DownLoad Hiển Đạo Phần 1 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 2 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 3 PDF
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ
XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ
XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ
XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ
XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ
XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ
XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ
XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ
XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ
XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ
XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ
XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ
XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ
XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ
XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ
XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ
XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ
****
Các việc
tục người tôi đã chết,
Chết hẳn
từ lúc trước nữa kia;
Trên
xác thân mọi việc trần mê,
Đã chết
mất vào khuya đêm nọ.
Hiện bây
giờ tôi còn nhớ rõ,
Vào một
đêm trăng tỏ trời thanh;
Không
bóng người nào đứng chung quanh,
Chỉ
trơ trọi một thân thơ thẩn.
Bên cầu
đá có chùa Tinh Tấn,
10.
Đèn leo heo nhơn nhởn trước môn;
Chừng
như là có sức chiêu hồn,
Tự
nhiên kéo lần chơn bước đến.
Bên cửa
tự có đèn một nến,
Trong
sân chùa sao sến nhiều cây;
Mắt
nhìn qua lòng nghĩ như vầy,
Trong
chùa có Phật hay là chẳng.
Sự tưởng
Phật nơi lòng có đặng,
Người
mới đem cây đến trồng đây;
20. Mắt
càng ngắm càng say tâm não.
Cảnh
thanh tịnh biểu dương tánh đạo,
Khác cảnh
đời huyên náo tranh đua;
Ta ngẩng
nhìn quanh khắp kiểng chùa,
Vào
hay chẳng lòng chưa định quyết.
Nhìn
phong cảnh nhìn chùa mải miết,
Tự thấy
lòng mến tiếc dường bao;
Rồi tự
nhiên chơn rón bước vào,
Một sư
cụ đón chào lễ phép.
Ta
cũng bắt cúi mình khép nép,
30. Rằng
hôm nay chẳng biết tại sao;
Trong
não đầu lại bắt nhói đau,
Nơi
phòng nội ngồi lâu không được.
Mới ra
ngoài chơn lần rảo bước,
Gió
duyên đâu khéo hút vào đây;
Chớ
tôi không phải ở xóm này,
Mà là ở
cách đây mấy dặm.
Sư rằng:
nếu thế là tốt lắm,
Nếu
không duyên sao giẵm chốn này;
Xin mời
ông tiện bước vào đây,
40.
Trước lễ Phật sau vài câu chuyện.
Ta
vâng lời bước vào Phật điện,
Lễ Phật
xong rồi đến hậu đường;
Sư rằng:
người ở chốn tha phương,
Đến
đây viếng lệ thường rất ít .
Có lẽ
ông duyên sâu Phật Thích,
Mới ngẫu
nhiên lễ Phật chùa này;
Xin mời
ông ngồi xuống nơi đây,
Liền đồng
tử bưng khay nước đến.
Sư rằng:
xin mời ông tự tiện,
50. Ta
cám ơn cầm chén nước lên;
Sư
cũng đồng nói tiếp theo liền,
Đạo nếu
chẳng có duyên khó gặp.
Chùa nầy
kể từ ngày thiết lập,
Người
như ông mới gặp đầu tiên;
Giữa
đêm hôm đến viếng chùa chiền,
Thật
là một kỳ duyên hy hữu.
Xin mời
ông đêm nay ở ngủ,
Để
chuyện trò có đủ thời giờ;
Đây
cũng là do ở Phật cơ,
60.
Khéo xui khiến người như ông đến.
Tuy mới
gặp nhưng lòng đã mến,
Người
như ông cũng hiếm chùa nầy;
Lần đầu
tiên mới đến nơi đây,
Nghe
sư cụ quá lời khen tặng.
Ta
thưa rằng: tôi không dám nhận,
Tôi
như bao người đến viếng chùa;
Chỉ
khác hơn không đến bữa trưa,
Mà lại
đến đêm khuya vắng vẻ.
Bởi người
tôi đang sầu lắm lẽ,
70.
Khác nào như là kẻ điên cuồng;
Thường
đêm thường tâm não ưu buồn,
Mất ăn
cũng mất luôn cả ngủ.
Mỗi
khi gặp phải cơn phong vũ,
Hoặc
thấy nghe những sự bất lành;
Cõi
lòng tôi như bị xé banh,
Đêm ấy
suốt thâu canh không ngủ.
Nỗi
thương nhớ xa gần ấp ủ,
Sự âu
lo bao phủ tim gan;
Rồi tự
nhiên nước mắt cứ tràn,
80.
Không còn cách nào ngăn nén được.
Nếu nằm
mãi gối chăn đều ướt,
Và
trong lòng bứt rứt không an;
Nên
thường hay rảo bước ra đàng,
Mượn
phong cảnh để làm khuây khoả.
Suốt bao
năm đều như thế cả,
Không
ngày nào trong dạ thấy vui;
Vẻ mặt
luôn ẩn nét bùi ngùi,
Cười
cũng chỉ gượng cười lấy có.
Chính
hôm nay cũng như thế đó,
90.
Lòng băn khoăn chuyện nọ chuyện kia;
Quên cả
Trời lạnh lẽo đêm khuya,
Cứ đi mãi
đến kề am tự.
Thế tạo
khéo nhiều trò thách thử,
Làm
cho người Phật tử chua cay;
Trước
khi tôi để bước vào đây,
Đứng
lâu ở bên cây cầu đá.
Ngắm
dòng nước thấy trong lòng dạ,
Chừng
như là khuây khoả ít nhiều;
Nước
chảy luôn bất kể rác rều,
100. Sớm
cũng chảy mà chiều cũng chảy.
Khắp
quả đất cùng trên thế giới,
Chậm
hay mau đều chảy tới luôn;
Mặc
cho đời có dạ ghét thương,
Không
vì đó mà ngưng sức chảy.
Trong
lòng cứ quanh đi quẩn lại,
Nước
cùng ta có phải giống chăng?
Ngó nước
xong nhìn cảnh chùa tăng,
Lòng
như gợi muôn ngàn câu chuyện.
Chuyện
mới cũ chuyện đời u hiển,
110. Rồi
như ai kéo đến vào đây;
Thật
tôi không có ý định nầy,
Ắt sẽ
có gì hay đem lại.
Sư cụ
rằng: chắc như thế ấy,
Nên
xin ông ở lại đêm nay;
Để
cùng tôi tâm sự vắn dài,
Nếu
ông chẳng chấp đây già cả.
Ta liền
thưa lời ông quá hạ,
Việc đạo
đời già cả càng thâm;
Trẻ tuổi
đâu khỏi lắm sự lầm,
120.
Được ông chỉ lấy làm quí hóa.
Biết
chừng đâu chuyện trong nhứt dạ,
Khéo gợi
nên duyên cả thiên niên;
Vậy
xin ông lượng việc tục tiên,
Dạy bảo
kẻ đường duyên mỏng mẻo.
Ngoài
Trời cũng lấy làm lạnh lẽo,
Nếu
quá khuya xin ngủ nhờ đây;
Sư liền
rằng: như thế là hay,
Rồi tự
bước vào ngay sau hậu.
Mang
bánh nước thêm ra rồi bảo,
130.
Xin ông dùng lấy thảo với tôi;
Nhà
chùa không giống ở nhà đời,
Chỉ
bánh nước không mùi chi khác.
Ta rằng:
cố nhiên chùa chay lạt,
Xin
ông đừng thắc mắc làm chi;
Ông
vui lòng hậu đãi thế thì,
Lòng tôi
thiệt xiết chi cám đội.
Khách
thập phương mỗi khi bước tới,
Các sư
đều tiếp đối thế này;
Mùi
thiền đâu cũng được thơm lây,
140.
Tăng với tục cả hai được mến.
Sư rằng:
ba mươi năm gần đến,
Tôi
đem thân phụng hiến chùa nầy;
Sự lễ
nhường bất luận với ai,
Cũng
thế cả không hay phân biệt.
Vì lẽ
chữ từ bi được biết,
Chỉ
yêu thương không ghét một ai;
Lòng rộng
hơn kẻ thế ở ngoài,
Cảnh
chùa tất là thay cảnh Phật.
Tâm
nhà tăng khác hơn kẻ tục,
150.
Tăng thay chơn cho Phật ở đời;
Vì vậy
nên đối với mọi người,
Nên
thương hết chớ nơi nào ghét.
Phải
tiêu biểu tinh thần siêu việt,
Mới là
người học Phật làm tăng;
Tôi ở
chùa chút mấy mươi năm,
Lúc
nào cũng chủ tâm như thế.
Khách
đến viếng nhiều không số kể,
Người
như ông là kẻ khác xa;
Nên
tôi quên đi phận tuổi già,
160.
Muốn ông được luận qua nhiều việc.
Ta rằng:
đạo tôi không mấy biết,
Nhưng
lòng hay yêu việc thiện lương;
Tâm hồn
luôn hướng cảnh Phật đường,
Vì tin
Phật là chơn giác ngộ.
Lúc
nào cũng muốn Ngài cứu độ,
Không
những tôi mà cả thế gian;
Khổ đời
nhiều dạ thấy không an,
Có lẽ
Phật mười phang đã thấu.
Sư rằng:
việc thế gian khó dấu,
170. Mắt
Phật đà xem thấu khắp nơi;
Người
sống trôi giữa biển khổ đời,
Lòng
mong ước như người ông đấy.
Thật
hiếm có và tôi ít thấy,
Phần đông
thường lo lấy riêng thân;
Nghĩ
cho mình là việc trước hơn,
Chớ ít
có nghĩ luôn kẻ khác.
Cũng
vì thế lắm người tạo ác,
Toàn
là do dục đắc lợi tư;
Ta
thưa rằng: thật đúng thế ư,
180.
Cũng vì vậy loài người luôn khổ.
Sự khổ
chẳng mấy ai muốn có,
Nhưng
vô tình tạo nó không hay;
Cũng
có người cố ý tạo gây,
Theo
đuổi tánh sưa say dục vọng.
Trong
đau khổ người cam chịu sống,
Vì là
nuôi hy vọng tương lai;
Vì sống
vì ham muốn nọ nầy,
Nhiều
người dám liều thây bất kể.
Mỗi
người mỗi muốn ham một lẽ,
190.
Khổ khác nhau khó kể sau cùng;
Dù cho
là mấy bậc anh hùng,
Cũng
khó thắng được lòng ham muốn.
Ai
cũng bị khổ làm rối cuốn,
Không
người nào sung sướng tự do;
Càng
giàu sang càng địa vị to,
Trong lòng
lại càng lo càng khổ.
Vì ích
kỷ mà lo không hở,
Ấy
tánh chung của kẻ thế gian;
Tánh nầy
chừng nào được tiêu tan,
200.
Loài người mới bình an vô sự.
Không
giặc giã không người hung dữ,
Cũng
không ai ích kỷ tổn nhơn;
Mong cửa
thiền rộng mở xa gần,
Giúp thiên
hạ đồng tâm cải thiện.
Dù tiến
bộ được bao nhiêu chuyện,
Loài
người không cải thiện như nhau;
Tiến bộ
kia cũng vẫn khổ đau,
Chỉ
phương tiện hại nhau vô ích.
Sự tiến
bộ tôi không công kích,
210.
Chỉ luận nghe chỗ ích chỗ không.
Nhìn
kim thời như thể pháo bông,
Tôi
càng thấy trong lòng bứt rứt;
Những
nỗi của tôi đang buồn bực,
Ba phần
tư do cuộc thế dân.
Còn một
phần vì chữ hiếu thân,
Đi đâu
cũng nhớ luôn không ngớt;
Ngày
nào nhơn loại cùng sang sớt,
Chừng ấy
tôi mới bớt nỗi buồn.
Chính
tôi như là kẻ đang cuồng,
220.
Cuồng đạo đức cuồng luôn thế sự;
Đời mỗi
bữa mỗi thêm câu nhử,
Khiến
lòng người thêm bị nhớp nhơ.
Cứ chạy
đua theo cái thời cơ,
Lòng
người rối dường tơ muôn mối;
Chốn tửu
sắc bất phân sớm tối,
Ngày chí
đêm tiếp nối truy hoan.
Cạnh
tranh nhau sống mới sống sang,
Loài
người vẫn mưu toan đủ cách;
Mưu
toan ấy ít khi trong sạch,
230. Hầu
hết đều nhơ nhớp dã man.
Sự bán
buôn đến việc dân quan,
Toàn
giả dối như ban hát bộ;
Xấu xa
mấy cũng thây không hổ,
Tội lỗi
bao vẫn kể như không.
Trên
đường đời số ấy rất đông,
Chúng
dễ cám được lòng kẻ yếu;
Việc xấu
tốt có người cũng hiểu,
Theo
phần đông đành chịu xấu luôn.
Lành một
người còn dữ cả muôn,
240.
Lành ấy khó gìn luôn đến cuối;
Có lẽ ở
chín tầng mây nổi,
Đức Ngọc
Hoàng không khỏi đắn đo.
Phàm
như tôi còn quá ưu lo,
Huống
Thượng Đế sao cho khỏi thảm;
Loài
người càng ngày hơn gấu hạm,
Gặp bắt
ăn chớ chẳng luận suy.
Có đủ
đồ giết hại kinh nguy,
Để phụng
sự cư y ẩm thực;
Nói tới
đây ta liền nhớ sực,
250. Để
hỏi sư đạo đức thế nào.
Một
mình ta cứ nói thao thao,
Thật
là quấy làm sao đấy nhỉ;
Có thể
gọi người cuồng đạo lý.
Đi đến
đâu cũng chỉ thế thôi,
Nghĩ vậy
rồi ta mới cất lời;
Thưa
sư những việc tôi vừa luận,
Đúng hay
chăng nhờ sư chỉ dẫn.
Sư rằng:
lòng bi mẫn của ông,
Thật
là người đáng nối Phật tông;
260. Lời
rất đúng chứ không sai chạy,
Tâm hồn
ông bủa đầy nội ngoại.
Dựa
vào tình nhơn loại nói ra,
Rất hợp
lời dạy của Thích Ca;
Ai
nghe cũng phải là nhìn nhận,
Chỉ những
kẻ ý tình thiển cận.
Chẳng
nghe theo lại giận không chừng,
Lấy
tinh thần phổ độ chúng dân;
Nhận
hay chẳng đâu cần ông nhỉ.
Ta
thưa rằng lời sư hữu lý,
270.
Chính lòng tôi đã nghĩ thế ư;
Vạch
rõ ra các việc nên hư,
Nghe
hay chẳng tùy người liệu lượng.
Không
phiền trách chỉ là mong tưởng,
Khắp
người đồng qui hướng một đường;
Dù
Đông Tây Nam Bắc chư phương,
Cùng
siết chặt niềm thương nhau cả.
Chẳng
phân biệt kẻ quen người lạ,
Chỉ
xem nhau tất cả là người;
Đối đãi
nhau một cách tốt tươi,
280.
Giúp nhau sống cuộc đời no ấm.
Tránh
chửi mắng tránh điều đá đấm,
Càng
không nên mưu ngấm hại nhau;
Bất luận
là ở một việc nào,
Lấy
tình thật đối nhau làm trước.
Điều
này nếu loài người có được,
Chắc
không ai sống cuộc đói nghèo;
Dù dân
trong rừng bụi núi đèo,
Cũng mở
mặt như nhau tất cả.
Như thế
mới là chơn tiến hóa,
290.
Cũng gọi rằng triệt để văn minh;
Sư rằng:
tôi rất biểu đồng tình,
Chính
tôi cũng đinh ninh như thê.
Tâm hồn
ông nghĩ suy đáo để,
Thật
là không hổ kẻ sống đời;
Trong
thân người có được lòng người,
Ấy đâu
phải mỗi ai cũng có.
Tôi
còn nhớ khi tôi lúc nhỏ,
Con của
nhà hào phú một vùng;
Được mẹ
cha cưng dưỡng túng dung,
300.
Tôi như thể là ông hoàng tử.
Sẵn xe
cộ sẵn nhà to bự,
Sẵn của
tiền tích trữ dư muôn;
Tôi
khác nào buồm gặp gió luồng,
Muốn lấy
được bất cần suy nghĩ.
Đi học
chỉ đến trường lấy vị,
Chớ
không cần để ý học hành;
Trông
hết giờ lo việc yến anh,
Tụ bè
bạn lộng hành đủ việc.
Tuôn tiền
bạc ra không biết tiếc,
310.
Chơi đủ điều không việc nào chừa;
Những
việc nào trong bụng thích ưa,
Tội lỗi
mấy cũng lo cho được,
Đối bạn
tác đầy như bát nước.
Nhưng
bị bao nhiêu lượt gạt lừa,
Chận lời
ông, ta lại liền thưa;
Xin ông
kể lại cho ít việc,
Sư rằng:
nếu như ông muốn biết.
Thì
tôi đâu có tiếc điều gì,
Đời của
tôi gặp lắm ai bi;
320.
Dù đã chẳng thiếu chi tiền bạc,
Một việc
gạt trong muôn sự gạt.
Tôi bị
người bạn tác rất thân,
Gạt lừa
tôi đau đớn không ngần;
Từ nhỏ
lớn chưa từng nghe đến,
Người
bạn ấy lòng tôi rất mến.
Từ nhà
trường cho đến ra ngoài,
Mọi việc
đều đâu cật kề vai;
Đi đâu
cũng dắt tay nhau cả,
Vui khổ
thảy đều trao đổi dạ.
330. Gần
gũi nhau thường cả ngày đêm,
Muốn có
tiền tôi giúp cho tiền;
Cho đến
việc tình duyên cũng thế,
Lòng
thương bạn hơn là huynh đệ.
Xử tốt
nhau bất kể việc gì,
Thường
gặp nhiều trường hợp hiểm nguy;
Tôi vì
bạn quên đi mạng sống,
Được
cha mẹ cưng như trứng mỏng.
Nhiều
khi tôi liều lĩnh bất cần,
Ít
nghe lời khuyên của song thân;
340.
Thường nghe những lời phân của bạn,
Thói
thường ấy hết còn bất mãn.
Ngược
lại lòng người bạn chưa vừa,
Còn muốn
thêm lắm chuyện thích ưa;
Nhân
vào một buổi trưa hôm nọ,
Bạn gọi
tôi kề tai nói nhỏ.
Làng gần
đây mới có một nàng,
Tuổi
còn măng vừa đẹp vừa ngoan;
Đêm
nay có thể sang chơi nhỉ,
Tánh
hiếu sắc tôi không cần nghĩ.
350.
Liền bằng lòng rằng sẽ đi ngay,
Vậy
tám giờ tối ở đêm nay;
Chúng
ta sẽ cùng đi một lượt,
Bạn lại
bảo rằng không thể được.
Tôi phải
cần đi trước dọn đường,
Sau rồi
anh sẽ đến tiện hơn;
Có tôi
sẵn chờ anh tại đó,
Từ lâu
rồi việc này thường có,
Cho
nên lòng tôi chả nghi ngờ;
Bảo bạn
nên đi trước thăm dò.
360. Tám
giờ đúng tôi thò mặt đến,
Cho rằng
dịp neo mà gặp bến.
Tôi đi
theo giờ hẹn không ly,
Nửa chừng
đường trong lúc đang đi;
Có một
tốp ra vây phủ chặt,
Bắt lấy
tôi đánh gần mù mắt;
Lại lấy
luôn hết bạc trong mình,
Còn bảo
rằng muốn được tồn sinh,
Mai
này phải mang thêm mười vạn.
Nếu chẳng
có thì là mất mạng,
370.
Nghe thế tôi càng hoảng thêm lên;
Tôi trở
về lén lấy đủ tiền,
Tối
đêm kế liền mang đến nạp.
Thân
đã bị đánh thoi bầm dập,
Không
dám thưa còn nạp thêm tiền;
Lúc ấy
lòng tôi oán chung thiên,
Nếu giết
được giết liền mới hả.
Sau mấy
tháng chưa nguôi trong dạ,
Cứ
nghĩ rằng sao trả được thù;
Tốn bạc
tiền chẳng ức chi đâu,
380. Bị
đánh chửi tôi đau hơn hết.
Từ
ngày ấy tôi ngơ các việc,
Chỉ đắn
đo mải miết sự này;
Lòng căm
hờn không thể nào khuây,
Tôi đi
đó đi đây suốt buổi.
Một
hôm nọ cũng trời giong ruổi,
Để cho
tôi giải mối oan tình;
Trong
khi tôi đang bước thình lình,
Chợt gặp
một bạn quen từ trước.
Chào hỏi
xong cùng đi uống nước,
390. Một
tiệm gần phía trước đàng đi;
Ở nơi
đây thêm một chuyện kỳ,
Cô
bưng nước thường khi quen mặt.
Cô làm
ở tiệm xa chỗ khác,
Sang
tiệm này mới ít hôm đây;
Khi thấy
tôi cô lại sựng mày,
Chào
xong muốn nói ngay chi đó;
Nhưng
cô lại nín đi không tỏ,
Như có
vẻ nghĩ chi khăn khó.
Lúc
tôi còn ngồi đó uống trà,
400.
Cũng độ chừng gần một giờ qua;
Tự
nhiên thấy cô ta bước đến,
Hỏi rằng
bạn của ông thường mến.
Sao lại
không thấy đến hôm nay,
Tôi trả
lời rằng suốt mấy ngày;
Tôi chẳng
gặp mặt mày của ảnh,
Có lẽ
tại vì anh không rảnh.
Thành
thử không thấy đến thăm tôi,
Cô lắc
đầu và lại trề môi;
Rằng
ông có tin tôi chăng nhỉ?
410.
Có một việc rất là kín bí.
Tôi muốn
đem tỏ lại cùng ông,
Nếu chẳng
tin ắt sẽ chạm lòng;
Vì hệ
đến bạn ông chí thích,
Tôi rằng
có chi đâu mà mích.
Việc
chi xin nói thật ra nghe,
Xin cô
đừng có quá dặt dè;
Vui
lòng nói ra nghe cho biết,
Cô rằng
chính đây là sự thiệt.
Tôi đã
nghe tận mắt tận tai,
420.
Ôm lòng chờ đợi mấy tháng nay;
Nhưng
không thấy ông lai vãng tới,
Việc
ông bị đánh thoi dữ dội.
Do bạn
ông dẫn lối đấy thôi,
Vì cần
tiền cho một gái chơi;
Nên mới
xúi giục người côn đảng,
Gạt rằng
có gái tơ ngoan ngoãn.
Để chặn
ông khoảng vắng cướp tiền,
Bảo rằng
ông hiện có muôn thiên;
Nên dọa
để lấy thêm nhiều nữa,
430. Hồi
tiệm trước nhờ tôi thường bữa.
Hay đứng
gần bệ cửa hầu chờ,
Bạn
ông cùng với lũ côn đồ;
Thình
lình lại bước vô ngồi kế.
Họ nói
nhỏ nhưng tai tôi để,
Vì thế
nên mọi lẽ được nghe;
Nhưng
bạn ông ông vẫn thường khoe,
Rằng thương
mến hơn là ruột thịt.
Nên
tôi vẫn tưởng rằng thân thích,
Không
thể làm chuyện mích ấy ra;
Chỉ
nói đùa để có cười xoà,
440.
Ai đâu nỡ gà nhà bôi mặt.
Chừng
tôi nghe xảy ra sự thật,
Tôi ngẩn
ngơ và bắt giận tôi;
Chớ chi
khi nghe chuyện ấy rồi,
Đem
nói hết mọi lời ông hiểu.
Nạn
tai ấy tất không vướng víu,
Lỗi
này tôi cũng chịu một phần;
Không
đồng mưu nhưng cũng phạm nhơn,
Lòng
tôi cứ băn khoăn mãi mãi.
450.
Ông người tốt và lòng rộng rãi,
Đối bạn
bè tiếp đãi ân cần;
Lại bị
người bạn rất chí thân,
Hại
ông kể còn hơn thù địch.
Tôi
càng thấy lòng như châm chích,
Chờ gặp
ông tỏ hết ra nghe;
Để cho
ông biết có dặt dè,
Chớ
tin lắm sẽ e khổ nữa.
Nghe đến
đây đầu tôi như bửa,
Tức giận
không còn có chi bằng,
460. Với
người nào khác có thể dằn;
Còn với
bạn đồng chăn đồng gối.
Nay lại
nở nhẫn tâm phản bội,
Không
thể nào tha tội được đâu;
Càng
nhớ càng như lửa thêm dầu,
Liền về
ngửa nằm lâu suy nghĩ.
Một là
bắt tấn tra cho phỉ,
Hai là
làm nhục sỉ mới vừa;
Ba mướn
người bắt trói xẻ cưa,
Để trả
lại thù xưa bị đánh.
470.
Lòng căm hận càng sôi sục mạnh,
Nghĩ tới
lui không rảnh trong đầu;
Tức bạn
bè chơi đã từ lâu,
Tiền bạc
tốn biết bao nhiêu kể.
Lại
cũng bỏ cả bề danh thể,
Lời mẹ
cha cũng để ngoài tai;
Đối bạn
bè như bát nước đầy,
Ân chẳng
trả lại xoay trả oán.
Tôi
càng nghĩ lòng càng chán ngán,
Hạng
người này để sống làm gì;
480.
Mướn hung đồ giết phức nó đi,
Tôi
nghĩ thế đến khi mê ngủ.
Liền
trong giấc chiêm bao phất phủ,
Thấy một
bà đội mũ Quan Âm;
Vẻ
trang nghiêm khác kẻ tục phàm,
Từ ở
phía trời Nam bay tới.
Hiện
trước mặt tôi và liền nói,
Mừng
cho người xong mối nợ xưa;
Người
bạn mà ngươi rất mến ưa,
Ngươi
đã có nợ xưa với nó.
490. Thuở
xưa có tên Hoàn tên Võ,
Cùng đồng
thời sanh có một niên;
Võ là
con một vị ngự tiền,
Vừa
giàu có vừa quyền thế lớn.
Hoàn
con của một nhà nghèo khốn,
Nhưng
Trời sanh tánh vốn thông minh;
Ở nhà
trường học giỏi có danh,
Còn
tên Võ tánh tình ngu xuẩn.
Được
nhờ Hoàn nhiều lần chỉ dẫn,
Cả hai
người kết bạn với nhau;
500.
Càng ngày càng khắng khít thâm giao,
Việc
giai cấp nghèo giàu quên cả.
Cha của
Võ rất không ưa dạ,
Rầy Võ
sao chơi kẻ nghèo nàn;
Không
tìm người thế lực giàu sang,
Để kết
bạn cho ngang giá phẩm.
Võ bất
kể lời cha rầy mắng,
Chơi với
Hoàn ngày mặn thêm hơn;
Hoàn
muốn chi Võ cũng chìu luôn,
Dù là
việc ngàn muôn khăn khó.
510.
Coi tiền bạc rẻ như rác cỏ,
Lòng
thương Hoàn hơn vợ con yêu;
Hoàn
nói chi đều cũng nghe theo,
Đối
Hoàn chẳng một điều nào mích.
Võ thường
bị bạn giàu châm chích,
Vì Võ
chơi quá thích với Hoàn;
Ai nói
chi Võ cũng chẳng màng,
Lòng
Võ mến thương Hoàn tột bực.
Bị sàm
tấu bị ganh thế lực,
Cha Võ
đành mất chức hồi hưu;
520. Ngày
đêm vì hổ nhục sầu ưu,
Sanh bịnh
chẳng bao lâu kế chết.
Từ đó
cả gia tài tiêu hết,
Võ trở
nên thất nghiệp bơ vơ;
Lúc bấy
giờ Hoàn gặp hội cơ,
Đỗ
quan trạng được vua gọi tới.
Làm một
vị đại thần cận giới,
Vua lại
đem con gái gả cho;
Hoàn bấy
giờ chức lớn giàu to,
Trái lại
Võ nghèo xơ nghèo xác.
530. Từ
cha Võ bịnh sanh kế thác,
Võ phải
về chầu chực tóc tang;
Nên mấy
năm đã cách xa Hoàn,
Chịu
nghèo khổ lang thang vất vả.
Nghe
tin Hoàn được làm quan cả,
Võ rất
mừng vội vã đến thăm;
Võ băng
rừng vượt núi suốt năm,
Mới tới
chỗ của Hoàn trấn ngự.
Hoàn
chẳng nhìn nhận là bạn cũ,
Lại
còn cho là thứ ăn mày;
540. Bảo
lính hầu kéo đánh nát thây,
Thêm
chửi bới nhiếc xài thậm tệ.
Mặc dù
Võ nhiều lời khóc kể,
Xin
Hoàn nên nghĩ nhớ bạn xưa;
Càng
nói càng bị lính đánh bừa,
Hoàn bảo
lính đuổi xô khỏi cửa.
Võ tức
giận đến tuôn máu mửa,
Thệ lớn
rằng chờ thuở trả thù;
Chưa
trả xong lòng chẳng nguôi đâu,
Dù cho
phải chịu đầu thai mãi.
550.
Trong vũ trụ bất kỳ thế giới,
Hoàn
sanh đâu Võ lại sanh theo;
Từ trước
giờ cứ thế như keo,
Nhưng
chưa gặp dịp nào để trả.
Nay
người sắp đến ngày xả quả,
Nên
nghiệp xưa phải trả khôn dời;
Tên
Hoàn kia vốn thiệt là ngươi,
Còn
tên Võ là người bạn ấy.
Nay
ngươi giận nó làm việc quấy,
Định
mướn người giết hại nó đi;
560.
Thì nghiệp xưa kia vẫn còn y,
Nó sẽ
đợi thời kỳ báo nữa.
Lửa
đang cháy đem dầu để chữa,
Càng
cháy thêm lên chớ tắt đâu;
Vậy
khuyên ngươi bỏ ý trả thù,
Để dứt
nợ từ lâu đã thiếu.
Tiền
nghiệp ấy khi người được hiểu,
Nóng
giận bao cũng dịu lại ngay;
Cõi thế
gian là kiếp trả vay,
Ngươi
nên biết từ đây khá tránh.
570.
Bà nói xong rồi quay lại mạnh,
Theo
hào quang chói ánh bay đi;
Tôi giựt
mình thức dậy nghĩ suy,
Cho rằng
giấc mộng kỳ bí thật.
Tôi vốn
là con người duy vật,
Nhỏ lớn
chưa hề biết chiêm bao;
Gặp
chuyện này quái lạ làm sao,
Khiến
tôi bắt ôm đầu nghĩ mãi.
Suốt mấy
bữa xét đi xét lại,
Đến cuối
cùng tôi thấy nên tin;
580. Vì
nếu không có nghiệp của mình,
Thì chẳng
có mộng linh nầy đấy.
Tôi bỏ
hẳn tấm lòng giết hại,
Rồi liền
kêu bạn lại nói ngay;
Nếu chẳng
nhờ có giấc mộng này,
Tôi sẽ
giết anh ngay chẳng để.
Bạn
nghe rõ những lời tôi kể,
Mặt
xám lên tỏ vẻ ăn năn;
Liền
xin tôi mở lượng hồng khoan,
Thệ đến
chết chẳng làm thói ấy.
590. Kể
từ đó bạn tôi sửa cải,
Trở
nên người tốt mấy hơn xưa;
Tôi lại
càng thêm sự thích ưa,
Quên tất
cả chuyện xưa lầm lỗi.
Nhưng
ông ôi đời không biết nổi,
Họa nầy
qua kế tới họa kia;
Đời của
tôi còn lắm nữa kìa,
Đâu một
việc kể ra sao hết.
Nghe
sư kể đoạn đời bi thiết,
Được mộng
lành mách nghiệp oan xưa;
600.
Khiến lòng ta lại bắt thêm ưa,
Cho rằng
cũng là cơ duyên đấy.
Bầu trời
rộng nơi nào cũng vậy,
Phật
không quên tìm dạy con duyên;
Sư cụ
con nhà của quý quyền,
Ly gia
hẳn nhiều nguyên nhân lắm
Ta nín
lặng một hồi suy gẫm,
Rồi mở
lời chầm chậm thưa rằng;
Sự tu
hành cũng có duyên căn,
Nhiều
khi muốn mà làm không được.
610.
Có lắm kẻ do duyên thuở trước,
Hoặc
là người chưởng phước lâu xa;
Tự
nhiên tu không đợi nhắc ra,
Hoặc
được nhắc đến là hối ngộ.
Như sư
đã vào đường Tịnh độ,
Tôi
nghĩ rằng nhờ có duyên sâu;
Mới xa
lìa được cảnh sang giàu,
Ở chùa
miễu sòng nâu khổ hạnh.
Sư rằng
cũng do nơi hoàn cảnh,
Xô đẩy
tôi bước đến cảnh thiền;
620.
Thật là không phải sự tự nhiên,
Đời
tôi viết nên thiên kỳ sử.
Ta đưa
mắt nhìn nơi sư cụ,
Hiểu
ít nhiều tâm sự đời sư;
So lại
mình nhiều chỗ tương như,
Muốn hầu
chuyện với sư thêm nữa.
Ta thưa
ngay không còn lần lựa,
Rằng kể
ra cũng có duyên gì;
Mới
lôi chơn đến cửa từ bi,
Quên
trời lạnh quên khi khuya khoắc.
630.
Nghe đời của sư bày vắn tắt,
Khiến
cho tôi cũng bắt ngẩn người;
Nghiệp
này không riêng của sư thôi,
Mà còn
có nhiều người như thế.
Nhưng
việc thiện xưa không chứa để,
Mộng
lành đâu mấy kẻ thấy ra;
Việc
nên tha mà chẳng biết tha,
Nợ chẳng
trả tạo ra thêm nợ.
Bởi
không biết nên lòng không sợ,
Nghĩ
ra đâu khác kẻ đui mù;
640.
Việc bí kỳ đối với nhà sư,
Theo
tôi nghĩ còn nhiều chẳng ít.
Xin sư
lấy một vài bi kịch,
Kể
thêm nghe tôi rất cám ơn;
Sư rằng
tôi đâu có ngại ngần,
Kể nhiều
sợ làm ông chán ngán.
Đời
tôi còn biết bao nhiêu đoạn,
Đoạn vừa
qua là bạn phản tôi;
Nhưng cũng
chưa đáng mấy ông ôi,
Đoạn kế
mới tày trời hơn nữa.
650.
Cũng vào lúc tuổi xuân đang thuở,
Bạn lừa
tôi sau đó ít lâu;
Tật
chơi bời vì đã ăn sâu,
Chỗ tửu
điếm nơi đâu cũng tới.
Một
hôm nọ ở nơi dạ hội,
Được gặp
người con gái rất xinh;
Trông
thấy tôi cô lại liếc tình,
Tôi gọi
đến ngồi gần bên cạnh.
Tình
có rượu khiến tình thêm mạnh,
Nghe đờn
ca thêm tánh bướm ong;
660.
Thói đã quen ưa khách má hồng,
Gặp
gái đẹp khiến lòng thêm mết.
Lời
tình tứ bao nhiêu tuôn hết,
Toàn
những câu tha thiết yêu đương;
Lối gió
trăng cô cũng chẳng nhường,
Lời luận
biện mọi đường thông thái.
Kể từ
đó tôi thường đi lại,
Cả hai
đàng đều thấy thích nhau,
Rốt cuộc
cùng mở động nguyên đào;
Mối
tình ái giữa nhau càng siết,
670. Tôi
đặt sự yêu cô trên hết.
Lúc ấy
tôi như điếc như mù;
Chỉ biết
cô chẳng biết ai đâu,
Không
cô sẽ hoàn cầu không có;
Yêu đến
đỗi cửa nhà đều bỏ,
Ở bên
cô suốt cả ngày đêm.
Tạo một
bầu không khí ấm êm,
Lòng tôi
biết bao niềm sung sướng;
Trong
lúc ấy lòng tôi những tưởng,
Như thế
là được hưởng lâu dài.
680.
Cô muốn chi tôi cũng chìu ngay,
Tiền bạc
dẫu muốn xài đến mấy;
Hơn một
năm cứ như thế ấy,
Có một
hôm cô lại bảo rằng.
Hãy
cùng nhau mở cuộc lữ hành,
Đổi không
khí cho thêm sức khỏe;
Còn
nhiều chỗ rất nên đẹp đẽ,
Đáng
cho người còn trẻ xem qua.
Chúng
ta đâu phải hạng tuổi già,
Mà ngồi
mãi trong nhà cho uổng;
690.
Hương vị của thiên nhiên nên hưởng,
Để già
rồi muốn thưởng không vui.
Còn
ngoạn du muốn biết đủ mùi,
Các chỗ
phải dạo chơi chẫm rãi;
Nhưng
cốt yếu số tiền trong đãy,
Cần
đem theo nhiều mới yên tâm.
Thói
thường nghe lời của cô phân,
Dù ai
cũng nhận nhìn là phải;
Vì thế
nên tôi không hề cãi,
Liền về
nhà mở lấy tiền theo.
700. Cố
nhiên là đem một số nhiều,
Để vững
bụng đúng theo cô muốn;
Trong
lúc lòng tôi đang sung sướng,
Được
cùng cô đi thưởng cảnh xa.
Trời
có trăng đêm ấy sáng lòa,
Tàu
trong lúc chạy qua eo biển;
Trời
mát mẻ thêm quang nguyệt điện,
Khêu gợi
lòng anh yến chi bằng.
Dù cho
ai không muốn xem trăng,
Cảnh nầy
cũng không dằn sao được;
710.
Tôi chưa bảo cô liền mời trước,
Ra bệ
tàu hóng mát xem trăng.
Có phải
là thú vị hơn chăng,
Ngồi
mãi ở trong phòng khó chịu;
Lời cô
bảo trúng ngay chỗ yếu,
Tôi bằng
lòng liền níu lấy tay.
Dắt
nhau lần rảo bước ra ngoài,
Vừa đi
lại vừa lời to nhỏ;
Rồi
cùng dựa lan can đứng ngó.
Cảnh
êm đềm còn có chi hơn,
720.
Chị Hằng xem cũng bắt ghen hờn;
Cho rằng
cặp tình nhân quá khích,
Tiếng
máy tàu chạy nghe thình thịch.
Pha lẫn
lời yêu thích gái trai,
Nung nấu
lòng thêm nỗi mê say;
Bao
nhiêu chuyện ở ngoài quên hết,
Nhưng
than ôi! Lòng người khó biết.
Trong
lúc tôi đang siết tay cô,
Nơi
lòng không còn chỗ nghi ngờ;
Thình lình
bị cô xô xuống nước,
730.
Giờ phút ấy mọi người an giấc.
Cố
nhiên không ai biết hay chi,
Tưởng
thân tôi bị cá nuốt đi;
May nhờ
có thuyền câu cứu vớt,
Khi tỉnh
lại sau hồi chết ngộp.
Vừa tức
vừa nước mắt tràn trề,
Tự
trách mình sao quá si mê;
Bị ác
phụ đánh lừa không biết.
Nghe đến
tiếng yêu đương tha thiết,
Liền
tin theo không xét mới lầm;
740. Nếu
không nhờ ngư lão từ tâm,
Thân nầy
đã tự trầm đáy biển.
Tự
trách tôi ấy là một chuyện,
Giận
cô kia tán tận lương tâm;
Đã
cùng nhau chung gối ăn nằm,
Muốn
chi cũng chiều làm theo cả.
Tiền bạc
đổ ra như nước lã,
Lời ái
ân cũng đã chứa chan;
Nay lại
đành đem dạ sói lang,
Giết
mình cách xô thân xuống biển.
750.
Hơn năm trời luống nuôi ong kiến,
Lòng
tôi càng nghĩ đến thêm hờn;
Từ đó
cho đến bốn tháng hơn,
Tôi
như kẻ mất hồn thơ thẩn.
Mỗi
ngày mỗi đó đây vơ vẩn,
Mượn
rượu làm cơn giận nguôi đi;
Ngày
nào như ngày nấy li bì,
Quên
nhà cửa quên đi tất cả.
Tôi
lúc ấy chính trong lòng dạ,
Chẳng
còn tin nhân quả là chi;
760. Cho
đời mình còn có ra gì,
Ở tốt
mãi chuyện nguy cứ gặp.
Trong
khi đó tôi mong trời sập,
Để chết
tôi chết hết loài người;
Trong
lòng không còn muốn sống đời,
Chán đến
đỗi thấy người đều ghét.
Tha hồ
uống rượu chè be bét,
Gây gỗ
luôn không biết từ ai;
Bỗng một
hôm trong lúc rượu say,
Tôi lại
bước vào ngay một tiệm.
770.
Đó cũng chính là nơi tửu điếm,
Gặp một
cô trang điểm rất xinh;
Nhìn kỹ
ra tôi bắt hoảng kinh,
Chính
là kẻ xô mình trước đấy.
Tức thời
tôi liền kêu cô lại,
Cô giả
vờ ra kẻ không quen;
Và
chính cô cũng đổi khác tên,
Bảo rằng
chẳng hề quen tôi cả.
Nghe
cô nói lòng tôi giận quá,
Bảo rằng
cô là kẻ sát nhân;
780. Gần
gũi nhau đã một năm hơn,
Nay lại
bảo không quen biết tới.
Tội giết
người muốn cho được khỏi,
Nên
dùng lời nói dối phải chăng?
Lúc ấy
cô lại nói lớn rằng:
Tôi
say rượu nhìn lầm nói bậy.
Cô vào
trong kêu người khác lại,
Kéo
tay tôi bảo phải đi ngay;
Nhược
bằng còn ngồi nói dông dài,
Sẽ kêu
lính bắt ngay tức khắc.
790.
Không chứng cớ chi đem làm chắc,
Tôi
đành cam chịu nhục đi ra;
Từ đó
đi về đến tới nhà,
Tôi
oán giận kể ra sao hết.
Bị xô
xuống biển sâu gần chết,
Nay lại
còn bị nhiếc xài thêm;
Câu
chuyện nầy quyết chẳng để êm,
Làm sao
rửa được hiềm mới chịu.
Quá
suy nghĩ đầu tôi nặng trịu,
Suốt mấy
ngày ăn ngủ không yên;
800.
Con người tôi dường thể như điên,
Nỗi giận
tức càng lên cực độ.
Cuối
cùng tôi lấy con dao nhỏ,
Quyết
đêm khuya chận ngõ cô về;
Giết
phứt đi dạ mới hả hê,
Thứ bất
nghĩa sống chi vô ích.
Vừa
nghĩ thế thấy trong người mệt,
Nằm
lăn ra ngủ mất hồi nào;
Hiện
thấy ra một cảnh chiêm bao,
Cũng
bà lão thấy lâu rồi đó.
810.
Nương hào quang bà sang nói rõ,
Ớ này
người tuổi trẻ kia ơi!
Đó cũng
là nghiệp báo lâu đời,
Hãy
vui trả cho rồi chớ hận.
Cách
khoảng đây cũng lâu xa lắm,
Có vợ
chồng tên Phấn tên Nga;
Nga mặt
mày có chút xấu xa,
Nhưng
tánh nết thật là rất tốt.
Phấn
muốn chi đều chìu theo nốt,
Dù cho
là những việc khó khăn;
820.
Phấn lại là có tánh cộc cằn,
Thường
đánh chửi Nga hơn con vật.
Lòng
Nga biết bao nhiêu buồn bực,
Nhưng
thương chồng quên hết đớn đau;
Phấn
dù làm khó dễ cách nào,
Cũng
lòn cúi chìu theo tất cả.
Mặc dù
thế Phấn không vừa dạ,
Đi rượu
chè mèo mã lung tung;
Khi về
nhà quát tháo hành hung,
Vật
không động cũng tung cũng đá.
830.
Tuy Nga rất lấy làm buồn bã,
Nhưng
vẫn lời nhỏ nhẹ khuyên can;
Phấn
chẳng nghe còn chửi mắng vang,
Nga
đành phải nín thinh để chịu.
Không khí
giữa gia đình nặng trịu,
Mọi việc
do Phấn tạo gây ra;
Lúc ấy
lòng của Phấn chán Nga,
Lại đi
lấy một cô gái khác.
Nhơn một
hôm trời trong gió mát,
Phấn
dùng lời dối gạt bảo Nga;
840.
Hãy cùng nhau đi dạo núi xa,
Đổi khí
hậu ở nhà buồn quá.
Nghe
chồng nói Nga mừng trong dạ,
Tưởng
chồng mình cải hóa ăn năn;
Nga liền
lo sửa soạn hành trang,
Rồi
cùng Phấn đi xem cảnh núi.
Phấn rằng
muốn có nhiều gió thổi,
Cần
leo lên cho tới chót cao;
Nga
nghe lời rồi Phấn cùng nhau,
Trèo đến
chỗ thật cao đứng ngó.
850.
Lòng của Phấn Nga đâu có rõ,
Trong
lúc Nga đứng ngó phía xa;
Bất
thình lình Phấn lại xô Nga,
Rơi xuống
vực thẳm xa mù mịt.
Phấn
cho rằng là Nga đã chết,
Liền
trở về tóm hết của tiền;
Dẫn
tình nhơn đến một chỗ riêng,
Tạo lập
một gia đình mới khác.
Trong
lúc ấy thân Nga tưởng thác,
Nhờ rớt
trên ở các dây bìm;
860.
May có tiều phu được trông xem,
Cõng về
trại thuốc men lành mạnh.
Nga trở
về nhà thì vắng lạnh,
Phấn bỏ
đi biệt dạng hồi nào;
Nga buồn
rầu thành phát bịnh đau,
Cách
đó một năm sau bỏ mạng.
Linh hồn
vẫn ôm theo nỗi oán,
Từ lâu
rồi chưa đặng rửa ra;
Phấn
là ngươi cô ấy là Nga,
Nghiệp
oan ấy nay đà mùi mẫn.
870.
Đành phải trả chớ không thể trốn,
Ngươi
nên mừng chớ giận oán chi;
Nay nếu
ngươi mưu giết cô đi,
Sau
này phải trả nguy hơn nữa.
Tình dục
vốn là nơi biển lửa,
Rơi
vào thường bị nó thiêu đi;
Muốn dứt
xong cái kiếp mê si,
Người
hãy sớm qui y tu tỉnh.
Bỏ tất
cả những mùi chung đỉnh,
Cũng
chừa đi các tánh muốn ham;
880.
Lìa sự đời vào cửa thiền lam,
Chịu
khổ hạnh lo làm Phật sự.
Gìn
chay lạt giới răn luôn giữ,
Trong
lòng luôn niệm chữ A Di;
Mặc
cho đời ngạo báng khinh khi,
Học
theo Phật từ bi hỷ xả.
Kẻ
hung ác với phường gian trá,
Được lợi
to cũng chả lâu dài;
Chỉ tạm
thời hưởng lấy hôm nay,
Nhưng
phải trả ngày mai đau khổ.
890. Lấy
kiếp người để mà hiểu rõ,
Xưa
làm chồng giết bỏ vợ hiền;
Nay bị
người mưu hại liên miên,
Tốn tiền
của không yên thân sống.
Tạo
nghiệp chẳng khác nào gieo giống,
Gieo
thứ nào lên mộng thứ ni;
Đừng
tưởng rằng Trời chẳng biết gì,
Luật
nhân quả không ly một mãy.
Hại
người tất bị người hại lại,
Làm phải
thời có phải trả cho;
900. Ấy
tự nhiên của máy thiên cơ,
Nay
hay thuở ngàn xưa cũng thế.
Kẻ dân
dã hay ông hoàng đế,
Cũng nằm
trong định lệ trả vay;
Cân
công bằng chẳng vị tư ai,
Có vay
tất có ngày phải trả.
Thứ chậm
trái, thứ mau có quả,
Tùy
nghiệp nhân nặng nhẹ mà ra;
Chớ
cho rằng Trời chẳng thấy qua,
Gian dối
mãi ấy là lầm lạc.
910.
Có một việc ta cần nên mách,
Để cho
ngươi được biết lo toan;
Khắp
hoàn cầu sắp có chuyển vang,
Cuộc
biến hải thương tang rất lớn.
Thay cảnh
vật rửa đời nhơ bợn,
Không
nơi nào trốn tránh khỏi đâu;
Từ
ngàn muôn triệu kiếp xưa lâu,
Vẫn thay
đổi biết bao nhiêu lượt.
Lập lại
mới cho người hữu phước,
Sống
thanh bình sống cuộc an cư;
920.
Người khá mau biết kiếp hoại hư,
Lo tu
tỉnh lánh đời mộng huyễn.
Nói đến
đây lão bà liền biến,
Có một
luồng gió lạnh thổi qua;
Tôi giật
mình vội mở mắt ra,
Lần nhớ
lại lời bà trong mộng.
Tự
nhiên thấy lòng tôi cảm động,
Mới bắt
đầu nghĩ đến có Thần;
Từ trước
nay tôi vẫn tưởng rằng,
Có người
chớ Phật Thần không có.
930.
Tôi đã có nhiều lần xiên xỏ,
Những hạng
người bảo có Phật Thần;
Nay được
nhờ thấy mộng hai lần,
Cũng một
vị Nữ Thần như trước.
Dạy
rành việc quả nhân tội phước,
Nhứt
là cho biết được tiền căn;
Khiến
lòng tôi mừng rỡ vô ngằn,
. . .
. . . . .
Lúc ấy
túi còn mang dao nhỏ.
Tôi lấy
ra ném bỏ ngay đi,
Lòng
oán hờn cũng hết tức thì;
940. Kể
từ đó cứ suy nghĩ mãi,
Mặc dù
đã có nhiều của cải.
Từ lâu
rồi đủ loại ăn chơi,
Chỉ
vui say trong một phút hồi;
Qua rồi
vẫn thấy đời vô vị,
Lần lượt
hết qua thời ấu trĩ.
Già đến
rồi khổ lại còn hơn,
Kế chết
đi ra cỏ ra phân;
Ai
cũng thế không hơn nữa được,
Kiếp
người đến đó là rốt cuộc.
950.
Khác nào như một giấc chiêm bao,
Nội bấy
nhiêu cũng chán làm sao,
Huống
Thần giấc chiêm bao đã dạy,
Đời sắp
đến tang thương biến hải,
Nếu thế
thì còn cái chi đâu.
Chỉ
còn phương qui Phật hồi đầu,
May ra
giải được câu trần khổ.
Nghĩ
như vậy liền trong khi đó,
Tôi
bèn đem nói rõ cha tôi;
Buổi đầu
cha tôi chẳng ưng lời,
960.
Sau rốt chịu cho tôi qui Phật.
Nhưng
bảo tôi tìm người đại đức,
Để qui
y khỏi thất chơn truyền;
Lúc ấy
tôi đi khắp chùa thiền,
Nhưng
đâu cũng không đành bụng cả.
Bởi phần
đông chấp câu nhân ngã,
Cho
chùa mình hơn cả các chùa;
Toàn
là theo cái lối bán mua,
Mua
cúng thí mua đồ chúng mới.
Thấy sư
tăng lắm người giả dối,
970.
Làm cho tôi muốn thối tâm thần;
Nhưng
xét vì họ cũng phàm nhơn,
Bọn họ
chỉ một phần tử xấu.
Không
phải các sư đều vậy ráo,
Cố tìm
thêm một dạo nữa xem;
Thảng
như đâu đó cũng luốc lem,
Đến chừng
ấy bỏ êm cũng được.
Thể
theo lời thần linh mách trước,
Mình
có duyên với Phật chẳng không;
Vậy
rán đi tìm kiếm giáp vòng,
980.
Có lẽ đến cuối cùng sẽ gặp.
Lòng
nghĩ thế tôi đi tìm khắp,
Chót hết
tôi đến gặp chùa này;
Một
nhà sư có tiếng gần đây,
Là
chơn chánh khiến ai cũng mến.
Trong
lúc đó khi tôi bước đến,
Thấy mặt
sư trong bụng liền tin;
Đức hạnh
sư thấy lộ ra hình,
Người
đoan chánh nói năng lề lối.
Từ đó
tôi qui y thọ giới,
990. Ở
chùa nầy cho tới bây giờ;
Thật đúng
câu đạo có duyên cơ,
Duyên
cơ chẳng khó sờ gặp đạo.
Do giấc
mộng gặp Thần mách bảo,
Khiến
cho tôi vào đạo tu hiền;
Chuyện
ấy truyền đến kẻ xóm riềng,
Có nhiều
kẻ đã nghiêng theo Phật.
Nãy giờ
ta ngồi nghe sư nhắc,
Chuyện
kể ra cũng rất hiếm hoi;
Sư vừa
ngưng ta lại mở lời,
1000.
Cám ơn cụ kể đời của cụ.
Thật
là một cuộc đời công tử,
Bỏ đi
tu là sự ít ai;
Nếu chẳng
duyên sâu với Phật đài,
Khó
vào ở chốn nầy lắm cụ.
Vì rằng
đã từ lâu nhiễm đủ,
Tánh
quen theo các sự ăn chơi;
Khi
vào đây mọi việc đều thôi,
Chịu
dưa muối hẩm hui rất khó.
Cảnh
hoan lạc hồng trần gác bỏ,
1010.
Mấy mươi năm chuông mỏ tu hành;
Kể ra
là cũng một anh danh,
Đâu phải
kẻ thường tình làm được.
Sư rằng
cũng nhờ duyên kiếp trước,
Riêng
tôi dù muốn được dễ gì;
Từ
ngày tôi vào cửa từ bi,
Quá
hiu quạnh nhiều khi muốn chán.
Nhưng
mỗi lúc thấy lòng hơi ngán,
Được mộng
lành khuyên rán lo tu;
Nhờ thế
mà tôi gắng công phu,
1020.
Lo hương khói mấy mươi năm đấy.
Vào ở
chùa nhiều lần bị khuấy,
Giữa tăng
ni lắm cái xảy ra;
Tưởng
đâu tôi hoàn tục hồi gia,
Nhờ
cương quyết mới là vượt khỏi.
Phật
tuy hay nhưng ma cũng giỏi,
Trên
đường tu tấn thối dễ dàng;
Nếu
không nhờ có sự kiên gan,
Vào giờ
tí ra liền giờ ngọ.
Nhịn
miếng ăn đã là rất khó,
1030.
Nhịn thấy nghe việc đó càng hơn;
Đã gởi
thân nơi chốn thiền môn,
Còn
sân nộ là không phải đạo.
Vì
nghĩ thế bao nhiêu phiền não,
Mỗi
ngày tôi cố tháo bỏ lần;
Suốt mấy
mươi năm chẳng hề ngưng,
Song
cũng chẳng dám xưng rằng hết.
Có lẽ
phải trì tâm đến chết,
Được
hay không là phút cuối cùng;
Trước
Phật đài thề vẹn thỉ chung,
1040.
Dù sanh tử tôi không thể bỏ.
Tin
chân lý là đường sáng tỏ,
Mọi việc
do theo đó không lầm;
Phật
là chơn giác ngộ hơn phàm,
Lời
ngài dạy cứ làm ắt trúng.
Ta rằng
lời của sư rất đúng,
Phật vì
thương sanh chúng nói ra;
Nói với
lòng tự giác giác tha,
Không
phải nói để mà thủ lợi.
Những
chỗ của ngài thông hiểu tới,
1050.
Nói ra cho người khỏi lạc lầm;
Ấy
chính là do cái từ tâm,
Nên
nghe đến để làm thì tốt.
Có nhiều
kẻ bảo rằng không hợp,
Chẳng
qua vì cố chấp một bên;
Nếu lấy
lòng quản đại công nhiên,
Phải
nhìn nhận không xiên xỏ được.
Ví dụ
bố thí không chấp trước,
Làm ân
không mong được trả ân;
Ấy mới
là thật có lòng nhân,
1060.
Điều này có phải chăng tốt đẹp.
Không
như thói thường lòng nhỏ hẹp,
Tay
trái đưa tay mặt lấy vào;
Giúp
người mà không được trả mau,
Sanh hờn
trách hoặc mưu nhiễu hại.
Không
luận đến trong hàng giáo phái,
Chỉ dựa
vào nhân loại để phân;
Người
hại người là việc bất nhân,
Ngu mấy
cũng cho rằng vô lý.
Người
không được vì lòng ích kỷ,
1070.
Đi hại người với lý bất công;
Điều
này người muôn miệng một lòng,
Nhận rằng
đúng chớ không thể cãi.
Thảng
như có người cho rằng trái,
Trái ấy
tư không phải trái công;
Trái cá
nhân không trái đại đồng,
Trái với
kẻ chỉ trông một mặt.
Tôi muốn
nói rằng lời của Phật,
Là lời
chung của khắp chúng dân;
Chớ
không riêng của một cá nhân,
1080.
Dựa một mặt xét phân là sái.
Tôi rất
muốn sao toàn nhân loại,
Lấy
tinh thần quảng đại xét suy;
Sẽ hiểu
rành tâm trạng từ bi,
Chừng ấy
chẳng còn nghi nữa được.
Sư rằng:
cũng lấy làm mong ước,
Mọi
người đồng hiểu được Phật tâm;
Để sớm
lo giải nghiệp mê lầm,
Cho
đâu đó hết cơn sầu khổ.
Nhưng
nhận thức mỗi người mỗi chỗ,
1090.
Không cùng chung trình độ như nhau;
Thành
thử dù có lắm ước ao,
Tôi chỉ
thấy chiêm bao một cảnh.
Ta rằng:
cố nhiên vì khác tánh,
Mà mỗi
người nhận định sai nhau;
Nhưng
người tu cứ vẫn ước ao,
Cho
nhân loại cùng nhau hướng thiện.
Biết rằng
khó thành như ý nguyện,
Nhưng
ý mong điều thiện cứ mong;
Cố làm
dù cho được hay không,
1100.
Vẫn tiêu biểu tấm gương bác ái.
Sư rằng:
lời của ông rất phải,
Lòng của
tôi cũng thấy thế ni;
Nên từ
lâu tôi vẫn cố lỳ,
Lòng
nguyện ước không khi nào bỏ.
Tôi thường
khuyên thập phương lớn nhỏ,
Làm hiền
lành chừa bỏ hung hăng;
Đối với
nhau lấy lẽ công bằng,
Và gìn
cách ở ăn trong sạch.
Lòng
nhớ niệm A-Di-Đà Phật,
1110.
Sẽ được qua khổ ách tai nàn;
Ngày
lâm chung có Phật bước sang,
Rước về
cõi Tây phang Tịnh Độ.
Có nhiều
kẻ nghe tôi khuyên dỗ,
Biết
ăn năn hối ngộ rất nhiều;
Nay buồn
tôi như bóng xế chiều,
Chẳng
còn sống bao nhiêu tuổi nữa.
Sự
khuyên nhủ người đời tu sửa,
Sẽ
không còn mấy bữa nữa đâu;
Bỏ xác
tôi không chút buồn rầu,
1120.
Nhưng tiếc sớm ngưng câu giảng giáo.
Ước gì
được trường xuân bất lão,
Để kéo
dài ngày giáo độ đời;
Hiện
nay trào văn vật thạnh thời,
Thiếu
đạo lý người đời dễ lụy.
Mỗi
ngày một thêm nhiều thuyết ngụy,
Biết bao
trò hoa mỹ gạt người,
Kẻ tu
hành nếu thiếu kém lời;
Sẽ
không giúp cho người tỉnh mộng,
Cứ
quay cuồng theo luồng mới sống.
1130.
Càng ngày càng mơ mộng thêm lung,
Mặc
cho tâm trí nghĩ lung tung;
Khiến
thân sống như cùm thêm rọ.
Tôi
nhiều lúc canh ba chuông gõ;
Giấc
chưa an cứ nhớ sự đời,
Lo sao
cho giải thoát mọi người,
Khỏi
đau khổ của đời tạm vật.
Kim tiền
chẳng phải là sự thật,
Chỉ
đóng vai trong một tấn tuồng;
Trên mặt
đào kép lộ vui buồn,
1140.
Chỉ giả dối chớ không phải thật.
Kẻ xem
đó lại rơi nước mắt,
Tưởng
cho là sự thật rất lầm;
Phải
làm sao tỉnh được chơn tâm,
Biết
thật giả khỏi lâm sầu thảm.
Hiện tại
có nhiều điều dễ cảm,
Cũng
chỉ làm thỏa mãn xác thân;
Nhưng
xác thân là cái tạm trần,
Bồi bổ
mấy cũng không bất lão.
Càng
trau chuốt càng thêm khổ não,
1150.
Rốt cuộc rồi mộng ảo huờn không;
Bao
nhiêu điều chế tạo luống công,
Không
cứu được xác thân khỏi chết.
Tôi
nghĩ thế nên xem thường hết,
Sự phấn
son con hát một màu;
Đại sự
là cần dứt khổ đau,
Làm nhân
loại hết câu lão tử.
Điều
này ngày nào chưa thành sự,
Tiến đến
đâu cũng chỉ trò hề;
Không
thể làm tôi bị say mê,
1160.
Trái lại chỉ thêm ghê gớm nữa.
Tôi đã
gặp lắm lần binh lửa,
Thấy
loài người hùm hổ như nhau;
Gặp mồi
toan ăn xé quấu quào,
Phải
hay quấy nào đâu đếm xỉa.
Giờ
trước bảnh giờ sau bị chĩa,
Mạng sống
người mục rẻ dường bao;
Càng
thấy càng bắt dạ ngán ngao,
Lòng
tin Phật càng cao thêm nữa.
Ăn
khoai bắp để cho qua bữa,
1170.
Chính là cơn nước lửa đó ông;
Người
chỉ lo tả đột hữu xông,
Quên rằng
hiện trong lòng đang đói.
Tôi
lúc đó dù cho muốn nói,
Cũng
không làm sao gọi ai nghe;
Thật
thấy mê khó giục cơn mê,
Chính
là cảnh đã qua rồi đó.
Ông
đâu biết người tôi lúc nọ,
Tuổi
đã già nhưng có yên đâu;
Chỗ này
hầu chỗ khác cũng hầu,
1180.
Ăn đã chẳng ngủ đâu yên giấc.
Thấy
việc thế xét ra lời Phật,
Tôi ngậm
cười cho cuộc thế gian;
Thân
chưa xong lo việc bao đàng,
Đợi đến
lúc hơi tàn mới hối,
Thật
đáng chán sự đời giả dối.
Nhưng
làm sao cho mọi người tin,
Cứ ngồi
đây gõ mõ tụng kinh;
Không
giúp được nhân sinh tỉnh thức,
Muốn
đi khắp gần xa giảng dứt.
1190.
Ngặt vì tôi thân xác đã già,
Lúc trẻ
thì chưa hiểu rộng ra;
Khi hiểu
được thì già khôn lịu.
Cảnh
trái ngược dù ai cũng chịu,
Ông là
người thông hiểu đạo đời;
Lại
cũng còn tuổi trẻ đương thời,
Có đủ
sức hơn tôi gấp mấy.
Còn
nhiều ngày giúp cho nhân loại,
Quay về
đường chánh đạo quang minh;
Tôi
nghĩ ông nên mở rộng tình,
1200. Đem
chơn lý kêu lên khắp chốn.
Ta rằng:
tôi quản chi thân khốn,
Biết
bao nhiêu chỉ dẫn bấy nhiêu;
Nói cạn
lời chẳng tiếc một điều,
Từ lâu
chẳng ngớt kêu tu tỉnh.
Cũng
có kẻ cho rằng nói phỉnh,
Hoặc bảo
là quan niệm lỗi thời;
Tôi cũng
không vì đó ngưng lời;
Vẫn
khuyên đến khi người nhận phải.
Đang
ôm nặng khối tình nhơn loại,
1210.
Đời của tôi cần phải hy sinh;
Không
riêng tôi đến cả gia đình,
Xin hiến
hết cho dân không tiếc.
Miễn
dân chúng tu hành sớm biết,
Thân
tôi dù phải chết cũng vui;
Sư cụ
vừa nghe đến lời tôi,
Vừa
vui vẻ vừa lời kính cẩn.
Rằng
tôi chẳng phải là huệ nhãn,
Lúc
nãy tôi thấy dáng người ông;
Tự
nhiên tôi thồi thộp trong lòng,
1220.
Cho rằng chẳng phải thường nhân đấy.
Chùa
này biết bao người qua lại,
Tôi
chưa hề kinh hãi một lần;
Nay thấy
ông tôi khiếp tinh thần,
Có thể
nói là lần thứ nhất.
Nãy giờ
nghe ông phân đạo đức,
Tâm
linh tôi đã mách không sai;
Như lời
ông vừa nói trước đây,
Đâu có
phải mỗi ai cũng nói.
Đầy
bác ái ẩn sau tiếng gọi,
1230. Thật
tình yêu nhơn loại đại đồng;
Nếu
tăng ni đều cũng như ông,
Ai đâu
dám đem lòng khinh dễ.
Tuy
thân xác của ông son trẻ,
Nhưng
tâm hồn già cả còn thua;
Tuy ba
mươi năm ở nhà chùa,
Tôi rất
thẹn rằng chưa bì kịp.
Cuộc gặp
gỡ này đâu mấy dịp,
Xin
ông vui lòng tiếp nói thêm;
Hôm
nay dù có thức suốt đêm,
1240.
Tôi vẫn chẳng thấy thèm buồn ngủ.
Già
như tôi tợ cây héo rũ,
Gặp
ông đây như có mưa vào;
Tôi có
duyên với Phật dường bao,
Nay nghe
đạo mai dầu có chết.
Ta ngồi
nghe để sư nói hết,
Xong rồi
ta mới tiếp thưa rằng:
Tôi
cũng mang mình thịt xác trần,
Sư
khen quá tôi không dám nhận.
Người
thương người ấy là bổn phận,
1250.
Có lạ chi khen tặng quá lời;
Tôi
đem thân cống hiến cho đời,
Ấy
cũng chỉ làm nơi bổn phận;
Kẻ làm
sớm người thì làm muộn,
Đã là
người ai chẳng thương nhau.
Thế
cho nên giúp đỡ dường bao,
Cũng
không thể tự hào chi được.
Lúc
nào cũng mát là tánh nước,
Ấm tự
nhiên là sức mặt trời;
Tuy giúp
đời chẳng tưởng giúp đời,
1260. Ấy
là bổn phận người phải biết.
Từ
sanh tiền đến khi nhập diệt,
Phật
há không xướng thuyết ấy sao;
Nếu
tôi còn sống sót ngày nào,
Tư tưởng
ấy vẫn rao truyền mãi.
Sư rằng
thật là chơn bác ái,
Tư tưởng
ông quảng đại vô cùng;
Có mà
không không cũng vẫn không,
Gương
soi vẫn mảy lông chẳng vướng.
Tưởng
không tưởng mới là thật tưởng,
1270.
Hưởng mà không thì hưởng mới chơn;
Nhận
thức ông khác lối thường nhân,
Hiện tại
đáng thay chân đức Phật.
Ta rằng:
đạo vốn là sự thật,
Lấy đó
làm trụ cốt nói ra;
Tất
nhiên là chân lý không xa,
Cũng
chẳng trái lời chư Phật dạy.
Bởi giả
dối nên thường biến hoại,
Muốn
được luôn tồn tại bất di;
Cần chặt
gìn sự thật làm qui,
1280.
Đặt trên cả sự gì huyễn ảo.
Đó là
chỗ hướng về cửa đạo,
Muôn kệ
kinh đều bảo như nhau;
Chính
tôi không để vắng ngày nào,
Luôn để
trí tâm vào sự thật.
Gần
đây dẫu tiêu tan vạn vật,
Sự thật
là sự thật không tiêu;
Đại
khái là chỉ có bấy nhiêu,
Mong
ai cũng tìm theo đến rốt.
Ngày
nào còn kẻ chưa hiểu nốt,
1290.
Nhà tu hành chưa hết việc tu;
Dù tuổi
già sức yếu như sư,
Cũng
hăng hái chớ ngơ bổn phận.
Mai dù
chết nay luôn chỉ dẫn,
Lòng từ
bi độ tận chúng sanh;
Gần tắt
hơi còn để lời lành,
Xưa
nay các Phật luôn thế cả.
Sư rằng
rất lấy làm quí hóa,
Lời của
ông nung dạ tôi thêm;
Dù ở
chùa tôi chẳng ngồi êm,
1300.
Thường đi lại để khuyên bá tánh.
Của
cúng thí mỗi khi có thạnh,
Thường
đem ra cứu cảnh dân nguy;
Cất
nhà thương lập viện cô nhi,
Cất
trường học hoặc xây cầu cống.
Các
chùa khác lúa tiền dư đọng,
Chia
nhau xài chẳng dụng cho ai;
Bỏ các
điều xã hội ra ngoài,
Vì thế
khiến nhiều người bất mãn.
Tôi đã
đến tận nơi khuyên giảng,
1310.
Cần phải lo cải chánh cho mau;
Cảnh chùa
không phải chỗ làm giàu,
Chớ đội
lốt nhà tu lợi dụng.
Tăng
ni phải sống gần dân chúng,
Hưởng
của đời phải dẫn dạy đời.
Hãy
treo gương hiền đức tốt tươi,
Đừng
giả dối bị người nhạo báng;
Sở dĩ
bị nhiều người bất mãn,
Bởi
tăng ni không đặng chơn tu.
Đành
nhân hư chớ đạo bất hư,
1320.
Nhưng chùa cũng tại sư mà vắng;
Chán
sư, việc đi chùa bắt chán,
Một
người làm cả đám mang nhơ.
Làm thế
là không hợp Phật cơ,
Tu chẳng
giúp ai nhờ tu dối;
Chỉ
làm chướng mắt trong xã hội,
Đâu mở
đường khai lối cho ai.
Nếu
tăng ni cứ mãi thế này,
Cửa
thiền sẽ không ai bước tới;
Ở chùa
miễu không gìn luật giới,
1330.
Nhìn người đời đâu khỏi hổ hang,
Và thiện
nam tín nữ thập phang,
Đâu ai
gọi là tăng sư nữa.
Chùa
cũng chẳng phải nơi trốn nợ,
Chớ vào
đây ăn ở yên thân;
Phải
luôn luôn hoạt bát tinh thần,
Nêu
cao cái tâm hồn tăng chúng.
Đủ
phương tiện giúp vùa nhân chủng,
Chẳng
ngại thân trong cảnh khó nào;
Thường
ban vui cứu vớt khổ đau,
1340. Được
như thế người nào chẳng mến.
Khắp
đó đây tôi thường đi đến,
Chùa
nào tôi cũng khuyến thế ni;
Bản
ngã to như núi Tu Di,
Ít người
chịu bỏ đi chuyện dối.
Mượn
chùa để làm nơi thủ lợi,
Ai xem
qua chẳng khỏi buồn lòng;
Lời Phật
thì đáng kính đáng tôn,
Nhưng
tăng chúng ít ông mến được.
Trào
lưu mới cuộn như sóng nước,
1350.
Lối tu hành cũ rít thế ni;
Chỉ
làm cho người bắt hoài nghi.
Khó dắt
họ qui y theo Phật,
Phải
biết câu kiến cơ nhi tác;
Chớ
không nên cố chấp một phương,
Tùy thời
cơ dùng cách thích đương.
Để dắt
chúng vào đường giác ngộ,
Không
nên chấp đi đường thuỷ bộ;
Miễn
làm sao tới chỗ được rồi,
Chiều
uốn cho phù hợp thế thời.
1360.
Mới không khiến cho người bỡ ngỡ,
Đời tiến
bộ đạo cần tiến bộ;
Lửa
cháy nhiều nước chữa phải nhiều,
Thuốc
đầu thang thì chỉ bấy nhiêu,
Nhưng
tùy chứng có nhiều gia vị.
Không
làm thế bịnh không thể trị,
Theo ý
tôi ông nghĩ thế nào?
Ta rằng
lời sư đáng biết bao,
Thật
là một nhà tu xứng đáng;
Sự phổ
hóa tùy theo giai đoạn,
1370.
Xem thời cơ không đặng chấp nê.
Miễn sao
cho dân tỉnh cơn mê,
Dù phải
dụng phương chi cũng được,
Kẻ
đương khát mà không cho nước,
Lại
cho tiền là ngược phải chăng;
Người
cần tiền để giải khó khăn,
Lại
đem nước đến dâng là trái.
Tùy trường
hợp để mà đối đãi,
Chớ
không nên chấp lấy một bề;
Khi lấy
mê để độ người mê,
1380.
Có vậy mới tiện bề dắt chúng.
Lời mới
nãy của sư biện luận,
Nếu
các chùa ai cũng làm theo;
Cửa
thiền không đến đỗi mốc meo,
Bá
tánh sẽ kéo nhau đến viếng.
Chẳng
cản trở trào lưu dân tiến,
Giúp
cho thêm phát triển tinh thần;
Giữa
tăng ni với cả nhân dân,
Sẽ khắng
khít không còn rời rạt.
Đâu hổ
mặt là người tự giác,
1390.
Và cũng không trái thuyết từ bi;
Miệng
đời đâu còn kẻ khinh khi,
Ai thấy
mặt tăng ni chẳng kính.
Từ lâu
bị tiếng cho lừa phỉnh,
Sẽ tự
nhiên được đính chánh ngay;
Kẻ vô
thần cũng bắt nghiêng tai,
Huống
hồ với những ai mộ đạo.
Nhà xã
hội trên nền Phật giáo,
Sẽ làm
cho trường cửu hòa bình;
Trí huệ
dung hòa với tánh tình,
1400.
Giữ vật chất tinh thần cân đối.
Tất sẽ
thấy ở trong xã hội,
Con
người lần trở lại tốt lành;
Những
thói quen tự lợi tự sanh,
Sẽ đổi
lại cộng vinh cộng lạc.
Không
ai muốn cho ai phải thác,
Chia
áo lành sớt bớt cơm ngon;
Toàn
nhơn sanh cùng một tâm hồn,
Sống
sáng suốt sống không nghèo đói.
Biểu
hiện rõ khối tình nhân loại,
1410.
Cũng không thua gì cõi Thiên Đàng;
Tinh
thần ai cũng được minh quang,
Không
ai có việc làm vô ý.
Lấy
tâm chủ của đời sống trí,
Trong
đời đâu còn kẻ ác nhân;
Nỗi bất
bình giữa lớp chúng dân,
Lần lượt
sẽ bình phân lại được.
Việc
nói đức hay là nói phước,
Xét
không ngoài công cuộc này đâu;
Rất
mong rằng những kẻ sòng nâu,
1420.
Nối liền được cây cầu xã hội.
Ngồi một
chỗ luận câu phước tội,
Không đứng
ra mưu lợi cho đời;
Sẽ
không gây thiện cảm với người,
Dù nói
mãi không ai nghe đến.
Huống
có kẻ giỏi bề luận biện,
Đạo
nơi thân không chuyện nào xong;
Mượn kệ
kinh làm việc buôn rong,
Càng dễ
khiến cho dân chúng ghét.
Nên bỏ
hết những điều láo khoét,
1430.
Phải thiệt tu và phải yêu dân;
Đi
đúng lời cầu đạo xả thân,
Ở chùa
phải cho chơn đạo hạnh.
Giữ
nhân cách tốt hơn bá tánh,
Nói thế
nào làm cũng thế ni;
Tránh
đừng bôi lọ cửa từ bi,
Gương
sáng của tăng ni nêu rõ.
Sư cụ
chận lời ta liền tỏ,
Rằng lời
ông dễ có mấy ai;
Luận
biện theo tiếng nói thời nay,
1440.
Nhưng phương pháp không sai căn bản.
Khéo
gói ghém đầu đuôi chắc chắn,
Ai
nghe qua cũng đặng hiểu ngay;
Quan
niệm ông thật rất là hay,
Kết luận
việc đạo đời là một.
Theo
tôi tưởng nếu suy ráo rốt,
Đạo với
đời là một không hai;
Nếu ai
cho đạo ở riêng ngoài,
Đạo ấy
dựa vào ai mà có.
Đời
cho đạo là không dính mó,
1450.
Hỏi do đâu đời có kết liên,
Thế
cho nên đời đạo dính liền;
Như
trái mặt không nên nói khác,
Thật
ông rất là người hoạt bát.
Xin lỗi
ông sự học đến đâu,
Ta
thưa rằng: học chữ không sâu;
Học
tai mắt chỗ nào cũng học,
Nhứt
là học bằng nơi trí óc.
Mỗi
ngày tôi mỗi học không ngừng,
Thường
dạy tôi là cả chúng dân;
1460.
Cả vật chất tinh thần đều học,
Sư còn
nhớ câu: tâm là Phật.
Phật
là tâm, trong các kinh chăng?
Nếu lấy
tâm làm cái bổn căn,
Vô học
cũng như hàng hữu học.
Phải
hay quấy do tâm làm gốc,
Mọi việc
chi cũng cốt tâm sanh;
Lấy
tâm suy tất biết dữ lành,
Học không
học không nên phân biệt.
Chỉ muốn
biết hay không muốn biết,
1470. Ấy
là điều cần thiết đấy thôi;
Mang
thân người có đủ như người,
Khôn
hay dại tùy nơi mỗi kẻ.
Nên lấy
trí xét suy cạn lẽ,
Dùng
chơn tâm làm chỗ y cư;
Thì dù
cho có mấy hỏng hư,
Cũng
nên được như người khác vậy.
Thật
ra cũng vì nơi lẽ ấy,
Nhà tu
hành cần phải nhắc cho;
Dựa
vào tình nhân loại mà lo,
1480.
Chớ không phải vì lo vụ lợi.
Sư gật
đầu khi nghe đây nói,
Và bảo
rằng: sành sỏi làm sao!
Trong
biển đời có đủ thứ màu,
Không
bị nhuộm thứ nào ít có.
Đủ
phương tiện để mà tế độ,
Việc
nói làm không chỗ hớ hênh;
Lấy chỗ
hư đời để làm nên,
Thật
không khác gì anh thợ khéo.
Nếu có
kẻ được ông chỉ nẻo,
1490.
Chắc chắn làm nên đạo chẳng không;
Thân
đã già gối mỏi lưng cong,
Mà đạo
lý chưa thông đến chỗ.
Nay hữu
duyên cùng ông tương ngộ,
Vạch
đường chơn chỉ rõ nẻo về;
Một lời
ông giảng giáo cho nghe,
Sẽ tỉnh
được giấc mê muôn thuở.
Tả sao
hết được lòng mừng rỡ,
Đời của
tôi còn có chi hơn;
Nay được
ông vẹt gút mây trần,
1500.
Mai dù có bỏ thân cũng được.
Sự học
của ông vừa nói trước,
Đời ít
ai học được như ông;
Học bề
ngoài ít kẻ học lòng,
Lo
nhánh lá chớ không lo gốc.
Gọi rằng
học nhưng mà vô học,
Vô học
mà học hết là ông;
Mỗi khi
nghe và mỗi khi trông,
Chỗ
nào cũng làm thành bài học.
Chẳng
những thế còn trong trí óc,
1510.
Vẫn luôn luôn tự học lấy mình;
Ấy là
phương phản tỉnh hồi minh,
Ai
cũng thế đâu sanh tội khổ.
Chẳng
được vậy chính mình khó độ,
Đâu
còn thừa sức để dắt ai;
Lời
ông càng nghĩ thấy càng hay,
Rất
quí hóa của thời văn vật.
Lối luận
biện không sai sự thật,
Lời
nói nào cũng rất tinh minh;
Không
chấp kinh nhưng chẳng ngoài kinh,
1520.
Thật là lối biến quyền rất khéo.
Có đủ
cách uốn chiều tròn méo,
Dìu dắt
người khỏi nẻo lạc lầm;
Nếu
các tăng sư ở thiền lâm,
Hầu hết
được như ông tất cả.
Tất mở
rộng được cơ hoằng hóa,
Sẽ
giúp cho nhiều kẻ hồi tâm;
Ta
thưa rằng: tại chẳng muốn làm,
Việc
tôi biết sư tăng đều biết.
Vì yếm
thế hoặc không cương quyết,
1530.
Nên không lo đến việc hoằng dương;
Cái lối
tu tiêu cực tầm thường,
Vô
tình đã đóng khuôn nhà đạo.
Ngồi một
chỗ đợi chờ Phật đáo,
Không
lo đi truyền giáo cho dân;
Quen lối
tu độc thiện kỳ thân,
Trái với
thuyết tế dân độ thế.
Lối tu
ấy xưa nay thành lệ,
Nên cửa
thiền càng bế hẹp lần;
Tôi rất
mong khắp hết sư tăng,
1540.
Nên theo lối tu hành tích cực.
Cần
liên lết và nên tổ chức,
Bành
trướng cho đạo Phật rộng ra;
Bỏ
thói quen chùa họ chùa ta,
Cho
đâu cũng một nhà Phật giáo.
Có
trách nhiệm giữ gìn mối đạo,
Khi thấy
sai nên bảo cho nhau;
Gương
đạo mầu luôn được nêu cao,
Có thế
mới kịp trào lưu tiến.
Thiếu
đoàn kết thiếu dùng phương tiện,
1550. Tất
nhiên không phát triển kịp thời;
Càng
ngày càng bị chúng bỏ rơi,
Không
phổ biến được lời Phật giáo.
Nếu muốn
được mọi người biết đạo,
Phải
gia công truyền giáo mỗi ngày;
Người
này rơi người khác tiếp tay,
Như thế
mới đạo khai rộng lối.
Tùy
hoàn cảnh tùy theo xã hội,
Tùy
dân tâm của mỗi thời kỳ;
Để ứng
dùng phương pháp thích nghi,
1560.
Sẽ khiến được người qui theo đạo.
Xem
tánh người để mà chỉ bảo,
Bởi mỗi
người nghiệp tạo khác nhau;
Phải dắt
lần từ thấp lên cao,
Nhứt
là tránh buổi đầu chớ vội.
Xem
trình độ và xem phẩm giới,
Để
dùng lời tương đối với người;
Chớ gặp
ai cũng nói một lời,
Sẽ
không hạp với người khác cảnh.
Tăng
sư phải cho cao đạo hạnh,
1570.
Để hiểu ra được tánh người đời;
Tất
nhiên là sẽ dụng hợp lời,
Không
chạm phải những nơi đáng tiếc.
Xem đến
mạch chứng chi phải biết,
Mới
cho toa phù hợp bịnh nhân;
Chứng
không rành bịnh chẳng lành thân,
Nhiều
khi hại bịnh nhân là khác.
Phải thật
nghiệp chớ nên nói khoác,
Đừng để
mù mà dắt kẻ đui;
Phật
đã thành Phật mới độ đời,
1580.
Tăng đã đạt mới lôi dắt chúng.
Lý
không rõ nói bừa đâu trúng,
Nghĩa
chưa thông luận bướng càng sai;
Thấu
ngọn ngành nói dở mà hay,
Chưa
căn cội nói hay mà dở.
Mê thấy
khít nhưng mà trống hở,
Ngó
như sai mà có sai đâu;
Thật
mà quyền quyền thật rất mầu,
Không
một cử động nào bất pháp.
Chưa
khảy mỏ trứng không nên đập,
1590.
Hột còn non gieo gấp không lên;
Nên
làm hư, hư lại làm nên,
Nhà tu
chớ nên quên điều ấy.
Sư ngó
đây mắt không hề nháy,
Rằng
thật là chơn lý tột vời;
Thế mới
là tỉnh được người đời,
Muôn
pháp chỉ một lời gồm cả.
Xin hỏi
ông đường về Phật quả,
Nhà tu
hành cần có những chi?
Ta rằng
không nên có những gì,
1600. Mới
có thể là qui Phật quả.
Sư rằng
lời rất minh được dạ,
Xưa
nay cùng chư tổ nhứt ngôn;
Sống
ghi tâm thác gói theo hồn,
Lời
châu dễ khách trần nghe được.
Gặp
ông tợ cá mà gặp nước,
Mê dù
bao cũng được tỉnh ra;
Vậy xin
ông mở lượng hải hà,
Dạy
thêm nữa cho già được biết.
Ta rằng
có chi mà khẩn thiết,
1610.
Tôi hiểu như sư biết từ lâu;
Lấy
trong kinh chớ có khác đâu,
Nói việc
của các sư thường tụng.
Đường
bột có mà không chịu dụng,
Để bao
lâu thì cũng bột đường;
Bánh nhiều
màu nhiều thứ khôn lường,
Nhưng
nguyên liệu vẫn đường với bột.
Số
ngàn muôn cũng từ con một,
Nhánh
lá nhiều nhưng gốc không hai;
Kinh để
xem cho rõ vạy ngay,
1620.
Không phải để tối ngày tụng luống.
Cứ chất
đống trên bàn nhiều cuốn,
Chẳng
chịu xem hiểu tận đuôi đầu;
Thì dù
cho có tụng bao lâu,
Nghĩa
lý của một câu không rọi.
Có
khác nào như chim học nói,
Người
nói sao nhái lại biết chi;
Chỉ
làm cho tủi dạ từ bi,
Không
nối được bước đi của Phật.
Phật đâu
muốn nhà tu ẩn dật,
1630.
Muốn vào xông ra đục cứu dân;
Luôn
vui lòng vị nghĩa vong thân,
Tình
yêu chúng sanh bằng tình mẹ.
Không
hề sống thân mình riêng rẽ,
Vẫn sống
chung với kẻ thập phương;
Nghe
ai đau khổ biết lo lường,
Thấy
ai dại khờ toan chỉ dắt.
Bất luận
ai gặp cơn nguy ngặt,
Ra tay
không để mắt nhìn suông;
Vui
cùng vui buồn vẫn cùng buồn,
1640.
Giữa bá tánh với mình như một.
Nghèo
đến nỗi muối còn một hột,
Cũng cắn
hai chia sớt cho nhau;
Đối người
nghèo cũng thể người giàu,
Đều
quí mến như nhau tất cả.
Chớ trọng
giàu cúng nhiều hoa quả,
Đừng
khinh nghèo chẳng có món chi;
Quí
tâm hơn là quí vật gì,
Như vậy
mới là sư chơn chánh.
Chẳng
khiếp sợ người quyền lực mạnh,
1650.
Không xem thường kẻ chẳng thế oai;
Mang
xác trần ai cũng như ai,
Say
hay tỉnh là nơi đáng kể.
Có tội
lệ hay không tội lệ,
Ấy là
nơi đánh giá con người;
Nhưng
nhà tu đối với người đời,
Tội
hay chẳng cũng vui dạy dỗ.
Vì ai
cũng ở trong biển khổ,
Cần phải
nên tế độ như nhau;
Càng
thấy người có lắm khổ đau,
1660.
Càng muốn cứu cho mau khỏi nạn.
Tóm tắt
phải lấy lòng bình đẳng,
Đối
đãi trong bá tánh thập phương;
Chớ biệt
phân nhiều ít lòng thương,
Thế mới
chẳng sai đường bác ái.
Rất
mong các sư nên xem lại,
Kinh
trên bàn tụng mãi từ lâu;
Xem chừng
nào đạt lý cạn sâu,
Lúc đó
sẽ tiện câu hoằng hóa.
Chớ ngồi
mãi ở trong liêu xá,
1670.
Hãy bước ra đi hóa độ người;
Làm
cho người mê được tỉnh hồi,
Ấy bổn
phận của người Phật tử.
Cuộc sống
chết là nơi đại sự,
Cần lo
mau do dự không nên;
Tuổi cứ
già mặc kẻ nhớ quên,
Bóng
trời chẳng đứng yên một chỗ.
Khi cần
độ mà không lo độ,
Dịp
lành qua rồi khó gặp ra;
Không
riêng lo cho phận mình già,
1680.
Lo kẻ khác cũng là sắp chết.
Họ còn
sống mà không đến thuyết,
Đợi chết
đi tụng nghiệp đâu tiêu;
Lúc mạnh
không chịu dạy một điều,
Gần xuống
lỗ mới kêu hành thiện.
Còn giờ
đâu để mà tu luyện,
Niệm
Phật không thể niệm đủ câu;
Ấy phải
chăng việc đáng buồn rầu,
Nhà tu
há chẳng lo âu tới.
Thêm lại
gặp phải trào lưu mới,
1690.
Dễ làm cho xã hội quay cuồng;
Kẻ xấu
xa nhiều chẳng số lường,
Người
trong sạch đếm không mấy kẻ.
Càng
không thể ngồi yên lặng lẽ,
Nhà tu
nên mạnh mẽ đứng lên;
Dùng đủ
lời khéo léo nhủ khuyên,
Khiến
nhiều ít người nghiêng theo đạo.
Được
nhiều kẻ phụng hành chánh giáo,
Sẽ bớt
nhiều thảm não trong đời;
Hiểu
phận mình chớ phút nào ngơi,
1700.
Rất mong các tăng sư được thế.
Nhiều
khi chỉ một vài câu kệ,
Mà lấp
qua được bể sầu đời;
Khách
thiền môn há nỡ tiếc lời,
Không
cứu giúp những người mê khổ.
Mỗi
bát cơm mỗi đầy công khó,
Ăn
không lo thì nó chẳng tiêu;
Nợ
không tròn thì đạo chẳng siêu,
Há ngồi
mãi trong liêu đợi chết.
Lời của
đây mới vừa nói hết,
1710. Sư
tiếp lời rằng thật đúng thay;
Nếu
tăng sư từ trước đến nay,
Làm
như thế đâu ai hờn ghét.
Nhưng
rất tiếc ít nơi đoàn kết,
Và ít
ai lo việc hoằng khai;
Kệ
kinh ai cũng tụng mỗi ngày,
Nhưng
nghĩa lý ít ai xét tới.
Kẻ xét
biết làm thinh không nói,
Người
nói thì vụ lợi nọ kia;
Phần
nhiều là mượn Phật làm bia,
1720.
Để gạt gẫm người mê lấy của.
Chính
tôi cũng đau lòng đòi bữa,
Như lời
tôi vừa đã thưa qua;
Từng để
chơn đến các thiền gia,
Nhận lời
phải thấy ra ít kẻ.
Thành
thử vẫn còn nhiều tập tệ,
Theo lối
tu bệ vệ phần đông;
Suốt
ngày lo ăn luống ngồi không,
Không
thí một chút công cho chúng.
Chẳng
dám nói là phường vô dụng,
1730.
Cứ thế là đời sống ra gì;
Thường
tụng kinh trước tượng từ bi,
Sao chẳng
nhớ hành vi của Phật.
Phật
đâu phải là người ẩn dật,
Và
cũng không ngồi suốt trong liêu;
Vừa rồi
ông đã dạy mấy điều,
Điều
nào cũng cao siêu tất cả.
Thấy
những hạng tu hành dối giả,
Tự thấy
tôi trong dạ xốn xang;
Lấy làm
thương Đức Phật Tây phang,
1740.
Bị kẻ ở thế gian lợi dụng.
Luật
giới chẳng hề làm cho đúng,
Cũng
xưng là Hòa Thượng Yết Ma;
Thấy
việc người bắt ngại phận ta,
Vì là
cũng đồng nhà sư cả.
Cũng tại
họ làm điều man trá,
Nên
người đời nghi cả các sư;
Nếu họ
không cải sửa thói hư,
Chùa lần
lượt không người đến viếng.
E rằng
những người đang tinh tiến,
1750.
Vì đó mà thối chuyển biết đâu;
Như thế
là tai nạn rất sâu,
Còn ai
nối được câu Phật pháp.
Ta liền
chận lời sư nói gấp,
Đuốc từ
bi không tắt chớ nao;
Hạng giả
tu đông đến mực nào,
Đạo Phật
vẫn làu làu sáng tỏ.
Thời
thạnh suy do người tạo nó,
Chơn
lý thì vẫn có một đường;
Ai biết
theo là phước khôn lường,
1760.
Ai trái lại là vương đầy họa.
Xưa nay
vẫn cứ như thế cả,
Và từ
đây cũng chả đổi dời;
Biết
tu là người biết sống đời,
Không
tu ấy là người tự sát.
Tu tôi
nói tùng lương cải ác,
Bỏ đường
mê nẻo giác tìm qua;
Biết
ngăn ngừa ý tưởng xấu xa,
Biết
cương quyết làm ra việc phải.
Đó là
nghĩa của người tu cải,
1770.
Chẳng phải tu theo lối ngồi không;
Tu cần
trau sửa cả ngoài trong,
Việc
riêng đến việc chung đều sửa.
Hại biến
lợi lòng không lần lựa,
Dữ đổi
lành trí để nhớ luôn;
Tâm
không cho ngoại vật làm cuồng,
Lúc nào
cũng chủ thân được cả.
Tu như
thế sẽ trừ được họa,
Phẩm bậc
nào dù khó cũng lên;
Mỗi
người tu theo ý tôi khuyên,
1780.
Chẳng toại nguyện tôi xin chịu đọa.
Sư rằng:
lời của ông đúng cả,
Nếu
người tu như thế không thành;
Thân
tôi dù muôn thác cũng đành,
Trong
lòng vẫn tưởng tin triệt để.
Ông vừa
bảo thạnh suy do thế,
Chơn
lý là một thể không hai;
Từ
ngàn xưa cho đến những nay,
Phật
pháp chẳng bị ai làm mất.
Đã là
Phật trước sau vẫn Phật,
1790. Tự
nên không phải vật tạo nên;
Vì vậy
mà vẫn được vững bền,
Không
bị cuộc nổi chìm làm hoại.
Thật
là lời của ông rất phải,
Giúp
lòng tin tôi lại mạnh thêm;
Kể từ
đây tôi chẳng ngồi êm,
Quyết
nỗ lực khêu lên đuốc thiện.
Kết
liên với người đồng quan niệm,
Để làm
cho phát triển đạo thiền;
Cho
người đời thấy rõ tục tiên,
1800.
Không còn nói đạo chuyên lừa dối.
Chính
mình phải làm cho được trổi,
Để cho
hàng tu dối nhìn vào;
Sẽ thẹn
lòng sửa chữa phần nào,
Cũng
gián tiếp giúp vào họ được.
Mong
Phật giúp tôi nên nguyện ước,
Ân đức
này dù chết chẳng quên;
Ta rằng:
trời chẳng phụ người hiền,
Ý nguyện
tốt sẽ nên có thuở.
Giữa
đường dẫu xảy ra dang dở,
1810.
Mong sư đừng lấy đó ngã lòng;
Ví dụ
làm hiện kiếp không xong,
Nguyện
kiếp khác nối luôn chớ bỏ.
Làm việc
lớn có nhiều khăn khó,
Cứ làm
luôn chớ có hẹn ngày;
Đem tấm
lòng cứng rắn dẻo dai,
Đối
phó mọi chông gai cản trở.
Được
như thế mới xong nần nợ,
Và đạo
mầu cũng sẽ tựu thành;
Để tà
ma làm rối đức tin,
1820. Việc
chi cũng tan tành tất cả.
Phải
tin tưởng phải bền chặt dạ,
Nhứt định
là đạo quả sẽ nên;
Tôi
cũng từng gặp lắm truân chuyên,
Nhưng
vẫn giữ lòng nguyền như một.
Và từ
đấy đến ngày kết cuộc,
Cảm thấy
còn nhiều khúc gay go;
Nhưng
trong lòng chẳng chút sợ lo,
Ý chí
mạnh thắng qua tất cả.
Nếu
không mở thông đường thiên hạ,
1830.
Nguyện chẳng ưng cất giá lên vai;
Mắt nếu
còn thấy kẻ nàn tai,
Lòng
quyết chẳng quên ngày giải thoát.
Quản
chi nỗi khổ đau thân xác,
Miễn
làm sao sớm đạt ý nguyền;
Chẳng
những đời mình hết não phiền,
Mà kẻ
khác cũng yên lạc nghiệp.
Châu
ngọc há để cho phủ líp,
Phải vẫy
vùng cho sắc chói chan;
Nếu chẳng
thay được khắp nhơn gian,
1840.
Cũng rán được một làng một nước.
Nghĩa
là phải làm cho nên được,
Không để
ngơ qua cuộc đời tàn;
Luôn đấu
tranh với mọi thời gian,
Cũng
chẳng để ai làm dừng bước.
Chẳng
riêng tạo để mình hưởng phước,
Mà lo
cho người được lây duyên;
Bụi hồng
trần sớm gội cho yên,
Cùng
được thấy nhà Tiên cảnh Phật.
Việc
trước hết ngay trên quả đất,
1850.
Đồng nhau chung hưởng cuộc thái bình;
Chẳng
còn nghe ai muốn chiến chinh,
Cũng
không kẻ nào sanh kế bạo.
Giữa
ai cũng lấy lòng hòa hảo,
Biết xử
phân theo đạo công bằng;
Không
riêng mình muốn được no ăn,
Nỡ ỷ mạnh
lấy ngang của kẻ.
Ai
cũng biết nói lời nhỏ nhẹ,
Không
ai dùng lời lẽ cộc cằn;
Biết
xét lòng và biết ăn năn,
1860.
Người nào cũng có tâm tự trị.
Sống nề
nếp sống theo cương kỷ,
Ai
cũng tôn đạo lý làm trên;
Mặt mỗi
người đều lộ vẻ hiền,
Ngày ấy
mới Thần Tiên tại thế.
Người
tu niệm phải nên lập thệ,
Làm
sao cho được thế mới thôi;
Sống
chưa làm xong xả sự đời,
Chết
đâu được về ngồi thượng cảnh.
Sư
nghe đến lời đây nhấn mạnh,
1870.
Khiến mắt thêm nhìn thẳng vào đây;
Và nói
rằng ở giữa thời nay,
Tư tưởng
ấy ít ai có được.
Vừa
siêu nhiên vừa nên thích hợp,
Nếu phần
đông người được thế ni;
Sự khổ
đau nhơn loại mất đi,
Cõi Cực
Lạc tức thì hiện đến.
Lời
ông khiến lòng tôi quá mến,
Chính ấy
là bờ bến siêu sinh;
Khách
hồng trần lấy đó làm tin,
1880.
Tất sẽ được đưa mình khỏi tục.
Kẻ nào
biết tầm trong lánh đục,
Nghe lời
ông sớm dứt nợ đời;
Chẳng
bao lâu đến mức tuyệt vời,
Đáng
con Phật đáng người yêu kính.
Ta rằng:
mọi việc do chữ tín,
Lời
nói dù chơn chính dường bao;
Không
chịu đem lòng tưởng tin vào,
Chơn
chánh ấy làm sao thành được .
Vì thế
nên lòng tin làm trước,
1890.
Có lòng tin các cuộc sẽ nên;
Cũng
nhờ tin khổ mấy cũng quên,
Lòng
tin giúp người thêm bền chí.
Mọi việc
chi sau khi xét kỹ,
Nếu
chánh chơn đặt chí tin vào;
Rồi cứ
lo dù chậm hay mau,
Không
chán nản miễn sao được việc.
Điều nầy
rất muốn ai cũng biết,
Để
tránh điều hối tiếc nơi tâm;
Sư rằng:
lòng tin cũng dễ lầm,
1900.
Nhưng xét trước rồi tin đúng lắm.
Mỗi lời
ông tôi đều suy gẫm,
Thấy rằng
đâu đó cũng khít khao;
Mỗi
câu đều mỗi có rấp rào,
Chỗ
nào cũng dồi dào ý tứ.
Tôi
xin nguyện để lòng ôm giữ,
Làm
sao cho khỏi phụ lòng ông;
Sớm
nên người yêu của đại đồng,
Được thế
mới là không hổ phận.
Trong
mấy tiếng đồng hồ học vấn,
1910.
Hơn mấy mươi năm tụng kinh suông;
Giúp
tôi thêm biết rõ chánh đường,
Công đức
ấy khó lường sao hết.
Có lẽ
ông cũng đà mỏi mệt,
Đêm đã
khuya trời rét thế này;
Xin
ông vui lòng ngủ lại đây,
Mai rồi
sẽ hồi qui chẳng muộn.
Ta nhận
lời của sư vừa muốn,
Bước
theo sư vào chốn hậu liêu;
Vừa nằm
vừa suy nghĩ đủ điều,
1920.
Việc sư cụ cũng đeo ý nghĩ.
Ấy
cũng một cuộc đời kỳ bí,
Cảnh giúp
người duyên đẩy xô người;
Ắt có
duyên với Phật lâu đời,
Nên mới
được có trời báo mộng.
Nếu chẳng
vậy người đang thân sống,
Khó thấy
người nơi chốn tiêu dao;
Còn việc
ta cũng lạ làm sao,
Đêm
khuya vắng đi vào chùa miễu.
Sư chẳng
trách lại còn mến tríu,
1930. Ắt
cũng duyên chi khéo tạo nên;
Người
gặp nhau trong lúc đầu tiên,
Mà
thông cảm là duyên muôn thuở.
Ta cứ
nghĩ thế lòng không hở,
Rồi bỗng
nhiên đã ngủ hồi nào;
Vừng
hào quang liền chói ánh vào,
Một vị
Phật ngồi cao mấy trượng.
Trông
thấy Phật ta liền quì xuống,
Mở miệng
ra vừa muốn thưa lên;
Thì Phật
ngài đã nói trước liền,
1940.
Rằng trước đây độ bát bá niên.
Cũng ở
nơi một cái chùa thiền,
Có một
vị tu hiền rất chính;
Thường
tập hợp nữ nam thiện tín,
Dạy những
điều đạo hạnh cho nghe.
Độ được
nhiều người khỏi bến mê,
Khiến
bá tánh gần xa đều mến;
Hạng
dân dã vua quan đều đến,
Thường
do lai sáng kiến nhà sư.
Khiến
cảnh chùa lui tới chật người,
1950.
Phật pháp cũng một thời hưng thạnh;
Một hôm
nọ vào khuya vắng lặng,
Có một
tên ăn trộm vào chùa.
Tên trộm
đang khi vác khuân đồ,
Trong
khi ấy nhà sư trông thấy;
Sư liền
bảo nhỏ tên trộm lại,
Hỏi tại
sao đi lấy của chùa.
Trộm rằng
vì con vợ chẳng no,
Cho
nên phải làm nghề ăn trộm;
Cảnh sống
của gia đình rất khốn,
1960.
Con thì đông vợ cũng quê mùa.
Không
đủ ăn quần áo te tua,
Cực chẳng
đã mới thò tay cắp;
Trong
lúc ấy nhà sư bảo gấp,
Nên bỏ
đi nghề nghiệp bất lương.
Vì nó
không khiến một ai thương,
Bị bắt
gặp chịu đường tù tội;
Vậy
ngươi phải từ đây cải hối,
Lo làm
ăn theo lối lương hiền.
Nói
xong sư vào lấy gói tiền,
1970.
Cho tên trộm bảo đi ra gấp;
Trộm vừa
xá vừa run lập cập,
Lãnh
tiền rồi chạy gấp về nhà.
Trộm
chừng khi mở gói tiền ra,
Bắt hốt
hoảng vì là nhiều quá;
Trộm vừa
sợ vừa mừng khôn tả,
Vừa biết
ơn sư có chi bằng.
Cho sư
là một vị chơn tăng,
Trong
lòng thấy nảy sinh kính phục;
Từ
ngày ấy bắt đầu tin Phật,
1980.
Số tiền kia giao hết vợ con.
Rồi
lánh mình vào chốn núi non,
Bỏ nghề
trộm xả thân tu niệm;
Trở
nên một nhà tu hạnh kiểm,
Sau được
nhiều người mến đến danh.
Vị sư
kia con có biết chăng,
Chính
là cái tiền thân con đó;
Còn
tên trộm ở vào thuở nọ,
Chính
là sư hiện ở chùa này.
Người
với con duyên rấm sâu dầy,
1990.
Cho nên khiến hôm nay tái ngộ;
Nếu kiếp
trước không nhờ con độ,
Thì
người đâu hối ngộ nơi tâm.
Tuy trải
qua ước tám trăm năm,
Duyên ấy
cũng vẫn còn khắn chặt;
Nay
người đã nên sư thiền đức,
Con
cũng là nối Phật tu hành.
Càng
khiến cho duyên ấy thêm lành,
Nên người
mới gặp con là mến;
Duyên ấy
gợi cho lòng nhớ đến,
2000.
Chớ nào đâu phải chuyện vô căn.
Vì muốn
cho con rõ nguyên nhân,
Nên Phật
mới hiện thân đến nhắc;
Ta cúi
mình tạ ơn Đức Phật,
Rằng
còn chi từ trước đến nay.
Nhờ Phật
luôn sẵn dạ chỉ bày,
Ân đức
rộng đất trời khó sánh;
Khi hữu
sự hoặc trong khổ cảnh,
Có Phật
ngài hiện đến dắt dìu.
Lời
lành cho nghe biết bao nhiêu,
2010.
Không nhờ Phật con đâu nên đạo;
Mọi việc
chi cũng nhờ Phật bảo,
Tâm hồn
con Phật tạo đấy ư!
Nếu
không nhờ Phật dạy nên hư,
Con
khó biết rõ nơi tà chánh.
Tuy
nhiên đối với đường đạo hạnh,
Học
bao nhiêu cũng chẳng thấy cùng;
Xin Phật
vì sự lợi ích chung,
Dạy
thêm nữa cho con được hiểu.
Phật rằng
con khéo tìm đạo diệu,
2020.
Đạo tuy sâu sức hiểu cũng dài;
Đạo
không trong mà cũng chẳng ngoài,
Nơi bổn
tánh của người sẵn có.
Nếu
như ai muốn tìm thấy nó,
Lấy mắt
thường thì khó thể trông;
Phải lấy
lòng mới thấy được lòng,
Có chẳng
được mà không chẳng được.
Còn một
chấp niệm nào thúc phược,
Là vẫn
còn bó buộc trong lòng;
Sự não
phiền không thể nào không,
2030.
Còn như thế là còn luân lạc.
Từ bi
chẳng từ bi vướng mắc,
Ấy mới
là chơn thật từ bi;
Không
bận tâm ở một sự gì,
Dù việc
ấy hữu vi hay chẳng.
Không
nghiêng trệ mới là bình đẳng,
Chẳng
buộc ràng mới đặng tự do;
Con lấy
đây làm thước để đo,
Siêu
hay đọa cứ do theo đấy.
Ta liền
chấp hai tay cúi lạy,
2040.
Xin đội ơn Phật dạy cho con;
Không
riêng con hứa sẽ làm tròn,
Còn nguyện
giúp xa gần xong điệu.
Phật dạy
chỉ những lời cao diệu,
Con
dám đâu để hiểu một mình;
Xin
truyền ra cho chúng làm tin,
Để trở
lại nẻo lành sáng tỏ.
Có một
việc con xin thưa rõ,
Xin Phật
Ngài vẹt mở gút mây;
Hiện
xác con đang sống nơi đây,
2050.
Thân bịnh lại gặp ngày trắc trở.
Nhiều
chướng ngại cản đường hóa độ,
Lắm
chông gai trên lộ từ bi;
Muốn
bước mau nhưng khó nổi đi,
Đường
Phật giáo nhiều khi nghẹt lối.
Muốn
đâu cũng mây lành bủa tới,
Ngặt gió
phàm cứ thổi mãi lên;
Ý nguyện
này chẳng được sớm nên,
Lòng
con thấy muôn nghìn đau đớn.
Nhiều
lúc quá buồn cho thời vận,
2060.
Muốn chết không muốn sống trên đời;
Nhưng
nặng tình với khắp mọi người,
Đến
nay vẫn còn ngồi dương thế.
Phật
liền nhẹ lời rằng ớ trẻ,
Vận
đen chưa phải lẽ chết thân;
Đã nặng
duyên với khách hồng trần,
Phải dắt
họ đến chừng hết khổ.
Càng
chướng ngại càng nên hóa độ,
Không
chông gai sao rõ từ bi;
Khó bước
mau thì chậm cũng đi,
2070.
Chớ ngại lối nhiều khi bị nghẹt.
Mây cứ
bủa mặc tình gió quét,
Cố làm
sao che mát chúng sanh;
Con chớ
buồn chưa toại nguyện lành,
Nguyện
lành ấy sẽ thành tựu được.
Dù
hoàn cảnh khắt khe trái ngược,
Vẫn
bình tâm chờ cuộc thuận xuôi;
Phật
biết con lòng chẳng thấy vui,
Nhưng
chết cũng chưa nguôi được dạ.
Nên sống
để rộng khai đạo cả,
2080.
Sống làm cho thong thả khắp nơi;
Không
sống riêng mà sống cho đời,
Sống
cho khắp mọi người hết khổ.
Vì bác
ái vì câu hóa độ,
Cho
nên cần phải có xác thân;
Sống cho
mình chỉ có một phần,
Muôn
phần để sống sanh cho thế.
Sống
thì khó chết thì rất dễ,
Khó sống
nhưng sống để cứu đời;
Cả
chúng sanh chưa được thảnh thơi,
2090.
Lòng từ muốn tắt hơi sao nỡ.
Chết
thân cũng chưa xong được nợ,
Chết ấy
càng khiến dở dang thêm;
Đến chừng
nào biển lặng sóng êm,
Khi ấy
sẽ nằm yên để chết.
Nước tịnh
rửa bụi trần chưa hết,
Chết
đi ai lau quét cửa thiền;
Rán chịu
lì trong cuộc đảo điên,
Để đổi
dữ ra hiền cho chúng.
Gió thổi
mấy Trời không hề lụn,
2100.
Nước xao bao Trăng cũng sáng choang;
Khổ thế
nào con cũng chớ than,
Cứ lo
tới cho đàng suôn sẻ.
Đêm
đêm thấy thân con quạnh quẽ,
Phật lấy
làm đau dạ lắm con;
Trong
khó khăn giữ phận vẹn tròn,
Ai xem
đến mà không kính mến.
Sẽ có
gió xuôi chiều thổi đến,
Con chớ
lo bờ bến khó kề;
Khi
con về dắt chúng theo về,
2110.
Phật nơi chốn liên huê luôn đợi.
Con
rán chịu từ đây đến hội,
Cuộc
trùng lai đền bội công lao;
Kẻ tu
hành thỏa dạ khát khao,
Người
nhơn đức phỉ câu mong ước.
Cảnh
đau khổ tan như mây nước,
Cuộc lao
lung sẽ được giải trừ;
Ấy là
ngày thế giới an cư,
Con
rán dắt cho người đến đó.
Từ nay
dẫu còn nhiều khăn khó,
2120.
Vì yêu dân chớ có nản lòng;
Mượn
phàm thân cứu khách hồng trần,
Thói
thường chết con đừng nghĩ nữa.
Có cái
chết con cần nên lựa,
Nên chết
lòng tưởng nhớ xấu xa;
Chết
tánh tham và chết lòng tà,
Chết
những việc gọi là bất thiện.
Chết mắt
thấy sắc chi chẳng nghiện,
Chết
tai nghe đủ tiếng không mê;
Chết
mũi mùi chi chẳng khen chê,
2130. Chết
lưỡi nếm vị gì không chấp.
Chết
thân chẳng nhiễm khi đụng vật,
Chết
tâm không vướng mắc sự nào;
Chết hết
lòng ô nhiễm trần lao,
Chết cả
tánh chấp câu nhơn ngã.
Chết hờn
giận chết điều dối trá,
Và chết
luôn lòng dạ ghét ghen;
Chết lời
nhơ chết ý đê hèn,
Các việc
quấy đều nên chết cả.
Được
như thế tất là thong thả,
2140.
Không lúc nào trong dạ buồn rầu;
Kẻ tu
hành ở buổi ban đầu,
Làm
theo đấy sẽ mau nên đạo.
Con
khá nhớ để khi truyền giáo,
Nhắc
cho đời được hiểu làm theo;
Cõi hồng
trần còn lắm nạn eo,
Dân
chúng sớm nên theo đạo lý.
Nói
xong Phật hóa quang hồi vị,
Ta cúi
đầu lạy tạ theo sau;
Tự thấy
lòng vui biết chừng nào,
2150.
Cám ơn Phật kể sao cho hết.
Kể từ ấy
tâm trần đã chết,
Sự nhiễm
ô tiêu diệt sạch không;
Tuy
đeo mang thân xác cõi hồng,
Mà đã
chẳng còn lòng mến tục.
Nơi
nào cũng xông pha lẩn lút,
Tâm
không hề trói buộc nơi đâu;
Vì muốn
đời tỉnh giấc mê sầu,
Phải
giả dạng đủ màu thế sự.
Muốn độ
dữ vào trong đám dữ,
2160. Muốn
cứu hiền dùng sự rất hiền;
Miễn
sao cho người rõ tục tiên,
Mặc
thân xác biến quyền nhơ sạch.
Mong
ai cũng trắng đen khá vạch,
Để cho
minh là Phật hay phàm;
Lời
đây khuyên nếu chịu gìn kham,
Không
nên đạo đây cam chịu tội.
Bởi
thương mến nhân sanh vạn bội,
Nên
đem lời Phật gọi kể ra;
Chuyện
tăng sư ở chốn thiền gia,
2170.
Cũng kể nốt để mà hiểu rõ.
Việc
hiện hữu là điều thật có,
Còn
duyên xưa chuyện đó ly kỳ;
Cõi thế
gian bất luận việc gì,
Đều có
hệ với khi trước cả.
Muốn
già trẻ tin câu nhân quả,
Cho
nên đây mới kể cạn lời;
Nếu
xét qua tiền kiếp mọi người,
Sanh
khắp chỗ không nơi nào chẳng.
Nợ vay
trả với nhau nhiều chặng,
2180.
Không một ai mà chẳng nợ ai;
Người ở
Đông có nợ ở Tây,
Kẻ Nam
lại đã vay nghiệp Bắc.
Quả đất
rộng nhưng mà thấy chật,
Đừng
tưởng xa không việc liên can;
Lời kể
qua thật rất rõ ràng,
Nghiệp
xưa với thân đang hiện sống.
Nếu sư
chẳng nhờ lời trong mộng,
Việc
trả vay đâu đặng hiểu ra;
Phật
khó trông nhưng chẳng ở xa,
2190.
Mọi việc của người ta đều biết.
Phật
thấy rõ chúng sanh tạo nghiệp,
Tùy cơ
duyên cứu vớt cho ra;
Lòng từ
bi rộng lớn sâu xa,
Không
hề để bỏ qua một kẻ.
Xin lớn
nhỏ xét cho rốt lẽ,
Để khỏi
đau lòng kẻ đại bi;
Nhớ kỹ
rằng đây nói lời chi,
Dựa
theo bóng huyền vi mà nói.
Xin
rán đọc chớ nài mệt mỏi,
2200.
Đọc để cho rõ mối chánh tà;
Xem
ngàn lần mà chẳng hiểu ra,
Cũng đừng
chán hãy mò đọc mãi.
Cố đọc
riết có ngày sẽ thấy,
Chừng
thấy ra chỉ khảy móng tay;
Nơi xa
ngàn ta vẫn còn đây,
Việc
không hiểu hỏi ngay chớ ngại.
Ngày
nào cũng trông tin thơ lại,
Đêm vẫn
luôn chờ thấy mộng lành;
Thấy
ai người thật chí tu hành,
2210.
Kể sao hết nỗi tình yêu mến.
Hồn ta
vẫn thường hay lui đến,
Viếng thăm
người tu luyện chơn thành;
Mỗi lần
nghe có tiếng chim xanh,
Trong
lòng thấy muôn nghìn náo nức.
Biết rằng
có người chơn đạo đức,
Cành
sen nơi cõi Phật nở ra;
Trên đầu
kia có ánh sáng lòa,
Hương
công đức bay ra thơm ngát.
Ngồi một
chỗ có thần đem trát,
2220.
Há không vui khi được tin lành;
Một
thân nhưng chẳng sống riêng mình,
Sống với
khắp nhân sinh thế giới.
Hỡi
Quê Nhà rán chung một khối,
Cho hồn
kia cảm tới lòng đây;
Trong
tâm không để vắng một ngày,
Cùng
biết nhớ cùng gây được việc.
Một
ngày quên một ngày rất tiếc,
Giữ
cho lòng khắng khít nhau luôn;
Vui
cùng vui buồn hãy cùng buồn,
2230.
Mượn bút mực thay cơn hội ngộ.
Một
phen này khai cho nên lộ,
Để
thông đường đây đó lại qua;
Ớ nữ
nam lớn nhỏ quê nhà,
Khá
nghiệm kỹ lời ta vừa nói.
Nơi xa
xôi vài lời nhắn gởi,
Tạm gọi
là giải nỗi nhớ thương;
Xin
chúc lành khắp hết thôn hương,
2238.
Khuyên rán giữ vẹn đường đạo đức.
Viết
xong tại Đông Kinh
Đăng nhận xét