩu chuyện thứ 75
ÔNG THẦN KHÔNG TU ÔNG THẦN CŨNG CHẾT
Một hôm ông
Nguyễn Giác Ngộ (*1) được lịnh Đức Thầy đòi đến Miền Đông dạy việc, khi ông mới
vừa bước vào phòng khách, nghe Đức Thầy rầy ông Trần văn Soái tục gọi là Năm
Lửa. Ông Năm Lửa đang ngồi dòm xuống, còn Đức Thầy đi tới đi lui trong phòng
khách nói:
– Ai cho
lịnh để chiến sĩ Ông làm bậy gây thiệt hại cho đồng bào ở Miền Tây?
Đức Thầy
ngưng lại một lúc rồi nói tiếp:
– Tôi nói
cho Ông biết ông Thần không tu ông Thần cũng chết, đừng nói người phàm. Đạo của
tôi dạy chia làm sáu hạng mà không được hạng thứ sáu là tệ lắm!
Đồng thời
Đức Thầy đếm trên đầu ngón tay:
– Phật,
Thánh, Tiên, Thần, Tướng, Dân.
Thuật theo
lời của ông Nguyễn Giác Ngộ
PHẦN NHẬN
XÉT:
Hướng nhắm
rốt ráo của đạo Phật là cắt đứt nẽo phiền trược khổ đau, đi đến nơi yên vui
thoát khổ. Tuy nhiên, “Qui nguyên bổn vô nhị, phương tiện hữu đa môn”, thế nên
sự khai minh chính giáo của Ngài tuy mục đích là đưa nhơn sanh đến chỗ cứu cánh
giải thoát, nhưng với trình độ của chúng sanh trong thế kỷ 20 nầy bởi nghiệp
chướng quá nặng nề nên Ngài tùy cơ hóa độ, mới chia ra nhiều hạng khác nhau. Đó
là diệu dụng của bậc giác tha hóa chúng. Ngài đã từng phán dạy:
Sá chi kẻ
ngu si khinh ngạo,
Vì trên đời
nhiều hạng khác nhau.
(Bài Diệu
Pháp Quang Minh)
Tuy có khác
nhau về trình độ căn cơ nhưng Phật tính vẫn đồng, nên Ngài không nỡ bỏ rơi hạng
người tình dầy nghiệp nặng. Cũng như bà mẹ đối với con, chẳng những bà mẹ ban
tình thương cho đứa con khôn ngoan sáng suốt, mà cũng luôn thương yêu đứa xấu
xí ngu đần. Nếu có bị tật nguyền thì mẹ cũng chẳng hề vì thế mà từ bỏ con mình,
trái lại còn phải thương lo nhiều hơn đứa khôn ngoan giàu có.
Lòng từ của
Đức Thầy đối với chúng ta cũng thế, nên Ngài mới chia ra nhiều bậc, nếu ai
không đủ điều kiện tu tiến đến chỗ thành Tiên, đắc Phật thì họ cũng được sống
đời Thượng Cổ (Thượng Nguơn) (*2) để giúp nước phò vua, hay là làm Dân Phật
Quốc, rồi lần lần họ tiến lên đến mức giải thoát an vui.
Nhưng dù cho
hạng thứ nhứt hay thứ chót cũng thế, tuy sự công dụng có khác nhưng các điều
căn bản của đường lối Học Phật Tu Nhân, họ phải triệt để tuân hành, nghĩa là
phải giữ tròn cấm giới, nói trọn điều lành, làm trọn việc chánh. Như anh tài xế
lái xe trên quốc lộ, dù đi xa hay đi gần cũng phải giữ bên thuận, và nhắm thẳng
theo quốc lộ mà chạy. Chớ không phải ỷ chạy đường gần rồi bỏ luật giao thông
thì khó an toàn tánh mạng.
Tóm lại, bởi
ông Năm Lửa là một chỉ huy của quân đội mà kỷ luật chẳng nghiêm minh nên mới bị
Thầy rầy quở, và cho biết Đạo Ngài có sáu hạng, mà tu hạn chót tức là dân đời
Thượng Cổ không được là dở! Lời minh huấn trên đây là một bài pháp lý tuyệt
vời, đáng cho ta ghi nhớ mà hành y sẽ được phần thưởng xứng đáng vậy!
*1- Tướng
Nguyễn Giác Ngộ lúc đó đang là chỉ huy trưởng Liên đội Nguyễn Trung Trực quân
đội PGHH; còn tướng Trần văn Soái thì chỉ huy Chi đội lưu động đang đóng quân
tại Hậu Giang. Cả hai là thuộc hạ tín cẩn, sát cạnh Đức Thầy, và cùng là tín đồ
cao cấp trong Đạo.
*2- Nhân
sinh quan của Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giaó Hòa Hảo: vũ trụ tuần hoàn theo Tam
Nguơn, gồm Thượng Nguơn, Trung Nguơn, và Hạ Nguơn. Nay thuộc thời Hạ nguơn và
sẽ lập lại Thượng nguơn. Đời Thượng nguơn sắp đến tốt đẹp như thời Thượng Cổ
Nghiêu Thuấn thuở xưa. [xin đọc: Hạ nguơn nay đã hết đời. Thượng nguơn hồi phục
là ngày an cư (Bài Thiên Lý Ca); Những mơ ước hồi qui Thượng cổ, Ta điên thuở
Tam hoàng Thượng cổ (Bài Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ); Thuở xưa thời buổi Thuấn
Nghiêu, Thái bình thịnh trị mến yêu khắng tình, Chớ đâu đồ thán sanh linh! (Bài
Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)].
[next]
Mẩu chuyện thứ 76
HẾT ĐỜI HẠ NGUƠN
Vào cuối năm 1946, trong thời kỳ
chống Pháp. Bấy giờ anh em chiến sĩ Miền Đông đến 6 giờ chiều mới dám ngồi lại
nói chuyện cho khuây khỏa việc nhớ nhà. Lúc đó, Đức Thầy cũng vừa đi đến và
ngồi chung với các anh em chiến sĩ. Anh Tâm hỏi Thầy:
– Bạch Thầy, trong Quyển (giảng )
thứ nhứt Thầy nói: “Hạ Nguơn nay đã hết đời”, vậy khi hết đời có những hiện
tượng gì, xin Thầy dạy cho chúng con được biết?
Đức Thầy vui vẻ đáp:
– Thầy nói hết đời là hết đời bợn
nhơ. Chừng hết đời bợn nhơ ấy, nó có những hiện tượng báo trước cho nhơn loại
thấy, như bão lụt, động đất, chiến tranh, bịnh tật, đau đói làm cho nhơn loại
trên quả địa cầu nầy chết chốc rất thê thảm không sao kể xiết! Đó là dấu hiệu
hết đời Hạ Nguơn.
Đồng thời với tai họa khủng khiếp
này nền văn minh khoa học cũng phát minh tột đỉnh để rồi bế tắc, như ngọn lửa
phát cháy mạnh rồi tàn.
Ngưng một lúc Đức Thầy tiếp:
– Vậy ngoài bổn phận chống xâm lăng
bảo vệ đất nước, các ông còn phải rán lo tu hành theo lời Thầy đã khuyên dạy.
Vì có Tu mới được sống đời Thượng Nguơn Thánh Đức.
Thuật theo lời anh Tâm, một chiến sĩ
kháng Pháp Miền Đông.
PHẦN NHẬN XÉT:
Lời tiên tri của Thầy quả thật không
sai. Đọc qua Sấm giảng của Ngài viết vào năm 1939, khởi đầu của Quyển thứ nhứt
Ngài đã tiên báo cho biết Hạ Nguơn nay đã hết đời, Phong ba biến chuyển đổi dời
gia cang. Nếu ai có để tâm theo dõi thì đều nhận ở sự biến chuyển bởi mở màn
của Đệ nhị Thế chiến, nào giặc giã chết chóc, đói khổ, bịnh tật lạ kỳ, đổi dời
gia cang vì chiến nạn v.v… Thế mà Ngài còn tiên tri là Đệ Tam Thế Chiến còn
diễn ra thê thảm gắp mấy lần hơn của Đệ Nhị Thế Chiến. Đó là điềm báo tận diệt
của Lý Tam Nguơn. Thế nên, hiện nay từ quốc nội cho đến hải ngoại những bản tin
động đất, bão lụt, bịnh tật, đói khổ không sao kể xiết. Đồng thời, các nhà văn
minh khoa học phát minh tiến bộ một cách tuyệt đỉnh, và họ sáng chế ra nhiều
thứ vũ khí tối tân đủ sức tiêu diệt loài người. Đó là điềm báo nhân loại đến
thời kỳ trả quả.
Những lời tiên tri của Ngài giờ đây
đã hiển bày tỏ rõ, đủ chứng minh là điềm báo sự tiêu diệt của buổi Hạ Nguơn.
Nhưng rất may mắn cho ta là được Ngài lâm phàm dạy Đạo, chọn người chơn tu được
trực vãng Tây Phương, hoặc sống còn ở Nguơn Thánh Đức. Thế nên, Ngài đã từ bi phán dạy:
Cầu cho già
trẻ gái trai,
Rủ nhau niệm
Phật liên đài ắt lên.
Thế gian ngay thảo đáp đền,
Ngày sau sẽ được chăn mền thơm tho.
(Bài Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
Tóm lại những hiện tượng Ngài báo
trước, nay đã có rõ ràng. Ta nên cố gắng tu, chớ có chần chờ e có ngày hối
tiếc!
Mẩu chuyện thứ 77
QUA NĂM DÊ
Vào khoảng mùa Xuân năm Tân Tỵ 1941
Đức Thầy bị người Pháp an trí tại nhà thương Chợ Quán, Sài Gòn. Họ kiểm soát
quá gắt gao, không cho tín đồ lui tới viếng thăm Ngài. Duy có Đức Ông, Hương
chủ Cưu và một vài tín đồ khác, cứ mỗi tuần vào chiều thứ bảy mới được vào thăm
trong vòng vài tiếng đồng hồ mà thôi.
Sau đó một thời gian, Đức Thầy cảm
hóa được Bác Sĩ Trần văn Tâm, vị cai quản bịnh viện nầy, và thu phục được anh
gác cửa bằng cách là dùng chai nước lạnh để trị bịnh mù mắt cho mẹ anh được
sáng lại. Nhờ vậy, mà từ đó anh em tín đồ đến thăm Đức Thầy mới được dễ dàng.
Một hôm ông chủ Cưu (*3) đang tiếp
chuyện với một ít đồng đạo tại cửa, còn Đức Thầy thì nằm nghỉ nơi gian phòng
phía trong. Bấy giờ quí vị ấy cùng ông chủ Cưu bàn qua việc tu hành, lần lượt
họ đưa ra hai câu giảng:
Qua năm Dê đến lúc mùa hè,
Trong bá tánh biết ai hữu chí.
(Sấm Giảng Quyển 4)
Rồi họ hỏi ông chủ hai câu ấy ý
nghĩa như thế nào. Ông chủ Cưu giải thích cho quí vị ấy nghe và nói hơi lớn
tiếng: “Nếu đến mùa hè năm Dê mà không có chuyện gì hết thì tôi không tu nữa”.
Bỗng Đức Thầy bước đến lưng ông Cưu, vỗ vai ông mà nói:
– Sao ông Cưu nói kỳ vậy, tu là tu,
thời cuộc là thời cuộc. Chớ đâu phải vì thời cuộc mà mình mới tu.
Tiếng chuông cảnh tỉnh ấy làm ông
chủ giật mình và hối tiếc vì lời mình đã nói ra.
Viết theo lời ông Lâm Thơ Cưu.
PHẦN NHẬN XÉT:
Mục đích của người tu Phật là cắt
đứt sự sanh tử phiền trược khổ đau để đến nơi an vui thoát khổ. Thế nên hành
giả phải trau tâm sửa tánh, chỉ ác dương thiện, (*4) diệt sạch lòng tà, chuyên
tâm niệm Phật, như câu:
Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho
trơn.
(Khuyến Thiện)
Và sự đầu tiên của người hành đạo là
cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ những tư tưởng xấu xa, đem thay vào tư
tưởng ôn hòa đạo đức. Nhưng vì chúng sanh bị vô minh che kín chơn tâm, nên nhận
giả làm thiệt, cứ để cho lợi danh tình ái làm mờ đục tánh giác ngộ của mình.
Thế nên, muốn phá lớp mây mù ấy, Ngài phải hé lộ chút cơ huyền cho chúng sanh
thấy biết được cơ tận diệt gần kề, màn Hạ nguơn sắp sửa mãn để quay về với thực
tế mà dứt đi cái giả ảo, để rồi:
Sớm về cõi Phật an thân,
Kẻo kiếp phong trần dày gió dạn
sương.
(Khuyến Thiện)
Thế mà chúng sanh cứ chấp tới đời
mới tu, nên ông chủ Cưu đã hai lần được Đức Thầy thức tỉnh.
Chẳng những riêng ông chủ Cưu mà
cũng có nhiều người cứ chấp đời tới mới là tu. Thật ra, nếu tu mà cứ chú trọng
về thời cuộc thì khó mà bền vững sự tu hành. Bởi thiên cơ là máy trời, theo lời
Đức Giáo Chủ cho biết nó đến mau hay chậm là do ở nhân nghiệp của chúng sanh,
nhưng dù sớm hay chầy thì ta cũng nên nhớ là tử thần cũng không dung vị cho bất
cứ một ai, và luật nhân quả rất công bình không thiên lệch. Như vậy, nếu không
tu tức là ta đã gieo nhiều nhân tội ác và phải lấy cái quả bất lành ở mai hậu.
Kinh Phật có dạy: “Thân người khó
được, Phật pháp khó nghe”. Mà có được thân người và gặp được Phật pháp là cơ
hội ngàn năm một thuở. Thế nên Đức Thầy dạy ông chủ Cưu mà cũng là dạy chung
cho tất cả tín đồ qua mấy câu ngọc ngữ nầy. Ngài bảo:
“Sao ông Cưu nói kỳ vậy, tu là tu,
thời cuộc là thời cuộc. Chớ đâu phải vì thời cuộc mà mình mới tu.”
Câu kim ngôn trên đây có một giá trị
tuyệt đối, nhắc ta hãy sáng suốt mà tu vì chơn lý, chớ không nên tu vì thời
cuộc, để khỏi phải hối tiếc về sau. Chớ nếu cứ chờ đợi thời cuộc mà mình không
đủ đức hạnh thì cũng lãnh lấy cái đại khổ cho ta, chớ có ích gì.
*3- Chủ Cưu: Gọi tắt tên Ông Hương
chủ Lâm Thơ Cưu.
Hương Chủ là hương chức thứ hai
trong Ban hội tề (gồm Hương Cả, Hương Chủ, Hương Thân, Hương Hào. . ) ở làng xã
nước ta vào thời Pháp thuộc.
*4- Có ý nói: Thôi, dừng lại, không
làm việc ác nữa và việc song hành đó là dung dưỡng điều thiện. Tức “Bỏ ác hành
thiện”.
Mẩu chuyện thứ 78
KHÔNG DÈ
Năm Quí Mùi 1943, một hôm Đức Thầy
hỏi chư tín đồ câu nầy:
– Phải tu
như con rùa hay tu như con cua đinh?
Ai nấy đều
nói: Phải tu như con rùa! Vì xưa nay người ta vẫn cho rằng con rùa biết tu, chớ
không (nghe) ai nói con cua đinh biết tu.
Nhưng Ngài
nói:
Phải tu như
con cua đinh vì nó có vè, chớ con rùa không có vè (*5)
Ý Ngài muốn
nói người tu phải có sự “dè dặt”, và không nên không dè (dặt) đối với mọi người
mọi việc.
Lúc Đức Thầy
ở Sai gòn gần sở hiến binh Nhựt có vài tín đồ ỷ lại vào sự che chở của quân Phù
tang, nên dường như không dè dặt trong mọi hành động. Đức Thầy nói:
– Hễ ỷ thì
ướt; ỷ lại thì mang tai!
Thuật theo
Thất Sơn mầu nhiệm
PHẦN NHẬN
XÉT:
Hai chữ
“không dè” tuy ngắn gọn, nhưng xưa nay không biết bao người phải thảm khổ đảo
điên, nước mắt họ chảy ra để khóc cho mình, cho người thân, không sao kể xiết
bởi họ không có được “cái dè”.
Đối với Đức
Thầy thì Ngài đã quán thông mọi lẽ, thấu triệt huyền cơ, nên mới mượn câu
chuyện của con rùa và cua đinh. Chuyện nầy mới nghe qua như nửa đùa nửa thật,
nhưng đó quả là lời thuyết pháp của Đấng cha lành, có một giá trị tuyệt đối.
Bởi thời nay người Nhựt đang có mặt tại Việt Nam họ hết lòng quí trọng Đức Thầy
và ưu đãi tín đồ của Ngài. Thế nên, có nhiều người cứ ngỡ là thời thế không đổi
thay, nên không dè dặt. Riêng đối với Đức Thầy thì Ngài đã biết trước là người
Nhựt không thể tồn tại trên mãnh đất Việt Nam nên Ngài muốn cho tín đồ phải dè
dặt trên phương diện đối ngoại, đừng ỷ lại vào sự che chở của quân đội Phù
tang. Đồng thời, phải dè dặt mọi vấn đề để khỏi rước lấy tai họa do sự hối tiếc
về sau. Về điểm nầy Ngài đã dạy:
Tất cả các
hành động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính toán một
cách cẩn thận, đừng làm chuyện ngông cuồng vô ý thức. Một đừng ỷ lại vào kẻ
mạnh; hai đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh; ba đừng ỷ lại sự binh vực
của Thầy mình. Luôn luôn lúc nào cũng phải nhớ câu Nhân Quả của Phật dạy, nếu
Nhân toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành động
ngông cuồng, không suy xét cẩn thận để đến đỗi thất bại đem đến sự khó khăn,
khổ não, rồi trách cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình,
Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm lạc ấy rất đáng thương hại.
(Cách thờ
phượng, hành lễ, và ăn ở của một người tín đồ PGHH)
Chẳng những
dè dặt về sự người Nhựt có mặt trên bán đảo Đông Dương, mà còn phải dè dặt mọi
vấn đề trên phương diện xử thế tiếp vật. Chẳng những phải dè dặt mà còn phải
nắm chặt giáo lý của Tổ Thầy, nhứt là phải dè dặt để khỏi bị lầm lạc tà Đạo:
Trí linh mẫn
nhìn xem các chuyện,
Phải đừng
cho lầm lạc nẻo tà.
Dầu việc
người hay việc của ta,
Nên phán
đoán cho tường cho tận.
Tội với
phước xét coi nhiều bận,
Mới khỏi lầm
tà kiến đem vào.
(Sấm Giảng
Quyển 4)
Nếu ta không
lấy trí sáng suốt mà nhận định tinh tường sau nầy ta sẽ hối tiếc bởi không dè.
Không dè Thầy ta là Phật, nên khi Ngài xa vắng ai rủ rồi cũng theo. Bởi sự vắng
mặt quá lâu của Ngài nên có người ngỡ là Ngài không trở lại, rồi mặc tình lung
lăng theo sở dục,. Đến khi gặp khổ thì mới hối tiếc bởi “không dè”. Vậy ta nên
nhớ muôn sự thất bại cũng tại “không dè”. Thế nên ở đời có vô số cái “không dè”
nên phải rước lấy khổ đau.
Lúc ở Sài
Gòn, có lần Thầy nói với ông Cả Hốt sau nầy Thầy sẽ có một diệu pháp để thử lòng
đệ tử. Diệu pháp đó chắc chắn là Ngài áp dụng lúc nầy. Điểm nầy Thầy đã có
nhiều lần thố lộ cho ta biết. Thế mà có nhiều người lại không dè sự thử lòng
đó, lại để cho danh-lợi-tình lôi cuốn vào bể khổ thật đáng tiếc vô cùng!
*5- Vè trong
“có vè” và Dè trong “dè dặt” là hai chữ đồng âm (phát âm theo người Miền Nam)
dị tự. Sử dụng phép “đồng âm dị tự” là một nghệ thuật ngôn ngữ “mượn Sự để diễn
Lý”.
Mẩu chuyện thứ 79
ĐỨC THẦY ĐỘ THẦY KIỆN DẬU (*6)
Năm Canh
Thìn 1940, lúc người Pháp dời Thầy về làng Nhơn Nghĩa Cần Thơ lưu trú tại nhà
ông Hương bộ Võ Mậu Thạnh ở rạch So Đũa. Nơi đây, xưa kia là một vùng dân cư
còn thưa thớt thì nay lại đông đúc. Ghe xuồng đổ xô lại nhà ông Hương bộ. Lúc
nào người ta cũng lại tấp nập, kẻ nhờ Ngài cho thuốc cho bùa để trị bịnh, người
đến nghe thuyết pháp và phát nguyện qui y.
Lúc ấy cô
giáo Sang, vợ ông thầy kiện Dậu, đang mắc bịnh phổi khá nặng, đã chạy chữa khắp
nơi mà không thuyên giảm chút nào. Về thấy bịnh vợ quá nặng, nên ông luật sư
Mai văn Dậu mới chở bà qua Pháp để chữa bịnh. Nhưng ông lại thất vọng, vì 6 ông
bác sĩ ở Pháp cũng không trị được hết bịnh của vợ ông. Lúc bấy giờ bà mới bàn
với chồng: “Thôi ông đem tôi về nước đi. Bịnh tôi chắc phải chết, chớ không thể
sống được. Thà về chết tại nhà để cho có đủ thân bằng quyến thuộc. Chớ tôi
không thể nào mạnh nổi đâu ông à!”
Thế là ông
thầy kiện Dậu đưa vợ về nhà. Bấy giờ bà con lối xóm đến thăm, thấy bịnh bà quá
nặng. Có người chỉ ở nhà ông Bộ Thạnh ở Xà No có ông Đạo linh lắm. Từ khi xuống
đây tới giờ, Ông Tư đã cứu biết bao nhiêu người được khỏi chết. Có nhiều bịnh
bác sĩ Đông Tây đều bó tay, nhưng đem đến Ông Tư thì khỏi bịnh một cách dễ
dàng. Ban đầu cô giáo Sang chưa tin, nhưng rồi cô được nhiều người điềm chỉ
quá, nên cô quyết đến để nhờ Thầy trị bịnh. Nhưng biết ý chồng mình không bao
giờ tin tưởng và đồng ý cho mình đi đến mấy ông Đạo mà trị bịnh bao giờ. Vì
theo ông thì chỉ tin theo khoa học là tuyệt đối, còn về thần quyền thì ông
không thể tin có được.
Thế nên thừa
lúc ông đi vắng, bà mới kêu gia nhơn đưa bà đi Xà No để gặp Đức Thầy.
Đi đến nơi.
Họ bồng bà lên đặt tại bộ ván, bà chỉ còn một hơi thở yếu ớt. Người ta nhờ Thầy
trị bịnh. Thầy bảo:
– Ở Pháp 6
ông bác sĩ đã chạy rồi, bây giờ tôi đâu có thuốc gì mà nhờ tôi trị.
Nói thế
nhưng Ngài cũng từ bi vào trong múc một ly nước lạnh đem trao cho cô giáo Sang
và bảo:
– Cô hãy
uống 1/4 ly nước nầy đi, còn bao nhiêu đem về uống thêm thì hết, chớ không sao
đâu.
Cô giáo Sang
tiếp ly nước, uống xong cô thấy trong người khỏe mạnh rất nhiều. Cô mừng rỡ tạ
ơn Thầy, rồi tự đi xuống thuyền, chớ không phải bồng ẫm như khi nãy.
Khi được
mạnh hẳn, bà mới kể lại chuyện nầy cho ông thầy kiện nghe. Chẳng những ông
không tin mà còn bài bác nữa. Mẹ ông nói: “Ông Tư hòa Hảo là vị Phật lâm phàm
để cứu dân độ thế, con không nên bài bác mà có lỗi với bề trên, hãy nghe lời mẹ
đến đó để tạ ơn Ngài, vì Ngài đã cứu tử cho vợ của con.”
Để tỏ ra
người biết phải trái nghĩa nhân, ông thầy kiện không dám cãi mẹ. Hôm sau cho
người chèo thuyền đưa ông đi đến gặp Đức Thầy. Đúng ý của ông thầy kiện là ngoài
chuyện vừa lòng mẹ mình ông muốn biết rõ coi ông Đạo nầy đức độ ra sao mà người
người đến tấp nập để qui y và không tiếc lời ca tụng.
Trước khi
đi, ông đã viết sẵn một bài thơ để bài bác Đức Thầy, khi xuống ghe ông đọc đi
đọc lại cho thuộc lòng, rồi bật hột quẹt đốt bài thơ ấy, vói ra cửa bỏ tàn
xuống sông.
Khi đến nơi,
Thầy nhìn ông thầy kiện cười và nói rằng:
– Trước khi
đi đến đây ông có viết bài thi cho tôi.
Vừa nói Ngài
vừa đưa bài thi cho ông thầy kiện xem và hỏi:
– Ông nhìn
coi có phải là bài thi của ông không?
Ông Dậu tái
mặt, vì bài thi đó ông đã đốt và bỏ xuống sông khi nãy, mà nay bài thi nầy
trong tay của Thầy. Quả thật không sai, chính dòng chữ và lời văn của mình. Vì
quá kính phục Đức Thầy, nên sau khi nghe pháp ông thầy kiện Dậu liền phát nguyện
qui y.
Viết theo
lời ông Trần Minh Quang.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Chẳng những
một cô giáo Sang được Đức Thầy cứu khỏi bịnh ngặt mà cả hàng ngàn hàng vạn
người được Ngài cứu khỏi mà phát nguyện qui y. Bởi căn cơ của chúng sanh, sanh
ở vào thời Hạ nguơn nầy phần nhiều là kẻ nghiệp nặng tình sâu, thế nên phương
tiện của Ngài phải tùy cơ mà hóa độ.Tuy có phải dùng “Tam độ Nhứt như”, nhưng
mục đích chánh của Ngài là:
Dìu nhơn
sanh khỏi chốn mê lầm,
Bờ giác ngạn
kiên tâm lần bước tới.
Ông thầy
kiện Dậu cũng như những học giả khác, bởi ỷ vào sự học rộng hiểu nhiều của mình
nên cái tự ngã quá nặng. Dưới mắt của ông là không ai có thể hơn mình. Nên dù
vợ ông đã được Ngài cứu khỏi bịnh nan y, thế mà, thay vì sự biết ơn ông lại còn
làm thi để tỏ ra kiêu ngạo. Trường hợp này, nếu Đức Thầy không cho ông thấy
được lẽ diệu huyền của Phật pháp thì khó diệt được tánh kiêu ngạo của ông Dậu.
Thật Ngài quả là một bậc đại giác nên rất tự tại trên phương diện hóa chúng độ
tha.
Câu chuyện
trên cho ta thấy tài phương tiện khéo léo của Đấng cha lành đã từ bi tế độ hết
các bậc, dù sang hèn, ngu trí, nếu chịu hồi tâm thì được Ngài dìu đến bờ an
lạc.
*6- Thầy
Kiện Dậu: Tức ông Luật Sư Mai văn Dậu, người quê Long Xuyên, du học Pháp đỗ
bằng Cử nhân luật, 1940 qui y theo PGHH, theo hoạt động với Đức Thầy và được cử
làm Chánh văn phòng. Năm 1947 đại diện PGHH trong Ban Hòa giải “xô xát” giữa
PGHH với Việt minh ở Miền Tây. Ông có mặt tại Đốc vàng ngày 16-4-1947 khi Đức
Thầy bị Bửu Vinh (VM) ám hại tại đây. Về già, ông về Ô Môn cất am chuyên lo tu
hành cho đến chết.
Mẩu chuyện thứ 80
KHÔNG BIẾT THÌ KHÔNG DÙNG
Năm Bính
Tuất 1946, tôi Lâm Thành Tư tức Tư Thuốc được lịnh của ông Trần văn Soái, chỉ
huy Vệ Quốc Đoàn Bộ đội Nguyễn Trung Trực số 1, bảo phải đích thân ra chiến khu
Miền Đông để yết kiến Đức Thầy và dâng nhiều thư từ báo cáo về tình hình chiến
sự Miền Tây cho Ngài.
Đến nơi, Sau
khi làm bổn phận một trưởng ban dọ thám, nhiệm vụ của tôi đứng nép một bên kính
cẩn chờ Thầy xem qua giấy tờ. Khi xem tờ giấy phúc trình của ông trần văn Soái,
thấy có đoạn đề nghị ông Nguyễn Khoan Dùng tục gọi là cậu hai Dùng, làm chức
thanh tra quân đội Nguyễn Trung Trực, Ngài nghiêm túc nói:
– Trong hàng
tín đồ của tôi không có ông cậu và ông đạo. Ông Hai Dùng không hiểu quân sự,
không dùng được!
Tôi cúi đầu
vâng lịnh và tâm niệm từng lời để rồi khi trở về khu chiến Miền Tây nói rõ cho
ông Trần văn Soái nghe.
Thuật theo
lời ông Lâm Thành Tư.
PHẦN NHẬN
XÉT:
Đọc chuyện
trên, ta thấy Đức Thầy khéo dạy ông Năm Lửa không biết rõ thì chẳng nên dùng.
Bởi vì, người trí lúc nào cũng phải sáng suốt, chánh kiến, nhận định mọi việc
rõ ràng để khỏi phải chuốc lấy hậu quả khốc hại về sau.
Điểm thừ hai
là Ngài dạy: Đạo của ngài không có ông cậu và ông đạo! Thật vậy, danh từ ông
cậu hay ông đạo là để dành cho những người tu theo lối mê tín, dị đoan, như
thượng xác cỡi đồng, để lừa bịp những người nhẹ dạ non lòng. Đức Tôn Sư của
chúng ta biết rõ sau này sẽ có rất nhiều người tự xưng mình là Hòa Hảo, đệ tử
sớ 1, số 2,. . .vv rồi vịnh vào giáo lý của Đức Thầy mà viết ra thi bài cho là
giảng kệ. Khiến cho những người có tâm mà thiếu trí chạy theo mà tôn ti cho là
Bồ tát lâm phàm hay là người tu đã chứng đắc. Bởi quá tin tưởng nên không cần
tìm hiểu giả chơn, có khi họ nói trái lại chơn lý rồi cho là phá chấp hay vô
tướng. Rồi lại có người ở phương xa gởi sách vở hoặc băng mà nói rằng: “Không
cần tu, không cần hành, đến khi lâm chung niệm đến danh hiệu người đó thì sẽ
được người đó cứu độ”. Thế mà cũng có người tin theo. Chớ thật ra mình ăn mình
mới no, mình tu mình mới đắc!
Lại có người
có tâm nhưng thiếu trí nên thấy ai viết văn thơ thi bài thì chạy theo học hỏi,
rồi còn khuyến dụ nhiều người non dạ chạy theo mình nữa. Thật là như kẻ cùng tử
trong chéo áo có hạt ngọc mà không hay để đi xin của người cho cực khổ. Trong
nhà có gỗ quí mà không biết xài, đem vứt bỏ đàng sau để chạy bôn ba tìm kiếm,
để gặp khúc gòn sơn bóng rồi cho là gỗ quí. Thật là lầm thay! Thật là tiếc
thay!
Vậy chúng ta
ai là người trí, ngoan, và sáng thì chúng ta hãy rán học hỏi cho kỹ, nghĩ cho
sâu, và hành đạo đúng theo giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Cũng như chúng ta
vượt đại dương mà lúc nào cũng phải trông vào hải bàn để khỏi bị lạc hướng, do
đó chúng ta phải luôn nhớ đến lời Đức Thầy chỉ dạy:
Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,
Đừng để lầm thợ khéo sơn da.
Thì sau nầy đến lúc phong ba,
Dông gió lớn cột kèo khỏi gẫy.
(Sấm Giảng Quyển 4)
Hay là:
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Để chúng ta có đủ cơ duyên, phước
đức và công đức mà diện kiến Đức Tôn Sư trong ngày Long Hoa Đại Hội.
[next]
Mẩu chuyện thứ 81
PHẬT CHỈ DỤNG LÒNG
Vào một buổi sáng đẹp trời tại thôn
Mỹ An Hưng, nhiều chiếc bàn hương án được đặt trước sân nhà. Ngoài đường người
người đều khăn áo chỉnh tề, họ lũ lượt kéo đến sân vận động Mỹ An Hưng để tiếp
rước Đức Thầy và nghe Ngài thuyết pháp.
Diễn đàn được dựng lộ thiên, có
nhiều biểu ngữ tung hô chào đón. Tại diễn đàn được trang trí bằng những loại
hoa tươi đẹp ngát hương. Hôm nay người ta chuẩn bị cuộc lễ tiếp rước Đức Huỳnh
Giáo Chủ để thuyết pháp. Quần chúng mỗi lúc mỗi đông, họ khao khát được diện
kiến Đức Tôn Sư cho thỏa lòng mong đợi và được nghe lời vàng ngọc để lãnh giáo
mà tu hành.
Lúc đó cũng có ông Xiếu ở Đất Sét,
anh nầy nghèo nàn, nhưng rất chí hiếu với cha mẹ và có nhiều đức tánh hiền hòa
phúc hậu. Bởi phận nghèo phải đạp xe lôi mà độ nhựt.
Sáng nay, anh cũng chạy đi kiếm bông
để cúng dường trong pháp hội hôm nay. Nhưng gặp phải mùa nắng gắt, cây cối khô
cằn, nên anh chạy mãi không có bông gì khác hơn. Anh Xiếu chỉ thỉnh được một
nắm bông điệp nên hối hả chạy tới nơi thì bông đã héo. Anh lập tức dâng lên cho
ban khánh tiết. Các anh em thấy bó hoa đơn sơ nên họ ngắm nghía rồi đút dưới
diễn đàn; bởi bình hoa của ban khánh tiết đã cắm toàn là hoa thơm đắt giá, xinh
đẹp lạ thường, nên quí ông không muốn cắm bông điệp của anh Xiếu vào, sợ làm
mất đi vẻ thẩm mỹ.
Chập sau một chiếc xe màu dà đưa Đức
Thầy đến, mọi người đều nghiêm nghị cúi chào, được Ngài từ bi đáp lễ. Bước lên
diễn đàn thuyết pháp với giọng nói thanh ấm dịu dàng hấp dẫn, và lời lẽ ôn hòa
lưu loát, khiến thính giả các giới đều được tiếp thu lãnh hội mà giác ngộ tu
hành. Với biệt tài thuyết pháp của Đức Thầy dù là học giả, văn gia, cũng phải
nhận Ngài là bậc bác cổ thông kim, kỳ tài hy hữu.
Thuyết xong, Ngài cúi chào thính giả
sắp sửa xuống diễn đàn, bỗng như nhớ một điều gì. Ngài quay lại, vói tay xuống
dưới diễn đàn lấy nắm bông điệp đã héo, đưa cao lên và nói lớn:
– Nắm bông nầy tuy đơn sơ nhưng rất
quí!
Rồi Ngài cầm luôn nắm bông ấy lên xe
đi thẳng về nhà ông Huỳnh Chánh Đại là nơi Ngài tạm trú hôm ấy. Còn mọi người
thì xôn xao bàn tán, họ tìm hiểu coi người dâng bông ấy là ai mà được diễm phúc
như thế nầy. Riêng các đồng đạo trách nhiệm ban khánh tiết thì rất hối hận, bởi
mình chỉ nhìn mọi vật với hình thức bên ngoài chớ không ngờ Phật chỉ dụng lòng
mà thôi.
Thuật theo lời ông Huỳnh Thiện Nhã.
PHẦN NHẬN XÉT:
Chúng sanh và Phật đều có Phật tính
như nhau, nhưng sở dĩ Phật được chúng sanh sùng bái là bởi Phật đã hoàn toàn
giác ngộ nên tâm luôn được thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh, bình đẳng mới thấy
biết được sự thật của vũ trụ vạn hữu mà nhận định không sai.. Còn chúng sanh
bởi vô minh che lấp nên cứ nhận giả làm chơn, rồi ôm lấy sự sai lầm cho là sự
thật.
Đức Thầy chúng ta là Phật lâm phàm
nên suốt thông mọi lẽ. Trường hợp anh Xiếu là một người con rất chí hiếu với
mẹ, lại là con người có bản tính chất phát hiền lương, nên đối với người chung
quanh anh được rất nhiều người yêu mến.
Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là một Đạo
nhập thế, lấy Tứ Ân làm nồng cốt. Mà Tứ Ân thì Ân Tổ tiên cha mẹ lại được đặt ở
hàng đầu. Thế nên, người có hiếu chẳng những được Đức Phật ngợi khen, Thánh
nhân ca tụng, mà nay Thầy ta cũng không ngớt lời dạy ta lấy hiếu hạnh làm đầu.
Ngài viết:
Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn
điển hiếu nghĩa vi tiên”.
Và:
Phải gìn chữ hiếu phục tùng song
thân.
Hay là:
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.
Thế thì anh Xiếu đã được đứng hàng
đầu của Đạo nhân luân!
Chẳng thế mà anh lại có một tấm lòng
thành kính thiết tha với Đạo Phật. Tuy thân phận nghèo phải vất vả với cuộc
sống, đem mồ hôi đổi lấy manh áo bát cơm. Thế mà vì lòng quá kính mộ Phật pháp
nên phải chạy tất tả đi kiếm bông về cúng dường cho Phật. Đối với lòng thành
của một người hiếu hiền và thành tâm trọng pháp nên được Đức Thầy chứng cho
anh. Một nắm bông héo tuy không quí nhưng quí ở tấm lòng thành. Ngài đã không
cần lễ vật chi chi mà chỉ ở chỗ tín thành của đệ tử. Điểm nầy Ngài đã từng phán
dạy:
Đến với Ta
chớ đem đồ cúng,
Chỉ đem theo
hai chữ thành lòng.
Chẳng có cần
trà quả hương nồng,
Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ.
(Sấm Giảng Quyển 4)
Câu chuyện Ngài chứng nắm bông của
anh Xiếu, cũng như ngày xưa Đức Thế Tôn đã từ bi chứng và thọ ký cho một bà lão
ăn xin có lòng thành mua một ít dầu cúng Phật. Với câu chuyện của Đàn Nị Già
cúng chăn, và cụ lão nghèo chỉ cúng Phật có 7 hạt đậu, thế mà đều được Đức Phật
chứng và thọ ký. Bởi vì:
Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,
Chớ nào dụng hương đăng trà quả.
(Sấm Giảng Quyển 4)
Và Ngài còn từ bi phán dạy ta rất
rạch ròi, như là:
“Ta hãy đem đức tin trong sạch mà
thờ kính Phật và hãy đem lòng lành mà hành động theo lời phán dạy của Phật.”
(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ)
Tóm lại, hiếu thảo và lòng thành là
quí hơn tất cả. Dù ta có cúng dường chư Phật bằng trân châu báu ngọc cũng không
bằng đem lòng thành mà hành y theo lời từ huấn của Đức Tôn Sư. Chúng ta là
người học Đạo rán giữ cho được lòng thành.
Mẩu chuyện thứ 82
KHÔNG HỌC MÀ THÔNG
Năm Kỷ Mão 1939. Một hôm Đức Giáo
Chủ thuyết pháp bỗng có hai ông khách vào nhà, dáng điệu trí thức, cử chỉ lịch
thiệp nhanh nhẹ. Sau khi nói xong thời pháp, Đức Thầy ôn tồn hỏi:
– Xin hai ông cho biết phương danh
và đến với tôi có việc chi?
Một trong hai ông khách đáp:
– Chúng tôi là người mộ đạo, chuyên
nghiên cứu về các đạo trên thế giới, nên đến đây xin được hỏi nhờ ông cho biết
ông tu theo đạo nào?
Đức Giáo Chủ đáp:
– Tôi đạo Phật.
Ông khách tiếp:
– Thầy thọ giáo với ai và học những
kinh nào trong Tam Tạng Giáo điển, và tài học của thầy đến bậc nào?
Đức Thầy trả lời:
– Tôi không thọ giáo với ai, cũng
không học kinh luật nào, còn sức học ngoài đời tôi chỉ học đến bậc tiểu học.
Ông khách hỏi thêm;
– Thầy không thọ giáo với ai, không
học kinh luật nào, tài học cũng không cao, làm sao thầy truyền giáo phổ thông
đạo đức được?
Đức Thầy đáp:
– Tôi hàng tiến hóa, Tôi đây có tâm
Phật.
Nói đến đây Đức Thầy để bàn tay trên
ngực, đoạn đưa ra, rồi tiếp:
– Toàn thể chúng sanh đều có Phật
tánh; sáng suốt là Phật; mê muội là chúng sanh.
Nói xong Đức Giáo Chủ hỏi lại hai
ông khách:
– Hai ông hỏi tôi học kinh luật nào,
xin ông cho biết Đức Thích Ca Mâu Ni xưa học với ai? Nếu không phải là bậc tiến
hóa sáng suốt tự tìm đạo để hiến cho trần thế?
Thính giả đến mỗi lúc mỗi đông. Tất
cả lắng lặng theo dõi cuộc đối đáp. Ông khách thứ hai nãy giờ ngồi yên, bây giờ
hỏi:
– Thầy truyền đạo dạy dỗ chúng sanh,
nếu chúng sanh không nghe theo mà còn làm điều tội lỗi thì thầy có làm như Đức
Chúa Giê Su không? Dạy mà chúng sanh không nghe, cứ làm điều tội lỗi nên phải
chịu gia hình nơi Thánh giá để chuộc tội cho chúng sanh?
Đức Giáo Chủ hỏi vặn lại:
– Đức Giê Su ở ngôi vị cấp bậc nào?
Ông khách đáp:
– Ngài sáng lập tôn giáo độc thần:
Chủ trương có bậc chí tôn là Chúa Trời do Giê Su khởi xướng.
Đức Giáo Chủ hỏi:
– Nếu Ngài là chí tôn, tha tội cho
chúng sanh cũng bởi Ngài, thì Ngài chịu gia hình nơi Thánh giá thế tội cho
chúng sanh, là tội với ai?
Hai ông khách không đáp, còn Đức
Giáo Chủ tiếp tục giảng kinh!
Thuật theo tài liệu của ông Trần văn
Tiên.
PHẦN NHẬN XÉT:
Thế thường người ta chuyên việc làm
nào thì rành rẽ về việc đó. Sự học cũng thế, nếu để tâm nghiên cứu về sự học
môn nào thì thông rành môn ấy. Thế nên ông khách hỏi Ngài học kinh luật nào và
trình độ học vấn của trường đời đến đâu. Qua câu trả lời gãy gọn của Ngài làm
ông khách không thỏa mãn. Bởi theo ông, là người đứng ra lãnh đạo một tôn giáo
như Ngài, ít nhứt phải tài học hơn người và thông rành ba tạng giáo điển.
Thật ra, đó là ông khách hiểu theo
lẽ thường của kẻ thế trí biện thông. Bởi hạng nầy có học mới có biết, còn
trường hợp của Ngài thì “Bất học nhi tri” quán thông mọi lẽ, thấu triệt cơ
huyền; tức là bậc toàn giác toàn năng thì đâu thể đem cái sở học tầm thường của
hàng hữu học mà so bì cho được! Đành thế, Ngài vẫn khiêm nhường, chớ không tự
khoe khoan, nên ôn tồn đáp: “Tôi là hàng đã tiến hóa” và nhờ khách cho biết là
“Đức Thích Ca học với ai?”, khiến ông khách không thể trả lời được. Bởi, nếu căn
cứ vào sự học mới có biết thì Đức Thế Tôn có học với ai đâu!
Đến ông khách thứ hai, hỏi về sự dạy
đời không được có chịu khổ thế cho chúng sanh như Đức Chúa không: Ngài hỏi vặn
lại để làm sáng tỏ vấn đề. Bởi khách cho rằng, Chúa giăng tay trên Thánh giá là
chịu thế tội cho chúng sanh. Nhưng Ngài là độc thần giáo: Chúa Trời là đấng chí
tôn thì Ngài chịu tội với ai? Và nếu chịu hết tội sao chúng sanh vẫn còn khổ?
Thật ra, thuyết ấy chỉ là huyền
thuyết về Chúa mà thôi. Bởi căn cứ theo luật nhân quả thì chưởng hoa huờn đắc
hoa; chưởng đậu huờn đắc đậu, và “Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy” thì dù
cha mẹ cũng không chịu thế tội được cho con. Nếu thế được, thì chư Phật, chư Bồ
Tát, đâu để cho chúng sanh chịu khổ bao giờ, vì bản nguyện của các Ngài là “Địa
ngục vị không, thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận, viên chứng Bồ đề” kia mà!
Như Ngài Địa Tạng dù quá thương chúng sanh phải chịu khổ nhọc nơi địa ngục,
ngài phải đành trụ ở địa ngục để độ sanh, nhưng cũng chỉ thuyết pháp cho họ
nghe để họ giác ngộ mà sám hối mới ra khỏi địa ngục; chớ cũng không hề chịu tội
thế cho một ai bao giờ.
Thế nên, các câu hỏi của hai ông
khách đưa ra đó, chỉ là một sự nhận định của kẻ phàm tình, thì dù có đa văn
quảng kiến đến đâu cũng không thấu triệt được ý nghĩa thanh cao của người đã
hoàn toàn thoát tục.
Đọc câu chuyện trên, ta nên lấy đó
làm kinh nghiệm: Mỗi khi muốn biện bác một việc gì ta cũng nên chánh kiến và
khách quan mà nhận định, không nên dựa vào sở học của mình mà nhận xét một cách
qua loa, không tế nhị, để phải khuất lý như hai ông khách đã nêu trên.
Mẩu chuyện thứ 83
CHÍ THANH CAO
Tại Sài Gòn đêm mùng 4 tháng 8 năm
Aát Dậu 1945 (Tức 9-9-45 dl), bọn độc tài ra lịnh cho thuộc hạ đến bao vây văn
phòng Đức Thầy lúc đó đặt tại số 8 đường Sohier. Để cho được chu đáo trong âm
mưu vây bắt Đức Thầy, chúng đã gọi điện thoại nói chuyện với Ngài, để biết chắc
Ngài còn ở đó. Chúng còn sai thuộc hạ, một nhân viên thân tín chỉ huy cuộc bao
vây này. Bấy giờ sau bữa cơm tối hơn một giờ. Họ chia thành nhiều toán, bao vây
khắp từ ngoài đến trong, nhưng khi họ lục soát thì không thấy Đức Thầy đâu cả.
Những anh em phòng vệ đều bị bắt, chung quanh văn phòng Đức Thầy thì không còn
nẻo nào thoát được. Còn phía sau nhà thì tường cao chắn bít, và là nhà ở của kẻ
không quen.
Bữa sau, tên thuộc hạ đến lục soát
ngôi nhà của một tín đồ PGHH ở cách đó một con đường, vì nghe Đức Thầy thoát
thân đến trọ, nhưng không thấy gì.
Bữa sau nữa. Chúng được tin Đức Thầy
cải trang thành một phụ nữ sang trọng, ngồi trên xe du lịch đi trên công lộ Sài
Gòn, Họ tích cực gạn xét trên các trục lộ giao thông, nhưng cũng không tìm thấy
Đức Thầy đâu cả! Khác nào cánh chim bạt gió, biết đâu mà tìm!
Trong lúc bọn chúng tung ra những
luận điệu xuyên tạc tuyên truyền phao vu cho Đức Thầy để giam cầm sát hại tín
đồ của Ngài, thì Đức Thầy từ Sài Gòn đi Gia Định, rồi đến lánh nạn ở Biên hòa.
Sau đó Ngài di chuyển đến Long Thành, vào trú trong một vườn trà quế giữa rừng,
Ngài than:
Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẽ,
Nhìn non sông đượm vẻ tang thương.
Mối tình chủng loại vấn vương!
(Bài Tự Thán)
Tại đây, bọn thanh niên Tiền phong
địa phương tình nghi cho Đức Thầy và những tùy tùng là Việt gian. Họ toan làm
khó dễ những anh em hộ vệ của Thầy, nên Ngài di chuyển đến Cỏ May thuộc Bà Rịa,
rồi rút sâu vào rừng Chà Là. Ngài tức cảnh sanh tình:
Từ ấy lao mình vượt khổn nguy,
Băng rừng lội suối giả man di.
(Bài Tiếng Súng Bên Lầu)
Tuy sống cảnh bên rừng tạm gởi thân
cô quạnh, nhưng lúc nào Đức Thầy cũng tỏ ra bình tĩnh và cương quyết theo đuổi
chí hướng của mình.
Một lần anh đại đội Thoại, người hộ
vệ bên cạnh Ngài, múc nước suối rửa chân Đức Thầy để tìm thấy mấy cây gai đâm
vào chân Ngài. Vì gai đâm mấy ngày qua nên đã làm mủ chung quanh những chấm
đen, anh Thoại lể gai và nhẹ tay nặn mủ nơi chân Ngài. Mỗi lần những chiếc gai
và mủ thi nhau vọt ra là mỗi lần tim anh quặn thắt. Bất giác anh Thoại khóc lên
thành tiếng. Đức Thầy ôn tồn nói với anh Thoại:
Thanh niên sao mà nhát vậy! Mới thấy
gai đâm mà đã khóc! Chúng ta còn phải gặp nhiều chuyện nguy nan hơn nữa, phải
bình tĩnh và cương quyết để có đủ khả năng ứng phó kịp thời.
Anh Thoại nghẹn ngào nói:
– Bạch Thầy, làm thân chiến sĩ con
tự biết mình dấn thân vào cái chết, có sợ gì đâu! Nhưng nhìn thấy cái khổ của
Thầy, lòng con không sao chịu được.
Đức Thầy vuốt tóc anh Thoại tỏ ý cám
ơn, rồi cười nói:
– Hãy niệm Phật cho vững tâm đại
hùng đại lực.
Cho đến năm Ất Dậu 1945, quân lực
Pháp đã chiếm đóng tràn lan, còn bọn độc tài (CS) thì tìm đường trốn chạy.
Trong cơ hội đó Đức Thầy trở về Chợ Lớn. Và sau Tết Nguyên Đán Bính Tuất các
tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mới bắt đầu nối liên lạc với Ngài.
Thuật theo Năm Cuộc Đối Thoại PGHH.
PHẦN NHẬN XÉT:
Đức Giáo Chủ ra đời dạy Đạo trước Đệ
nhị thế chiến.. Vì thấy chúng sanh sắp rước nhiều tai họa hãi hùng nên động mối
từ tâm Ngài mới lâm phàm cứu tế. Nhưng đối với chúng sanh ở thời kỳ Hạ nguơn
này, bởi nghiệp nặng tình dày nên họ luôn chứa nhiều tội ác. Thế nên, nếu có ai
tài trí hơn họ thì họ sẽ không ngần ngại mà triệt hạ, dù rằng việc làm này chứa
đầy mưu mô gian ác.
Bởi Đức Thầy lúc ấy là một thanh
niên tài trí hơn người, đức độ cao siêu, uy tín có thừa, vị tha vô hạn, khiến
mọi người đều kính mến phục tùng. Thế thì bảo sao kẻ tiểu nhơn không sanh tâm
ám hại Ngài để tranh giành ảnh hưởng. Nhưng thật ra, Ngài có tranh luận với ai
đâu. Ngài đã cho biết sứ mạng của Ngài là: “Chọn những đấng tu hành cao công
quả, để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại
Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”, chớ đâu phải
đi tranh giành cái giả ảo như kẻ phàm tình. Ngài đã hoan hỉ chấp nhận mọi cảnh
khó khăn bởi quá thương xót chúng sanh. Ta hãy nghe lời đầy từ bi hỉ xả của
Ngài qua câu:
Dầu gian lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh chúng thông đường giải
thoát.
Cơn giông tố mịt mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của Đấng Từ bi.
(Bài Sa Đéc)
Vì cảm lòng vị tha cao thượng của
Thầy mình mà anh Thoại không dằn được cơn xúc động; hiểu ý đệ tử nên Thầy vuốt
tóc anh và khuyên niệm Phật. Bởi có niệm Phật, tâm mình mới được bình tĩnh sáng
suốt mà nhận thấy cái giả của xác thân để hầu có buông xả muôn duyên không để
sự khổ vui làm rối loạn. Có niệm Phật mới có công đức để thắng phục điều chướng
ngại đến với mình.
Tóm lại, Thầy ta vì sanh chúng mà
phải nhận lấy mọi nỗi khổ. Chẳng những không nãn chí nao lòng mà Ngài còn ung
dung cho biết:
Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.
Soi từ đài các xá lều,
Cho người trụy lạc biết điều nghĩa
nhân.
(Bài Tự Thán)
Thế nên chúng sanh còn khổ thì chư
Phật và chư Bồ Tát vẫn còn khổ bởi chúng sanh. Vậy ta rán học gương hạnh cao cả
của Ngài cho xứng đáng là một tín đồ ngoan Đạo.
Mẩu chuyện thứ 84
Mẩu chuyện thứ 85
CỬ ĂN HAI CON
Sau ngày khai
đạo độ đời năm 1939, trong chuyến vân du độ chúng, Đức Huỳnh Giáo Chủ có lần
dừng chân nơi xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh Châu Đốc, Ngài đến thăm những
người thuộc hệ phái Hiếu Nghĩa của Đức Bổn Sư, thế danh Ngô Lợi, mà người đời
thường gọi theo thứ tự trong gia đình là Cậu Năm, được biết 30 năm sau khi Đức
Bổn Sư tịch diệt, kế đến là Đức Huỳnh Giáo Chủ khai Đạo độ đời.
Nhiều người tín
đồ Hiếu Nghĩa đến nghe Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết giảng Phật pháp, nhân cơ hội
đó Ngài trò chuyện thân mật với những người tín đồ của Đức Bổn Sư:
– Mấy bà con ở
đây gọi Đức Bổn Sư như thế nào?
– Bạch Ông Tư,
chúng tôi gọi là Cậu Năm.
– Gọi Đức Bổn
Sư là Cậu Năm thì gọi tôi là Cậu Tư. Rồi Ngài nói tiếp:
– Cậu Năm dạy
quý vị hành đạo ra sao?
– Thưa Ông Tư,
Thầy chúng tôi dạy tín đồ, ngoài chay bốn bữa của mỗi tháng, còn phải cử ăn
những con vật thuộc trong mười hai con giáp , và lạy mỗi hướng mười hai lạy.
– Đức Bổn Sư
dạy quý vị thuở đó là lúc Phật Pháp gày then, cách lạy tay đan tréo nhau, sự
việc nào cũng đang trong bế tắc, khó mà thành Đạo đặng.
Rồi trong
phương tiện nầy Đức Thầy tiết lộ thêm:
– Bàn tay lật
ngữa vậy mà, Chớ Đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Bây giờ thì Phật pháp đã mở
then rồi. Vậy thì bà con hãy lạy trở lại.
Còn việc ăn
uống thì Ngài cũng dạy:
Ăn theo cách
nầy thì mau đắc Đạo lắm, hiện nay tôi dạy tín đồ không phải cử nhiều, chỉ cử ăn
có hai con: Con gì đẻ trứng đừng ăn, con gì sanh con thì đừng ăn.
Thay vì viết
phần nhận xét thì người viết được sự may mắn là người kể chuyện tiếp lời giải
thích:
“Về việc ăn
uống của người Đạo, tôi có phần nhận xét với các cháu như thế nầy: Nếu như mình
đang ăn chay trường cũng vậy, ai có hỏi thì nói tôi cử ăn thị cá vậy thôi chớ
cũng đừng nói là mình đang ăn chay trường, và nếu có ai hỏi mình thuộc tôn giáo
nào thì mình phải nói rõ họ và tên, nói rõ nguyên chữ, mình là người Đạo Phật
Giáo Hòa Hảo, như vậy mới đúng theo như lời Đức Thầy đã dạy, bởi vì mình tu
theo “Đạo Quốc Vương”, tức là có vợ có chồng, còn ăn chay trường là trường chay
giữ giới, những nhà sư ở trong chốn Thiền lâm mới làm theo được.
“Tiếp theo câu
chuyên Đức Thầy đã bảo những người tín đồ của Đức Bổn Sư hãy gọi Ngài là Cậu Tư
cũng giống như khi họ gọi Cậu Năm, trong ý đó thì Cậu Năm hay Cậu Tư nào có
khác nhau đâu, Ngài nhắc nhở cho mọi người được biết về sự tái sanh trở lại.
“Thời đó Đức
Bổn Sư giữ lại Tứ Ân tức là giữ lại mối Đạo cổ truyền của dân tộc Việt Nam, nếu
không giữ gìn con đường của dân tộc, tức nhiên sẽ có lắm người chạy theo ngoại
bang vì thuở đó Pháp đang chiếm đóng cai trị Việt Nam. Còn trên phương diện thờ
cúng với hình thức, Ngài lập ngôi chùa, trước ngôi chùa là miễu, miễu để thờ
những vị anh hùng vị quốc vong thân, còn sau hậu là Long Đình tượng trưng cho
sự thờ cúng vua chúa. Sự việc nầy được Đức Huỳnh Giáo Chủ diễn đạt như sau:
Tu biết cách
như đươn biết đát,
Đươn đát rành
đặng dựa Xe-Loan.
Ai biết nghe
thì sớm liệu toan,
Để đến việc như
người thất nghiệp.
(Quyển 4 Giác
Mê Tâm Kệ)
“Để dễ hiểu
thêm sự chuyển kiếp từ một nguồn gốc mà ra, mong sao chúng ta suy gẫm lại một
đoạn trong bài nguyện hương dưới đây:
“… Nay con
nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật
Đạo.”
“Và sau hết thì
với cách ăn uống của người tu, chỉ cử ăn có hai con vật mà người tu hành sẽ dễ
đắc Đạo. Dùng một lời nói mà khi mới nghe qua chúng ta có cảm tưởng là Ngài nói
lời khôi hài làm cho mọi người cùng vui cười, nhưng sau khi dứt tiếng cười, thì
người ta mới sực mình thức tỉnh, với lời lẽ ngắn, gọn đó mang đầy đủ ý nghĩa
thể hiện tình thương yêu đối với tất cả muôn loại chúng sanh.”
Viết theo lời
thuật của ông Lê văn Tho 78 tuổi, hiện ngụ tại An Thạnh, xã Hòa Bình, huyện Chợ
Mới, An giang, vào ngày 19-8-2002 nhằm ngày 11 tháng 7, năm Nhâm Ngọ.
Mẩu chuyện thứ 86
TU CÁCH NÀO
Vào một buổi
trưa hè năm Nhâm Ngọ (2002) trên bờ kinh của miệt Cửu Long giang, một căn nhà
sàn nhỏ nằm trên sóng nước, trước sân những chậu kiểng được chăm sóc cẩn thận,
kê nền khá cao để tránh mùa nước nổi, chính giữa mái hiên nhà là bàn Thông
Thiên, bên trong nhà, phòng khách được trang trí ngôi Tam Bảo trên cao, mỗi lần
dâng hương là phải leo lên cây cầu thang làm bằng tre khá mỏng manh, phía dưới
thấp hơn là bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ.
Cảnh trí tuy
đơn sơ nhưng đúng với nghi thức của người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thành thử
trở nên trang nghiêm khác thường, trước phòng khách bên cạnh được kê một cái
giường bằng gỗ, làm nơi tiếp khách và cũng là nơi nghỉ qua đêm của khách. Cảnh
trí như thế làm người viết lâng lâng một niềm cảm xúc tình người xa quê, suốt
hơn hai mươi lăm năm mới có dịp sống trong thực cảnh; bằng vào mối tình đồng
đạo đượm nét chân thành, lời lẽ chơn thật của những người mà lòng luôn chứa
chan mùi đạo vị, lúc nầy thì người viết mới thật sự thưởng thức lời đạo hạnh,
quả là: “Mùi đạo vị gỏi nem khó sánh.”
Chú Mười một
niên lão trong Đạo, tuổi đã gần 80, mặc bộ bà ba đen, đầu búi tóc. Chú mười tuy
tuổi đã cao nhưng dáng người còn quắc thước, cơ thể chú trông gầy nhưng rắn
chắc của một người chay lạt lâu năm, chú kể chuyện Đạo cho tôi nghe, với lời lẽ
ôn hòa tríu mến, hễ mỗi khi tôi hỏi chú về mẩu chuyện bên Đức Thầy thì giọng
của chú cất cao lên, bằng một cử chỉ hân hoan đầy nét tôn kính:
Cháu ơi! Có
nhiều chuyện lắm, nhưng làm sao cùng một lúc mà nhớ hết cho đặng, hiện thời thì
nhớ tới đâu kể cho cháu nghe tới đó, một câu chuyện mà chú còn nhớ đầy đủ nhất
như vừa mới xảy ra. Nguyên khi Đức Thầy đi Khuyến Nông cả thảy 107 vị trí, mỗi
nơi số người tham dự thật đông, nên phần nhiều các nơi thường tổ chức ở sân vận
động mới đủ sức chứa số người càng lúc càng đông.
Vào ngày mùng 4
tháng 6 năm Ất Dậu (1945), Đức Thầy thuyết giảng ở sân vận động xã Mỹ Luông,
quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên. Từ hai bên đường đến bến tàu, nơi nào cũng đông
nghẹt, không thể đếm lường con số được. Dầu vậy, nhưng chẳng hề nghe tiếng động
hay tiếng nói chuyện lớn, tất cả đều ở trong tư thế nghiêm trang chờ đón.
Từ thuyền máy,
Đức Thầy bước lên vừa đi vừa chào đáp mọi người cho đến khi bước lên diễn đàn,
Ngài xoay mặt bốn phía, chào đồng bào bằng cách hai tay nắm chặt vào nhau, đầu
hơi cúi. Đoạn Ngài cất tiếng nói, giọng Ngài nghe thanh ấm như chuông đồng. Chú
ngồi cách xa vẫn nghe được rõ ràng, lời lẽ của Đấng Từ Bi tuôn ra như suối đổ.
Một điều cần nhắc thêm để cháu ghi nhớ, thuở đó người ta chưa sữ dụng máy phóng
thanh, tuy sân vận động đông nghẹt người mà âm thanh lời nói của Đức Thầy ai
cũng đều nghe rõ giống hệt như nhau.
Còn chuyện lạ
hơn nữa, sẵn đây chú kể cho cháu nghe. Lúc đó Đức Thầy ngụ tại nhà ông Cả Nãng,
nhà của ông Cả tọa lạc xa bờ sông độ gần hai trăm thước, tờ mờ sáng là đồng đạo
đã đến đông nghẹt rồi, họ đứng chật hai bên bờ của đường đi, chờ mong Đức Thầy
bước ra để họ được gặp mặt, trong lòng mọi người đều hồi họp mong đợi phút giây
quí hiếm này.
Mắt mọi người
đều chăm chú nhìn vào ngôi nhà, nhưng mọi người đều bàng hoàng khi hay tin Ngài
từ bờ sông đi vào, hôm đó Ngài mặc bộ bà ba đen, cổ quấn khăn bàn bố.
Từ trong nhà
Ngài đi ra thì không một ai thấy được, chỉ sau khi tắm rửa xong rồi, đến khi
Ngài trở lại và được ông Cả Nãng báo tin thì mọi người mới hay. Quả thật phép
Phật nhiệm mầu, con người của thế gian không sao hiểu đặng.
Và chính mắt
chú thấy, trong phái đoàn đi tuy có rất đông người, nhưng khi nhìn thì thấy Đức
Thầy cao hơn mọi người cỡ nửa cái đầu, khi đi Ngài thong thả bước mà mọi người
phải lúp xúp chạy theo, còn khi Đức Thầy đứng riêng một mình Ngài, nhìn dáng
dấp của Thầy cũng trung bình vậy thôi, cho đến bây giờ, chú cứ nhớ mãi hình ảnh
đó mà không sao giải thích cho được.
Chú cũng trong
số người đứng đợi Đức Thầy, riêng chú hôm đó mục đích gặp Thầy đặng xin thuốc
cho con của người chú thứ Tám, chú ấy mắc bịnh lao phổi hết sức nặng, và nhờ
uống năm vị thuốc Nam của Đức Thầy cho mà chú ấy hết bịnh và sống cho đến ngày
hôm nay. Khi Đức Thầy từ bờ sông đi vào, gần đến chú thì chú quỳ xuống bên
đường, kính bạch với Đức Thầy việc người em bà con bị bịnh, Đức Thầy chỉ cho
chú năm loại trong đó có bông và lá cây bảo về tìm hái mà sắc uống.
Chú nhớ dường
như lần Khuyến Nông tại đây là lần sau cùng cho tới khi Thầy vắng mặt; chú có
đến nhà cô Phí, trước khi Thầy vắng mặt, Thầy có tặng cho Cô tấm giấy vàng,
trên có in hai bàn tay của Đức Thầy bằng son, tới nay vẫn còn rõ nét và giấy
cũng chưa đổi màu. Cháu ơi! Bàn tay của Đức Thầy thật là đẹp, ngón đều, thon
dài như ngòi viết, trong đời chú chưa thấy bàn tay nào đẹp như vậy.
Đến khi buổi
Khuyến Nông chấm dứt, Đức Thầy vừa từ khán đài bước xuống, đi đến trước mặt,
chú liền quỳ xuống cung kính bạch với Thầy về việc tu hiền:
– Bạch Thầy,
như con tu có sống được không Thầy? Đức Thầy trong cử chỉ hòa ái tươi vui, Ngài
đưa tay vuốt trên đầu của chú từ trước ra sau rồi vỗ vai bảo:
– Tu thì được
sống đó con, tu đâu có chết, mà phải tu như con lươn thì mới sống.
Chú lẹ miệng
bạch với Thầy tu như thế nào thì chết. Đức Thầy tươi cười bảo rằng:
– Tu như con cá linh thì chết.
Cháu ơi, trải dài suốt lịch sử Đạo, kể từ thời niên
thiếu, cái duyên hạnh được gặp Đấng Tôn Sư và được nghe từ Kim Khẩu của Ngài
trao truyền cho chúng sanh lời thuyết giảng bình dị, mới nghe qua thì không ai
lại không hiểu tùy theo trình độ của mình vào thuở đó, và nếu chịu áp dụng theo
thì cả cuộc đời không thế nào làm hết cho đặng, riêng chú tuổi tuy đã xế chiều
nhưng lúc nào chú cũng: “Rán tu đem được Phật vào trong Tâm”. Và còn lại điều
mong chờ sau cùng của chú là: “Làm theo lời chỉ ngày rày gặp TA”.
Viết theo lời thuật của ông Lê văn Tho 78 tuổi, hiện
ngụ tại An Thạnh, xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ngày 19 tháng 8 năm
2002, nhằm ngày 11 tháng 7 năm Nhâm Ngọ.
Đăng nhận xét