DownLoad Hiển Đạo Phần 1 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 2 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 3 PDF
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ
XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ
XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ
XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ
XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ
XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ
XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ
XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ
XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ
XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ
XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ
XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ
XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ
XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ
XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ
XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ
XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ
*****
Ngoài
trời lác đác mưa sa,
Trong
phòng lặng lẽ mình ta với đèn;
Lưng
đã mỏi vừa nằm thiu-thỉu,
Hồn bỗng
dưng theo điệu nhạc trời.
Rồi liền
đưa đến xa khơi,
6.
Nhìn ra mới biết là nơi Liên trì;
Lòng tự
hỏi đến chi đây nhỉ?
Chưa kịp
cho ý nghĩ trả lời,
Liền nghe
gió nhẹ đưa hơi;
Liên
trì có một hoa tươi nở bừng.
Mùi
thơm dịu chưa từng ngửi tới,
Sắc đẹp
pha lẫn khối hào quang;
Tự
nhiên tiếng nhạc dịu-dàng,
14. Từ
trong sen ấy nhịp nhàng trỗi lên;
Hòa lẫn
tiếng Thần Tiên ca trỗi,
Lời ca
rằng: con hỡi là con.
Đường
trần gót ngọc đã mòn,
Từ xưa
dạ sắt nay còn tim gan;
Chừng
nào con Niết-Bàn nhập tịch,
Nhập
mà không mất tích ớ con.
Lời ca
trầm bổng véo von,
22.
Ngưng rồi mà tiếng vẫn còn vi-veo;
Hồn ta
phưởng phất theo tiếng ấy,
Đứng lặng
như tượng giấy hình đồng;
Khác
nào như khoảng hư không,
3Chính
mình lại chẳng ngó trông thấy mình.
Bỗng
có tiếng âm thinh sấm nổ,
Đóa
hoa sen đã trổ vừa qua;
Ngọn
đèn bỗng lại mọc ra,
30.
Trong đèn hiện đủ Phật- Đà mười phương.
Mỗi Phật
mỗi hình dung đẹp-đẽ,
Đẹp-đẽ
hơn tượng vẽ trần gian;
Phật
nào cũng vẫn mình vàng,
Mầu
nhiệm thay Phật nào ta ngó,
Tức
nhiên là Phật có lời ra,
Rằng
con ơi: Phật không xa.
38.
Tâm đâu tức thị Phật là đấy ư.
Hoa nầy
vốn chơn-như Pháp bửu,
Đèn nầy
là vô hữu diệu năng;
Nếu
người không có thiện căn,
Thấy
hoa hoa chẳng nói rằng chi đâu.
Hoa cảm
được sở cầu của chúng,
Đèn
thông qua ý hướng trần gian;
Trong
đèn có pháp chơn quang,
Sức
năng hiện khắp mười phang Phật- Đà.
Mỗi Phật
mỗi lời ra vi-diệu,
Khiến
người xem được hiểu căn duyên;
Con
không là kẻ đầu tiên,
50.
Xưa nay đã lắm người xem đèn này.
Khởi
niệm chi có ngay theo đó,
Tâm
chúng sanh Phật rõ như gương;
Con ơi!
Nơi cõi trần dương,
Đang
còn sầu khổ vì cơn bão bùng.
Con hữu
chí muốn cùng chư Phật,
Cứu
chúng sanh khỏi cuộc can qua;
Lòng
con cảm đến Phật- Đà,
58.
Khiến cho thấy được đóa hoa sen này.
Lời
trong hoa mở khai lúc nãy,
Do mười
phương thế giới Phật- Đà;
Khiến
cho hoa ứng lời ra,
62.
Trong hoa có Phật, Phật hoa một nguồn.
Con
hãy xem các phương Phật khác,
Cùng
Phật đây có khác hay chăng;
Đồng
tâm đồng một bản năng,
Cho
nên sắc diện hình dung cũng đồng.
Lấy
đây để mà trông thì biết,
Phật với
phàm giả thiệt khác nhau;
Phật đồng
tâm niệm sắc màu,
70.
Phàm thì khác tướng khác vào trong tâm.
Tâm niệm
khác, khiến tham muốn khác,
Kình
chống nhau tạo các khổ nàn;
Khác
hơn Phật ở Niết bàn,
Cùng
tâm thanh tịnh cùng đàng từ bi.
Dắt
con đến đây chi có biết?
Muốn dạy
con một việc rất cần;
Con
nên tỉnh mỉnh tâm thần,
78. Để
nghe lời Phật thiệt hơn tỏ bày.
Con
ơi! Khách trần ai đang ngủ,
Màn vô
minh phất phủ say sưa;
Ngoài
trời ầm ỹ gió mưa,
82.
Nhà hư sắp đổ mà chưa tỉnh hồn.
Cảnh chết
ấy Phật không muốn có,
Nên gọi
con để tỏ đấy ư!
Là người
phải biết thương người;
Con
mau lấy dạ bi từ khuyên dân.
Trời
Tây có vị Thần hung ác,
Sẽ ra
tay tận sát nhơn gian;
Từ người
giàu có cao sang
90. Đến
người đói khát nghèo nàn không tha.
Chỉ có
đức mới là tránh khỏi,
Tài mấy
không chống chỏi cho qua;
Vị Thần
ấy lúc nổi ra,
Chúng
sanh thế giới Ta-bà nát tan.
Có đức
có hào quang bao bọc,
Thần
Ác không dám xốc đến mình;
Phép nầy
tối diệu tối linh,
98. Ấy
là tự cứu lấy mình đấy con.
Bòn
phước đức hơn bòn của quấy,
Có tiền
dư mở đãy cứu dân;
Ấy là
phép nhiệm che thân,
Cho ra
không mất để dành tiêu tan.
Phật
nói xong tay vàng liền chỉ,
Nơi
phía Tây liền thấy hiện ra;
Vị Thần
bộ mặt xấu xa,
106. Tay
cầm một vật gọi là mê chung.
Mê-chung
ấy khi rung lên tiếng,
Thì
người nghe liền biến tâm thần;
Mắt
tai đều bị mê lần,
Đất trời
thấy tối ngã lăn chết liền.
Dù cho
phép Thần Tiên đi nữa,
Bị mê
rồi khó chữa lắm con;
Vật kia
hồi có càn khôn,
Thì là
có nó nay còn lại đây.
Chống
được nó ít ai bớ trẻ,
Ngoài
Phật ra mọi kẻ đều thua;
Phật
thì lấy đức làm vua,
118.
Xưa nay đức chẳng hề thua phép nào.
Trong
đức có đủ hào quang diệu,
Cứng
chắc hơn các loại kim cương;
Gọi là
diệu pháp chơn vương,
Phép
tà không thể cự đương được nào.
Đức
càng lớn hào quang càng chắc,
Được
viên dung đồng Phật Như-Lai;
Đức là
mẹ của muôn loài,
126. Đức
không tất chẳng có ngày nào an.
Chính
các Phật mình vàng chói rực,
Cũng
là do nơi đức sinh ra;
Đức không
không có Phật- Đà,
Đức là
nguồn cội của nhà chơn tu.
Đạo
không đức đạo mầu chẳng gọi,
Đức muốn
nên, nên mới tu hành;
Con
ơi! muốn đạo quả thành,
134. Đức
là căn bản rán dành thêm cao.
Chính
nó là bức rào đỡ đạn,
Thần
ác không xâm phạm được mình;
Ấy là
phép tối diệu linh,
Gọi
con đến để trần tình bấy nhiêu.
Phật
nói xong liền nheo đôi mắt,
Rồi tự
nhiên lặng bặt mất đi;
Cúi đầu
tạ Đức Từ bi,
142.
Nhiệm màu dạ chẳng còn nghi chút nào,
Ơn đức
ấy chạm vào tim phổi,
Nguyện
noi theo cho cổi lốt phàm;
Cảnh nầy
lòng chẳng muốn ham,
Thì
còn chờ đợi ưa tham cảnh nào?
Sen dường
ấy đèn cao dường ấy,
Có sức
năng hiện thấy mười phương;
Trí
phàm không thể suy lường,
150.
Đáng cho sanh-chúng cúng dường từ-bi.
Ta đang
còn nghĩ suy suy nghĩ,
Sen bỗng
nhiên phất phảy một cành;
Kế rồi
tiếng nhạc liền sanh,
Thần
ca một khúc vang lên êm đềm.
Rằng
con ơi! ngày đêm không có,
Cõi
sen nầy sáng tỏ luôn luôn;
Mỗi
hoa mỗi cảnh khác thường,
158.
Trong hoa có Phật hiện đương tọa thiền.
Hoa thọ
mạng vô biên vô lượng,
Lấy kiếp
phàm khó tính cho ra;
Nhưng
hoa chẳng có tàn già,
Lúc
nào cũng đẹp như là mới sinh.
Lấy cặp
mắt phàm tình trông mãi,
Không
bao giờ được thấy Phật đâu;
Tâm
thanh con khởi lòng cầu,
166. Để
mà thấy được cảnh mầu trong hoa,
Khi
tai nghe lời ca vừa dứt,
Cành
sen ngưng tiếng nhạc cũng ngưng;
Rồi liền
trong phút bỗng dưng,
Mùi
hương ngát mũi chưa từng ngửi ra.
Kế đó
một đóa hoa phía hữu,
Chuyển
mình xoay mặt ngó vào ta;
Thoắt
như đèn điện bật ra,
174.
Sáng vô cùng sáng hơn là trời trăng.
Trong
hoa hiện rõ ràng thế giới,
Có các
lầu cất nối liền nào;
Toàn bằng
châu ngọc làu làu,
Trên
không lại có tháp cao lưng chừng.
Giữa
tháp có một vừng bạch sắc,
Trong
hào quang có Phật ngồi yên;
Phật rằng
ớ trẻ hữu duyên,
182.
Nhân đâu con được đến miền nầy đây?
Con biết
tên cảnh nầy chăng nhỉ,
Chính
tên Vô-sầu-mị ngọc đài;
Những
người từ cõi trần ai,
Sanh
lên đến được cõi nầy đều vui.
Kìa
con xem mọi người tất cả,
Sắc mặt
không có vẻ buồn rầu;
Bao
nhiêu đài các ngọc lầu,
190. Tạo
nên bằng các báu châu diệu huyền.
Châu
báu ấy tự nhiên biến hóa,
Tùy sở
cầu hiện cả mọi nơi;
Muốn
nghe nghe được đủ lời,
Muốn
ăn chi có đủ mùi vị ngon.
Đủ phẩm
vật không còn vật thiếu,
Tuy hột
châu nhỏ xíu chứa đầy;
Duyên xưa
con đã khéo gây,
198.
Cho nên mới được chốn nầy đến nơi.
Kìa
con thấy chói ngời viên ngọc,
Đang
long lanh ở góc bên kia;
Định
thần con thấy mỗi tia,
Mỗi vì
Bồ-tát đang chia cứu đời.
Ông giả
dạng ra người tàn tật,
Ông biến
thân ra bậc giàu sang;
Ông
thì hóa kẻ nghèo nàn,
206.
Ông thì giả dạng làm quan đương quyền.
Mỗi
ông mỗi có thuyền bát nhã,
Ngày
chí đêm bươn bả cứu dân;
Biết
bao nhiêu cuộc tảo tần,
Vì câu
bác ái bất cần khổ lao.
Chính
mắt ta trông vào thấy kỹ,
Có một
ông đang bị cực hình;
Mặt
luôn đầy vẻ tươi xinh,
214. Đớn
đau tuy lắm không rên không buồn.
Có một
ông giả cuồng đang chạy,
Và kêu
vang thế giới sanh linh;
Rán tu
để cứu lấy mình,
Ngày gần
sấm nổ vang thinh hãi hùng.
Sắp đến
phút rốt cùng thế giớí,
Nghiệp
chúng sanh đã tới lúc muồi;
Khổ
nhiều hơn sự an vui,
222.
Không tu khó thoát qua hồi đại tai.
Có một
vị ngồi ngoài phố xá,
Mặt tả
tơi như kẻ ăn mày;
Vừa
xin vừa cúi lạy dài,
Xin cô
với bác ra tay giúp giùm.
Tuy thân
phận bần cùng rách rã,
Cũng
là người như cả mọi người;
Xin
thương chớ dạ ngạo cười,
230.
Tiền nay giúp một lời mười trả sau.
Nhơn
loại sắp bước vào hỏa nạn,
Vật
quý chi cũng tán ra tro;
Thân nầy
nay chẳng đủ no,
Xin cô
với bác thí cho ít nhiều.
Giúp kẻ
khó là điều phải nghĩa,
Có phước
dư sau sẽ khỏi nàn;
Cúi
xin cô bác xóm làng,
238. Đồng
xu chén gạo xin ban bố giùm.
Miệng
vừa nói mà lưng vừa cúi,
Nước mắt
rơi như suối đổ ra;
Kế
nghe có tiếng Phật- Đà,
Rằng
con ơi! ấy chính là Quan Âm.
Biết
bao kẻ đã lầm lạc đến,
Cho rằng
phường lười biếng ăn mày;
Nào dè
là Phật vị lai,
246.
Vì câu bi mẫn ngồi ngoài chợ đông.
Kẻ nào
thí một đồng một cắc,
Phước
to bằng trái đất đấy con;
Kẻ lầm
nhiều chất dường non,
Người không
lầm thật ít còn chi hơn.
Phật
nói rồi bình thân im lặng,
Ta liền
quay ngó thẳng bên kia;
Đồng
trong ánh ngọc một tia,
254.
Có vị bồ tát đang lê gót trần.
Hóa
làm một vị quan liêm trực,
Thêm đầy
lòng nhơn đức yêu dân;
Sĩ binh
hộ vệ bất cần,
Một
mình đi lại xa gần xét xem.
Thương
dân thể anh em ruột thịt,
Vùa
giúp dân chẳng tiếc một điều;
Cất
nhà cho kẻ bị thiêu,
262.
Ruộng ban cho kẻ thiếu điều cày canh.
Rách
cho mặc được lành thân thể,
Đói
cho ăn để khỏe mạnh lên;
Chẩn bần
không lúc nào quên;
Lại
thường khuyến khích theo nền Phật gia.
Riêng
ông quên cửa nhà con vợ,
Chỉ lo
bề ăn ở cho dân;
Khiến
cho già trẻ xa gần,
270.
Thảy đều biết cảm mến ân rất nhiều.
Liền
nghe tiếng Phật kêu ta nói,
Ấy là
ông Dĩ-Lợi Độ-sanh;
Mượn
cơ giúp đỡ no lành,
Để lần
dắt chúng tu hành đấy con!
Bồ-Tát
ấy đức tròn hạnh mãn
Ngày gần
đây chứng đặng Như Lai;
Hiện
giờ ở chốn trần ai,
278.
Có nhiều Bồ Tát như vầy lắm con!
Phật
nói rồi ta liền cúi bái,
Rằng
cám ơn Phật dạy tận tường;
Nếu
quan ở cõi trần dương,
Như Bồ
Tát ấy biết thương dân lành.
Dân chẳng
có một ai hờn oán,
Nước
càng ngày giàu mạnh vững an;
Không
sinh ra cuộc rối loàn,
286.
Khắp đâu đều cũng lặng an như tờ.
Phật rằng
nếu biết lo thế ấy,
Thì cõi
trần cả thảy hiền hòa;
Đao
binh cũng chẳng sanh ra,
Và
ngày tận diệt như là cũng không.
Nhưng
tiếc thay một ông hành thiện,
Còn
chín người theo chuyện bất lương;
Thế
nên không ngớt thê lương,
294. Cạnh
tranh nhau mãi trên đường lợi danh.
Tội lỗi
chất muôn thành đầy ngập,
Khí ác
xung lên khắp trời xanh;
Ngàn
muôn dữ chỉ một lành,
Nghiệp
kia sắp đến phạt hành gớm ghê.
Nếu
sanh chúng giấc mê tỉnh được,
Và âu
lo chưởng phước cho nhiều;
Dù cho
có cuộc tàn tiêu,
302.
Xác hồn kia được Phật theo độ trì.
Đủ
phép nhiệm cứu khi lâm nạn,
Lòng
muốn chi sẽ đặng có ngay;
Con
ơi! Lời Phật không sai,
Nên
khuyên khắp chúng trần ai thức lòng.
Phật
liền ngước mắt trông một cái,
Sức lẹ
làng mắt nháy còn thua;
Hiện
ra một hột ngọc to,
310. Rồi
trong ngọc ấy chiếu ra cõi trần.
Mây
gió cuộn nước dâng linh láng,
Mù mịt
trông hình dạng mờ mờ;
Thây
như bèo nổi lờ đờ,
Hãi
hùng không thể ai ngờ cho ra.
Trên
thây ấy yêu ma đạp giẫm,
Thây
lõa lồ càng ngắm càng ghê;
Lúc nào
đẹp đẽ dường huê,
318.
Bây giờ xấu xí hơn dề rác trôi.
Mê dù
mấy khi người trông thấy,
Cũng
chán ngay hết lấy làm mê;
Tự
lòng ta thấy ủ ê,
Buồn
sao cảnh quá ê chề nhớp nhơ.
Cảnh
chết ấy thật chưa từng thấy,
Chết
như vầy thế giới còn chi;
Tự
nhiên nước mắt lâm ly,
326. Rồi
liền nghe Đức Từ bi gọi rằng.
Con
ơi! Thây trôi lăn thế đó,
Toàn
là người không có thiện tâm;
Tự làm
thì phải tự cam,
Phật
thương nhưng cũng không làm sao hơn.
Nghe
Phật nói khiến lòng thêm não,
Đành rằng
do nghiệp tạo sanh ra;
Thảng
như cứu được người ta,
334. Cứu
ngay không lựa ấy là nghiệp chi.
Từ bi
vẫn từ bi tất cả,
Hễ xót
thương luôn dạ xót thương;
Không
nhờ Đức Phật yêu đương,
Cõi trần
tiêu lẹ hơn sương gặp Trời.
Phật rằng
ớ con ơi xét kỹ,
Phật thương
hơn ý nghĩ con thương;
Nhưng
người ăn ở bất lương,
342.
Dù thương cách mấy không phương cứu rồi.
Đeo kiếng
mát thấy trời sẫm tối,
Không
lột sao nhận nổi trời trong;
Con
ơi! Kiếng nọ lột xong,
Nghiệp
không thì họa sẽ không tức thì.
Công
lý chẳng riêng vì ai cả,
Tội
thì hành phước sẽ thưởng ban;
Cứ làm
mãi việc ác gian,
350.
Ác gian ấy sẽ lôi mang họa vào.
Vạn sự
chẳng ngoài câu nhân quả,
Ăn vào
thì no dạ chẳng không,
Rán
làm cho chúng cảm thông;
Luật
nhân quả rất bình công vô cùng.
Riêng
con khá nên dùng nhẫn lực,
Lướt
chông gai thức tỉnh nhơn sanh,
Khiến
người trở tánh hiền lành,
358. Ấy
là biết cứu phàm tình đấy con.
Nghe lời
Phật lòng son thêm tỏ,
Có cảm
thì tất có ứng ngay,
Giống
nào trái nấy chẳng sai,
Tự
nhiên định luật xưa nay không lầm.
Thật
đúng phép thậm thâm vi diệu,
Không
Phật tâm khó hiểu Phật cơ;
Nhiệm
mầu từ trước tới giờ,
366.
Bí huyền nay cũng vẫn chưa hiểu cùng.
Người biết
một ở trong muôn việc,
Chớ
nào đâu hiểu biết máy sâu,
Nhiệm
mầu sau trước nhiệm mầu;
Mối
manh biết được đuôi đầu sẽ thông.
Khuyên
sanh chúng để lòng xét kỹ,
Chọn lấy
câu chơn lý làm theo;
Đâu là
nước bọt mây bèo,
374.
Đâu là sắt đá sơn keo nghiệm rành.
Rồi tự
lực thiệt hành chánh đạo,
Khó
ngàn muôn chớ não tâm linh;
Luôn
gìn vẹn đức kiên trinh,
Không
nên Phật Thánh cũng thành tiên nhơn.
Đời có
phải l à hơn mọi kẻ,
Đáng
kính yêu đáng lẽ tôn sùng;
Khuyên
người suy xét cạn cùng,
382. Để
lo cho khỏi lụy chung kiếp tàn.
Dựa
theo những lời vàng Phật bảo,
Cõi trần
là huyễn ảo sắp tiêu;
Khác
nào cột đổ nhà xiêu,
Gặp
cơn bão tố dễ nào đứng an.
Cuộc sập
đổ tiêu tan khó tránh,
Ớ trẻ
già hãy lánh cho mau;
Chần chờ
khi gió thổi vào,
390. Mạng
căn kia khó giữ sao cho còn.
Trong
lòng ta vừa đang nghĩ thế,
Viên
ngọc kia vừa kế chiếu ra;
Một
ông đầu bạc tuổi già,
Dung
nghi đoan chánh, dan tay ra chèo.
Gặp phải
lúc ngược chiều nước đổ,
Ông
chèo nhiều thuyền nọ ít đi,
Tay
chèo miệng lại ngâm thi,
398.
Thi rằng: hoàn vũ nhứt kỳ khải an.
Kẻ hữu
duyên có thoàn đại độ,
Mau xuống
đi tìm chỗ lạc nhàn;
Đò nầy
chẳng ngại biển giang,
Sẽ đưa
rước khách ngồi an tới bờ.
Lão từ
trước tới giờ cầm lái,
Chẳng
lần nào đi sái hướng phương;
Khách
già trẻ chớ ngại đường,
406.
Muốn đi tới chỗ hãy bươn xuống đò.
Ông vừa
ngâm vừa lo chèo tới,
Khách
trên bờ ít gọi đến ông;
Phật rằng
con có biết không,
Lão đò
ấy hiện còn trong cõi trần.
Một Bồ
Tát hóa thân đấy nhỉ,
Con để
tâm suy nghĩ sẽ tường;
Nếu
như có khách trần dương,
414. Gọi
ông, ông sẽ đưa đường cho ngay.
Phật
nói rồi vẫy tay một cái,
Thuyền
hóa ra thế giới cực minh;
Cảnh
vui nhà cửa rất xinh,
Người nào
đều cũng dạng hình nghiêm trang.
Do cặp
mắt làm tan bóng tối,
Không
trời trăng vẫn rọi sáng trưng;
Mỗi
người dưới mỗi bàn chân,
422.
Có hoa sen đỡ đi dừng tự nhiên.
Phật rằng
cảnh trong thuyền đấy nhỉ,
Bước
xuống đi sẽ thấy ngay liền;
Trên đời
ít kẻ hữu duyên,
Cho
nên người được xuống thuyền mấy ai.
Ta
càng xem càng say mết-mát,
Cảnh
chưa từng để mắt trông vào;
Kính
thay phép Phật rất cao,
430.
Những điều biến hóa trần nào nghĩ ra.
Ước gì
cảnh của ta xem đấy,
Khắp người
đời cũng thấy như ta;
Cõi trần
dù lắm mê sa,
Cũng
là dứt bỏ để mà lo tu.
Phật rằng
sấu, sấu nào cũng sấu,
Hóa rồng
hay không hóa tại mình,
Nước
kia chẳng chịu lặng bình,
438.
Trăng dù có chiếu khó nhìn lắm con.
Quí
hóa thay Phật ngôn vừa bảo,
Cảnh mầu
do tâm tạo mà ra,
Nếu đồng
tâm với Phật- Đà,
Tất
nhiên cảnh Phật sẽ là thấy ngay.
Suy
nghĩ thế lòng đây phới phở,
Tu thì
thành chẳng thuở nào không;
Nguyện
đi kêu khắp đại đồng,
446. Cho
người trong cõi trần hồng gắng tu.
Ta
nghĩ xong cúi đầu bái Phật,
Xin đội
ơn của Đức đại từ;
Phật
liền nhích miệng mỉm cười,
450.
Thoắt ra một cái mất hồi nào đâu.
Ta
đang ngẩn ngơ theo phép nhiệm,
Tai liền
nghe có tiếng lá rung;
Nhìn
ra lá dưới cành hoa,
Chuyển
lay vài bận rồi ra ngưng liền.
Nhiều
Bồ Tát hiện trên lá ấy,
Lá
không chìm vẫn thấy tự nhiên;
Vị nào
cũng rất trang nghiêm,
458. Đồng
thinh cất giọng ngâm lên lời mầu.
Rằng
nước vốn nguồn sâu ban bủa,
Phật
do tâm mà có danh ngôn;
Thấy
tâm thấy được Thế Tôn,
Bỏ tâm
tìm Phật luống công tu hành.
Đang lắng
nghe tiếng ngâm vừa dứt,
Bóng
các Ngài liền khuất ngay đi;
Thật
là Phật pháp bí kỳ,
466. Lời
vàng trong lá dễ gì moi ra.
Chơn
lý thay lời ca mới nãy,
Nguyện
truyền ra cả thảy người nghe,
Chừng
nào dân chúng hết mê,
Thì
đây mới chịu ngưng bề nhủ khuyên.
Xưa
nay vốn đạo duyên đã thắm,
Giờ được
thêm phép nhiệm ban vào;
Khiến
thêm sắc ngọc sậm màu,
474.
Đường tu càng mến tả sao cho cùng.
Riêng phận
đành vẫy vùng khỏi khổ,
Còn muốn
cho khắp chỗ ly nàn;
Làm y
theo những lời vàng,
478. Đạo
mầu gieo khắp nhơn-gian mới vừa.
Cay đắng
mấy cũng cho thường sự,
Miễn
làm sao dân thứ hiền lành;
Ấm no
no trong cuộc sống sanh,
Hảo-hòa
khắp cả dân tình đó đây.
Hiện tại
chẳng ai gây thù hận,
Vị lai
không vướng bận khổ sầu;
Khắp
dân thế giới năm châu,
486. Nắm
tay nhau lại giữ câu hòa bình.
Biến
cõi thế trở thành cõi Phật,
Đổi
hung đồ ra được hiền nhơn;
Là
ngày nhơn loại qui nguơn,
Ta-bà
thế giới hết còn khổ lao.
Điều nầy
ta ngày nào cũng ước,
Khát
khao hơn khát nước nữa ư!
Lòng
luôn khấn Đức đại từ,
494.
Giúp cho ta sớm được như nguyện này.
Hôm
nay được tới đây cõi lạ,
Càng
khiến cho lòng dạ thêm nôn,
Cúi đầu
bái tạ Thế Tôn,
Giúp cho
thế giới càn khôn như vầy.
Khắp
Nam Bắc hết gây khói lửa,
Cả
Đông Tây cũng bỏ đao binh;
Ở ăn
theo tánh trời sinh,
502.
Háo sanh chớ chẳng chút tình sát ai.
Mắt thấy
sự gổ gây bắt chán,
Tai
nghe điều thù oán thêm nhờm;
Tranh
nhau từ miếng cá cơm,
Nỡ đem
tình nghĩa vùi chôn bùn lầy.
Dù học
thức Đông Tây mấy bực,
Vì lợi
danh đành dứt nghĩa nhân;
Sánh
loài cầm thú ngang phân,
510.
Đâu còn giá trị là nhân loại gì.
Nghe
tiếng súng ầm ỳ đưa lại,
Như cầm
dùi xoi hoáy trong tim,
Xét rằng
từ cổ chí kim,
Vì
tình hoặc giả vì tiền giết nhau.
Rốt cuộc
lại người nào cũng chết,
Uổng
mưu gian uổng giết lẫn nhau;
Ô danh
trọng tội mang vào,
518.
Thúi tràn muôn dậm thơm nào mấy ly.
Vả lại
cũng tại vì nghiệp ác,
Linh hồn
kia khi thác đi rồi;
Sáu đường
cứ mãi lăn trôi,
Chịu
chiều sanh tử luân hồi thiết tha,
Khổ với
thảm kể ra sao hết,
Sống
chưa chi kế chết tới nơi;
Ngắn
thay số mạng người đời,
526.
Cũng nên xét kỹ để hồi tâm tu.
Ta đang
đứng gật gù suy nghiệm,
Trong
tâm liền khởi niệm như vầy;
A-Di-Đà
Phật phương Tây,
Hiển
linh xin hiện chốn nầy cho xem.
Dạy
cách nào ngày đêm trì niệm,
Để có
mau kiến diện được Ngài;
Hồng
trần già trẻ gái trai,
534.
Như mù lại gặp phải ngày tối tăm.
Không
Phật chỉ khó làm cho trúng,
Chế
thuốc sai ắt bịnh không lành;
Con đường
Tịnh độ vãng sanh,
Cúi
xin Đức Phật mở tình dạy cho.
Trong
tâm vừa vái ra như thế,
Thì ngọn
đèn về phía phương Tây;
A-Di-Đà
Phật hiện ngay,
542.
Hào quang ở giữa lông mày chiếu ra.
Rằng ở
cõi Ta-bà sanh chúng,
Có người
nào lòng muốn gặp ta;
Phải
như con hiếu nhớ cha,
Dù cho
cách trở bao xa cũng về.
Niệm
Di-Đà không hề để ngớt,
Cả sáu
căn cũng một niệm nhau;
Tất là
đàn chỉ bất lao,
550. Tây
Phương đến được chớ nào khó chi.
Dứt sạch
niệm mê si tức giác,
Cùng
ngó nhau hai mặt hòa nhau;
Nếu
còn tâm vọng trần lao,
Dù cho
niệm Phật cách nào không linh.
Lời nầy
con khá in trong trí,
Để
truyền cho cạn kỹ người tu;
Chúng
sanh đâu phải là mù,
558.
Chỉ là mắc bịnh mộng du tại trần.
Sẽ tỉnh
được chớ không mê mãi,
Con
khéo lời chỉ dạy người ta;
Một
người giúp được tỉnh ra,
Đức
kia to lớn khó mà lường đo.
Ta cúi
đầu liền thưa Đức Phật,
Xin chạm
ghi ân đức đại từ;
Dạy cho
rõ phép thật hư,
566. Sẽ
là giúp được nhiều người thành công.
Cúi
xin Phật nhủ lòng chỉ dạy,
Hiện ở
nơi thế giới Ta-bà;
Tại
sao khắp cả gần xa,
Chúng
sanh thường niệm Di-Đà nhiều hơn.
Phật rằng
có tám muôn dư pháp,
Pháp
Di-Đà rất hạp hạ căn;
Dễ tu
dễ nhớ dễ hành,
574.
Cho nên hiện tại chúng sanh niệm nhiều.
Cũng
là điềm tàn tiêu cõi hạ,
Duyên
ta cùng tất cả chúng muồi;
Đất Trời
đến lúc tối thui,
Thì ta
ứng hiện độ người thành tâm.
Hào
quang ta sẽ làm hết khổ,
Khi người
nào được có chiếu vào;
Mẹ
thương con đỏ thế nào,
582.
Phật thương sanh chúng cũng vào thế ni.
Thương
đến đỗi quên đi mạng sống,
Gánh
khổ cho sanh chúng từ lâu;
Con
ơi! Nên được đạo mầu,
Lòng từ
bi phải rộng sâu vô cùng.
Món
yêu thương cũng không tiếc kể,
Đem
ban cho những kẻ khát khao;
Chúng
sanh nơi cõi trần lao,
590. Tấm
lòng nầy biết chừng nào hiểu ra.
Phật
thấy chúng Ta-bà đang khổ,
Khó ngồi
yên Tịnh-độ ớ con,
Hóa
thân đến đỗi gót mòn,
Đó đây
đi khắp chẳng còn chỗ không.
Tìm kiếm
kẻ lòng mong nhớ Phật,
Đem về
nơi Lạc quốc ở chung;
Kìa
con để mắt xem cùng,
598.
Hóa thân của Phật khắp trong cõi phàm.
Khi
hóa nữ hóa nam đủ hạng,
Cứu
chúng sanh không chán phút nào;
Lòng
thương chẳng lúc mòn hao,
Xưa
nay vẫn một sắc màu từ bi.
Gặp
tai khổ như khi bình sự,
Lòng
thương yêu dân thứ không phai;
Không
riêng Phật ở phương Tây,
606.
Phật nào cũng vẫn ra tay cứu đời.
Ngoài
Ta-bà còn nơi khác nữa,
Cũng
chúng sanh đau khổ như nhau;
Cứu luôn
không bỏ người nào,
Nếu là
tưởng Phật nếu trau tâm lành.
Phật
nói xong liền nhìn ngoái lại,
Liền
hiện ra thế giới Lạc-bang;
Biết
bao nhiêu đóa hoa vàng,
614.
Chỉ trong một khắc nở ngàn muôn bông.
Phật rằng
con hãy trông như thế,
Mỗi
bông là mỗi kẻ siêu thăng;
Nhưng
mà kẻ đọa trần gian,
Nhiều
hơn số kẻ siêu thăng cõi này.
Nên
lòng Phật chưa khuây khỏa được,
Lo lắng
luôn không ngớt ớ con;
Chừng
nào kẻ khổ hết còn,
622.
Thì là Phật mới Niết bàn ngồi yên.
Cảm lời
Phật ta liền rơi lụỵ,
Rồi
cúi đầu tỏ ý biết ơn,
Lòng
nhơn trên hết lòng nhơn,
Đáng
làm cha mẹ cõi trần chúng sanh.
Một
mùi hương thơm lành ngát mũi,
Ngước
đầu lên còn vọi hào quang;
Lẫn
cùng tiếng nhạc trỗi vang,
630.
Còn thân Phật đã ẩn tàng mất đi.
Thật phép
nhiệm khó suy nghĩ kịp,
Đáng
kính thay các Đức Từ bi;
Chúng
sanh lòng muốn những gì,
Hiểu
ngay liền khéo tùy nghi giúp giùm.
Ta
đang còn bận trong ý nghĩ,
Rằng ước
gì Phật chỉ thời cơ;
Để cho
những kẻ còn ngờ,
638.
Trở nên tin để kịp giờ Hoàng-Thiên.
Ta vừa
nghĩ thì liền theo đó,
Trong
ngọn đèn linh nọ hực ra;
Một
hào quang chói sáng lòa,
Trong
hào quang có một tòa Liên hoa.
Giữa
có vị Phật đà ngồi ngự,
Nơi ngực
bày lộ chữ vạn ra;
Mỗi
nơi góc mỗi Phật- Đà,
646.
Hào quang muôn sắc thật là đẹp xinh.
Phật vừa
cười vừa lên tiếng nhạc,
Trong
nhạc nghe rào rạc lời ca;
Rằng:
Con ơi! Cõi Phật- Đà,
Phàm
nhơn mấy kẻ được mà thấy đâu.
Không
phải riêng con cầu mà được,
Vốn là
duyên thuở trước khéo gây;
Thương
con lao khổ dẫy đầy,
654.
Vì noi gương Phật chốn nầy mà ra.
Con vừa
gặp Di-Đà khi nãy,
Phước
lớn hơn tứ hải ớ con;
Truyền
ngôn con khá lo tròn,
Ngày gần
Phật sẽ cùng con một vườn.
Con
ơi! Với tình thương của Phật,
Khác hơn
tình nhơn vật ớ con;
Thương
không muốn chúng hao mòn,
662.
Thương làm cho khắp người còn sống luôn.
Không ở
trần về nương cõi Phật,
Chẳng
tử sanh bịnh tật đeo mang;
Ngọn
đèn trên cánh sen vàng,
Người
thường nơi cõi thế gian khó nhìn.
Lành
thay con hữu tình với Phật,
Giờ
phút nầy mới được thấy ư;
Con đừng
tưởng việc huyễn hư,
670.
Đây là sự thật chớ ngờ ớ con!
Kìa
nơi góc lầu son bên cạnh,
Con thử
xem thấy cảnh trần ai;
Trên
giường kia cái hình hài,
Đang nằm
như thể khúc cây bất thần.
Chính
là cái xác trần con đấy!
Con thử
xem sẽ thấy ra sao?
Một
khi hơi thở không vào,
678.
Xác kia trở cứng khác nào khúc cây.
Rồi
sình lên thúi khai hết kể,
Rã tan
ra khác thể bùn lầy;
Hồng
trần bất luận là ai,
Xác thân
đều phải như vầy ớ con.
Thế mà
chúng sanh còn mến tục,
Tạo
tác ra nhiều việc tội tình;
Làm
cho thêm nghiệp tử sinh,
686.
Mười phương chư Phật càng nhìn càng đau.
Bên
góc kia con nhìn vào thử,
Cõi Phật-
Đà đủ thứ xinh tươi;
Cả ai
đều cũng vui cười,
Buồn rầu
lao lý một người cũng không.
Nếu muốn
chi tùy lòng có nấy,
Dù việc
chi chẳng trái tâm nguyền;
Nếu
người ở cõi trần duyên,
694.
Được về đây sẽ hết phiền hết lao.
Nhưng
ít kẻ tin vào nơi ấy,
Thật
đáng làm thương hại ớ con;
Dù cho
lặn biển trèo non,
Chơn
linh con chẳng hao mòn chút nao.
Càng
lao khổ càng cao công đức,
Như tường
dầy thêm chất đá chông;
Chỉ là
đáng sự an lòng,
702.
Chớ không đáng để ngại phòng sợ lo.
Con
khá nên khuyên cho đời biết,
Khổ dù
bao không thiệt chớ lo;
Trồng
hoa, hoa sẽ trổ cho,
Lòng
nguyền sẽ được chớ lo mất phần.
Phật
là kẻ thoát trần đã hẳn,
Lời
nói chi cũng chẳng hề sai;
Con
ơi! Khá biết Như-Lai,
710.
Vì dân đủ cách đổi thay dạng hình.
Hôm nay
cũng vì tình con trẻ,
Phật
hiện bày mọi lẽ con xem;
Ai
trông cũng bắt muốn thèm,
Nhưng
mà những kẻ được xem không hiền.
Mười
phần lòng bận theo cõi tục,
Tin Phật
Trời một chút cũng không;
Lòng
thương của Phật tràn đồng ,
718. Đối
cùng hạng ấy cũng không cứu rồi.
Nhưng
Phật chẳng trách người nào cả,
Đối với
ai cũng dạ yêu thương;
Từ bi
luôn mở rộng đường,
Chừng
nào hết kiếp vô thường mới thôi.
Đạo
khi ngộ con ơi báu quí,
Đâu
cũng là chơn lý ớ con!
Khi
xem mây dán chót non,
726.
Lúc nhìn sóng vỗ đầu cồn lô nhô.
Nơi
nào cũng có cơ bí nhiệm,
Không
vật chi mơ huyễn được lòng;
Con
ơi! Hai chữ ‘Có Không',
Tìm ra
cho được nguyên tông mới là.
Trong
tiếng nhạc ứng ra lời nói,
Tuy
không mà há gọi rằng không;
Phật đâu
lại ở trong bông,
734.
Bông sao lại mọc đèn chong thế này.
Ngoài
ý khách trần ai suy lượng,
Dễ mấy
ai nghĩ tưởng cho ra;
Duyên
lành ở một kỳ ba,
Sẽ còn
lắm kẻ thấy hoa nầy nhiều.
Con
rán dạ uốn chiều thế cuộc,
Truyền
việc nầy khắp nước dân nghe;
Ngõ hầu
sớm tỉnh giấc mê,
742. Để
cùng các Phật qui tề nơi đây.
Nhạc lẫn
tiếng ca nầy vừa dứt,
Một vừng
mây lũ lượt bay qua;
Phật
Ngài liền chỉ tay ra,
Mây
kia dừng lại hóa ra địa cầu.
Đang
quay xuôi bỗng đâu quay ngược,
Làm cỏ
cây nhơn vật ngửa nghiêng;
Biển
sông mà hóa đất liền,
750. Đất
liền lại hóa ra miền biển sông.
Các
phương hướng lạnh nồng đổi khác,
Khí hậu
nơi Nam Bắc đều sai;
Nhìn
xem vạn vật muôn loài,
Do nơi
cuộc đổi thay nầy nát tan.
Trông
thấy cảnh điêu tàn xơ xác,
Ruột
rà đau nước mắt nhỏ sa,
Phật rằng
ớ trẻ Ta-bà,
758.
Cõi trần cảnh ấy xảy ra nhiều lần.
Mỗi một
kỳ thay nhân đổi vật,
Là một
lần quả đất lộn quay;
Vô thường
kiếp tạm trần ai,
Hiệp
tan tan hiệp như mây khác nào.
Con có
thấy ai đâu trường cửu,
Không
vật chi cố trụ được ư!
Hoàn
toàn là cõi huyễn hư,
766.
Đáng thương cho kiếp con người dường bao.
Luống
công người kế mưu đủ lẽ,
Không
việc nào dành để cho lâu;
Thân
tàn, vật cũng hóa sâu,
Hữu
hình tất hoại là câu nói thường.
Cõi Phật
rán vẹt đường đi tới,
Thân
không tàn vật mới trường miên,
Hỡi nầy
ớ trẻ con duyên,
774.
Phật- Đài bất lạc đâu khuyên tu hành.
Mắt đã
thấy hết sanh ngờ vực,
Con được
xem cõi Phật rõ ràng;
Rán
khuyên lại kẻ thế gian,
Lo tu
chớ dạ mơ màng nữa chi.
Tỉnh
cho hẳn mới qui cõi Phật,
Đừng nữa
chim nữa chuột dở dang;
Không
ten thì phải thuần vàng,
782.
Muốn cho giải khổ phải toàn chơn tu.
Ngày gần
đây năm châu thế giới,
Như địa
cầu vừa mới thấy kia;
Thây
trôi máu chảy đầm đìa,
Nạn trời
ách nước khó bề tránh qua.
Việc
chẳng hệ Phật đà không bảo,
Nói ra
đây vì đạo thương dân;
Phật
không dối gạt hồng trần,
790.
Những điều Phật nói chẳng lầm đâu con.
Phật
không những cứu hồn khỏi đọa,
Cứu luôn
thân khỏi họa trần gian;
Từ-bi
chủ xướng hai đàng,
Sống
lành thân thể thác an liên đài.
Phật
nói xong rồi tay liền vẫy,
Quả đất
kia trở lại thành mây,
Dần dần
từ ấy cứ bay,
798.
Phật rằng con hỡi thấy đây chăng là.
Chỉ
trong một phút qua rồi mất,
Cõi trần
gian nhơn vật thế ni;
Con ơi
đáng quí yêu gì,
Nỡ đi
giành giựt hại thì lẫn nhau.
Mọi vật
tạm kiếp mau như chớp,
Nên
giúp nhau thêm phút lâu dài;
Chớ vì
tình, chớ vì tài,
806. Dẫn
nhau đến chỗ nạn tai âu sầu.
Trên
cùng dưới lấy câu hòa-hảo,
Giúp đỡ
nhau manh áo bát cơm;
Muốn
cho được có tiếng thơm,
Xem điều
nhơn nghĩa trên hơn bạc tiền.
Trọng
đạo cả hơn riêng ái dục,
Chẳng
riêng lo hạnh phúc một mình;
Những
điều lợi ích nhân sinh,
814. Lớn
lao mấy cũng hy-sinh không cần.
Con ơi
muốn phật Thần nên được,
Tấm
lòng nầy làm trước ớ con;
Việc
người cư xử không tròn,
Thì là
việc Phật chẳng còn nên đâu.
Đạo
không đời đạo nào có lập,
Thành
Phật do tu tập trong nhân;
Bỗng
nhiên nên được Phật Thần,
822.
Phật Thần ấy cũng chẳng cần làm chi.
Thật
bác-ái danh gì cũng mặc,
Chỉ biết
điều cứu vật độ nhơn;
Đó là
mới thật lý chơn,
Mới là
đúng nghĩa Phật Thần ớ con.
Thương
người đến mất còn chẳng kể,
Người tu
hành như thế mới nên;
Điều nầy
ớ trẻ chớ quên,
830. Bốn
ơn trọng đại mới đền đáp xong.
Hành đạo
dứt được lòng vị ngã,
Tất là
chơn đạo quả nên ngay;
Con
ơi! Lòng mến trần ai,
Thường
tình không thể một ngày dứt xong.
Việc
khó mấy cố công làm mãi,
Cũng sẽ
nên không sái đâu con,
Con
ơi! rán giữ cho tròn,
838.
Tu cho mình lại phải còn tu nhơn.
Đường
Phật-pháp keo sơn gắn chặt,
Phải
anh-hùng thắng giặc trong tâm;
Những
gì đã thấy sai lầm,
Liền
chừa ngay chớ để làm dây-dưa.
Việc đáng
chừa cố chừa cho được,
Tội lỗi
bao cũng chuộc được ngay;
Con
ơi! kẻ ở trần ai,
846. Tỉnh
cơn mê được phải đầy khó khăn.
Phật
xưa cũng trong hàng sanh chúng,
Nhờ
quyết tâm mà thắng cơn mê;
Tâm
không nhất quyết một bề,
Ngôi
xưa vị cũ khó về ớ con.
Khá khuyên
người lòng son một sắc,
Trước
sau lòng theo Phật không phai;
Được vầy
cùng Phật Như-Lai,
854.
Niết-bàn sẽ có một ngày ngồi chung.
Phật
nói xong liền vung tay áo,
Liền
hiện ra chiếc Bảo-linh kiều;
Từ nơi
thế-giới tàn tiêu,
Bắc
ngang qua cõi bất diêu Phật- Đài.
Trên cầu
có nhiều người nhẹ bước,
Mỗi
người đều mỗi phước thần trì;
Mặt
mày đầy vẻ uy-nghi,
862.
Bên kia cầu có Từ-Bi đứng chờ.
Trong
lúc ấy bên bờ mê khổ,
Biết
bao người đang bỏ thây thi;
Kẻ vì ẩu
tả chết đi,
Người
vì bom đạn xác thi tan tành.
Lại có
kẻ đang rên kêu khóc,
Bị
gươm đao đâm thọc vào thây;
Có người
cha mẹ lạc loài,
870.
Chạy quơ tìm kiếm mắt đầy lệ rơi.
Vợ xa
chồng kêu Trời vang dội,
Mẹ mất
con đến đỗi cuồng điên;
Âu sầu
cảnh vật điền viên,
Nơi
nào cũng thấy thảm phiền héo don.
Quá
đau đớn không còn nhìn nổi
Ta nhắm
liền mắt lại rồi than,
Như vầy
hết cõi trần gian,
878.
Làm sao đến đỗi điêu tàn thế ni.
Kẻ
trên cầu việc chi cũng chẳng,
Thương
người đang lội lặn bên kia;
Ước gì
được có sớt chia,
Cho
người đang khổ bớt bề lao-đao.
Phật rằng
con nghĩ sao việc ấy,
Kẻ khổ
kia tự lấy mà ra;
Vì làm
lắm việc gian-tà,
886.
Nên ngày chung cuộc mới là thế ni.
Phật
biết trước lắm khi dạy bảo,
Mà chẳng
nghe cứ tạo ác luôn;
Phật
nào phải chẳng yêu thương,
Nhưng
người như thế hết đường cứu an.
Hôm
nay Phật hóa quang chỉ cảnh,
Cũng
vì thương bá tánh đấy ư;
Để cho
con thấy cõi người,
Hầu
truyền cho chúng tỉnh hồi lo tu.
Lần nầy
chẳng quày-đầu hướng thiện,
Xác hồn
đành tiêu biến biết sao;
Điều nầy
con nhớ ghi vào,
898.
Giục cho bá tánh khá mau tu hiền.
Gần đến
cuộc biến thiên ớ trẻ,
Như vừa
qua mọi lẽ con xem;
Nếu
không rửa bỏ luốc lem,
Con
ơi! đến việc khó tìm ngõ sanh.
Phật dạy
con ngọn ngành hiểu rõ,
Để cho
con bày tỏ người nghe;
Bí huyền
không có đậy che,
906. Tại
vì sanh chúng còn mê khó tường.
Đây Phật
sẽ chỉ đường siêu việt,
Tất là
con hơn thiệt sẽ rành,
Con
nhìn ngay đóa hoa xanh,
Tự
nhiên sẽ thấy dữ lành ra sao.
Ngó
theo Phật chỉ vào bên cạnh,
Một
hoa sen lóng lánh màu xanh;
Thoắt
nhiên bựt sáng trong lành,
914.
Có rừng với có thị thành hiện ra.
Trong
rừng có hằng hà thú dữ,
Tranh
đấu nhau hậm hự rỡn người;
Dọc
ngang ở dưới gầm trời,
Đua nhau
ăn sống nuốt tươi mỗi ngày.
Chịu nắng
đọa mưa đày đủ cách,
Bị kẻ
vây người bắt liền khi;
Khổ
đau không thiếu món gì,
922. Sống
đời nhơ uế ngu si thấp hèn.
Trong
khi đó phía bên thành thị,
Loài người
đang huê mỹ sống sanh;
Có nhà
cửa có cung thành,
Xe tàu
bay chạy lưu hành tự do.
Có đủ
cách làm cho thỏa dục,
Đâu
cũng đều đầy mục ăn chơi;
Nhìn
qua ở khắp mọi nơi
930.
Rượu chè mèo mỡ ít người nào không.
Phật rằng
khi con trông vào đấy,
Giữa
hai bên nhận lấy bên nào;
Ta
chưa kịp đáp làm sao,
Phật
liền tiếp nói thao thao như vầy.
Con
ơi! cả bên nầy bên nọ,
Chớ chấp
tâm lấy bỏ bên nào;
Vì rằng
hai cảnh khác nhau,
938.
Nhưng tình vẫn một khổ lao đọa đày.
Người
mà thú nào ai có biết,
Thú mà
người là việc đâu không;
Khác
điều đội mũ mang lông,
Ác
hung vô đạo nơi lòng giống nhau.
Vật
nào cũng như bào như ảnh,
Gọi sướng
vui nào thảnh thơi đâu;
Lòng
luôn có sự ưu sầu,
946. Đời
thường gặp việc khổ đau ít nhiều.
Người hay
thú xét theo trình độ,
Chớ
nên xem ở chỗ xác thân;
Thú
người đều cũng xác trần,
Cũng
sanh đẻ cũng uống ăn một tuồng.
Thân tứ
đại vẫn luôn thế cả,
Có chi
đâu làm thỏa ớ con;
Làm
sao cho khỏi tiêu mòn,
954. Sống
đời an lạc trường tồn mới ngoan.
Vậy
con hãy nhìn xem bên cạnh,
Đóa
sen vàng đang ánh bên kia,
Tất
đâu là chỗ đáng mê;
Đâu là
đáng chán mọi bề sẽ thông.
Nghe lời
Phật ta trông bên ấy,
Một cảnh
mầu chưa thấy bao giờ;
Dưới
tàn một gốc cây to,
962. Mỗi
vì Phật ngự trên tòa liên-hoa.
Trước
mắt có hằng hà Tiên-giới,
Đứng hầu
nghe Phật nói pháp mầu;
Các
Tiên y phục khác nhau,
Mỗi vì
đều có mỗi hào quang riêng.
Lời
han hỏi dịu hiền tao nhã,
Mặt
vui tươi đẹp đẽ khác thường;
Mỗi vì
mỗi nực mùi hương,
970.
Hoa trên cõi tục phải nhường mấy mươi.
Cảnh
trang nghiêm màu trời mát mẻ,
Thêm
có luồng gió nhẹ thổi qua;
Trên
tàn cây chỗ Phật- Đà,
Nhạc từ
mỗi lá rung ra dịu dàng.
Nhạc với
tiếng Phật đang thuyết pháp,
Mầu nhiệm
thay phù hạp lẫn nhau;
Lòng
dù muôn vạn khổ đau,
978.
Khi nghe nhạc ấy cũng thao mất liền.
Vui vẻ
khó tả nên lời nói,
Huyền
diệu không biết gọi sao vừa;
Ta
chưa kịp mở lời thưa,
Phật
liền bảo đó là cơ sau này.
Ngày
biến chuyển Đông Tây Nam Bắc,
Cõi thế
gian nổi giặc khắp nơi;
Sấm
vang tối cả đất trời,
986.
Bình minh trở lại như đời nầy đây.
Tu đến
được hội nầy thong thả,
Cảnh
thế gian tan rã không còn;
Chớ
nên say đắm ớ con,
Đắm
sau những vật không còn là ngu.
Vì thế
Phật khuyên tu ớ trẻ,
Lấy
trí mình xét lẽ mất còn;
Thấy
đây nào dễ đâu con,
994.
Nhớ ghi tâm khảm để còn khuyên dân.
Ta cúi
đầu cám ơn Đức Phật,
Xin
vâng lời khuyên dứt thế gian;
Phép
lành xin Đức Phật ban,
Cho
đâu đó được xuôi đàng giáo dân.
Phật mĩm
cười rồi lần biến mất,
Giây
phút lâu còn nực mùi hương;
Lòng
ta cảm kích muôn dường,
1002.
Tình thương thêm nặng trên đường Phật gia.
Ai ngờ
một đóa hoa thế ấy,
Mà cõi
chi cũng thấy rõ ràng;
Vì
lòng mẫn ái thế gian,
Phật Ngài
khéo lộ mọi đàng huyền cơ.
Dù
không thấy nhưng nghe đây nói,
Cũng
nên tin nên cổi tâm trần;
Ngàn
muôn kiếp bị chuyển luân,
1010.
Lời mầu khó được một lần nào nghe.
Nghe
được ắt tâm mê tỉnh được,
Nếu
tin theo sau trước một lòng;
Đây
không phải chuyện bông lông,
Khi ai
nghe đến chớ lòng bỏ qua.
Những
lời ta viết ra nơi đấy,
Chính
là điều mắt thấy tai nghe;
Không
vì háo vọng đem khoe,
1018.
Mà vì muốn được tỉnh mê khắp người.
Như Phật
đã nhiều lời giảng giáo,
Đời nếu
không có đạo đời mê;
Đời mê
có đạo vỗ về,
Thì đời
ấy sẽ hết mê có ngày.
Không
cương quyết không hay thành tựu,
Dù việc
đời việc đạo thế ư;
Nên mà
bỏ luống cũng hư,
1026.
Hư mà khéo sửa sẽ như ý nguyền.
Nơi hải
ngoại lòng riêng một bóng,
Bước hồi
hương trông ngóng mỗi ngày;
Phận
còn phải ở nước ngoài,
Mượn lời
của Phật đáo lai quê nhà.
Xin tất
cả trẻ già nam nữ,
Hãy
nghiệm suy mọi sự đây phân,
Thương
nhau nên mới tố trần;
1034.
Rất mong đó cũng tinh thần như đây.
Biết
yêu nhau biết gây thiện cảm,
Biết
quyết tâm vẹt đám mây mù;
Một
lòng thệ nguyện chơn tu,
Tu cho
đến đắc đạo mầu mới thôi.
Kẻ quê
nhà xa xôi khó hiểu,
Ta xứ
người lắm chịu đắng cay;
Nhưng
lòng sắt đá không phai,
1042.
Đủ phương chiều uốn để gây đạo mầu.
Mới
trông qua dễ đâu biết được,
Việc
ta làm có trước có sau,
Đỏ
xanh chiếu rọi nhiều màu,
Nhưng
đèn một ngọn làu làu sáng trong.
Tâm hồn
nầy ước mong khắp chúng,
Ít nhiều
gì xin cũng biết cho;
Xưa
nay đây vẫn hẹn hò,
1050.
Một câu tái ngộ trên đò từ bi.
Xin chớ
buồn những khi xa cách,
Lúc nhớ
nhau hãy đọc lời này;
Dù ta
có ở Đông Tây,
1054.
Tâm hồn cũng vẫn ưu hoài Bắc Nam.
Chịu
cay đắng cho kham nghĩa vụ,
Đành
xa nhau để thụ máy Trời;
Đạo đồng
và mẹ hiền ơi,
Hiểu cho
đây chớ đem lời trách than.
Cũng
phải rán có gan sắt thép,
Dù cho
ai bức ép dường bao;
Chữ tu
trước cũng như sau,
1062.
Khư khư một dạ không nao núng lòng.
Người
nhà có lòng trông ta mấy,
Ta
cũng trông thế đấy đâu thua;
Tinh
thần đang phút chạy đua,
Gắng
lên chớ để ai thua ai nào!
Ta nhiều
lúc lòng đau như cắt,
Thường
đêm thường nước mắt nhỏ sa;
Nhớ
người ở chốn quê nhà,
1070.
Nhớ luôn đến cảnh mẹ già cô đơn.
Ngày
nào ta trở chơn quê nội,
Lòng
nhớ nhung mới gội được ư!
Nếu
còn ở chốn quê người,
Thì
lòng thương nhớ đâu hồi nào quên.
Một
khi việc được nên như nguyện,
Đền lại
cho lúc viễn ly nhau,
Cơ Trời
định vậy biết sao,
1078.
Hãy nên bấm bụng đợi nhau qua ngày.
Dù ta ở
nước ngoài đi nữa,
Lời gởi
về mỗi bữa rán xem;
Rửa xong
những chỗ ố lem,
Mối
tình đạo đức càng thêm gũi gần.
Đồng đạo
ôi! Có từng biết đến,
Tấm
lòng ta đã mến dường bao!
Không
riêng hai chữ đồng bào,
1086.
Mà là đối với nước nào cũng thương.
Đi đâu
cũng chủ-trương Phật giáo,
Khuyên
người lo theo đạo tu hiền;
Chiến
tranh là việc cuồng điên,
Giết
nhau rốt chẳng lợi quyền chi đâu!
Kiếp sống
ngắn chớ thâu thêm ngắn,
Hãy
giúp nhau cho đặng sống dai;
Lấy
tình chung của nhơn loài,
1094. Chớ
đem riêng ý một vài phạm-vi.
Đến
đâu cũng lời y như một,
Vẫn
khuyên tu không chút ngại ngần;
Bóng
chiều càng bước đến gần,
Sự
khuyên tu lại thấy cần khuyên thêm.
Mong rằng
khắp Bắc Nam quê nội,
Hiệp sức
nhau mở lối khuyên tu;
Một
người làm có hơi lâu,
1102.
Nhiều người hiệp lại sẽ mau công thành.
Khó
khăn mấy cũng đành chịu vậy,
Đừng
thở than bải hoải tâm linh;
Vì người
mà khổ thân mình,
Trên đời
còn có sự vinh chi bằng.
Nơi đất
khách ta càng tinh tấn,
Ở quê
nhà cũng rán chí công;
Kiếp nầy
giải thoát không xong,
1110.
Thì muôn kiếp tới khó hòng siêu thăng.
Mội
lúc nhỏ không ngăn không đắp,
Chừng
lớn ra mới dập sao nên;
Đành rằng
xuống dễ khó lên,
Muốn
lên cần phải được bền sức leo.
Đời muốn
được đạo sao không được,
Nên
hay không rốt cuộc tại mình,
Muôn
điều nhờ ở đức tin,
1118.
Thỉ chung như nhứt với tình Phật gia.
Quản
chi việc đường xa gối mỏi,
Không
khổ thân ai gọi Như-Lai;
Khổ
lao chịu đựng một ngày,
Sướng
vui sẽ được bồi tài muôn năm.
Nếu chẳng
thế đâu cam chịu khổ,
Lo tu
hành giải khổ trần ai,
Ôm
lòng sớm tối lạt chay,
1126.
Vì không muốn sự oan dây buộc mình.
Gạn lừa
chữ trược thanh cạn kỹ,
Mới
không màng hương vị trần ai;
Người
tu đâu phải ngu ngây,
Mà
không biết việc lầu đài cao sang.
Biết mọi
việc thế gian không sót,
Nhưng
cho rằng tạm vật không ham;
Biết
ngoài ra cõi tục phàm,
1134.
Còn nhiều cõi khác đáng làm say mê.
Cho
nên lòng không hề luyến ái,
Chỉ
tìm qua thế giới bất di;
Tức là
cõi đấng từ bi,
Bất sanh
bất diệt vĩnh kỳ lạc an.
Đọc
qua đây rồi toan lấy phận,
Ở hai
bên phải nhẫn một bên;
Hai
bên nắm hết không nên,
1142.
Cái nào chơn thật lâu bền thì theo.
Muốn
ăn trái phải leo phải chọc,
Chớ ngồi
trơ dưới gốc không xong;
Nhứt thời
chịu khó ra công,
Vĩnh kỳ
mới được phước hồng trả cho.
Chẳng
gia tâm lắng lo mài giũa,
Ngọc
lu mờ như đá khác chi,
Hiện
nay một xá một quì,
Mai
sau được ngự liên trì muôn thu.
Vì thế
mới vui tu kham khổ,
Nếu
không trơn chịu khó làm gì.
Nhưng
tham của kẻ từ bi,
1154.
Khác hơn tham của kẻ đi buôn đời.
Suy
xét kỹ chớ lơi dạ ngọc,
Nghe
đây khuyên chí dốc lo tu;
Trùng
dương muôn dặm mịt mù,
Ngóng
tin quê nội đạo mầu chấn hưng.
Thường
đêm thường rưng rưng nước mắt,
Bởi
chưa nghe tin tức vui mừng;
Ngày
nào nước mắt hết rưng,
1162.
Là ngày bá tánh vạn dân an hoà.
Chữ đạo
đức vốn là nhơn thiện,
Người
thương người là chuyện ngay đường,
Khắp
trong nhơn loại hiền lương,
Chính
là thế giới thiên đường tại đây.
Ta ước
nguyện điều nầy không ngớt,
Dù bao
nhiêu Kinh Luật chẳng ngoài;
Quê
nhà đồng đạo gái trai,
1170.
Chữ nhơn thiện chớ lờn phai tâm tình.
Đọc giảng
kệ làm in theo đó,
Chớ
xem qua rồi bỏ chẳng hành;
Đã là
thấy có chim xanh,
Tất là
Kim Mẫu hậu hành đáo lai.
Tin mạnh
chớ ngờ sai ý niệm,
Sẽ có
ngày thọ điểm chơn quang;
Khuất
gương vì bởi phủ màn,
1178.
Khi màn hết phủ rõ ràng thấy gương.
Chớ âu
sầu cũng đừng bải hoải,
Nên gắng
công trì giới xem sao;
Phật Ngài
đã bảo cách nào,
Ta đem
nói cạn ở vào nơi đây.
Kể từ
nay đến ngày ráo rốt,
Phật sẽ
còn bảo nốt nhiều điều;
Muốn
cho ai cũng được siêu,
1186.
Lần lần ta sẽ ghi nêu gởi về.
Tiếng
nói trong liên huê còn nữa,
Đây ta
xin tiếp kế nghe luôn,
Trong
khi ta ngẩn ngơ hồn,
Rằng
hoa sao có lắm muôn phép mầu.
Mười
phương Phật ở đâu cũng thấy,
Lòng
muốn sao có vậy đáng kinh;
Khéo
thay các Phật đồng tình,
1194.
Vì thương sanh chúng lập nên hoa này.
Ta
đang nghĩ rồi đây phải liệu,
Sao
cho xong phận điệu làm trò,
Tai liền
nghe tiếng sấm to,
Trong
hoa sen hiện lên pho kinh mầu.
Hào
quang chiếu mỗi câu thấy rõ,
Mỗi chữ
đều ửng đỏ dường son;
Kinh rằng
con hỡi là con,
1202.
Phận trò muốn được vẹn tròn nghe đây.
Chớ
quên những lời thầy đã dạy,
Một
lòng son trì giới giữ chay;
Xả
thân cầu đạo hôm mai,
Chí tu
không phút lãng phai thì tròn.
Thầy
làm sao thì con theo vậy,
Bước
chân thầy con phải giẫm qua;
Con đường
của Phật Thích Ca,
1210.
Cứ đi theo đó thì là vẹn thân.
Nước
nguồn với nước sông khác chỗ,
Nhưng
tánh cùng một ngõ như nhau;
Cây
thì mọc thẳng lên cao,
Nước
thì xuống thấp khá âu thuận hành.
Kinh
còn tả muôn ngàn nẻo nhiệm,
Giờ
phút nầy chưa tiện nói ra;
Hẹn
cùng lớn nhỏ gần xa,
1218.
Có ngày ta sẽ viết ra hết lời.
Xin
rán đợi chớ lơi dạ sắt,
Sẽ gặp
hồi tương đắc chẳng không;
Nhiệm
mầu ôm chắc nơi lòng,
Gặp
người chung thỉ sẽ hòng trao cho.
Lời
son ở nơi pho kinh nhiệm,
Ta vừa
xem vừa nghiệm từ lời;
Kể sao
cho hết người ơi,
1226.
Thế gian sánh với Phật Trời đâu kham.
Kinh tự
lật từ trang đến cuối,
Rồi bỗng
nhiên gió thổi nhẹ qua;
Quyển
kinh lần lượt bay xa,
Chỉ
còn để lại đóa hoa sen vàng.
Liền
có tiếng nhạc vang lên nữa,
Kệ từ
trong hoa nọ phát ra;
Rằng
Con ơi! Đức Phật- Đà,
1234. Vì
con đi khắp Ta-bà chúng sanh,
Dạy rõ
từ kẽ răng chơn tóc,
Pho
kinh rồi là một diệu phương;
Ngày
nào thuận nước thuận đường,
Kể cho
dân chúng được tường ớ con.
Cay với
đắng con còn nhiều lúc,
Chịu
cho qua chớ phút chối từ;
Hy sinh
cái kiếp hoại hư,
1242.
Xây thành an lạc cho người năm châu.
Con chịu
khổ Phật đâu muốn thấy,
Nhưng
khổ vì bác ái đáng mừng;
Riêng
mình chịu khổ một thân,
Giúp
cho sanh chúng cả muôn người nhờ.
Sự khổ
ấy đáng cho chịu khổ,
Khổ
càng nhiều đức độ càng cao;
Khổ
nay nhưng lại vui sau,
1250.
Vui sau cùng khắp người nào cũng vui.
Mình
được vui cho người vui với,
Sự vui
nầy mới gọi thật vui;
Thế
nên dù chịu dập vùi,
Vì dân
cứ mãi vui cười ớ con!
Con đã
khổ nhưng còn khổ nữa,
Cứ lóc
lăn ngày bữa cho qua;
Đạo mầu
bủa khắp gần xa,
1258.
Một người tỉnh ngộ hơn là muôn châu.
Quên
ngủ nghê quên câu may mặc,
Đói
cũng quên đến khát cũng quên;
Ban
ngày chí những ban đêm,
Từ bi
hai chữ một niềm toan lo.
Người
dương thế dù cho không biết,
Phật
mười phương các việc hiểu rành;
Làm
lành thì cứ làm lành,
1266.
Không cần ai biết mới thành ớ con!
Vừa rồi
quyển kinh son có chỉ,
Câu ấy
con suy nghĩ ra sao?
Câu rằng:
Ma khảo đạo cao,
Muốn cho
tắm mát phải nhào ra sông.
Muốn
được người kêu ông kia nọ,
Phải
tuổi cao phải được công gì;
Điều nầy
con xét kỹ đi,
1274.
Rồi thì sẽ được củ qui lấy mình.
Phật
nói xong vang thinh một tiếng,
Rồi dạng
hình tự biến ra không;
Đóa
hoa cùng ngọn đèn hồng,
Đèn
thì phơ phất hoa không cựa mình.
Trông
có vẻ huyền linh vô tận,
Một
hoa mầu trong vạn đóa hoa;
Hồ sen
rộng lớn bao la,
1282.
Nước trong ríu chảy dưới hoa dịu dàng.
Nếu lấy
mắt thế gian để thấy,
Cho
không ai ở đấy hản nhiên;
Nhưng
mà cặp mắt Thần Tiên,
Cảnh nầy
đâu phải ảo huyền vô nhơn.
Kẻ
nghe đây định thần xét kỹ,
Tìm hiểu
ra đâu mị đâu không;
Ước
người cùng thấy được bông,
1290.
Như ta đã thấy thì lòng mới vui.
Nhưng tin
rằng những người nghe đấy,
Nếu
tin ta nghe lấy lời ta;
Mọi lời
nói ở trong hoa,
Lòng
son chặt giữ như là keo sơn.
Ai
cũng được hành chơn chánh đạo,
Y như
lời Phật bảo xưa nay;
Hoa
kia hiện đến có ngày,
1298.
Thấy hoa sẽ được nhiều bài hay ho.
Hoa đã
nhiệm đèn cho thêm nhiệm,
Phật
mười phương diện kiến tận mày;
Bịnh
trầm được gặp thuốc hay,
Há
không mừng rỡ ra tay rước vào.
Việc
có thật chớ nào mơ mộng,
Rán tu
hành sẽ đặng chứng minh;
Nên
không gì cũng tại mình,
1306.
Việc chi khó mấy cố hành cũng nên.
Ngọn
đèn liền ửng lên một cái,
Sáng
vô cùng rộng rãi vô biên;
Cả sen
lẫn với cả đèn,
Mất đi
để lại một nền trống không.
Từ nền
trống khói un chất ngất,
Rồi hiện
ra muôn vật đủ hình;
Rối
loàn càng thấy càng kinh,
1314.
Xun-xoăn đến đỗi mắt nhìn không ra.
Những
hình dáng xấu xa không thiếu,
Lối
hung tàn đủ điệu khác nhau;
Nổi
chìm như sóng ba đào,
Chỉ
trong giây khắc xôn xao đủ hình.
Tai liền
nghe vang thinh một tiếng,
Cảnh ấy
liền tiêu biến ra không;
Rồi hoa
sen với đèn hồng,
1322.
Tự nhiên trở lại như trồng đứng trơ.
Trong
hoa có lời thơ nói rõ,
Rằng
Con ơi! cảnh đó là gì;
Từ
trong không chẳng có chi,
Sanh
ra đủ thứ dị kỳ rối ren.
Xấu với
tốt đua chen xô đẩy,
Dữ
cùng lành qua lại không ngưng;
Rối
loàn khó nỗi biệt phân,
1330.
Khổ sầu chi sánh não nần chi qua.
Ấy tâm
trạng người ta đó trẻ,
Nhìn đấy
mà hiểu lẽ thiệt hư;
Người
nào tâm được bình cư,
Tất
cùng chư Phật cũng như khác gì.
Mọi việc
của người suy với nghĩ,
Như
khói un hồ mị vô căn;
Chung
qui như tiếng sấm vang,
1338.
Việc chi rồi cũng tiêu tan chẳng còn..
Lời vắn
tắt nhưng con khá nghiệm,
Hiểu
sâu xa là điểm công thành;
Vì con
vì cả chúng sanh,
Mười
phương các Phật phép lành cho xem.
Riêng con
biết khá đem người biết,
Đạo bủa
ra khắp hết trong trần;
Nêu
lên hai chữ hóa dân,
1346.
Khiến cho tất cả xa gần hiền lương.
Con
nhìn ở bên vườn Cực lạc,
Rồi
xem qua mảnh đất trần gian;
Đâu
vui đâu khổ rõ ràng,
Đó là
hai thứ thau vàng khác nhau.
Con liệu
cách kêu gào bá tánh,
Khá nhận
ra hai cảnh Phật phàm;
Có
tham cảnh Phật nên tham,
1354.
Cõi phàm khuyên chớ nên ham làm gì.
Vạn vật
vốn hữu kỳ bất viễn,
Sướng
dường bao mặc miếng dường bao,
Hay là
tứ hải sang giàu,
Chỉ là
giọt nước trên tàu lá rung.
Nên khuyên
kẻ say cuồng sự vật,
Khá
nhìn ngay cái xác đang mang;
Xác
kia như đóm lửa tàn,
1362.
Khó làm sao giữ được ngàn muôn năm.
Bạo
cho lắm chỉ làm một lúc,
Dữ bao
nhiêu cũng phút hơi còn;
Mỗi
ngày tuổi sống mỗi mòn,
Tuổi mòn
các việc cũng lòn đi theo.
Có của
chớ nên đeo theo của,
Nên
giúp cho những kẻ cơ hàn;
Lo làm
những việc phước doan,
1370.
Xác thân khi bỏ Niết bàn được lên.
Càng
có của càng nên bố thí;
Bố thí
nhiều đạo vị thêm cao,
Tại trần
của cải tuy hao,
Nhưng
nơi cõi Phật càng giàu phước thêm.
Ấy là
kế trường miên ớ trẻ,
Nào phải
đâu là kẻ dại ngu;
Giúp
người sẽ được đền bù,
1378.
Bất kỳ ai để mắt vào cũng thương.
Nói một
cách thông thường dễ hiểu,
Người
phải nên biết điệu làm người;
Giúp
nhau là việc tốt tươi,
Hại
nhau là việc ai người cũng chê,
Kiếp sống
tạm ấy về định mạng;
Nhưng
chớ nên giới hạn vào đây,
Giúp
nhau cứ nguyện giúp hoài,
1386.
Khắp người no ấm một ngày cũng nên.
Đem
thân tạm giả trên trần tục,
Để tạo
chơn hạnh phúc Phật- Đài;
Khổ
lao dù mấy chớ nài,
Cố làm
để giúp nhơn loài ớ con!
Tình
siêu thẩm gác trên tình thế,
Nghĩa
cao dày phủ cả nghĩa nhân;
Bao
nhiêu mối nợ lần khân,
1394.
Dứt đi không bận Phật Thần đấy con!
Lời vừa
dứt tiếng bon một cái,
Như từ
xa đưa lại vi-veo;
Khác
nào như bị đá treo,
Dứt đi
lòng thấy như phao hỏng người.
Bạc dễ
kiếm chớ lời khó chuộc,
Chết mấy
thây vẫn buộc vào lòng;
Làm
cho bá tánh hiểu thông,
1402. Như
lời đã nói trong bông mới vừa.
Nơi đất
khách sớm trưa chí tối,
Lòng
chỉ lo một mối ấy thôi;
Đủ
hình giả trá trong đời,
Cốt
làm cho chúng hiểu lời Phật Tôn.
Quê
nhà khắp hương thôn đồng đạo,
Đừng quên
đây đang thảo nhiều môn;
Uốn
chiều trên lộ càn khôn,
1410.
Thân nầy kể đã như chôn hết rồi.
Sống
mà chết ai người có thấu,
Thấu
được cho quí báu chi hơn;
Kìa
xem mây dán đầu non,
Đây
cùng mọi việc tục trần thế ư!
Rán
cùng đây cho như một rạp,
Nửa chừng
đường chớ đạp lộ riêng;
Tu
hành nhớ giữ căn nguyên,
1418.
Có ngày Tiên Phật được thiềng (1) chẳng không.
Mắt dễ
nhắm nhưng lòng khó tịnh,
Sự muốn
ưa phải nhịn dễ gì;
Qui y
thì rán làm y,
Khó tu
thế mấy cũng trì cho nên.
Ngày
thành tựu sẽ đền công khó,
Khuyên
chớ nài ngựa vó phong sương;
Kẻ
đang ở cách trùng dương,
1426.
Người trong quốc nội còn đường gặp nhau.
Khuya
sớm chớ quên trau đạo đức,
Sớm muộn
gì cũng được như nguyền;
Gặp
ngày trời hợp đôi duyên,
Tất là
sẽ được cổi phiền mấy năm.
Hồn ta
ở đầu nằm khắp chúng,
Tình
ta luôn ấp úm trong dân;
Tuy
thân kẻ Sở người Tần.
1434.
Nhưng lòng luôn được ở gần với nhau.
Kẻ quê
nhà khổ đau một tí
Ta nước
ngoài như bị kim châm;
Không
riêng thông cảm bằng tâm,
Mà còn
liên hệ đến thân xác phàm.
Xin
già trẻ rán làm việc phải,
Giúp
cho đây bớt cái ưu sầu;
Thân gầy
gặp lắm lo âu,
1442.
Càng gầy thêm nữa có đâu bớt nào.
Xin
vui nghĩ tình nhau một chút,
Bớt
cho đây những khúc đau buồn;
Mỗi
ngày giọt lệ mỗi tuôn,
Vì
thương bá tánh còn đường gian lao.
Ước
mong được gió mau đưa đến,
Để nhổ
sào rời bến Phù Tang,
Ngày
nào còn cách đôi đàng,
1450.
Niềm xưa không thể luận bàn hết câu.
Riêng
ta thấy ưu sầu hiu quạnh,
Người
quê nhà cũng chạnh buồn đau;
Chắp tay
nguyện vái trời cao,
Duyên
người Nam Bắc khiến nhau sớm gần.
Phút
chia cách vì cơn suy bỉ,
Ngày
nhứt qui là khí thạnh hưng;
Từ đây
đến lúc trở chơn,
1458.
Cũng nên gắng đợi xin đừng lảng tâm.
Chữ đạo
lý là mầm cứu khổ,
Câu
huyền cơ là chỗ giải oan;
Dù cho
muôn vạn hùm lang,
Cũng
đi cho đến tột đàng chớ lui.
Hoa
chưa nở thì mùi chưa có,
Trái
chín rồi đây đó thơm tho;
Vun bồi
là việc đáng lo,
1466.
Một ngày xao lãng héo khô một ngày.
Núi
tuy lớn đục hoài sẽ mỏn,
Rừng
tuy to cứ đốn sẽ thưa;
Tội
bao lòng cố gắng chừa,
Có
ngày hết được chớ ngờ rằng không.
Việc
chi nếu chí công làm mãi,
Dù khó
khăn thế mấy cũng thành;
Khó
khăn là việc tu hành,
1474.
Xưa nay đã lắm người thành đâu không.
Chớ ngại
bước gai chông chớn chở,
Vượt tuyết
sơn tầm ngõ đạo mầu;
Thích-Ca
cùng một khác đâu,
Trái bầu
cùng với hột bầu không xa.
Ôm chí
đạo ngày qua tháng lại,
Rèn
luyện cho đến đại công thành;
Lọc lừa
tâm não cho thanh,
1482.
Cũng người nhưng sống khác tình phàm phu.
Chơn
tâm tợ trời thu sáng tỏ,
Vọng
niệm như mây bủa mịt mờ;
Mây
kia càng tản càng thưa,
Trời
thu càng tỏ đến giờ sáng trong.
Điều ấy
khá để lòng xét kỹ,
Ngó mặt
vào tường lũy bình quan;
Từ nơi
biển rộng minh mang,
1490.
Mặt trời lần mọc thấy càng đẹp xinh.
Thoắt
nhiên tánh dịu minh mở tỏ,
Cùng
biển trời kia có khác đâu.
Nghe
đây rồi nhớ lo âu,
Làm
sao cho được đạo mầu tinh-minh.
Mưa nắng
có chỉ nên công rấm,
Sẵn đạo
mầu còn gắng tu thôi;
Đây
nào bịa chuyện người ôi!
1498. Cuộc
đời còn có mấy hồi nữa đâu,
Sớm
không liệu muộn âu sao kịp,
Gặp đạo
mầu là dịp giải oan;
Muốn
ra khỏi cảnh khổ nàn,
Cần lo
tu gấp chớ màng sự chi.
Qui Phật
nhớ làm y theo Phật,
Qui Tăng
cần dõi bước theo Tăng;
Phật
Tăng qui nhứt một đàng,
1506.
Với lòng qui Pháp giáo càng gắng ghi.
Trong
pháp-giáo luật-nghi là cội,
Kẻ tu
hành sớm tối rán gìn;
Luật
nghi càng giữ sạch tinh,
Đạo mầu
càng sớm chứng minh đắc thành.
Ta
đang ngóng trong tin quê nội,
Được
có người mở khối linh quang;
Lòng
đây xin chớ phụ phàng,
1514.
Rán khai phá hết bức màn vô minh.
Mọi sự
vốn tại mình tất cả,
Làm việc
chi phải khá xét suy;
Quấy rồi
khi biết bỏ đi,
Phải
chưa làm được cố trì cho nên.
Những
tật xấu rán quên cho được,
Các việc
lành không chút bỏ qua;
Lòng
luôn mật niệm Di-Đà,
1522.
Nhớ ghi lời Phật Thích-Ca dạy truyền.
Trọng
đạo đức hơn quyền chức tạm,
Giúp
cho người dạ chẳng mong đền,
Ngày
đêm khấn bái ơn trên,
Cứu
dân khỏi cảnh đảo điên khốn nàn.
Ở
trong một nén nhang rẻ giá,
Đem
tinh thần cao cả để vào;
Nén
nhang ấy quí dường bao,
1530.
Phật Tiên đâu cũng bôn đào chứng minh.
Một xu
được lời đền vạn đức,
Của bất
lương vay một trả mười;
Nhỏ to
cạn xét dân ơi!
Liệu cho
hồn khỏi bị rơi Diêm-đài.
Chỉ một
thấy họa tai muôn triệu,
Nhả
vài lời phước nhểu trăm thiên,
Lọc lừa
kỹ bớ chư duyên,
1538.
Bạ làm bạ nói là nguyên tội sầu.
Ta được
lãnh nhiều câu bí yếu,
Của Phật
Tiên dạy biểu xưa nay;
Bước đường
đâu vạy đâu ngay,
Nơi
lòng được biết nên bày ra đây.
Muốn
ai cũng cùng xây đạo pháp,
Lo cho
mình lo khắp người ta;
Giống
lành gieo rải gần xa,
1546.
Tạo nên thế giới an hòa phồn hưng.
Chớ
ích kỷ cho thân sung sướng,
Mặc
cho ai nghiệp chướng nặng nề;
Riêng
mình ăn mặc phủ phê,
Không
màng đến kẻ thân che không lành.
Đạo
bác-ái quên mình lo chúng,
Đức từ-bi
rộng bụng thương dân;
Phận
mình lao khổ chẳng cần,
1554.
Miễn là giúp được kẻ thân no lành.
Đạo
như thế mới thành chánh đạo,
Đức
không vầy sao bảo đức tôn;
Dại
ngoài nhưng lại trong khôn,
Ngoài
khôn trong dại việc còn lạ chi.
Khuyên
nam nữ khá suy tột lẽ,
Chớ
cho tu là kẻ dại khờ;
Nếu
không biết mối huyền cơ,
1562.
Đâu cam non lãnh ngồi chờ lục niên.
Ta vì quá
cuồng điên đạo lý,
Nói
không ngừng mùi vị Phật môn;
Nhưng
ta đâu dám làm khôn,
Nói ra
vì muốn hương thôn tu hành.
Nói
đây chẳng riêng mình bày nói,
Do Phật
Ngài chỉ mối cạn sâu,;
Gần
ngày biển hóa cồn dâu,
1570.
Nói ra cho chúng quày đầu tu thân.
Chậm một
bước não nần mấy đoạn,
Mau cất
chơn rừng thẳm sớm ra;
Xưa
nay ở cõi Ta-bà,
Đổi
thay nhiều cuộc đâu là mới đây.
Đồng đạo
lấy lời Thầy dạy dỗ,
So với
lời Phật tổ mà xem;
Hồng
trần là chốn luốc lem,
1578.
Mở tâm thấy được hết thèm khát ư!
Ta xin
tiếp lời chư Phật bảo,
Trong
hoa sen quí báu ra nghe,
Cõi
không Đức Phật biến về,
Ta còn
đang đứng say mê một mình.
Hoa với
đèn hiển minh trước đó,
Ta chừng
như quên có đèn hoa;
Trong
lòng liền phát nghĩ ra,
1586. Phật
ơi! có biết tâm ta muốn gì?
Chưa kịp
nghĩ việc chi đến rốt,
Bên
tai như gió trốt đi qua;
Ngọn
đèn liền tủa sáng ra,
Như
ngàn châu rải mới là thêm kinh.
Trống
đâu đánh ình ình vang dội,
Ba hồi
to nhức nhối lỗ tai;
Trống
ngưng liền thấy hạc bay,
1594.
Ngậm phong thơ đỏ nhả ngay trước đầu.
Thơ chỉ
có bốn câu thi ngắn,
Lời giản
đơn căn dặn như vầy:
Ba hồi
trống mở khai,
Mọi
người thấy vang tai;
Tiếng
trống kia khi dứt,
Không
hỏi cũng biết ngay.
Bốn
câu nầy xin ai khéo nghiệm,
Mầu
làm sao và nhiệm làm sao!
Càng
suy xét đến chừng nào,
1604.
Càng hay ho khó tả sao cho cùng.
Đời đến
lúc qui chung như thế,
Đạo
cũng không ngoài lẽ ấy đâu;
Đọc đi
đọc lại từ câu,
Chừng
nào hiểu được đuôi đầu sẽ thôi.
Bức thơ
ấy đọc rồi như tuyết,
Tự tan
lần đến việc hóa không;
Cũng
đèn rồi lại cũng bông,
1612.
Nghiêm trang khó tả sao cùng nghiêm trang.
Ớ đồng
đạo kiên gan bền chí,
Làm
sao cho hiển thị hoa đèn;
Sẽ là
không ngớt lời khen,
Thần
Tiên của việc Thần Tiên khó lường.
Thần
Tiên cũng từ đường sanh chúng,
Mà đáo
lai đến chốn siêu nhiên;
Chúng
sanh có thể Thần Tiên,
1620.
Khá tin chớ có để riêng lòng ngờ.
Tâm
đang rối đang mờ không thấy,
Thần
Tiên nằm trong ấy rán moi;
Lóng
tâm để trí mà coi,
Thần
Tiên ấy sẽ bựt lòi sáng ra.
Việc
có thật không ngoa rán bịn,
Khi thấy
ra nhờ tính dẻo dai;
Lòng
nguyền lánh nợ trần ai,
1628.
Việc chi dù lắm rủ nài không ham.
Khó thế
mấy cũng cam chịu khó,
Miễn làm
sao mở tỏ chơn linh;
Thói
hư tật xấu nơi mình,
Dù cho
khó bỏ cũng rinh ra ngoài.
Cuộc
đáo đầu nay mai rất chóng,
Không
gấp tu thì hỏng khoá đi;
Máy trời
như chớp rất nguy,
1636.
Đừng rằng việc chẳng gấp chi là lầm
Trời trong
đó rồi gầm chuyển đó,
Là việc
thường hay có phải không;
Thì là
cơ cuộc đại đồng,
Ngày
kia cũng thế chớ hòng sai ngoa.
Mắt
đây thấy Phật đà hóa hiện,
Việc
thế gian nhiều chuyện quái kỳ;
Chừng
ngày tai nạn phủ vi,
1644.
Gió lay một ngọn cũng nguy cả làng.
Chớ tưởng
cõi thênh thang sơ lọt,
Khí trời
đâu cũng lóc đến nơi;
Tu hiền
mới vững người ơi,
Vì rằng
nhân thiện có Trời phước ban.
Nhắc
thêm chuyện hoa vàng hiển ngữ,
Còn
nhiều điều lý thú vô cùng;
Ta vừa
đọc bức thơ xong,
1652.
Thơ kia lần biến hoa đồng rung lên.
Ai ngờ
có tiếng rên thê thảm,
Từ
trong hoa như vạn muôn người.
Kẻ thì
như đắm giữa vời,
Người
thì như lạc loài nơi rừng già.
Có kẻ
như bị sa núi lửa,
Có người
như té hố thẳm sâu;
Có người
như bị diều hâu,
1660.
Như đang bị thú vây bâu cùng mình.
Có kẻ
bị yêu tinh dọa nạt,
Có người
như đói khát lóc lăn;
Có người
bị giặc bủa giăng,
Tai
nghe đầy tiếng rên than não nề.
Nghe
không cũng hồn mê phách lạc,
Nếu thấy
càng thần thất tâm kinh;
Chính đây
cũng bắt rùng mình,
1668.
Thảm thê ấy vốn báo tin sau này.
Khắp
nhơn loại Đông Tây Nam Bắc,
Ở chỗ
nào cũng gặp thế ư!
Cúi
xin các Đức bi từ,
Ra tay
cứu vớt con người trần ai.
Dân nếu
gặp cảnh nầy khó sống,
Kẻ không
tu càng mỏng thêm hơn;
Làm
lành hỡi khách tạm trần,
1676.
Tuồng đời càng lúc càng gần không xa.
Cuộc
biến chuyển kỳ ba rất dữ,
Chớ
không như thường sự bấy lâu;
Đổi
thay khắp hết địa cầu,
Không
riêng một giới một châu bớ người.
Nên Phật
mới cạn lời dạy dỗ,
Khiến
chúng sanh hiểu rõ ngọn ngành;
Ngõ hầu
tỉnh thức tu hành,
1684.
Bỏ điều hung dữ theo lành sớm khuya.
Hiền
lành được nhiều bề che chở,
Hung dữ
không ai độ cho đâu,
Dù cho
Phật lắm phép mầu,
Cũng
không riêng vị người nào được ư.
Vì lẽ ấy
cần qui chánh lộ,
Một
lòng thành hối ngộ tu hiền,
Không
không mà có Phật Tiên,
1692.
Các Ngài chẳng phụ người hiền đức tâm.
Phật
pháp vốn thậm thâm vi diệu,
Phải
công trì mới hiểu tột nơi;
Đeo
vào đừng phút nào lơi,
Nay không
đắc đạo thì mơi cũng thành.
Mỗi
đêm mỗi lời lành được hội,
Đâu là
nơi nguồn cội đã tường;
Nguyện
cùng Phật một lòng thương,
1700.
Đạo gieo không chỉ thôn hương của mình.
Trống
bát nhã đánh lên khắp chỗ,
Chuông
đại bi dộng cả mọi nơi;
Tỉnh
cho được khách trần đời,
Hết
người mê muội mới thôi vận hành.
Hiện
thân ở đảo gành xa thẳm,
Giống
từ bi vẫn rấm khắp cùng;
Lóc
lăn chiều uốn tứ tung,
1708.
Lòng trong sau trước vẫn trong một màu.
Phật
có dạy một câu bí nhiệm,
Rằng
Con ơi! trong biển có vàng;
Muốn
tìm phải lọc phải sàng,
Được
vàng phải chịu gian nan trăm phần.
Câu ấy
rất lý chơn tuyệt diệu,
Nên
thân nầy vui chịu khó khăn;
Biến
hình khi tục khi tăng,
1716.
Cảnh nào cũng vẫn xả lăn thân vào.
Thật
vàng dẫu lửa nào không sợ,
Có lóc
lăn mới rõ giả chơn;
Ta-bà
đâu cũng léo thân,
Mà nơi
nào cũng như cơn gió lồng.
Trước
sau cũng vẫn không bóng dáng,
Không
để cho vướng máng sự gì;
Luôn
ôm lấy dạ từ bi,
1724.
Mượn đời để tạo những gì cao siêu.
Bề
ngoài dẫu có nhiều sắc diện,
Bên
trong luôn một chuyện đạo mầu;
Quê
nhà khó hiểu cho đâu,
Tình
riêng ôm giữ đạo mầu chung lo.
Thật
có một, quyền do nhiều cách,
Tùy xứ
người lao lách thích ưng;
Nhưng
chung qui một bước chơn,
1732.
Đưa dân chúng đến hưởng phần siêu sanh.
Chớ thấy
vật bên mình biến hóa,
Mà vội
vàng cho cả như nhau;
Bề
ngoài vàng giống như thau,
Nhưng
trong thực chất khác nhau rất nhiều.
Muôn
năm cũng không tiêu mòn được,
Thật
vàng mười sau trước chói chang;
Quê
nhà chớ dạ nghi nan,
1740.
Xin cùng đây một lòng vàng chớ phai.
Chịu
khó nhọc giồi mài đạo đức,
Sẽ
cùng đây qui nhứt ý nguyền;
Dù sao
chớ để lơi duyên.
Một
ngày nồng mặn đạo nên một ngày.
Tâm
không bận trần ai nhứt vật.
Duyên
lành gây khắp đất không chừa;
Lòng nầy
ai hiểu được chưa,
1748. Nếu
chưa hiểu rán, hiểu cho đến cùng.
Từ xưa
đến ngay trong hiện kiếp,
Vì nặng
duyên với khắp nhơn sinh;
Lao
thân cõi tục muôn nghìn,
Để làm
cho giống hữu tình mọc lên.
Nay
cũng thế đâu quên lẽ ấy,
Đi đó
đây tìm cái duyên xưa;
Nhờ Trời
ban bố mốc mưa,
1756.
Cho đâu đó được lòng vừa như nhau.
Dắt được
một người vào cửa Phật,
Mừng
còn hơn báu vật muôn xe;
Lời
lành thấy kẻ không nghe,
Đớn
đau như thể búa đe đập vào.
Đêm
không ngủ vì câu suy lượng,
Ngày quên
ăn bởi tưởng xa gần;
Nặng
tình dân phải mòn thân,
1764.
Mòn thân đâu quản miễn dân đồng tình.
Mối
siêu nhiệm nơi kinh khó vạch,
Ở nơi
lòng là mạch rán tìm;
Thấy
lòng tất biết cổ kim,
Thấy
tình dân quốc thấy miền kẻ xa.
Ngày nào
được thấy ra điều ấy,
Tất
cùng đây như chái với hiên;
Rán
trau cho thắm lấy duyên,
1772.
Quan-Âm, Thế-Chí ngồi bên Di-Đà.
Ngày hỷ
lạc chính là ngày đắc,
Phút
trùng lai ấy phút vinh quang;
Quê
nhà lớn nhỏ khá toan,
Để
cùng nâng chén huy hoàng gần xa.
Sự khổ
sở tuy là lắm chịu,
Lòng
không nao xứng điệu làm trò.
Tổ thầy
tất đã hiểu cho,
1780.
Chớ ngờ áo gấm mặc mò trong đêm.
Có một
chuyện khiến thêm tin chắc,
Vào một
đêm nước mắt đang tuôn;
Lòng
sao chi xiết ưu buồn,
Trách
hiền khốn đốn còn hung an nhàn.
Liền
bên tai nghe vang tiếng nói,
Rằng
con ơi! chớ vội trách phiền;
Phật
Trời đâu có vị riêng,
1788.
Hiền mà khốn đốn vì hiền mới đây.
Hung
được sướng vì gây phước trước,
Phước
hết rồi não nuột bá ban;
Chớ rằng
hung được an nhàn,
Còn hiền
khốn đốn trách than luật trời.
Thần
minh khắp mọi nơi đều có,
Sự dữ
lành lớn nhỏ thấy qua,
Không
riêng việc đã làm ra,
1796.
Trong lòng mới tính cũng là hiểu thông.
Xưa
nay phép chí công chẳng lệch,
Chớ nghi
ngờ làm chích lòng trên;
Thương
người tâm ấy đáng nên,
Những
điều nhân quả đừng quên xét vào.
Hiền
khốn đốn chẳng nao núng dạ,
Không
những là xong quả trước kia;
Phước
nay còn được nhiều bề,
1804. Càng
cam chịu được Phật quê càng gần.
Nghe
nói thế ta lần nguôi dạ,
Nói
trong lòng rằng cả việc chi;
Phú
cho các đấng từ bi,
Xét
xem cho chứng mê si được nhờ.
Tai lại
tiếp nghe qua thêm nữa,
Rằng
con ơi! chớ có nghi ngờ;
Mẹ
thương mến đứa con thơ,
1812.
Thế nào thì Phật cũng là thế ni.
Thương
chúng đến quên đi cõi thọ,
Xuống
hồng trần chịu khổ dường bao!
Thương
đời đời chẳng xót đau,
Thường
đem cay đắng chế vào Phật Tiên.
Ai nỡ
trách kẻ điên ném đá,
Thấy
con mê lòng dạ càng thương;
Con
ơi! con trẻ nào tường,
1820.
Thầy con chính ở bên giường con đây.
Ta
nghe đến đoạn nầy rơi lụy,
Khối
nhớ thương như lũy như thành.
Chỉ
nghe tiếng nói đâu đành,
Phải
cho thấy mặt thì tình mới ưng.
Đoạn nầy
ta xin ngưng để đó,
Chờ kỳ
sau sẽ có dịp bày;
Tiếp
qua tiếng nói bên tai,
1828.
Từ đêm cho chí những ngày đều nghe.
Cũng một
hôm vào khuya vắng vẻ,
Tai liền
nghe nhỏ nhẹ lời thơ:
Thanh
phi thường thanh
Sĩ dị
phàm sĩ;
Lưu
nhi bất di,
Ngoại
kỳ hữu lý.
Vĩ ý nan
tương,
Đại
nguyện hà tỷ?
Phật
vô nhứt ngung,
Giáo
hà lập vị?
Diện
kiến nan tri,
Ấu nhi
vô trĩ
Tâm dĩ
độ tâm,
Lão hà
nhứt lý?
Hòa thống
phương phương,
Hảo
chơn thử bỉ;
Nhứt
nhược trì qui,
Trụ kỳ
bạt vị.
Kệ rồi
vắn tắt dặn dò,
1848.
Khá đem mỗi chữ kết cho thành vần.
Tơ nhỏ
sợi khéo đan dệt lại;
Nên gấm
bông việc ấy đâu ngoa,
Con
ơi! kệ một lời ra,
Có nhiều
cơ mật rán mà xét suy.
Một để
một việc chi cũng dễ,
Một ra
mười sự hệ lắm con;
Khéo
dùng phương tiện cho tròn,
1856.
Nay không nên được hết còn hội nao.
Nói tới
đây lời trao đã vắng,
Nằm
gác tay lên trán nghĩ suy;
Ý nguyền
nếu chẳng như y,
Ta còn
lưu lại làm chi cõi trần.
Nghĩ đến
đây tâm thần mỏi mệt,
Mắt nhắm
đi đến lúc mơ màng;
Duyên
xưa đâu khéo đem đàng,
1864.
Người anh cách khoảng muôn năm lai hồi.
Rằng
em ơi! chớ lời than chán,
Ý nguyền
nên hay chẳng mặc tình;
Trước
sau một chí hy sinh,
Sống
hay chết cái thân mình kể chi.
Ở trần
mãi đến khi toại nguyện,
Chừng
nào không còn chuyện khổ đau,
Niết
bàn kia mới nên vào,
1872.
Còn người sầu khổ còn lao trong trần.
Em ơi!
đạo gần xa cố bủa,
Hết
lao đao đến thuở thanh nhàn;
Đang
ngồi nơi chốn lâm san,
Nghe
em than chán vội vàng xuống đây.
Anh
thương em từ ngày xưa cũ,
Đến những
nay chịu đủ âu sầu;
Lóc
lăn còn thiếu chi đâu,
1880.
Dấu chơn giẫm khắp địa cầu hỡi em.
Việc
đã cận anh xem thấy rõ,
Không
muốn em chán bỏ nửa đường;
Từ bi
tâm ấy khôn lường,
Mừng
cho em được nối đường Như-Lai.
Em đã
chẳng mến say xác tục,
Đáng
kính thay tâm lực đủ đầy;
Nhưng
cần phải mượn xác này,
1888.
Để làm xe chở nhơn loài qua truông.
Kể từ
đây lời buồn tiếng thảm,
Nên vì
anh để ngậm trong lòng;
Việc
em anh đã cảm thông,
Mỗi lời
than mỗi khiến lòng anh đau.
Vừa rồi
được lời trao nhỏ nhẹ,
Em biết
cho là kẻ nào chăng;
Ông
già tóc bạc da nhăn,
1896.
Bấy lâu thường ở bên màn của em.
Nghe lời
ấy ta thêm ứa lệ,
Mầu
nhiệm thay cho kẻ vô hình;
Từ lâu
khắn chặt tâm tình,
Không
riêng cho tiếng cho hình thấy luôn.
Một ý
nghĩ sai đường Phật pháp,
Cũng ứng
lời dạy gấp không quên;
Không
nhờ ơn đức bề trên,
1904.
Ta đâu dễ được hiểu nên thế này.
Không
riêng ta dù ai cũng thế,
Nếu nhứt
tâm gìn lẽ tu hiền;
Thì là
sẽ được Phật Tiên,
Dạy
cho các lẽ bí huyền chẳng không.
Xin chịu
khó trì công khuya sớm,
Nếu
không nên ta chẳng phải người;
Nào ta
có dám nói chơi,
1912.
Nói ra là dựa theo lời Phật Tiên.
Ngay
như việc hoa liên ứng ngữ,
Cũng
nói ra để gởi cho nhau;
Rõ điều
mầu nhiệm siêu cao,
Hầu tu
thêm nữa cho mau công thành.
Hoa
còn nói muôn nghìn lẽ nhiệm,
Xin kể
thêm yếu điểm ra nghe;
Vừa rồi
những tiếng gớm ghê,
1920.
Của muôn kẻ khổ dầm dề khóc than.
Tiếng ấy
dứt hoa vàng liền động,
Quanh
mình ta như sóng vỗ vào;
Tự
nhiên cảm thấy nhức đau,
Thình
lình hồn phách biến vào nơi đâu.
Trong
lúc ấy mau lâu chẳng nhớ,
Khi tỉnh
ra thân thể như dần,
Còn
thân như đã mất thân,
1928.
Chính ta chưa biết phép thần làm sao.
Một bài
kệ từ đâu đưa lại,
Lời
thanh tao giảng dạy như vầy:
Không
khí khi đổi thay,
Nhơn vật
tợ như say;
Thất
thần trong tức khắc,
Tỉnh lại
có mấy ai?
Sau
khi nghe đến kệ này,
Trong
lòng ta cảm thấy đầy sợ lo.
Ngày chung
cuộc nếu mà thật thế,
Đến
như loài trùng dế cũng tiêu;
Trong
không như lượn sóng triều,
1940.
Mũi như sảm đất làm sao sống đời.
Không
nhờ Phật vãn hồi tánh mạng,
Lớn
như voi cũng chẳng còn chi;
Có vầy
mới gọi biến di,
Phật
Tiên vì đó ra đi kêu gào.
Rán bớ
ai dù sao cũng rán,
Qua hội
nầy sống đặng muôn niên;
Nếu
như thành được Phật Tiên,
1948.
Lại càng thọ hưởng vô biên lạc nhàn.
Như rồi
đóa hoa vàng đã hiện,
Nhiều
cảnh mầu nhiều chuyện xinh tươi;
Vui
hơn vui của loài người,
Ước
mong khắp chúng sống nơi cảnh nầy.
Tu
chín chắn đến ngay đó được,
Có Phật
Ngài đưa rước tới nơi;
Việc nầy
đâu phải xa vời,
1956.
Xin nên tin chắc ớ người quê hương.
Đèn
trên hoa còn đương thẳng ngọn,
Gió từ
đâu ron rón thổi vào;
Ngọn
đèn liền phất phơ mau,
Biến
ra một cảnh trông vào thêm xinh.
Một Đức
Phật ngồi trên sen báu,
Nhích
miệng cười rồi bảo ớ con;
Chua
vì bởi nó còn non,
1964.
Chín rồi sẽ ngọt không còn chua đâu.
Nghiệp
chưa sạch đành câu khổ báu,
Nợ
xong rồi ai bảo trả thêm;
Gió
ngưng thì sóng cũng êm,
Điều nầy
con khá nhớ đem vào lòng.
Cảnh nầy
tên là Không Diệu Hữu,
Lòng
muốn chi có đủ ớ con;
Ngã
nhân tâm nọ chẳng còn,
1972.
Thì là sẽ được sanh lên cảnh nầy.
Vậy
con nhìn nơi cây bên cạnh,
Biết
bao nhiêu trái chín thơm tho;
Ăn vào
cả tháng được no,
Không
cần đại tiểu vẫn là tự tiêu.
Y phục
luôn tùy theo ý muốn,
Rồi tự
nhiên hiện cuốn nơi thân;
Gọi là
như ý diệu thần,
1980. Cõi
Không Diệu Hữu toàn dân như nguyền.
Ngày
chọn lọc tại miền hạ giới,
Kẻ hữu
duyên sẽ tới cõi nầy;
Là
ngày không cánh mà bay,
Không
trồng tỉa vẫn đủ đầy ấm no.
Con
ơi! rán truyền cho dân biết,
Tận diệt
mà không diệt ớ con;
Mất
nhưng mà vẫn thường còn,
1988. Ấy
ngày lập hội đầu non tại trần.
Không
riêng Phật hóa thân khắp chỗ,
Các Thần
Tiên cũng đổ xuống phàm;
Mạnh
ai thì việc nấy làm,
Tùy
duyên cứu các linh căn đem về.
Nói
xong Phật tay xòe năm ngón,
Chiếu
sáng như năm ngọn đèn pha;
Ngũ
phương liền thấy hiện ra,
Vô
biên thế giới thật là đẹp xinh.
Mỗi thế
giới dạng hình mỗi khác,
Có vị
thì nhiều mắt nhiều tay;
Cõi
thì to lớn hình hài,
2000.
Cõi thì nhỏ thó như người thế gian.
Có cõi
đất bằng vàng chói rực,
Có cõi
thì châu ngọc lót đầy;
Cõi
thì toàn thấy những cây,
Không
nhà không cửa đêm ngày sáng trưng.
Mỗi bước
có hoa nâng đỡ gót,
Tai
luôn nghe lời Phật dạy khuyên;
Muốn
chi tức được có liền,
2008.
Dù rằng việc ấy ở miền khác xa.
Chim biết
nói gió hòa nên nhạc,
Nước
tùy lòng ấm mát đổi thay;
Cõi trần
khó sánh vào đây,
Càng
xem càng thấy mê say thêm nhiều.
Phật
liền cất tiếng kêu ớ trẻ,
Ở thế
gian ít kẻ thấy đây;
Tưởng
rằng chỉ có trần ai,
2016.
Chớ không còn có cõi ngoài khác đâu.
Thế nên
cứ bấu câu tục lụy,
Cạnh
tranh nhau nhục sỉ chẳng màng;
Rốt
như bọt nước hồ giang,
Chỉ
trong chốc lát rã tan chẳng còn.
Cảnh
chơn thật mắt con đã thấy,
Khi trở
về nhắc lại cho người;
Duyên
con đã nặng với đời,
2024.
Lời con sẽ được lắm người nghe theo.
Thảng
có kẻ trả treo chống chỏi,
Bởi
kém duyên nên gọi cạn lời;
Con
ơi! gặp lúc hạn trời,
Giống
lên có một khô thời mười mươi.
Được
nghe ít bị cười nhiều lắm,
Không
can trường khó rấm giống duyên.
Cuối
cùng với buổi đầu tiên,
2032.
Lòng người thương ghét đổi liền không ngưng.
Con
ơi! mỗi bước chơn đặt xuống,
Bằng
ít oi dốc luống dẫy đầy,
Muốn
noi gương phẩm Như-Lai,
Chớ
nao núng tiếng nhiếc xài thế gian.
Người
không hiểu thì càng thương xót,
Cố dạy
cho đến lúc hiểu rành;
Kẻ say
giận nó sao đành,
2040.
Không mê ai cũng hiền lành như nhau.
Con là
một trong bao Phật tử,
Gương
từ bi khá giữ cho minh;
Gặp điều
thử thách đến mình,
Phải
luôn nêu rõ chơn tình cao siêu.
Núi
cao mấy rừng nhiều thế mấy,
Cũng
chẳng làm trở ngại khoảng không;
Khoảng
không ấy ví cho lòng,
2048.
Núi rừng ấy ví trần hồng nọ kia.
Ở
trong cõi trần mê vẫn tỉnh,
Cùng
Phật đâu khác tính ớ con!
Huyễn
thân tuy mất mà còn,
Rách y
phục chớ đâu mòn thịt xương.
Gạn
xét kỹ rồi trương cung đạo,
Bắn
cho tan giặc bạo trong đời;
Ngàn
vàng dễ kiếm con ơi!
2056.
Một câu chánh-giáo muôn đời khó nghe.
Hãy
quí trọng hơn là châu báu,
Ngày
đêm luôn trì bảo chớ quên;
Riêng
mình đạo quả được nên,
Rán
dìu bá tánh cùng lên sen đài.
Phật Ngài
nói đến đây liền nín,
Thoắt
nhiên trên tụ đỉnh chiếu ra;
Tự
nhiên không thấy Phật- Đà,
2064.
Chỉ còn thấy có đóa hoa với đèn.
Trong
lòng ta ngợi khen đáo để,
Các Phật
đều tướng thể giống nhau;
Đẹp
hơn hết thảy vật nào,
Mặt
mày vui vẻ lời trao dịu dàng.
Vừa rồi
dạy mọi đàng hơn thiệt,
Chơn
lý thay! Siêu việt lắm thay!
Mỗi
câu mỗi chữ đều hay,
2072.
Càng nghe càng khiến mê say khó lờn.
Muôn
kiếp khó quên ơn đại độ,
Đạo
quyết thành để có đáp ơn;
Ớ người
trong cõi thế nhơn,
Nghe
đây rồi thấy tâm thần nghĩ sao?
Há
không sớm bước vào cửa Phật,
Để qui
y giải cuộc trần ai,
Muốn
tu tu chớ hẹn ngày,
2080.
Kiếp đời không thể kéo dài được đâu.
Trễ một
dịp khó âu gặp cuộc,
Trời tối
mà gặp đuốc là may;
Mộng
trần còn có bao dai,
Có đeo
cũng chẳng đeo hoài được đâu.
Ta lặn
lội vì câu giục thúc,
Chịu nắng
mưa bởi cuộc tử sinh;
Nói ra
với cả chơn tình,
2088.
Muốn ai cũng được kính tin đạo mầu.
Ta xin
viết những câu sau đấy,
Khi nhớ
nhau đọc lấy đỡ buồn:
Đã
ngót năm năm trường,
Ta xa
cách quê hương;
Nhưng
đối với già trẻ,
Vẫn giữ
một lòng thương.
Thương
đến rơi nước mắt,
Thương
đến nhói can trường;
Xác
thân tuy lưỡng lộ,
Tâm hồn
vẫn nhứt phương.
Quên
ăn vì quá nhớ,
Mất ngủ
bởi nhiều thương;
Thân
trên giường ngoại quốc,
Mộng về
đến quê hương
Xưa
nay vì tâm bịnh,
Hiện
còn da bọc xương;
Hỡi
người trong quê nội,
Lòng
ta có được tường?
Cách
nhau xin chớ cách,
Rán đợi
cuộc phùng tương;
Dẫu gặp
muôn thử thách,
Xin chặt
giữ một đường.
Dù ai
có chê ghét,
Đây đó
vẫn yêu thương;
Chớ để
danh cám dỗ,
Đừng
cho lợi gạt lường.
Khó
khăn dù cách mấy,
Tu vẫn
cứ tu luôn;
Ví dụ
ngày mai mốt,
Được
xuôi gió thuận đường.
Gót
chơn người mong đợi,
Sẽ trở
lại quê hương;
Từ đây
cho đến đó,
Nhớ
nuôi chí quyết cương.
Khổ sầu
sẽ đền trả,
Cho
nhau chén quỳnh tương.
Mỗi
ngày được nhớ đọc luôn,
2126.
Mối tình đây đó càng vương thêm nhiều.
Hai
ngã được cùng theo một ý,
Việc lớn
lao thế mấy cũng nên;
Đạo mầu
càng chói chang lên,
Không
riêng một chỗ mà lên khắp cùng.
Trong
cửa Phật có trung lẫn hiếu,
Cũng
có luôn cả điệu nghĩa nhân;
Muốn
cho đáp vẹn trọng ân,
Người
trong cửa Phật giữ thân cho tròn.
Thân ấy
vẹn phận con phận tớ,
Vẹn cả
tình quốc thổ quốc dân;
Nếu là
thật đạo chánh chơn,
2138.
Hòa quang thì có yếm trần thì không.
Mượn cảnh
tịnh cho lòng bình tịnh,
Chưa
phải là chơn chính pháp môn;
Được
luôn tự chủ tâm hồn,
Dù
trong chỗ loạn nhưng lòng vẫn yên.
Có thế
mới dụng quyền độ thật,
Trong
bùn lầy mà chất vẫn thanh;
Quê
nhà xin rán nghiệm rành,
2146.
Nguồn chơn nắm được tu hành mới nên.
Nơi đất
khách nào quên cố quận,
Ở trần
gian vẫn tưởng Phật- Đài;
Dù cho
xa cách bao dai,
Lòng
mong trở gót không ngày nào quên.
Tuy giấy
trắng mực đen thô đạm,
Nhưng
lòng son đã chạm vào đây;
Xem
đây tất biết lòng này,
2154.
Muôn xưa cho đến ngày nay một niềm.
Niềm
ân ái từ kim chí cổ,
Đã
gieo sâu trong chỗ tu hành;
Giữa
ta cùng khắp nhơn sanh,
Chết thân
muôn lượt nhưng tình sống luôn.
Người
dẫu phụ ta không thể phụ,
Ở nơi
đâu cũng nhớ thương luôn;
Riêng
thân khổ chẳng hề buồn,
2162.
Thấy người bị khổ mắt tuôn lệ dài.
Ước
sao khắp ai ai cũng thế,
Cùng với
đây tương kế tâm linh;
Loạn
cho thế mấy cũng bình,
Ai
nghe cũng mến ai nhìn cũng ưa.
Mạch sầu
nầy nếu chưa lắp được,
Huyết
lộ trong dân nước còn rơi;
Khóc
không vì phận xa vời,
2170.
Mà là khóc cái cuộc đời loạn ly.
Khóc
vì cửa từ bi vắng dạng,
Khóc
người tu không rán lo tu;
Không
riêng lúc thức khóc đâu,
Đến
trong lúc ngủ cũng châu rơi dầm.
Trước
mặt Phật vẫn đem bày tỏ,
Trong
lòng son luôn cố nhớ lo;
Lời
nào của Phật dạy cho,
2178.
Tiện bề nói hết ra cho người đời.
Chừng
nào được khắp nơi hối ngộ,
Thì những
lời khuyên dỗ mới ngưng;
Còn
người chơn bước chơn dừng,
Ta còn
đem hết tinh thần réo kêu.
Xin
vui vẻ nghe theo lời chánh,
Để làm
xong hoàn cảnh người tu;
Mới
không luống uổng công phu,
2186.
Người đâu khinh bỉ mình đâu hổ lòng.
Ta xin
kể chuyện bông thêm nữa,
Để
cùng nghe hầu sửa lấy tâm;
Hoa
đèn còn đứng như găm,
Ta còn
đang đứng ngó chầm vào hoa.
Trong
lòng ước Phật- Đà dạy kỹ,
Đâu
chơn và đâu ngụy đành rành;
Ngõ hầu
nhắc lại nhơn sanh,
2194.
Dựa theo nơi đó để hành cho y.
Vừa
nghĩ thế tức thì hoa động,
Cánh
thứ nhì gần rún của hoa;
Bắn
lên một ánh sáng lòa,
Chót
trên ánh sáng Phật- Đà ngồi nghiêm.
Tướng
đẹp chúng cổ kim khó sánh,
Gương
lành trong bá tánh đâu so;
Mùi hương
bay rất thơm tho,
2202.
Gió đưa thấy mát hơn là gió thu.
Phật
liền nói lên câu vi diệu,
Rằng
con ơi! nên hiểu như vầy:
Thật ấy
là chơn,
Giả ấy
là ngụy;
Chơn
không dối lừa,
Ngụy
hay gian trá.
Chơn
không ngã nhơn,
Ngụy
thì nhơn ngã;
Không
chấp là thật,
Còn chấp
là giả.
Tâm
chơn chơn hết,
Tâm ngụy
ngụy cả;
Ngụy vốn
tại mình,
Chơn
không do kẻ.
Không
sáu trần thật,
Có sáu
trần giả.
Chơn
có không không,
Ngụy
không có có.
Nói
làm một thật,
Làm
nói hai giả;
Chơn
ngoài như trong,
Ngụy trong
khác cả.
Thương
khắp là thật,
Yêu
riêng là giả;
Chơn
thí không ngừng,
Ngụy
không phóng xả.
Sau
trước một thật,
Đuôi đầu
hai giả;
Không
vướng chơn hết,
Có đeo
ngụy cả.
Không
sắc là thật,
Còn tướng
là giả;
Chơn
thì chơn thành,
Ngụy thì
ngụy quả.
Con cứ
lấy đây,
Ngụy
chơn hỏi dạ.
Phật
Ngài vừa nói tới đây,
2240.
Hào quang liền mất mặt mày hết trông.
Ta đứng
mãi như trồng chẳng động,
Bởi kệ
mầu đang ấn trong tâm;
Càng
suy càng để ý tầm,
Càng
hay càng thấy cao thâm vô cùng.
Vì say
kệ mắt ngưng không nháy,
Ngó Phật
khi hết thấy mới thôi;
Hào
quang cao vọi ngất trời,
2248.
Khéo thay Đức Phật lại ngồi lên trên.
Việc
chơn ngụy hư nên dạy kỹ,
Mỗi lời
gồm đủ lý cạn sâu;
Hiểu
ra cho tận đuôi đầu,
Mới hay
lời Phật nhiệm mầu vô biên.
Xin chớ
lấy ý riêng xét nghiệm,
Đem tấm
lòng cao viễn suy ra;
Việc
chơn hay ngụy cũng là,
2256.
Từ trong tim não sanh ra mọi điều.
Lấy
khuôn mực ở nhiều kinh điển,
Để làm
nơi văn kiến ít lầm;
Hành
sai vì bởi mê tâm,
Tâm mê
hết được, việc làm không sai.
Nhớ
cho kỹ bớ ai người thế!
Hãy tỉnh
ra chớ để mê luôn,
Khổ đời
còn diễn lắm tuồng,
2264.
Chậm qua một khúc rối cuồn nhiều ngoe.
Theo lời
Phật ta nghe từ trước,
Cho đến
nay lần lượt kể ra;
Không
riêng lời của Phật- Đà,
Mà nhiều
vị khác cũng là nói luôn.
Còn một
vị chờ cơn thuận tiện,
Ta sẽ
đem phổ biến ra nghe;
Nói ra
ai cũng không dè,
2274.
Phong thần ấy chuyện đã nghe lâu rồi.
Ta nói
hết không lời nào tiếc,
Nói cho
người được biết để tu;
Tu cho
khỏi kiếp lao tù,
Tu coi
đại hội trên bầu thế gian.
Con đắc
đạo cứu an cha mẹ,
Cha mẹ
thành dìu trẻ qua truông;
Chồng
nên vợ được nên luôn,
2282.
Vợ thành chồng cũng qua cơn thảm sầu.
Nên hợp
sức bắt sâu nhổ cỏ,
Một hột
gieo được trổ nhiều bông;
Khuyên
nên đồng vợ đồng chồng,
Cha
con nhứt trí giống dòng nhứt tâm.
Dịp
may cả muôn năm mới gặp,
Chớ bỏ
qua hãy gấp ôm vào;
Để xem
kẻ cỡi hoa lau,
2290.
Đi qua biển cả thế nào mới vui.
Trời đất
lúc tối thui tất cả,
Ngọn
đèn thần sẽ chóa khắp nơi;
Hiền
lành sẽ được đèn soi,
Dữ
hung đành chịu như người quáng manh.
Lúc
khát chẳng ai dành cho nước,
Khi
đói không kẻ giúp cho cơm;
Khổ
thân còn khổ linh hồn,
2298.
Khổ trong muôn kiếp đem dồn một khi.
Ngày ấy
sẽ lần đi tới chỗ,
Lá khô
thì sẽ đổ chẳng không;
Liệu
mình cho được sạch trong,
Ngày
khai đại hội ấn rồng được phê.
Tỉnh
thức sớm chớ mê ngủ nữa,
Hội nầy
không còn thuở nào hơn;
Chừng
tai nghe được tiếng đờn,
2306.
Mây sầu tan cả mưa buồn tạnh xong.
Những
lời nói trong bông sen đấy,
Không
dễ nghe chớ lấy làm thường;
Toàn lời
của Phật mười phương,
Nói ra
vì bởi lòng thương thế trần.
Liền
sau khi Phật thân ẩn dạng,
Trong
hoa liền trỗi bản thanh tao;
Một
bài thơ diệu làm sao!
2314.
Thơ rằng ớ trẻ tại trào Hạ nguơn.
Mặc
cho cuộc mưa đơn gió kép,
Vẫn một
lòng sắt thép trơ trơ;
Rán
đưa người đến bến bờ,
Sóng
dù muôn lượn chớ ngơ máy chèo.
Xưa Phật
đã qua đèo lội suối,
Chẳng
quản chi gối mỏi chơn đau;
Lòng
tu trước cũng như sau,
2322.
Mến tu hơn mến sắc màu thế gian.
Gặp thử
thách trơ gan chịu đựng,
Suốt
khoảng tu không sướng một ngày;
Nhưng
lòng vẫn được dẻo dai,
Chí tu
càng thấy mỗi ngày thêm tăng.
Nếu
không chịu khó khăn như thế,
Quả Như-Lai
đâu dễ đắc thành;
Lợi
danh chẳng mến lợi danh,
2330.
Ái tình mà chẳng ái tình buộc vương.
Thật
là một tấm gương vĩ đại,
Đáng
chúng sanh sùng bái muôn đời;
Con
ơi! gương ấy khá noi,
Khỏi cần
phải nói thêm lời chi hơn.
Vừa đến
đây nhạc ngưng lời dứt,
Hoa và
đèn cũng mất theo luôn;
Lòng
ta vui trộn lẫn buồn,
2338.
Vui ra nước mắt buồn tuôn lệ dài.
Cảm ơn
đức Như-Lai vô-lượng,
Khéo
tùy cơ biến hiện đủ môn;
Xin thề
dù xác muôn chôn,
Vẫn không
quên được trọng ân Phật Ngài.
Không
thành đạo lòng đây há toại,
Chẳng
tỉnh đời sao phải người tu;
Đuốc
soi gấp mấy trăng thu,
2346.
Lời khuyên hơn lá rừng sâu mới vừa.
Xin đồng
đạo chớ ngơ ngẩn dạ
Rán đọc
lời biên tả nơi đây,
Lòng
thương nhau chớ nên khuây,
Đường
tu cứ bước đừng ngày nào thôi.
Nơi hải
ngoại xa xôi cách trở,
Mượn
bút nghiên nầy có thăm nhau;
Chúc
cho trí tuệ được mau,
2355.
Thanh bình sớm hưởng đạo mầu sớm nên.
Tên
người Thanh-Sĩ chớ quên.
Viết
xong tại Đông Kinh
Ghi
chú:
(1) ‘Tiên
Phật được thiềng’: (từ cũ) ‘được thành’
Đăng nhận xét