Chương III: ĐỨC THẦY ra tay tế-độ
Gây đức tin: Sở dĩ Ngài trổ tài “dùng huyền diệu
của Tiên gia” chữa bịnh một cách thần diệu như thế là để chứng tỏ Ngài không phải
là hạng phàm nhơn. Như mọi người đều biết; từ nhỏ đến lớn Ngài có học thuốc với
ai đâu, thế mà nay bỗng dưng chữa bịnh, chữa đâu hết đó, nhứt là những bịnh đau
tà hay điên cuồng thì càng làm cho người đời phải đặt ra câu hỏi: Đây có lẽ là
một vị Tiên, Phật, Thánh, Thần chi chi mượn xác phàm để ra đời cứu thế chăng?
Từ chỗ nghi ngờ phát sanh lòng tin tưởng (Nghi sanh
tín). Đức tin đó càng ngày càng tăng trưởng là do hành động hay phương pháp chữa
trị của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
a) Chữa căn chớ không chữa quả, nghĩa là bịnh nào đau căn
thì Ngài nhận chữa, còn bịnh nào đau về quả thì Ngài từ chối. Như có lần (ở
Nhơn Nghĩa) có một bịnh điên chở đến; Ngài cũng cho uống thuốc và làm cho con bịnh
bớt điên, nhưng Ngài bảo thân nhân chở về nhà, rán cầu nguyện và làm phước may
ra mới bớt. Điều này chứng tỏ Ngài soi rõ căn quả của con bịnh, bịnh nào thuộc
về căn, bịnh nào thuộc về quả. Đó cũng là bằng chứng rằng Ngài là bực siêu phàm
mới có năng khiếu ấy.
b) Trong lúc chữa trị, với những bịnh hung tợn, Ngài thường
kêu gọi chư Thần, chư vị sai khiến, như bảo trói hay khảo tra thì liền sau đó
con bịnh tự trói lấy, tự lấy roi đánh vào người rồi lăn lộn than khóc, van
xin Ngài đừng cho khảo tra nữa để nó cung khai. Ngài sai khiến được chư thần
như thế, hẳn Ngài là bực phi phàm, Phật Tiên Thần Thánh chi chi mới có uy lực
sai thần tróc quỉ như vậy.
c) Có nhiều chứng bịnh. Ngài không chữa bằng phương pháp
huyền diệu như cho uống lá cây hay các thứ bông mà lại bằng phương pháp thường
của một vị lương y như bao nhiêu lương y trong làng, nghĩa là ra toa, rồi cầm
toa ấy đến tiệm thuốc Bắc, hốt thuốc về sắc uống. Ngài có học thuốc Bắc hồi nào
đâu, thế mà Ngài viết các tên thuốc rất đúng, đến các thầy thuốc Bắc cũng phải
kinh ngạc. Điều này chứng tỏ Ngài không phải là hạng người thường nhơn.
d) Mỗi khi Ngài chữa bịnh, thường bắt con bịnh uống nước
cúng Phật và khi lành mạnh, bắt phải lạy bàn thờ Phật. Ngoài ra Ngài còn dạy
khi về nhà rán niệm Phật và cầu nguyện, làm lành lánh dữ. Sau ngày Ngài chánh
thức mở đạo, nếu có ai muốn qui y thì thì Ngài nhận cho qui y và bắt phải học
các bài nguyện rồi về lập bàn thờ Phật, hằng đêm lễ bái. Điều nầy chứng tỏ Ngài
qui ngưỡng theo Phật, một vị siêu phàm trong hàng ngũ Phật Thánh.
đ) Từ ngày Ngài ra chữa trị, độ bịnh cứu đời, thường sai
khiến chư thần chư vị thì những đồng bóng hay cốt ông nầy bà nọ không còn dám về
đồng hay nhập cốt nữa. Chủ nhơn quá tha thiết cầu thỉnh thì có vị về cho biết rằng:
Nay có Phật, Bồ Tát ra đời cứu dân độ thế, uy lực rất lớn nên chúng không dám về
đồng hay bén mảng lại gần, vì tự nhận thấy mình là phần còn ăn thịt uống rượu,
nên không dám lại gần các hàng Phật Thánh, sợ bị chư thần chư vị đánh đuổi.
Do đó mà người trong làng được biết đến phần thiêng liêng
hay Đức Huỳnh Giáo Chủ về mặt siêu hình là một vị có phẩm trật cao siêu trong
hàng Phật Thánh.
Do những phương pháp chữa trị huyền diệu, cũng như ngôn
hành của Đức Huỳnh Giáo Chủ thi thiết đối với đời mà người ta nhận Ngài là một
đấng siêu phàm. Hoặc vì nhờ được ” mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị
với Trăm Quan“, nên người đời qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ và đặt cả đức
tin vào sự cứu độ của Ngài.
Nói tóm lại, sở dĩ Ngài “dùng huyền diệu của Tiên gia” độ bịnh
là để gây lấy lòng cảm mến, rồi từ cảm mến được cứu độ mà người đời đặt cả đức
tin vào sự giáo độ của Ngài.
Thuyết giảng: – Để gây niềm tin vào tâm não của mọi người, ngoài phương
pháp “dùng huyền diệu của Tiên gia“, chữa bịnh, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn thuyết
giảng những giáo lý cao siêu của Đạo Phật “cho kẻ có lòng mộ Đạo qui căn,
gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ“, Ngài thuyết giảng cả ngày lẫn đêm mà không
biết mỏi. Ngoài bịnh nhơn đến chữa trị, nay thêm hạng người đến nghe Đạo lý xin
thơ bài, thành thử nhà Đức Ông không còn chỗ chứa.
Chính phương pháp giảng thuyết đã thu hút đông người hơn lối
chữa trị huyền diệu, vì trong những lời thuyết giáo có ẩn ý thiên cơ, thức tỉnh
lòng người hầu ăn năn cải hóa làm lành lánh dữ.
Nhứt là Ngài ám thông tâm lý, biết rõ lòng người, nói rất
đúng như người ở trong nhà. Không ẩn khúc nào có thể giấu giếm Ngài được. Ngài
còn thấu cả tiền căn hậu kiếp của mỗi người qua thơ bài của Ngài viết tặng,
càng làm mọi người khâm phục qui ngưỡng càng lúc càng đông. Chúng (?) tin
tưởng Ngài là một vị siêu phàm có sứ mạng xuống trần cứu dân độ thế.
Lối nói của Ngài rất hấp dẫn. Ai nghe cũng cảm, vì Ngài hết
sức bình dị và luôn khiêm tốn, không hề xưng hô lớn lối.
Vừa thuyết giảng, vừa cho bài thơ, đượm nhuần giọng văn tao
nhã, sực nức lời lẽ cao siêu của Đức Phật, vì vậy có mãnh lực giác tỉnh phi thường
người đời phát tâm Bồ Đề, qui đầu chánh pháp.
Sau một thời gian chữa bịnh và thuyết giảng đem niềm tin tưởng
vào lòng người, Ngài cảm thấy cơ duyên đã đến cho Ngài thọ lấy sắc lịnh của
Thiên Đình mở cơ phổ hóa, giác tỉnh quần mê hầu có hoàn thành sứ mạng tuyển chọn
người hiền đến Hội Long Hoa và lập đời Thượng Nguơn an lạc.
Lễ Cáo Hoàng Thiên: – Phàm làm một việc gì, trước khi
lãnh lấy trách nhiệm, như vị Tổng Thống hay Thủ Tướng chẳng hạn, phải làm lễ ra
mắt, tuyên cáo quốc dân. Hồi thời xưa muốn đưa một vị tướng lên cầm quân,
như Văn Vương chọn Khương Tử Nha hay Hớn Bái Công chọn Hàn Tín làm
tướng đều có tổ chức lễ đăng đàn bái tướng để chánh thức phong tướng và đồng thời
trao ấn tín cho vị tướng ấy có đủ uy quyền ra cầm binh khiển tướng, thi hành
nghiêm lịnh.
Trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế. Trước khi chánh
thức lãnh Sắc lịnh của Thiên Đình ra cứu dân độ thế. Ngài cũng phải tổ chức lễ
Cáo Hoàng Thiên để chánh thức nhận lấy trách nhiệm.
Ngài chọn ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão làm lễ Cáo Hoàng
Thiên. Cứ theo lời ông Nguyễn Văn Truyền, nguyên Kiểm soát trong Ban Trị Sự xã
Hòa Hảo kể lại thì chính ông lãnh việc trang trí một bàn hương án trước sân nhà
Đức Ông. Trên bàn ấy có để ba cái chung nước, một chén bông, một lư hương và một
cặp đèn.
Sau khi bàn hương án đã dọn, Ngài cho mời Đức Ông là chủ
nhà ra chứng kiến, nhưng Đức Ông không chịu ra; đến khi bà Tám em Đức Ông và
nhiều người thân thuộc lại yêu cầu nhiều lần cực chẳng đã, Đức Ông mới nhận,
nhưng để mình trần ra ngồi bẹp xuống bực thềm trước nhà và nói một câu cụt ngủn:
Đó, làm gì thì làm đi.
Đức Thầy bèn đốt hương xá bốn hướng rồi quay lại bàn hương án khấn vái một hồi
lâu mới cắm hương và lễ bốn lạy.
Thế là cuộc lễ Cáo Hoàng Thiên đã xong. Ông Truyền lại có
phận sự dẹp bàn hương án như khi đã dọn ra.
Viết Sấm Giảng: – Đã chữa bịnh, đã thuyết giảng, tuy
đã gây được niềm tin ở một số người, nhưng chưa chỉ pháp môn tu hành là điều mà
những người muốn tu hành cần phải có, để nương theo đó mà tu học hầu cho đắc
thành quả vị Phật Thánh hay hoàn toàn giải thoát.
Vì vậy, sau khi làm lễ Cáo Hoàng Thiên, Ngài chăm chú vào việc viết Sấm Giảng,
để trình bày hay phổ truyền giáo pháp của Ngài. Người ta có thể do nơi đó
để biết rõ Ngài có phải là một bực Chơn Sư và giáo pháp của Ngài có phải
là Chánh pháp không?
Ngài viết dễ dàng, không cần đến giấy nháp. Tác phẩm của Ngài phần lớn thuộc loại
văn vần, với tác dụng là để cho hạng dân quê ít học, dễ đọc và dễ nhớ. Vả
lại loại văn vần có sức truyền cảm hơn loại văn xuôi.
Sau đây là những quyển giảng của Ngài đã viết:
1. Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm. – Đây là quyển
thứ nhứt có 912 câu, viết tại Hòa Hảo vào khoảng sau khi làm lễ Cáo Hoàng Thiên
năm Kỷ Mão (1939). Trong quyển giảng nầy, đại ước, Ngài cho biết trước khi trực
tiếp giáo độ chúng sanh, Ngài đã phương tiện hóa hiện dạo lục châu, giả dạng
người già kẻ trẻ, kẻ buôn bán ăn xin, chèo đò rước khách . . . để có dịp đánh
thức người đời rằng có Phật Tiên xuống thế.
Có nhiều bằng chứng xác nhận dấu vết cuộc châu du của Ngài.
Như trường hợp cô Lê Thị Cứng ở Hòa Hảo mất trộm được Ngài
nhắc việc cô nầy coi bói ở những câu như sau:
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn.
Du thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đang hờn phận duyên.
Điên nghe vội vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ nguồn cơn,
Xin cô đừng giận đừng hờn làm chi.
Cô Cứng xác nhận, sau khi mất trộm, có một chiếc ghe chở bốn
người, trong đó có một người tự nhận làm thầy bói, ghé nhà cô để coi bói.
Một đoạn nữa trong Sấm Giảng nói về trường hợp ông chủ Phối
ở lòng Ông Chưởng mà Ngài ghé nhà đàm đạo với ông Đạo Ba như Ngài đã đề cập
trong Sấm Giảng:
Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,
Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.
Ngồi chơi đạo lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau.
Hỏi qua tu niệm âm hao,
Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.
Buồn đời Điên mới bước ra,
Tay gay chèo quế dạo mà khắp nơi.
Khi đọc đến đoạn giảng nầy ông Đạo Ba nhìn nhận có y như vậy.
Ngoài ra còn trường hợp của ông năm Hẳng ở làng Kiến An thường
xưng là Quan Vân Trường mượn xác mà Ngài có ghé, như đoạn sau đây đã thổ lộ
trong Sấm Giảng:
Thảm thương bá tánh lắm ôi!
Bồng Lai Tiên cảnh rao rồi một khi.
Nếu ai rảnh việc thời đi,
Còn mắc nợ thì ở lại dương gian.
Có người xưng hiệu ông Quan,
Tên thiệt Vân Tràng ở dưới Dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu niệm vậy mà,
Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.
Việc nầy ông năm Hẳng cũng nhìn nhận là đúng sự thật có một
ông già râu tóc bạc phơ ghé nhà ông thuyết giảng và chính ông có cúng năm cắc bạc,
tiền đi non Bồng.
Còn nhiều bằng chứng khác nữa ghi dấu Ngài có đi dạo Lục
Châu, khi giả dạng người nầy người khác mà phần đông đều được mục kích hay đàm
luận.
Đại ý quyển nầy, Ngài chỉ vạch máy huyền cơ cho nhơn
sanh được biết, có sớm hồi đầu trở lại tinh tấn tu hành hầu được cứu rỗi trong
ngày tận diệt hay vãng sanh Cực Lạc như đoạn giảng sau đây:
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy thiên cơ mỗi phút một thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
Đường vinh nhục rủi may một lát.
Ai phú quí vào đài ra các,
Ta Điên Khùng thương hết thế trần.
Khuyên chúng sanh chẳng biết mấy lần,
Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.
Hay là:
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa . . .
Đồng thời Ngài đem chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca đối
kháng lại giáo pháp âm thinh sắc tướng của Thần Tú đang thạnh hành:
Khuyên sư vãi mau mau cải hối,
Làm vô vi chánh Đạo mới mầu.
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình,
Khùng nói cho già trẻ làm tin,
Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.
Hay là:
Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,
Từ xưa nay có mấy ai thành.
Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.
Xá với phướn là trò kỳ quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian.
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn,
Thấy lạc lầm Đây động lòng son,
Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ.
3. Sấm Giảng. – Đây là quyển thứ ba, gồm có 612 câu,
viết tại Hòa Hảo vào năm Kỷ Mão (1939). Đại ý quyển nầy đoạn đầu mách cho biết
những tai nạn hãi hùng gớm ghê trong lúc biến di, như đoạn sau đây:
Thương đời Ta mượn bút nghiên,
Thở than ít tiếng giải phiền lòng son.
Bắt đầu cha nọ lạc con,
Thân nầy thương chúng hao mòn từ đây.
Minh Hoàng chưa ngự đài mây,
Gẫm trong thế sự còn dày gian truân.
Đò đưa cứu kẻ trầm luân,
Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi,
Thảm thương thế sự lắm ôi!
Dẫy đầy thê thảm lắm hồi mê ly.
Hay là:
Lao xao bể Bắc non Tần,
Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.
Tranh phân cho rõ tài ba,
Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi.
Khổ lao đà sắp đến nơi,
Thế gian bớt miệng kêu mời cõi âm.
Đồng thời dạy cho trai gái lớn nhỏ biết cách ăn thói ở đúng
theo luân thường đạo nghĩa; có như thế mới mong sống sót trong những ngày lập hội,
như đoạn giảng sau đây:
Nào là luân lý tứ ân,
Phải lo đền đáp xác thân mới còn.
Ai mà sửa đặng vuông tròn,
Long Hoa đến hội lầu son dựa kề.
Dạy về bổn phận làm trai:
Dạy rồi cái đạo tu hiền,
Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng.
Cũng đừng ghẹo gái có chồng,
Cũng đừng phá hoại chữ đồng gái trinh.
Ra đường chọc ghẹo gái xinh,
Nữa sau mắc phải yêu tinh hư mình.
Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
Vâng lời cha mẹ mà gìn gia cang.
Nghiêm đàng chịu lịnh cho an,
Loạn luân cang kỷ hổ han tiếng đời.
Anh em đừng có đổi dời,
Phụ phàng dưa muối se lơi nghĩa tình.
Dạy về bổn phận làm gái:
Lớn lên phận gái cần chuyên,
Làm ăn thì phải cho siêng mới là.
Phải gìn dục vọng lòng tà,
Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân.
Nghe lời cha mẹ cân phân,
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.
Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
Chớ đừng cải lịnh gió mây ngoại tình.
4. Giác mê tâm kệ. – Đây là quyển thứ tư, gồm có 846
câu, viết tại Hòa Hảo ngày 20 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939).
Đại để trong quyển nầy, Ngài tuyên giáo pháp môn hành đạo của
Đức Phật Thích Ca như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo . . . cho người đời noi
theo đó tu hành cho đắc quả.
Ngài không dứt khuyên chúng sanh rán tìm diệu lý trong Sấm
kinh và rán làm tròn nhơn đạo, vì là thời kỳ chư Phật Thánh tuyển chọn người hiền
đức. Và chỉ người hiền đức mới được sống còn sau ngày hoại diệt của cõi thế
gian.
Trong bá tánh muốn nơi cao quí,
Phải truy tầm huyền bí nơi cơ.
Từ Sám kinh cho đến thi thơ,
Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu.
Tạo làm chi những trung với hiếu,
Ấy là người bổn phận phải trau.
Khuyên dương trần đừng nệ cần lao,
Cũng rán sửa rán trau nền đạo.
Tu đầu tóc không cần phải cạo,
Miễn cho rồi cái đạo làm người.
Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười,
Vì buồn bực thấy đời biến chuyển.
Các chư Phật từ đây lựa tuyển,
Coi ai là đức hạnh hiền từ.
Lời sách xưa cận thủy tri ngư,
Cận sơn lãnh trần gian tri điểu.
Trong Sấm giảng nếu ai không hiểu,
Tầm kệ nầy Ta chỉ nẻo đường.
Quyết dạy trần nên nói lời thường,
Cho sanh chúng đời nay dễ biết.
5. KhuyếnThiện. – Đây là quyển thứ năm, gồm có 756 câu, viết tại Chợ Quán năm Tân Tỵ
(1941).Trong quyển nầy,
Ngài kể lại gương xuất gia tầm đạo của Phật Thích Ca:
Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
Ta cũng chẳng hoàn toàn thông thạo,
Nhưng phân cùng bổn đạo xa gần.
Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật giáo.
Sau đó Ngài khuyên người đời tu theo pháp môn Tịnh độ để cầu
sanh về Cực Lạc, vì trong thời kỳ mạt pháp nầy, đây là một Pháp môn cứu cánh,
phù hạp với căn cơ của tất cả chúng sanh trong thời Nguơn hạ:
Môn Tịnh độ là phương cứu cánh,
Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.
Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng . . .
Hay là:
Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ.
Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.
Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh;
Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
Ngoài ra, Ngài
còn kể lại Tám điều khổ của chúng sanh và khuyên trừ Thập ác.
Trong quyển nầy, Ngài giải thích Tứ Ân, Thập Thiện,
Bát Chánh và những nghi thức hành đạo cần biết của một tín đồ.
Ngoài ra Ngài còn viết nhiều bài rời và cho thi văn rất nhiều
mà sau nầy anh em tín đồ kết tập lại thành quyển “Thi văn Giáo Lý” gồm
trên 500 trang kể cả những toa thuốc Nam để trị bịnh cho bá tánh thập phương.
Những bộc lộ của Sấm Giảng.
Trong Sấm Giảng
có câu:
Rút trong các luật các kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.
Câu nầy đủ minh chứng những điều Ngài giảng đều rút tỉa
tinh lý của Phật trong Tam Tạng Kinh là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng.
Thế sao các tác phẩm của Ngài không gọi là Kinh hay Luận mà gọi là Sấm Giảng.
Sấm có nghĩa
là những lời tiên tri cho biết trước về thời cuộc, Giảng là bày giáo
lý cao siêu của Đạo Phật.
Do sự tiên tri cho những điều sắp xảy ra về cõi đời Hạ
nguơn sắp chấm dứt để bước sang cõi Thương nguơn, những tai biến hãi hùng trong
những ngày hoại diệt cõi đời mạt kiếp nầy mà người đời thức tỉnh giác mê nhận
cõi đời nầy là giả tạm hầu có sớm ăn năn cải hối tu hành theo Đạo Phật thì mới
mong được Phật Thánh Tiên cứu rỗi, sống sót trong ngày lập đời Thượng Nguơn an
lạc.
Về việc bộc lộ
thiên cơ (Sấm) chúng ta có thể phân tách ra hai sự việc:
1. Tiên tri thời cuộc: – Trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh
Giáo Chủ đã tiên tri nhiều việc ngày nay đã thấy ứng hiện, càng tăng trưởng đức
tin của tín đồ vào sự giác ngộ của Ngài.
Như tiên tri về sanh hoạt đắt đỏ, sưu cao thuế nặng, kinh tế suy sụp, tiền bạc
mất giá…
Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương;
Chẳng qua là Nam Việt vô vương,
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.
Hay là:
Thương hại bấy lê dân đứt ruột,
Thảm vợ con đói rách đùm đeo;
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắt.
Hoặc là:
Hết đây rồi đến dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.
Về thảm cảnh thì:
Mai sau nhiều cuộc đất cày,
Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.
Hay là :
Trong bổn đạo từ đây kim chỉ,
Đói với nghèo sắp tới bây giờ.
Những thảm cảnh ấy, ngày nay đã thấy ứng hiện trước mắt mọi
người. Cũng như Ngài đã cho biết trước trận thế chiến thứ hai, khởi từ năm Mèo
(1939) và chấm dứt năm Gà (1945) ở những câu:
Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng Rồng Rắn máu đào chỉn ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng.
Còn nhiều lời tiên tri khác nữa nói về thời cuộc, nhưng đây
chỉ kể vài việc đã ứng hiện để chứng minh là Ngài mách trước trong Sấm Giảng có
thật, chẳng kíp thì chầy ứng hiện không sai.
2. Cho biết chuyển kiếp. – Trong bài “Sứ mạng của Đức
Thầy” có đoạn nói rằng: “Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng
xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế“. Ở một
đoạn khác, Ngài lại viết: ” Những kiếp gần đây, may mắn gặp
minh sư, cơ truyền Phật pháp, gội nhuần ân đức Phật, lòng đã quảng đại từ bi, hềm
vì nỗi cảnh quốc phá gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng
cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ“.
Và Ngài cho biết kiếp nầy là kiếp chót như ngài đã viết: “Ta
nghĩ nhiều tiền kiếp ta cũng hy sinh vì Đạo nào quản xác thân. Kiếp chót này
đây há lại tiếc chi thân phàm tục . . . “
Theo đó thì Ngài đã chuyển nhiều kiếp. Nhờ vậy mà khi đọc Sấm
Giảng, ta không còn ngạc nhiên thấy nhiều đoạn, nhiều danh xưng trùng hợp với
nhiều vị siêu phàm khác. Chẳng hạn như:
a) Xưng Khùng Điên: Điều mà ai cũng nhận thấy là các vị
trong Bửu Sơn Kỳ Hương, từ Đức Phật Thầy Tây An trải qua Ông Sư Vãi Bán Khoai .
. . một khi lâm phàm cứu thế đều xưng hiệu Khùng Điên, ý chứng để đối lại
người đời thường xưng khôn lanh quỉ quái.
Đây ông Sư Vãi Bán
Khoai xưng Khùng:
Khùng sao mà biết thiên cơ,
Cũng là Phật khiến cho Khùng dại điên.
Đức Huỳnh Giáo Chủ
cũng xưng Khùng và cũng nhận biết thiên cơ:
Khùng toàn biết âm dương kết liễu,
Khùng huyền cơ, Khùng đạo Thích Ca.
Về xưng Điên, ông Sư Vãi có viết:
Điên nầy Điên Phật Điên Thầy,
Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.
Còn Đức Huỳnh Giáo Chủ thì là:
Điên như Ta, Điên giống Tiên Rồng,
Điên gở ách xích xiềng thế tục.
b) Đối chiếu tư tưởng. – Ngoài việc xưng hiệu Khùng
Điên, còn nhiều tư tưởng trùng hợp giữa Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán
Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Về nhan đề giảng sách, có sự trùng nghĩa trùng tên như:
Đức Phật Thầy Tây An có bài “Giác mê”, còn Đức Huỳnh
Giáo Chủ thì có “Giác mê tâm kệ” tức quyển thứ tư trong bộ Sấm Giảng.
Ông Sư Vãi Bán Khoai có quyển “Sấm Giảng người đời” mở
đầu bằng câu “Hạ nguơn Giáp Tý bằng nay”, thì Đức Huỳnh Giáo Chủ có
quyển“Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm” tức quyển thứ nhứt, cũng với câu
mở đầu “Hạ Nguơn nay đã hết đời”.
Ngoài sự trùng nhan đề, còn nhiều đoạn trùng ý giữa ông Sư
Vãi Bán Khoai với Đức Huỳnh Giáo Chủ. Như đoạn giảng sau đây nói về “Một
Thầy ba Tớ”
Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai tự thuật:
Chừng nào nước chảy đông nguồn,
Một Thầy ba Tớ hết đường lao đao.
Hay là:
Nào khi nắng bụi bay tuôn,
Một Thầy ba Tớ chẳng buồn lại vui.
Và đây Đức Huỳnh
Giáo Chủ nói về “Một Thầy ba Tớ”:
Khùng thời ba Tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy đầy rõ việc thiên cơ.
Ông Sư Vãi Bán
Khoai còn cho biết cả danh hiệu của Thầy và Tớ nữa:
Huệ Lựu ký tả một bài,
Viễn ban châu quận hậu lai khán tường.
Hay là:
Huệ Lựu bút ký tả rồi,
Đặng cho thiên hạ dấu soi để đời.
Đức Huỳnh Giáo
Chủ chẳng những lặp lại tên Thầy, còn cho biết tên tớ nữa:
Đừng thấy ngu dạy mà khi,
Thầy là Huệ Lựu, Tớ thì Huệ Tâm.
Ngoài sự trùng ngôn trùng ý, đánh dấu sự liên hệ tiền kiếp
giữa ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn bức màn huyền vi giữa Đức
Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng sẽ được vén lên, khi ta đọc những
câu như sau:
Như khi Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:
Khùng thời quê ngụ núi Sam
Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.
Núi Sam là nơi Đức
Phật Thầy Tây An tịch, nay còn di tích là phần mộ không nấm của Ngài còn lưu dấu.
Một đoạn khác trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng lặp
lại di tịch núi Sam để cho người nhận ra chuyển kiếp của Ngài:
Thương lê thứ bày tường trong đục
Mặc ý ai nghe phải thì làm:
Lời của người di tịch núi Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc,
Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc.
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần,
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.
Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ,
Giả bán buôn thức giấc người đời.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân chúng nhiều người kiêu ngạo.
Đọc qua các khoản trùng ngôn trùng ý và đối chiếu tư tưởng
giữa Đức Phật Thầy Tây An, Ông Sư Vãi Bán Khoai với Đức Huỳnh Giáo Chủ, người đời
nhận rõ sự chuyển kiếp của Ngài như Ngài đã xác nhận, khi viết: “Tuy là
nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng, chớ dè đâu chuyển kiếp
đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế”.
Do đó, ta không lấy làm lạ, ngoài những người chịu ơn cứu chữa hay phục tài ám
thông tâm lý hoặc được cho thi bài soi tỏ căn cơ, đã đành thọ giáo qui y với
Ngài, mà còn một số tín đồ của Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán Khoai hay
những người trong giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, sau khi đọc Sấm Giảng đều chẳng ngần
ngại qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Tiếng đồn ngày một lan rộng ra, thu hút một số đông người đến
thử thách.
Thử thách. – Từ ngày thi thơ, Sấm Giảng ra đời, sau
khi đọc qua, có một số Nho gia hay phái tân học tầm đến thử thách, trước nhứt
cho rõ tài cán của Ngài (không học mà thông), sau là tìm hiểu xuất xứ của vị
siêu phàm xuống thế và sứ mạng vị ấy như thế nào?
Nếu kể ra hết các trường hợp thử thách thì quá dài, đây
chúng tôi chỉ chọn ra một số điển hình để xác nhận về ám thông tâm lý và tài biện
bác trác tuyệt của Ngài, ngoài hạng phi phàm chưa chắc đã đối đáp nổi một cách
tuyệt luân như thế.
1. Thầy Ba Thận tức ông Phan Khắc Thận một nhà lão
nho, học trò của cụ Tú Thường, một hôm được ông Huỳnh Hữu Phỉ đem thi bài của Đức
Thầy về trao cho ông coi, trong đó có bài “Tam châu hữu ngạn”. Sau khi đọc,
ông chê gì mà làm thơ nửa nạc nửa mỡ. Ông họa và gởi đến Ngài xin đáp lại.
Ngài bảo người mang thơ về nói: Ngài làm thơ là để khuyên
người đời tu niệm, chớ không ra đời làm thơ để họa đáp.
Người mang thơ về thuật lại, ông Ba Thận nói: Như vậy tôi
phải đến gặp ông mới được.
Sau đó, ông kêu 4 người học trò giỏi nhứt của ông cùng đi với ông đến gặp
Đức Thầy, sau hai đêm nặn óc làm hai bài thơ định thử thách. Nhưng khi
ông vừa bước đến nhà thì Ngài chạy ra tiếp và vồn vã: Bộ ông muốn làm thơ lắm
sao ông lão. Liền đó, Ngài mời ông vào và bắt đầu câu chuyện mà trong đó Ngài
đáp hết những điều ông lão muốn hỏi trong 2 bài thơ.
Đến khi ra về, người cùng đi theo hỏi sao không thấy ông
đem hai bài thơ ra hỏi Ngài thì Thầy Ba Thận cho biết rằng trong lúc nói chuyện
Ngài đã trả lời hết rồi mặc dầu hai bài thơ vẫn còn nằm trong túi áo.
2. Ông Hương sư Vàng, người ở làng Hòa Hảo, một hôm đem quyển
“ Sấm Giảng Người Đời” của ông Sư Vải Bán Khoai đến toan thử Ngài, vừa bước vào
nhà thì Ngài chận lại hỏi: Phải quyển ”Sấm Giảng Người Đời” của ông Sư Vải Bán
Khoai đây không? Vừa nói, Ngài vừa lấy trong túi ông Hương Sự Vàng quyển giảng
rồi trao cho ông này bảo dò coi Ngài đọc có trúng không?
Thế rồi Ngài đọc thuộc lòng: ông Hương Sự Vàng dò không sai
một chữ, vô cùng ngạc nhiên, vì biết từ nhỏ đến lớn Ngài chưa hề gặp quyển giảng
ấy.
Chẳng những thế, Ngài còn cho biết xuất xứ của quyển ấy:
Tôi đã viết quyển giảng nầy mấy chục năm về trước khi tôi còn ở Cao Miên . . .
3. Ông Huỳnh Hữu Phỉ ở Chợ Vàm, một hôm mượn được quyển
giảng “Lan Thiên” của ông Cử Đa từ Hà Tiên mang về, đem đến định hỏi Ngài.
Nhưng khi ông Phỉ bước đến cửa thì Ngài khoác màn ra hỏi liền: Có phải quyển Giảng
“Lan Thiên” đây không? Nói xong, Ngài thò tay vào túi ông Phỉ móc ra quyển Giảng,
Ngài cuốn tròn lại rồi bắt đầu đọc từ trang đầu cho tới hai ba trang sau mới
trao quyển Giảng lại cho ông Phỉ để dò lại coi có đúng như Ngài đã đọc
không?
Ông Phỉ vô cùng ngạc nhiên vì quyển Giảng ấy có thể nói là
lần thứ nhứt được thấy, bởi nó do một người tu ở Hà Tiên mang về, chưa ai biết
đến, thế mà Ngài đọc ron rót không thiếu một câu không sai một chữ; nếu không
phải là tác giả, vị tất đã thuộc làu như vậy.
4. Họa
thi: Về việc họa thơ thách thức để xem tài, nhứt là làm thơ bằng
chữ Hán, có hai trường hợp đáng kể.
a) Trường hợp ông Huỳnh Hiệp Hòa ở làng Bình Thủy
(Long Xuyên) là một nhà Nho có tiếng. Ông có làm bài thơ sau đây đem đến thách
thức Ngài họa.
Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương,
Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương,
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường,
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn chương,
Trong bài thơ nầy nếu chiết tự sáu câu đầu thì thấy ông Hòa
có ẩn ý hỏi Ngài có phải: Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám không?
Ngài liền họa, cả vần bằng lẩn vần trắc, cũng bằng Hán văn
như sau:
Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp.
Phật lý di khai đại hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.
Trong bài họa nầy,
Ngài khéo léo cho biết danh hiệu Ngài. Nếu ta tinh ý sẽ thấy rõ ở hai câu kết.
b) Trường hợp ông Nguyễn Kỳ Trân tức Chín Diệm ở
làng Định Yên, quận Lấp Vò, cũng là một bực túc nho đầy lòng ưu ái quốc gia,
khi thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra mở đạo, đem mùi tôn giáo khuyến dụ nhơn sanh sợ
làm lợi cho bọn xâm lăng thống trị, nên có làm bài thi như sau:
Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại đức giáng, Hà Tiên?
Hi Di ngũ quí kim an tại,
Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc nhãn sa đà tàng Bắc địa,
Liên mi chơn mạng ẩn Nam thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.
Trong bài nầy ông Diệm có ý trách Đức Thầy, đại ý nói
rằng: Bọn giặc mạnh xâm lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy không biết Ngài
là vị Tiên chi xuống trần? Những bực như Hi-Đi (Trần Đoàn), Thái Thượng
(Khương Tử Nha) đều đi ở ẩn đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi
(cờ tam sắc) khắp đất nước. Nếu Ngài là bực minh lương thì Ngài cũng nên đả một
roi (tiên).
Và đây là bài họa
của Ngài, cũng bằng chữ Hán mặc dầu từ trước đến nay, Ngài chưa từng học:
Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,
Sơn Trung hồi dã bí danh tiên.
Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim giai cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Dị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.
Trong bài nầy, chúng ta thấy Ngài họa chẳng những vận bình
mà cả vận trắc nữa, đại ý trả lời bài thơ xướng và cũng nói rõ danh hiệu và quê
quán của Ngài nữa. Ngài còn cho biết ở hai câu kết, thời kỳ của minh đế chưa đến,
chớ khi đến rồi thì chẳng những đả một roi mà sẽ biết bao roi nữa.
Thật là tài tình, vì khi đưa thơ đến, Ngài liền họa ngay tại
chỗ, cả vần bình lẫn vần trắc, với những câu chữ Hán trác tuyệt. Ở đây lượt bớt
bài thứ hai, chỉ chép bài thứ nhứt của ông Chín Diệm và bài họa của Ngài.
5. Ông Bảy Còn tức ông Nguyễn Phước Còn ở gần chợ Cà
Mau xã Long Kiến, quận Chợ Mới, và là cháu nội ông Đạo Thắng một trong Thập Nhị
Hiền Thủ của Đức Phật Thầy Tây An. Những vị Hiền Thủ đều được Đức Thầy
truyền diệu pháp nên có thần thông chữa trị bịnh nhơn bằng phương pháp huyền diệu,
như uống nước lã, phù hay các thứ lá thứ bông. Khi ông Đạo Thắng tịch, truyền lại
cho thân phụ ông Bảy Còn, rồi ông nầy đến lược truyền lại cho con cách chữa trị
mầu nhiệm ấy.
Khi Đức Huỳnh Giáo Chủ mới phát bịnh, vì là chỗ quen thuộc
với ông Bảy Còn nên Đức Ông chở Ngài xuống nhờ cứu chữa, nhưng chữa mãi mà vô
hiệu.
Nay nghe tin Đức Thầy ra đời chữa bịnh và tỏ ra phi phàm
thì ông Bảy không tin. Ông cho đó là ma quỉ chi chi, nên không chịu đến xem cho
biết.
Theo lời ông Bảy cho biết: có một đêm, ông nằm mộng thấy
chư Thần đến cho biết là Phật đã giáng thế ở Hòa Hảo. Thức dậy, ông cho đó là
điều mộng mị nên không đi.
Một đêm khác, ông cũng nằm mộng thấy chư Thần kêu ông một lần
nữa, nhưng ông cũng không tin.
Đến lần thứ ba, lần nầy chư Thần quở trách ông nên ông bắt
đầu tin và định đi Hòa Hảo cho biết hư thiệt.
Cứ theo lời ông Bảy thuật, ông lại nhà ông Út, chú của Đức
Thầy trước. Trong lúc ông đang chuyện vãng với ông Út thì Đức Thầy bước sang lại
nắm tay ông mà nói rằng:
– Dữ hôn ! Đợi chư Thần đòi ba lần, ông mới chịu đi. Thôi mời
ông qua nhà.
Khi ông Bảy bước sang, Đức Thầy mời ông Bảy ngồi rồi nói:
– Ông Bảy muốn thử tôi phải không?
Nói xong, Ngài bước vào trong lấy viết mực làm một bài thơ
trao cho ông Bảy và nói:
– Ông đọc đi coi có phải không?
Bài thơ ấy là bài thơ khoán thủ cách cú mà Đức Phật Thầy
Tây An đã mật truyền cho ông Đạo Thắng, dặn sau nầy có ai đưa ra bài thơ nầy tức
là Ngài tái thế. Bài thơ ấy, nguyên văn như sau:
ĐẠT ĐẠO NGAO DU CHÂU DI VIỄN CẬN,
Đạt Đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
Ngao Du thế giới hoàn sanh chúng,
Quí tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
Châu Di phục thỉ an bá tánh,
Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
Viễn Cận chư châu qui nhứt thống,
An cư lạc nghiệp phước vô biên.
Nên để ý
tám chữ khoán thủ cách cú: (Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận) đều thuộc bộ Xước.
Ông Bảy trả lời là không biết chữ quốc ngữ nên nhờ Ngài đọc
lại cho ông nghe.
Khi nghe xong, ông Bảy đã khâm phục rồi, nhưng Ngài còn làm thêm một bài nữa, tức
bài “Bát Nhẫn” mà nội tổ ông Bảy đã chép trong phòng của Đức Phật Thầy và hằng
lấy đó làm bài giáo huấn truyền lại cho con cháu. Đây là bài Bát nhẫn:
BÁT
NHẪN
Nhẫn Năng Xử Thế thị nhơn hiền,
Nhẫn Giái kỳ tâm thận thủ tiên.
Nhẫn dã Hương Lân hòa ý hỷ,
Nhẫn thành Phu Phụ thuận tình duyên.
Nhẫn Tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn Tánh niên niên đắc bảo truyền.
Nhẫn Đức bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn Thành phú quí vĩnh miên miên.
Khi nghe xong bài “Bát nhẫn”, Ông Bảy xụp xuống lạy nhưng Đức
Thầy đỡ dậy mà rằng: Không nên, ông Bảy. Phần xác đáng con cháu, ông lạy như thế
không nên. Như ông muốn lạy, hãy lạy bàn Phật kia.
6. Trường hợp đã qui y. – Đây không phải là một cuộc
thử thách mà là một việc chứng tỏ thêm về sự ám thông tâm lý của Ngài. Nguyên
có nhiều tín đồ sau khi đọc Sấm Giảng và học thuộc Bài Qui Y và Bài Ngũ Nguyện,
tự đốt hương đến bàn Cửu Huyền và Bàn Thờ Phật, phát nguyện và qui y đúng như
cách thức đã chỉ dạy trong quyển “Những điều cần biết của kẻ Tu Hiền” tức quyển
Qui tắc hành đạo.
Mặc dầu ở nhà đã tự làm lễ qui y với ngôi Tam Bảo rồi,
nhưng khi đến Ngài, lại xin Ngài chứng cho họ làm lễ qui y, ý chừng có được
Ngài chứng giám mới có giá trị.
Nhưng Ngài đỡ lời mà rằng: Anh em đã qui y rồi, mặc dầu không có mặt tôi, nhưng
tôi cũng đã chứng giám rồi. Một khi anh em tự làm lễ qui y là có tôi đến chứng.
Vậy anh em khỏi làm lễ qui y một lần nữa.
Điều nầy đủ chứng tỏ Ngài đã ám thông tâm lý. Mọi việc gì
người đời làm, thiện hay ác. Ngài đều rõ thấu, chẳng cần phải báo cáo, Ngài
cũng tường lãm. Vì thế trong sách Nho có câu của Khổng Tử khuyên:”Thận kỳ độc”, nghĩa
là nên cẩn thận lúc ở một mình trong phòng kín, vì lúc đó mặc dầu không có ai,
nhưng ý nghĩ thầm kín của mình đều được Thần minh soi xét, rõ ràng như hành
động ở ngã tư đường.
Đăng nhận xét