DownLoad Hiển Đạo Phần 1 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 2 PDF
DownLoad Hiển Đạo Phần 3 PDF
TẢI QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - SƯ HUỆ DUYÊN TỤNG - MP3
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ
***
Đang
thiếp mắt ở trên giường bịnh,
Bỗng
nhiên nghe sét đánh bên tai;
Từ Bắc
phương một ánh sáng dài,
Đã chiếu
thẳng vào ngay thân xác.
Đồng
thời có mùi hương ngào ngạt,
Thơm
khắp phòng hơn rắc nước hoa;
Rồi tự
dưng ở trước mặt ta,
Một Đạo-Sĩ
từ xa đi tới.
Vẻ
đoan nghiêm phàm phu khác thói,
10. Vừa
chắp tay vừa nói lên rằng:
Muôn
năm xưa cùng một song thân,
Nước
Đơn Tố cha Nhân mẹ Hạo.
Cha mẹ
hiền anh em rất thảo,
Lại được
bề gia-đạo vinh-vang,
Nhưng
phần anh dạ đã không màng,
Nên đã
sớm tìm đàng đạo hạnh.
Vào
sơn đảnh tu chơn dưỡng tánh,
Lánh
trần gian dứt cảnh ái ân,
20. Chẳng
hề để bước chân xuống thế.
Vì lẽ ấy
đã bao thế hệ,
Chẳng
cùng em hội ngộ phút nao,
Nhưng
phần anh bất luận lúc nào,
Việc
em, cả trước sau biết rõ.
Thầm mừng
em đạo mầu sớm tỏ,
Khiến
vui lòng Tông Tổ suối vàng,
Cũng
soi đường cho cả thế gian,
Bớt được
sự lỗi lầm vô lý.
Vừa rồi
đúng vào giờ chánh tý,
30.
Đang khi anh tọa vị tham-thiền,
Thấy
em đang thọ bịnh bất yên,
Và
đang khởi tâm nguyền bỏ xác.
Vì nghịch
cảnh vì người bỉ bạc,
Khiến
lòng em muốn thác nhiều hơn.
Anh
không đành ngồi lặng cao sơn,
Mới vội
vã hiện thân đến đấy.
Trước
thăm em cho em nhớ lại,
Việc đệ
huynh đã trải muôn đời,
Sau
riêng anh cũng có vài lời.
40.
Khuyên em chớ vội rời phàm xác,
Em đã
gặp cụ già tóc bạc,
Chính
Thầy em ký thác nhiều câu,
Phận
chưa tròn bổn nguyện đã sâu.
Sao em
lại mong cầu cái chết,
Người
liễu đạo chết đâu phải hết,
Sống độ
đời dù chết độ đời.
Độ đến
khi khắp cả mọi người,
Đều được
rõ thông nơi đạo lý,
Lòng độ
chúng có bao giờ nghỉ,
50. Đó
mới là thật ý từ-bi.
Sao em
không lấy trí xét suy,
Lại muốn
việc tử qui vô sự.
Theo
anh xét đã chơn Phật-tử,
Yếm thế
là một sự sai lầm;
Cần phải
nên có đại hùng tâm,
Thắng
qua các cuộc trần thử thách.
Gặp
cay đắng khổ lao đủ cách,
Không
núng nao mới đắc đạo mầu;
Em chớ
nên đem dạ chán sầu,
60.
Hãy vui vẻ gìn câu phổ hóa.
Xưa
nay những ai nên đạo cả,
Đều trải
qua nhiều lẽ khó khăn;
Quả
càng cao khổ hạnh càng tăng,
Danh
muốn rộng công năng phải lớn.
Em chớ
quản chi thân đau đớn,
Cũng đừng
buồn hoàn cảnh khắt khe;
Trước
đây lâu anh đã từng nghe,
Em
nguyện gánh bớt tai khổ chúng.
Kẻ
chơn tu nguyện là có đúng,
70. Em
ốm đau đã ứng lời nguyền;
Những
kẻ cùng em có thiện duyên,
Nhờ em
nguyện đã thuyên tai khổ.
Em đau
thế cho đời lắm chỗ,
Nên
vui, đâu nên có lòng buồn;
Còn gặp
người chận ngõ đón truông,
Ấy thường
sự trên đường đạo hạnh.
Đạo
đang suy mà đời đang thạnh,
Cố
nhiên hay gặp cảnh trái ngang;
Chính
nó là những cái nấc thang,
80.
Càng bước được càng tăng quả được.
Đường
chông gai khéo tay vẹt bước,
Sẽ đưa
thân lần lượt đến xa;
Riêng
phận mình phương hướng thông qua,
Còn
giúp kẻ đi sau yên bước.
Khuyên
em khá xét cùng sau trước,
Dứt
lòng mong bỏ xác ấy đi;
Nhớ niệm
câu hỷ xả từ bi,
Lặng lẽ
đợi thời kỳ phổ độ.
Ta nằm
trơ khác nào tượng gỗ,
90.
Chưa vái chào chưa ngõ lời chi;
Tới đoạn
nầy chừng đã tỉnh đi,
Liền
gượng dậy mở lời thưa lại.
Đây nhớ
lại lúc lên mười bảy,
Hết
mùa thu kế lại sang đông;
Mấy
tháng trời thọ bịnh nằm ròng,
Cơm chẳng
nếm cháo không dùng mấy.
Thân ốm
còn xương da bọc lấy,
Chết
chín phần sống chỉ một phần;
Bỗng một
đêm mê mệt thức thần,
100. Một
cụ lão hiện thân trước mặt.
Nhích
miệng cười đưa tay ra dắt,
Và bảo
rằng chưa thác đâu con;
Đời
cùng con duyên nghiệp hãy còn,
Con phải
sống lo tròn mới được.
Vậy
cùng lão mượn đường mây nước,
Dạo
đôi nơi Địa-ngục Thiên-đàng;
Để sau
nầy dạy kẻ thế gian,
Cho họ
biết kẻo rằng không có.
Khi
xem xong hai nơi đã rõ,
110. Rồi
cụ đưa núi nọ núi kia;
Đến chừng
khi quày trở lộn vìa,
Ngang
qua một núi huê đẹp đẽ.
Cụ liền
bảo núi nầy có kẻ,
Xưa
lâu cùng con đã hữu duyên;
Con
rán tu chừng Đại hội Tiên.
Sẽ gặp
lại cựu duyên ấy được,
Từ
ngày ấy vẫn thầm mong ước;
Vái
làm sao gặp được người duyên,
Thế là
non ấy chỗ tọa thiền.
120. Của
Ngài đã ẩn yên nơi đấy,
Đây chẳng
ngờ thân đang hoạn hoại;
Được
Ngài thân đến tại bên giường,
Nhắc cho
nghe xưa một song đường.
Còn
khuyên dạy tận tường mọi nỗi,
Ân đức
ấy đây xin cảm đội;
Xin dạy
thêm đường lối chưa thông,
Đạo-sĩ
liền cất giọng như đồng.
Lúc bịnh
ấy em không còn nhớ,
Một
hôm nọ có con bạch hổ;
130. Đến
thăm em nói rõ tiếng người,
Rằng:
vâng lời Tiên trưởng đến nơi.
Thăm
Phật-tử đang hồi trọng bịnh.
Bạch hổ
ấy chính anh ra lệnh,
Về hộ
em đêm bịnh thậm nguy;
Anh
còn nhờ các vị Thần-kỳ,
Đêm
ngày đến độ em khi mệt.
Có nhiều
ông mặt như sơn phết,
Màu đỏ
đen dễ khiếp phàm nhơn;
Ông
thì phun, ông họa phù thần,
140. Đứng
chật khắp quanh thân em đấy.
Trong
lúc ấy chính em đã thấy,
Hiện
giờ em còn nhớ phải chăng?
Và có
đêm em quá trở trăn,
Hơi gần
đứt đương ngăn đương ngặt.
Trong
lúc ấy ở trên tran Phật,
Có tiếng
kêu nầy Nhứt hỡi con.
Hãy sống
lo đạo nghĩa cho tròn,
Sắp tận
thế không còn lâu nữa;
Đây diệu
dược để mà trị chữa,
150.
Chứng bịnh con đang buổi kinh nguy.
Con
nghiêng qua tay mặt mau đi,
Để uống
món thần y nầy đấy;
Em liền
cựa mình qua bên phải,
Thuốc
đưa ngay vào tại miệng em.
Thuốc
thì em chính mắt đã xem,
Còn
người gọi thì em không thấy;
Nầy em
ơi! Tiếng người gọi đấy,
Chính
cụ già thường dạy dỗ em.
Lúc ấy
vừa khoảng giữa trời đêm,
160.
Dùng thiền quán nên anh đã biết;
Trong
lòng lấy làm mừng chi xiết,
Được
thấy em đạo nghiệp đã thâm.
Có Thần
Tiên có Phật giáng lâm,
Cứu độ
lúc xác thân thọ bịnh;
Nếu em
khéo tu hành chơn chính,
Quả Bồ-đề
đạt đến rất mau,
Giống
lành thêm phân tốt bón vào,
Thì
bông trái thế nào cũng sớm.
Vì thấy
khó rửa đời sạch bợn,
170.
Và còn nhiều gai bớm chông chênh;
Bước đạo
mầu khó tiến rộng lên,
Nên em
muốn hủy mình khách thổ.
Để trở
gót về nơi Tịnh-độ,
Việc
trần gian để phó Thiên cơ,
Điều nầy
anh chẳng nhận bao giờ;
Bởi nó
chẳng hiệp cơ từ quảng,
Phải
vui chịu mọi điều khổ nạn.
Để cứu
đời qua đặng sông mê,
Riêng
thân dù muôn vạn ủ ê;
180.
Xem thường sự chớ hề thối chí,
Xuôi
ngược vẫn trương câu đạo lý.
Nghe
hay không cũng chỉ phép tu,
Đâu
hơn khi bị đụng kẻ mù,
Há
trách phá thuyền tàu lúc gió.
Nên
tha thứ tánh phàm xiên xỏ,
Hãy lặng
chờ buổi khó đi qua;
Vì muốn
cho nguồn đạo rộng xa,
Cái
phàm xác phải là bảo trọng.
Khi
qua sông thuyền bè tạm dụng,
190.
Lên bờ rồi sẽ cắm bỏ ngay;
Đạo muốn
thành không mượn xác thây,
Thì chẳng
khác đốn cây mong trái.
Là một
việc hiểu lầm có hại,
Em
nghĩ xem có phải vậy chăng?
Ta cúi
mình và mới thưa rằng,
Ngài dạy
ấy trăm phần rất đúng.
Nhưng
đây đã nguyện thiền hóa chúng,
Phí
phàm thân gọi khống mấy năm;
Những
kẻ nghe cố để vào tâm,
200.
Nhìn kỹ số đôi trăm có một.
Còn
bao nhiêu bay theo gió trốt,
Chẳng
còn lưu được chút hảo hòa;
Lòng
đã quên hẳn chữ Di-Đà,
Trở lại
thói xấu xa hơn trước.
Ham
danh lợi thích điều bạo ngược,
Ruột nỡ
đành cắt ruột không đau;
Mất
tinh-thần yêu mến lẫn nhau,
Ai
cũng chỉ lo giàu phần nấy.
Khắp
nơi, tiếng bất lành vang dậy,
210.
Càng nghe càng thêm áy ruột rà;
Chủ-trương
đường lối Phật Thích-Ca,
Đâu
xúi việc tà ma ngoại giáo.
Lẽ
chơn chánh bị đời ngược đảo,
Hễ
nghe ra bắt não nề lòng;
Thêm
vào đang cảnh ngộ chưa thông,
Nơi đất
khách chờ trông mỏi mắt.
Mọi việc
vẫn còn đang trái mặt,
Bề hiếu
nhi chầu chực vẫn không;
Nội
bao nhiêu cũng đủ đau lòng,
220.
Thân xác lại còn chồng lắm bịnh.
Làm
cho kẻ thật lòng thành kính,
Vì
thân nầy lo lắng đủ điều,
Khiến
lòng đây nghĩ đến bấy nhiêu;
Muốn bỏ
xác hơn điều muốn sống,
Chẳng
ngờ chốn non mây Tiên động.
Ngài
được hay hóa bóng đến đây,
Đạo-sĩ
bèn ngâm lớn như vầy :
228.
Ánh sáng mặt trời trong một giây,
Đi
cùng Nam Bắc khắp Đông Tây;
Thần
Tiên huệ cảm mau hơn bội,
Một
sát-na thông khắp vạn loài.
Vạn
loài gói giữa cái hư không,
Không ấy
thần cơ vẫn nhứt đồng;
Động tịnh
thăng trầm đâu chẳng biết,
Chớ ngờ
cách núi với ngăn sông.
236.
Sông núi đâu ngăn được tấm lòng,
Tấm
lòng trùm phủ cả non sông;
Muốn
đi ai cấm về ai cản,
Kim cổ
bao giờ vẫn chủ ông.
Ông chủ
tạo ra được các loài,
Thánh
phàm tự nắm lấy nơi tay;
Quyền
năng không hạn cùng Trời đất,
Ứng dụng
nhiệm mầu chữ bế khai.
244.
Khai bế máy thần mỗi khắc canh,
Cũng
duyên xưa cũng cảm căn lành;
Mượn cầu
quang tịnh thông đường-đệ,
Giáp mặt
cạn bày lẽ tử sanh.
Sanh tử
nhà tu phải hợp thời,
Sanh
vì độ chúng tử vì đời;
Tử
sanh đặt dưới từ-bi chủ,
Bĩ
thái không quyền buộc dứt hơi.
252.
Hơi dứt sau ngày cửa đạo minh,
Nước
non trở lại cuộc thanh bình,
Chợ
quê đâu cũng dân An-Lạc,
Yên giấc
nhà tu chốn Thứu-Linh.
Linh-Thứu
đâu dung khách yếm trần,
Việc
người không độ, độ riêng thân;
Hẹp
hòi trái thuyết Như-Lai dạy,
Chẳng
ích lợi gì khắp thế nhân.
260.
Thế nhân bị nghiệp xấu từ xưa,
Việc
quấy hay làm, tốt chẳng ưa;
Kẻ bịnh
lại còn dùng độc dược,
Nên đến
khuyên hơn giận lánh đừa.
Đừa
lánh con người sắp đuối chơn,
Sát
sanh cùng một thứ đâu hơn;
Thời
cơ ngang trái dù cho mấy,
Độ
chúng hằng lo độ chớ sờn.
Tiếng
ngâm như chuông ngân trong trẻo,
Mỗi
câu đều khéo léo sâu xa;
270. Rồi
tự nhiên lòng thấy ngầy-ngà,
Tiếng
ngâm dứt mà ta chưa biết.
Ngồi
trân trối như người câm điếc,
Kỳ bí
thay! Những việc Thần Tiên,
Sực nhớ
ra ta cúi đầu liền;
Đội ơn
đức Ngài khuyên cặn kẽ.
Đây với
chúng duyên đâu muốn bẻ,
Nhưng
lý do các lẽ đã bày,
Sống
không làm đạo pháp rộng khai;
Sống
không gọi khắp ai nghe tới.
280. Sống
cái xác ốm đau mệt mỏi,
Khiến
đồng môn lắm nỗi lo lường;
Nên muốn
lìa sớm cõi trần dương,
Hơn
lòng muốn lâu nương hạ giới.
Đạo-sĩ
chận lời và mạnh nói,
Nếu muốn
cho rộng lối đạo mầu,
Cần sống
lo đến lúc bạc đầu;
Nửa chừng
khó định câu đắc thất.
Đạo
càng lớn càng nhiều giờ khắc,
Cứ
truyền khai chớ đặt hạn kỳ;
290.
Huống nhằm thời Phật pháp suy-vi;
Trong
khoảng ngắn dễ gì quảng đạo.
Nếu
các vị tương truyền Tam-bảo,
Hễ kém
khai liền cáo tạ trần;
Sẽ khiến
cho cửa đạo hẹp lần;
Cho đến
lúc không còn vết tích.
Làm
như thế lỗi đường Phật Thích,
“Nguyện
độ cho đến hết chúng sanh;
Nếu có
người khổ sở hôi tanh,
Còn ở
thế gian hành Bồ-tát”.
300.
Đò sáu chiếc đưa người bến giác,
Kiếp
trải qua như cát sông Hằng;
Mỗi đời
đều mỗi gặp khó khăn,
Vẫn tiếp
tục con đàng cứu thế.
Gương
lành ấy muôn đời soi để,
Đời
đáng tôn làm mẹ làm cha;
Độ một
người căn đạo sâu xa,
Bỏ
thân cũng vẫn là hoan hỷ.
Tình
thương ấy chúng phàm khó nghĩ,
Thâm
dường bao hương vị dường bao;
310.
Điều đó em há chẳng hiểu sao?
Hãy bỏ
ý sớm vào cõi tịch,
Tuy gặp
cảnh ngăn giang cách bích;
Không
độ nhiều độ ít cũng nên,
Trong
đôi trăm được một người hiền.
Cũng
quí giá hơn thiên châu báu,
Theo
anh thấy dù người hung bạo;
Nghe
qua lời chánh đạo khuyên răn,
Tất
nhiên lòng đôi phút ăn năn.
Đôi
phút ấy được ngăn tội lỗi,
320.
Như vậy cũng là điều ích lợi;
Sao em
không xét tới điều nầy,
Huống
chi còn nhiều hạng gái trái.
Biết hối
cải một ngày một bữa,
Việc
sái quấy không thêm ra nữa;
Bớt khổ
người lại đỡ tội căn,
Có phải
là việc tốt hay chăng.
Ai
nghĩ đến chẳng rằng hữu ích,
Nếu được
kẻ bền đường Phật Thích;
Hoặc
suốt đời hoặc ít tháng năm,
330.
Không làm cho giống ác mọc mầm.
Điều ấy
lại bội phần cao quí,
Khiến
kẻ được bớt điều tà mị;
Ấy là
làm đạo lý chớ gì,
Em
cũng cần suy nghĩ cạn đi.
Đâu có
một điều chi vô ích,
Ngày
nào chẳng phô-trương đạo Thích;
Phút
nào không giúp ích chúng sanh,
Nếu em
đem bàn toán tính rành,
Số lợi
ích muôn nghìn triệu ức.
340.
Xác ốm đau chớ nên buồn bực,
Tuy rằng
làm khổ cực nhiều người;
Kẻ lo
em chẳng phải lo đời.
Chính
họ vốn là người lo đạo,
Lòng
lo ấy vì yêu Phật giáo,
Nên chẳng
màng khổ não thân tâm,
Nếu
lòng lo kia được thiết thâm.
Duyên
Phật pháp càng làm khắn chặt,
Mượn
đau ốm giúp người đạo đắc;
Nên sống
đâu nên thác hỡi em,
350. Để
chút lòng suy xét thử xem.
Anh bảo
đó có nên hay chẳng?
Chốn
sơn đảnh vốn nơi thanh lặng,
Chẳng
ngồi yên vì bận đến em.
Không
đợi ngày đại hội Thần Tiên,
Đến
trước để cạn khuyên em đấy;
Cầm phất
trần tay liền phe phẩy,
Đạo-sĩ
bèn ngâm kệ như vầy:
358.
Muôn kiếp nối liền một sợi tơ,
Khéo
xiềng buộc chặt máy thiên cơ;
Hóa
quang gặp trước ngày Long-Hội,
Khuyên
chớ ly trần, nhắc gốc xưa.
Bất ngờ
khi mới vừa được khuyến,
Kế tiếp
nghe ngâm tiếng thanh thao;
Ân
tình xưa ẩn nghĩa quí cao,
Lòng bỗng
nhớ đâu đâu xa thẳm.
Đôi
tròng nước mắt lần tươm thắm,
Nghẹn
ngào lên không bẩm ra lời;
Đạo sĩ
chừng như rõ mọi nơi,
Ngài kệ
tiếp những lời sau đấy:
370. Nằm
yên không cựa quậy,
Thân
đau mềm cả thảy;
Chẳng
hề mở miệng than,
Vẫn
không lo trốn chạy.
Từ chỗ
chỉ ngo ngoe,
Đạt đến
nơi bay nhảy;
Là câu
chuyện tò-vè,
Hẳn em
thường trông thấy.
Ta liền
thưa đúng như thế ấy,
Thân
trơn tru không vảy không vi;
380.
Chỉ bền gan chịu một khắc kỳ,
Được mọc
cánh bay đi khắp cả.
Thân
sâu bọ hoàn toàn biến hóa,
Hình
bướm ong nho nhã dịu dàng;
Nếu
không nằm lặng một thời gian,
Sâu bọ
ắt vẫn hoàn sâu bọ.
Đạo sĩ
liền dùng lời so đọ,
Đối với
loài sâu bọ nhỏ nhen;
Vì muốn
cho đổi lốt thấp hèn,
Biết
chịu khó nằm yên trong ổ.
390.
Người há chẳng vì câu siêu độ,
Rán nhẫn
qua các khổ buổi tu.
Lửa tắt
xong sẽ hết khói mù,
Nghiệp
trả dứt còn đâu họa khổ;
Kẻ
lòng muốn được ngày tỏ ngộ,
Chết
không nao huống khổ xem thường.
Cũng
như người được rộng lòng thương,
Gánh
thay chúng mọi đường lao lý.
Tất cả
món của mình yêu quí;
Hiến
cho đời chẳng nghĩ hơn thua,
400.
Lòng mảng lo đến sự giúp vùa.
Quên
nghĩ xác nắng mưa khó nhọc,
Muốn
cho chúng đạo mầu vui học.
Đành
hy sinh ráo rốt thân tâm;
Đạo
như vầy mới gọi cao thâm,
Đáng
cho khắp nhơn dân sùng kính.
Không
ham danh không màng chung đỉnh,
Chẳng
vui ngồi an tịnh riêng thân;
Hằng sống
liền xương cốt chúng dân,
Dân
đau khổ tức thân đau khổ.
410.
Giúp cơm cháo chia cho chăn khố,
Lòng
thương yêu khó độ sao cùng;
Muốn sống
lâu để giúp nhiều lung,
Đâu
đành thác khi dân còn khổ.
Nghe đến
đây thấy lòng thẹn hổ,
Tự
trách mình đức độ kém xa.
Lời
chơn nhơn cao cả thay là,
Vừa
chánh lý vừa là từ ái.
Ta chỉ
nghĩ bỏ thân hoạn hoại,
Dùng
chơn thần lựa lại thân sau;
420.
Khác thời cơ khác cả sắc màu,
Ắt dễ
độ người vào Phật Đạo.
Thân
thể một chỉ thay lấy áo,
Mới
hơn xưa tiện giáo nhơn sanh;
Trong
nhứt thời muôn vạn người lành,
Theo
cho kịp máy linh trời đất.
E chậm
trễ nước tràn bờ bực,
Chúng
sanh làm sao kịp lội bơi.
Nghĩ đến
đây ta chửa mở lời,
Đạo sĩ
đã hiểu rồi và nói;
430.
Xác trần mỗi một kỳ thay đổi,
Lựa hợp
duyên tất đợi dài lâu.
Thời
gian kia ngưng tiếng đạo mầu;
Không
giúp chúng quày đầu hướng thiện,
Việc
hung ác lần lần lan diễn.
Có phải
chăng một chuyện thất cơ,
Huống
đạo trường khai hóa ban sơ.
Đâu phải
tiện dễ như em nghĩ,
Không
hợp thời không phù căn khí.
Khó
phô bày đạo lý khắp nơi,
440.
Như thầy em ra thuận cơ trời,
Còn phải
chịu năm nhồi mười nắn;
Đã nếm
biết bao nhiêu cay đắng,
Lăn
lóc qua nhiều đoạn héo von.
Rốt cuộc
còn nạn cả bao tròn,
Đến
nay vẫn hãy còn vắng mặt.
Lòng
thiện tín đau như ruột cắt,
Lối
không thông chờ bặt tin nhàn;
Sống
chia ly, sống phút tai nàn,
Thảm
trạng ấy nhìn càng đau xót.
450. Kẻ
thiện chí cũng nên nối gót,
Đem từ
ngôn cứu vớt sanh linh.
Thức
giấc mê kẻ sống riêng mình;
Riêng
danh lợi riêng tình thê tử,
Nỡ gây
rối khắp trong dân sự.
Đành dứt
tình máu mủ tay chân,
Trái lời
Thầy Tổ đã dạy phân,
Đời
khinh bỉ phải cần sửa lại.
Biết đạo
phải trọng tôn luật giái,
Nói
cho minh làm phải cho chơn.
460. Xử
công bình ăn ở từ nhơn,
Việc
chi cũng cân phân tội phước.
Làm hiền
đức tránh điều bạo ngược,
Biết
thương nhau chia sớt ngọt bùi;
Đoàn kết
gìn lẽ sống yên vui,
Ai
cũng cứ trau giồi đạo lý.
Cả già
trẻ đồng tâm nhất trí,
Đừng lợi
tư chớ nghĩ riêng thù
Thực
hành cho đúng cách người tu,
Cửa đạo
tất hết lu lại tỏ.
470.
Ai đâu dám đem lời xiên xỏ,
Sẽ làm
cho lớn nhỏ khắp người;
Hướng
tâm về với lẽ tốt tươi,
Làm bớt
được khi trời thảm đạm.
Điều nầy
em hẳn là biết lãm,
Mượn
thời cơ để hoán tâm người;
Đức
thêm minh đạo sẽ chói ngời,
Có phải
lẹ hơn dời đổi xác.
Cây đã
sẵn chỉ công tưới tát,
Mau
trái bông hơn bắt đầu trồng;
480. Hợp
máy thiên người cũng hợp lòng,
Em há
chẳng nhận rằng của hiếm.
Việc bỏ
xác chớ nên khởi niệm,
Khá
gìn thân để khuyến dân tu;
Trời
có mây ấy giúp cho cù,
Nên mừng
chớ có đâu nên ngại.
Đến
đây Đạo sĩ liền ngừng lại,
Rồi
nghiêm trang chậm rãi ngâm ra :
488.
Con thuyền đã quá nửa giang hà,
Dàng dạng
kia là bến Hội Hoa.
Tuy
khách mỏi lòng phu mỏi cánh;
Rán
chèo một mạch nữa thôi là.
Rán
chèo một mạch nữa thôi là,
Tới bến
sẽ thuyền cắm bỏ qua;
Khách
thỏa lòng mong phu thỏa chí,
Bình
minh đền lại lúc phong ba.
Bình
minh đền lại lúc phong ba,
Cảnh
báu người xinh rất phú hòa;
Các Phật
tạn mày Tiên tạn mặt,
Thường
khi đâu dễ bước sang qua.
500.
Thường khi đâu dễ bước sang qua,
Mới cả
dân sinh mới nước nhà;
Trường
hưởng thanh bình trường phú túc,
Đao
binh không kẻ mở lời ra.
Đao
binh không kẻ mở lời ra,
Ai
cũng hiền lương cũng hiếu hòa;
Tâm
trí thông minh siêu dục lợi,
Người
cùng thương lẫn khắp gần xa.
Người
cùng thương lẫn khắp gần xa,
Trẻ biết
đưa tay dắt tuổi già;
510.
Con hiếu vui kề lưng cõng mẹ,
Xóm
làng không tiếng ó rầy la.
Xóm
làng không tiếng ó rầy la,
Người
chẳng thù nhơ chẳng vạy tà;
Ngoài
lộ của rơi không kẻ lượm,
Lòng
trong như ngọc trắng như ngà.
Lòng
trong như ngọc trắng như ngà,
Đối với
người nay hẳn khác xa;
Ai
cũng tự mình làm thước tấc,
Xử
phân đâu đó rất dung hòa.
520. Xử
phân đâu đó rất dung hòa,
Giữa kẻ
quan dân chẳng sống xa;
Khổ vẫn
cùng chia vui vẫn sớt,
Tinh
thần như đúc một lò ra.
Tinh
thần như đúc một lò ra,
Nhà Phật
con Tiên hẳn đấy là;
Muôn
tuổi an cư muôn tuổi sống,
Phu
chèo rán giúp khách sang qua.
Lời đẹp
đẽ tợ thêu hoa gấm,
Ý
nghĩa sâu càng gẫm càng hay;
530.
Khác hơn lời của kẻ trần ai,
Ta cảm
thấy lòng đầy kính trọng.
Khi Đạo
sĩ ngâm vừa dứt giọng,
Ta chắp
tay quì xuống tạ ân;
Rằng:
nếu không Đạo sĩ giáng trần
Tôi sẽ
ném mất thân đâu khỏi.
Ân tái
tạo tợ non cao vọi,
Thân mọn
nầy biết đối sao vừa;
Lòng
xin ghi nhớ mãi sớm trưa,
Trải
muôn kiếp cũng chưa quên được.
540. Đạo
lý vẫn một lòng sau trước,
Vừa độ
thân vừa giúp độ người;
Chừng
nào không ai khổ trong đời,
Mới
đành chịu yên ngồi một chỗ.
Đây từng
đứng trước ngôi Phật Tổ,
Đã
nguyện ra lời đó nhiều lần;
Nên dù
cho có đổi muôn thân,
Chí phổ
hóa không dừng bỏ được.
Dù
sóng gió dù bao xuôi ngược,
Lòng
thương người sau trước một lòng;
550.
Chỉ hềm vì lối bước đầy chông,
Chưa sớm
được như lòng đã nguyện.
Mới nảy
ý thay đò đổi chuyến,
Chớ
đâu quên khuyến thiện nhân sanh;
Chính
lúc nào đây cũng thấy mình,
Cùng mọi
kẻ như hình có một.
Khi
nghe thấy khổ ai vướng cột,
Tự
nhiên đây gan ruột như bầm.
Mất ngủ
nghê mất cả ăn nằm,
Cứ suy
nghĩ phải làm sao cứu;
560.
Nhưng tài thiếu đức càng không đủ,
Nhiều
khi không thành tựu ý nguyền.
Càng
thấy lòng buồn tủi không yên,
Ước
sao hễ muốn liền nên được;
Hầu
hóa độ những người bạo ngược,
Bớt khổ
sầu qua được nạn tai.
Đạo sĩ
rằng tâm ấy quí thay!
Nhưng
dù Đức Như Lai đi nữa;
Cũng
không thể ra tay cứu chữa,
Kẻ xưa
nay không chứa phước duyên.
570.
Giữa chúng sanh đều có oan khiên,
Luật
nhân quả công miêng lắm đấy!
Vay
chi tất phải là trả nấy,
Không
một ai trốn chạy được đâu;
Chư Phật
tuy có đủ phép mầu,
Cũng
không nghịch được câu tội phước.
Mọi
tai khổ chỉ cho biết trước,
Đó là
phương cứu vớt chúng sanh;
Nếu
nghe theo tất được an lành,
Bằng
trái cải thì đành khốn khổ.
580. Kẻ
mắc nạn Phật dù muốn độ,
Nhưng
họ không hối ngộ chí cầu;
Dìù
cho lòng muốn độ đến đâu,
Cũng
không thể làm sao độ được.
Lắm kẻ
biết làm điều bạo ngược,
Tất sa
vào địa ngục chẳng không;
Họ bảo
rằng cũng vẫn vui lòng,
Chẳng
sợ nể cũng không chừa bỏ.
Tội
phước có kẻ cho không có,
Việc
ác gian lớn nhỏ không chừa;
590. Bảo
rằng cần thỏa mọi thích ưa,
Chết
là hết có chi hồn phách.
Có kẻ
biết đọa siêu rành mạch;
Nhưng
vẫn làm đủ cách tội tình,
Bảo dối
rằng vì phận gia đình,
Nên
không thể tránh mình việc quấy.
Có kẻ
đã qui y thọ giái,
Vẫn
không chừa những cái xấu xa,
Đem
cái tu sơn phết ngoài da,
Lừa bá
tánh để mà thủ lợi.
600.
Những hạng người đã vừa nói tới;
Nạn ách
thường chờ đợi họ luôn,
Họa đến
nơi muốn tránh không đường,
Như cột
mục gặp luồng dông tố.
Khi ấy
họ phải đền tội khổ;
Đức
tài bao cũng độ không xong,
Vậy
khuyên em chớ có buồn lòng;
Rằng
thiếu đức việc không như nguyện.
Rán chỉ
cách cho người hướng thiện,
Tất
nhiên trừ hết chuyện khổ nàn,
610.
Thì những điều em đã xốn xang;
Sẽ nhờ
đó tiêu tan tất cả.
Miễn
khắp chúng hiền lương một dạ,
Có đức
hay không há màng chi,
Em đã
nguyền nối chí từ bi;
Đường
phổ độ cứ đi chớ ngượng.
Treo
gương chánh cho đời soi hưởng,
Đem lời
chơn dạy chúng tu hành;
Kẻ
chưa thông nỡ dạ bạo hành,
Mình
cũng nhớ niệm tình hỷ xả.
620. Hết
lao lý đến ngày thong thả,
Trời
há không nổi gió một giây.
Chớ ưu
buồn thân gởi nước ngoài,
Có yêu
chúng có ngày trở gót.
Đạo
trường cửu không như bèo bọt,
Chớ lo
không gặp cuộc trùng hưng;
Nay
nơi nào hễ có nhân dân,
Cứ đến
dạy không phân nòi giống.
Đến
đâu cũng đạo mầu gieo rộng,
Đuốc một
cây mồi đặng nhiều nhà;
630.
Thật hành câu: tự giác, giác tha,
Đi khắp
chỗ đâu là cũng thế.
Tiện
cũng độ không thì cũng tế,
Nói
cho cùng một kẻ cũng nên;
Dân
khác nào như nước đang lên,
Cảnh
trôi nổi trở nên đâu khỏi.
Họ
chưa rõ cũng cần kêu gọi.
Lo
thuyền bè chống chọi cho qua,
Nếu đợi
khi nước ngập trần nhà;
Chừng ấy
mới bôn ba sao kịp.
640.
Chúng sanh khá tu cho kíp kíp;
Tránh
hung sùng bỏ việc tham lam,
Giúp
nguy nghèo cứu kẻ khổ kham;
Dứt
thù oán bỏ tâm nhơn ngã.
Nên dắt
nhau trên đường đạo cả;
Tạo
phúc đời trừ họa cho dân,
Càng rẽ
chia càng tự giết thân;
Như bè
đứt dây chằng phải rã.
Nước một
giọt đâu thành biển cả;
Cây
đôi que dễ há nên rừng,
650.
Thân bao to chẳng có tay chân;
Việc
chi cũng thập phần bất tiện.
Người
càng muốn làm cho lớn chuyện;
Càng
phải nên hợp khuyến cho đông,
Một
người làm việc cả khó xong;
Đời đạo
vẫn thế không sai chạy.
Già trẻ
cũng cần mau hợp lại;
Để chống
ngăn họa hại dân lành,
Những
thù nhơ oán chạ đáng khinh;
Nên dẹp
gác chớ nên cố ý.
660. Nếu
được mạnh tinh thần đạo lý,
Các xấu
xa tất thị tiêu tan;
Sẽ thắng
qua mọi việc dễ dàng;
Khổ nạn
khỏi dân bang hưng thới.
Đạo
sanh họa bởi hành sái lối,
Như trồng
cây trở cội lên không,
Cây
héo xào chẳng tại hóa công;
Chính
tại kẻ đem trồng ngược ngạo.
Nếu
người cứ thật hành chánh đạo,
Nước
được yên dân áo được lành,
670.
Ai cũng đều biết trị lấy mình;
Trọng
phép nước và gìn luật đạo.
Người
thương người ở ăn ngay thảo,
Giúp
nhau không lừa đảo lẫn nhau,
Gặp kẻ
nguy biết xả thân vào;
Giúp
được kẻ chẳng rao ân nghĩa.
Mọi
người tự kết thân chặt chịa,
Tránh
nạn chung gây phúc lợi chung,
Tuy yếu
mà rất mạnh vô cùng;
Sẽ lui
được tử thần giặc đói.
680.
Được đi đúng theo lời vừa nói,
Tất
nhiên ai cũng gọi đạo chơn,
Em mau
lo giác đác thiệt hơn;
Cho bá
tánh tu thân kẻo trễ.
Cơ tạo
hóa đổi xoay thời thế,
Đến rất
mau dường thể tên bay,
Tuy
không không chừng đến chẳng hay;
Chớ
khi dễ có ngày phải mắc.
Vì háo
danh khi lơi khi nhặt,
Nhưng
giờ nầy đã thắt lại rồi,
690.
Chỉ kéo mây trong một khắc hồi;
Nổi sấm
sét dậy trời dậy đất.
Mây
giăng khắp thì mưa kế rớt,
Chỉ nội
trong giây khắc không lâu,
Việc đất
trời vừa lạ vừa mầu;
Xưa
nay vẫn tròn câu huyền bí.
Ví
loài kiến thân hình nhỏ tí,
Không
tâm can tỳ vị như người,
Cũng
biết bò đi tới đi lui,
Gặp mồi
biết chạy mời bầy lũ.
700. Đồng
loại chết biết lo quần tụ,
Xúm
nhau khiêng về tổ không buông;
Kiến
khác loài khi đến xâm luồn,
Chúng
lại biết kết thân nhau chống.
Biết bờ
cõi biết yêu nòi giống,
Có cả
nhân cả dũng cả tình;
Thử hỏi
người hiện tại thông minh,
Có biết
rõ mối manh chăng nhỉ.
Cơ tạo
hóa có đâu giản dị,
Càng
nghĩ suy càng thấy minh mông;
710. Đến
như điều dời biển đổi sông,
Sự thường
có nào không chớ biếm.
Em đã
được Phật Ngài chỉ điểm,
Cõi
nhơn gian biến chuyển thế nào;
Các việc
đều sẽ có ngày sau,
Đâu phải
dối nên rao dân biết.
Rán tu
sớm đừng chờ tới việc,
Nhân
càng lành tai nghiệt càng xa;
Khổ trần
gian chỉ một lối ra,
Lối ra
ấy chính là đạo đức.
720.
Thiếu đạo tợ cá kia thiếu nước,
Khó
tránh qua cảnh xác thây phơi;
Thiếu
đạo nên mới rối trong đời,
Xem
xét kỹ tất người thấy rõ.
Đạo là
mắt của đời để ngó,
Mắt nếu
không đường ngõ đâu thông;
Đạo
nói đây là đạo chánh công,
Không
phải thứ tà tông ma giáo.
Chơn
Thích-Ca và chơn Khổng Lão,
Thật từ
bi thật đạo trung dung,
730.
Thật tâm vô, không tận không cùng;
Tuy ở
tục siêu trong thế tục.
Gần
bùn vẫn mùi bùn chẳng hút,
Lòng
Phật Tiên nào khác hoa sen,
Mang
xác phàm sống cảnh đua chen;
Vẫn
không bị ố hoen một vật.
Chơn
thật kẻ rành đường sáng suốt;
Dắt
người không bị dắt bao giờ,
Nẻo tử
sanh thông thạo bến bờ;
Chẳng
phải thứ đứa mờ dắt quáng.
740.
Nơi sơn đảnh anh dùng đạo nhãn,
Thấy
trần gian nhiều hạng dối tu,
Chính
mắt mình chưa hết chứng mù;
Dắt cả
đám người đui trong tối.
Nơi trống
trải không tìm thấy lối,
Chỗ bịt
bùng cứ nối nhau đi,
Đến chết
mà chưa đạt những gì;
Điều nầy
rất hại nguy to tát.
Hại
riêng mình hại nhiều kẻ khác,
Còn hại
lây đến nước đến dân,
750. Hại
nầy to hơn hại Ôn-thần;
Càng
truyền rộng càng phần nguy hại.
Nói đạo
lý lòng không bác ái,
Xưng
tu hành việc quấy không buông;
Các quỉ
tà cứ ám ảnh luôn,
Khiến
tâm chí thêm cuồng điều ác.
Thấy
sanh chúng bị ma giả thác,
Càng
xem lâu càng bắt đau lòng,
Nhưng
ngặt vì duyên đạo chẳng đồng;
Tuy
thương xót nhưng không thể độ.
760.
Nên anh mới cùng em hội ngộ,
Khuyên
em vui chịu khổ xác trần,
Để cứu
người khỏi bến mê tân;
Núi to
mấy khó cân công đức.
Xưa
nay đã từng làm việc Phật,
Em
cùng người đã rắc sâu duyên,
Tất
nhiên là lời của em khuyên;
Sẽ gợi
được giống hiền của chúng.
Đời đã
mỏng như đèn tim lụn,
Trễ một
ngày luống uổng một ngày;
770.
Em gắng công đường giác nối khai,
Sẽ
thành việc không sai ý nguyện.
Ta cúi
đầu cám ơn lời khuyến,
Chữ
giác dân xin hẹn không quên,
Xác nầy
còn cũng vẫn tiến lên;
Xác dẫu
mất cũng nguyền tái thế.
Đến chừng
nào ngục môn đều phế,
Không
còn người tồi tệ mới thôi.
Nguyện
nầy xưa từng đã nguyện rồi,
Chưa
thành tựu bởi đời gay ngạnh.
780.
Lúc nào cũng nằm trong nghịch cảnh,
Khó
châu lưu khó gạnh hết câu;
Đạo sĩ
liền gật nhẹ lấy đầu,
Hiện
như thế ở đâu cũng thế.
Xưa ác
đạo Ma-vương đã thệ,
Phá Phật
kỳ mạt-thế cho tan!
Lời thệ
kia nay đã đến màn,
Chúng
đâu cũng tràn lan quấy rối.
Ngăn hại
kẻ đạo mầu rõ mối,
Cám dỗ
người tăm tối chưa thông;
790.
Chúng đặt điều nhạo báng đạo tông,
Có đủ
cách dứt lòng Phật Thích.
Kẻ bị
chê hoặc vì công kích,
Liền
thối tâm bỏ việc tu hành;
Người
mang tai hoặc khổ thân sanh,
Đăm khủng
hoảng dứt tình nhà Phật.
Chúng
ghét cả ai người đạo đức,
Chướng
ngại cho kẻ phát thiện tâm;
Nhưng
đã là vi diệu thậm thâm,
Đạo Phật
vẫn muôn năm sáng tỏ.
800.
Càng bó buộc càng nhiều khăn khó,
Càng
làm thêm cho có cuộc thi.
Nếu nhẫn
qua được cái khổ nguy,
Ngôi đạo
quả tức thì sẽ đắc.
Không
nạn ách không người gay gắt,
Thì
làm sao biết sắt biết chì;
Không
cam go chẳng gặp hiểm nguy,
Đường
Tam Tạng ai đi cũng được.
Đây là
cũng kể như bàn lược,
Càng lắc
lư càng được lọc trong;
810. Kẻ
quyết tu hay chẳng thật lòng,
Giờ nầy
mới mắt trông thấy rõ.
Lốt
che đậy lần lần lột bỏ,
Thật
tướng ngày càng lộ ra ngoài;
Cảnh
ngược xuôi đều lợi cả hai;
Ấy là
lối tùy nghi của đạo.
Nên
trì chặt đâu nên lui tháo,
Đừng để
ma khiếp đảo lòng mình,
Thua
chúng ma tất mất chơn linh;
Mất
luôn cả nhân sanh giá phẩm.
820. Sống
không khiến cho thiên hạ cảm,
Thác hồn
rơi trong đám Ma-vương,
Muôn đời
không thấy lối Tây-Phương;
Kể sao
hết các đường thảm khổ.
Hiện tại
dứt mất cơ tỏ ngộ,
Ngày
biến thiên thây bỏ trôi sông,
Hoặc
thiêu mình trong đám lửa hồng;
Chẳng
gặp được buổi rồng-mây hội.
Tông tổ
trách hờn nơi chín suối,
Rất uổng
sanh ra lối con người,
830. Gặp
hội lành chẳng sửa tốt tươi;
Để sa
đọa vào nơi hắc ám.
Dịp
báu quí mà không biết nắm,
Qua rồi
muôn kiếp chẳng tìm ra,
Nơi động
trung phóng mắt xem qua;
Mỗi
khi thấy người xa đạo cả.
Anh
không xiết xót đau trong dạ,
Lòng
tiếc thương biết tả sao cùng,
Càng
tiếc vì đời sắp qui chung;
Thiện
làm một phước đong mười lượt.
840.
Đâu cũng có Phật Tiên đón rước,
Nếu thật
tu ắt được mau thành,
Thành
đạo rồi hưởng quả vô sanh;
Các
sóng khổ tức bình tịnh cả.
Nếu
thiếu đức không thành chánh quả,
Cũng
được đưa qua cõi Thượng Nguơn,
Sống
an nhàn với tuổi muôn xuân;
Không
hoạnh tử không lâm ác bịnh.
Không
can qua không ai thôn tính,
Hạn
hán không cơ kỉnh (1) vẫn không,
850.
Núi xanh màu sông một sắc trong;
Cảnh
hòa hảo người đồng hạnh phúc.
Gặp hội
nầy dễ đâu mấy lúc,
Chẳng
chịu tu hết cuộc nào tu,
Ánh
trăng thanh khó cảm người mù;
Lời ấy
thật chớ đâu vô lý.
Theo
anh đã vừa qua thiết nghĩ,
Phần lớn
do chúng quỉ ngăn đường;
Vậy em
cần dụng gậy Kim cương,
Vẹt lối
cứu dân đương mê khổ.
860.
Trong nghịch cảnh có người ái mộ,
Ấy
chơn duyên rán độ cho thành;
Có khổ
lao mà nhớ tu hành,
Đâu phải
kẻ thường tình được có.
Xưa kẻ
ấy việc lành lớn nhỏ,
Đã từng
làm và có hướng tu;
Hột giống
kía hết lúc ép thu,
Sắp nảy
nở mới đầu sanh đó.
Không
trui đốt qua từng lửa đỏ,
Sao
đúc nên gươm có báu danh;
870.
Chịu khổ tu nếu chẳng công thành,
Anh thệ
mất thân trên thạch động.
Lời nầy
chẳng phải lời nói khống,
Xin em
truyền cho chúng nên tin;
Rán lo
tu cải sửa tánh tình,
Chớ ngại
lối gập ghình khó bước.
Nếu
người chưa tạo nhiều việc phước,
Trên đầu
luôn có Phật Thần che;
Ác ma
không dám đến lăm le,
Cảnh
khổ mấy cũng qua khỏi được.
880.
Thuyền Bát Nhã Phật Ngài chực rước,
Khỏi đắm
trong biển nước mênh mang,
Đạo sĩ
liền cất tiếng ngâm vang :
883.
Khắp trời tiếng sấm nổ kinh hoàng,
Nước dậy
gió đùa sóng phủ lan;
Núi ngập
thú hùm trôi lểnh-nghễnh,
Nhà
trôi nhân loại nổi làng khang.
Người
lành Bát nhã thuyền kề rước,
Kẻ dữ
mập xà cá đến mang;
Máu vật
máu người làm đỏ nước,
Chúng
sanh khó tránh đại tai nàn.
891. Đại
nàn chẳng có chẳng bình phân,
Máy tạo
khéo dùng cuộc nước dâng;
Bụi bặm
trong trần trôi sạch cả,
Bợn
nhơ trên thế rửa không trơn.
Thay
sơn hải cảnh thay điền địa,
Mới cỏ
cây màu mới vật nhơn;
Chốc
lát trở nên tân thế giới,
Bồng
lai cũng dám đến so cân.
899.
So cân chẳng kém cõi Tiên bồng,
Muôn
kiếp dễ gì được mắt trông;
Kẻ dữ
mong xem nên sửa tánh,
Người
lành muốn gặp rán trau lòng.
Ít nhiều
phước đức lo đừng bỏ,
Hôm sớm
Di-Đà niệm chớ không;
Lao khổ
dù bao xin gắng chịu,
Đạo mầu
sẽ thỏa chí cầu mong.
907. Cầu
mong khi được hẳn lòng vui,
Quả đạo
nhớ vun đến lúc mùi;
Thuận
gió thì càng cho tiến tới,
Ngược
dòng cũng chớ để quày lui.
Siêu
phàm chí nguyện hằng ôm ấp,
Đắc đạo
tâm thề vẫn nắm nuôi;
Sau
trước khư khư như sắt thép,
Nhiệm
mầu có thuở được phanh phui.
915.
Phanh phui được hết máy âm dương,
Sanh tử
tự tay nắm mối giường;
Mình
nhẹ nhẹ sao không khác gió,
Lòng
trong trong đến giống như gương.
Ái ân
hết buộc cho sầu khổ,
Danh lợi
thôi làm phải khóc thương;
Ở thế
nhưng ra ngoài cõi thế,
Thần
Tiên cũng bước một con đường.
923.
Con đường Tiên Thánh khác đường phàm,
Nơi chốn
trần ai khắp nữ nam;
Có lỗi
ít nhiều nên sám hối,
Điều
nhân nhỏ lớn rán lo làm.
Nhớ
câu tội phước chừa lòng ác,
Sợ lẽ
luân hồi bỏ tánh tham;
Hôm sớm
lo tu theo chánh đạo,
Đua
bơi việc quấy cũng nên nhàm.
931.
Nên nhàm thói xấu của người đời,
Ai
cũng chẳng qua mấy tất hơi;
Còn thở
hơn thua bàn đủ lẽ,
Hết
hơi thắng bại nín không lời.
Cảnh đời
đâu ngỡ như là mộng,
Mạng sống
nào hay tợ bóng trời;
Luống
uổng đem tâm mưu vạn sự,
Việc
chi rồi cũng trút theo hơi.
939.
Theo hơi sống cũng theo hơi tàn,
Hơi nắm
quyền trong khắp thế gian;
Xét cạn
há không đăm chán nản,
Suy
rành đâu chẳng khiến buồn than.
Rán tu
để khỏi vòng sanh tử,
Cần tỉnh
cho qua khắp khốn nàn;
Chớ
nhiễm say theo trò giả tạm,
Vật
không trường hưởng tội đeo mang.
947.
Đeo mang nghiệp tội phải đầu sanh,
Mang
xác trần ai lắm nhọc nhành;
Già bịnh
làm thân mòn tợ đục,
Lo sầu
khiến trí rối như đnh.
Điều
nào vừa ý không hay gặp,
Những
việc trái lòng cứ vấn quanh;
Khổ thảm
nhiều hơn là vui sướng,
Muôn
xưa như kiếp hiện thân hành.
955.
Hiện hành có Phật giáng lâm trần,
Nếu biết
hồi đầu chuyển phướcduơn;
Khỏi
kiếp đau sầu ngày Mạt thế,
Được
thân khoái lạc buổi Tân nguơn.
Nhà
Tiên cư trú không già bịnh,
Cảnh
Phật nương kề chẳng chuyển luân;
Kỳ
chót dễ đâu tìm gặp được,
Lo tu
cho kịp hội Phong Thần.
Đạo sĩ
vừa ngâm xong và nói,
Ai muốn
xem được cõi Thần Tiên;
Cũng
nên mau chịu khó làm hiền,
Đem cảnh
khổ đổi miền Cực lạc.
Dịp hiếm
có đừng chờ khi khác,
Rán lo
tu để thoát ngục trần;
Giữa
núi rừng mà có các lân.
970.
Nơi đồng áng phồn hưng phố xá,
Dành
thưởng kẻ biết lo hối quá (2);
Há
không mau sửa dạ hiền lương,
Riêng
cứu thân còn độ song đường.
Hết
lao khổ được cơn khoái lạc,
Gặp bầu
nước trong khi đang khát.
Hãy
mau tay ôm chặt vào lòng,
Lúc mê
lầm gặp đạo phổ thông
Không
vui học còn trông chi nữa,
Thân
khi dơ biết nhờm đi rửa.
980.
Tâm thấy hèn chẳng sửa cho mau,
Đời
nay thường phía mặt chùi lau;
Ít ai
chịu giồi trau bề trái,
Ngoài
sạch sẽ trong lòng dơ dáy.
Vẫn để
yên chẳng lấy làm nhờm,
Khác
người xưa trong giữ cho thơm;
Bề
ngoài ít ai cần săn sóc,
Cũng
hình người cũng đồng xương hóc
Nhưng
tâm tình khí cốt khác nhau,
Càng
nhìn lâu càng bắt đớn đau;
990. Cảnh
tang tóc bảo sao to tát,
Tuy
nhiên ở dưới từng sỏi cát.
Có nhiều
vàng rải rác đó đây,
Bỏ
trôi chìm thì rất uổng thay;
Em
cũng rán ra tay đãi lấy,
Hết bỉ
cực tới ngày thạnh thái.
Xin đừng
buồn khi trải nắng mưa,
Em nhớ
chăng độ bảy năm xưa;
Cũng
đang lúc thời cơ rối rắm,
Em đã
chán muốn về sơn Cấm.
1000.
Chẳng muốn nằm trong cảnh tương tàn,
Khi ấy
liền có Phật Tây phang;
Đêm
thanh vắng bên màn hiện đến,
Rằng
con rán đưa người tới bến.
Có cam
go mới hiển đạo mầu,
Không
tối tăm đuốc dụng vào đâu;
Có ác
mới có câu khuyến thiện,
Huống
đã thọ ân Thầy như biển.
Phải
rán lo đáp vẹn trọng ân,
Nên
thương người như thể thương thân;
1010.
Lo dạy dỗ chớ đừng buồn chán,
Bởi dốt
nát nghĩa mầu chẳng hãn.
Mới dắt
nhau đến đoạn máu rơi,
Há
không thương để giảng cạn lời;
Sao lại
muốn về ngồi thạch động,
Người
chết hết riêng mình còn sống.
Chẳng
buồn sao? Chẳng động tâm sao?
Hiện
chúng sanh đang rớt dưới ao,
Giờ
không cứu chừng nào mới cứu.
Lòng
con chán động trên Linh-Khứu;
1020.
Phật đến đây khuyên chớ qui sơn,
Lấy từ
bi lưu lại trong trần.
Vớt được
một linh căn cũng phải,
Đời mạt
pháp thú cầm chi loại;
Còn biết
tu cho giải nghiệp oan,
Huống
loài người có trí khôn ngoan.
Há chẳng
biết tìm đàng đạo đức,
Con chớ
ngại cứ lo khuyên dức (3);
Sẽ còn
nhiều người biết hồi đầu,
Hội
Long hoa sẽ chẳng còn lâu.
Rán
giúp chúng về chầu chư Phật,
Phật
nói xong hóa quang bay mất;
Văng vẳng
lời kệ rất siêu mầu,
Từ xưa
nay dễ mấy ai đâu.
Được mật
giáo cao sâu lời kệ,
1035.
Con lành hiểu máy Thiên,
Thanh
trược rất tường Tế;
Đắc thất
cứ lo Hoằng,
Đạo đời
luôn vẹn Thệ.
Kẻ dốt
chỉ đường Khai,
Sĩ hiền
bày cửa Huệ;
Thành
bại vẫn độ Nhơn,
Công đức
siêu trên Thế.
Vắng
bóng Phật hương còn lưu để,
Mùi
thơm tho khắp cả gian phòng;
Em như
vừa mới tỉnh giấc nồng,
Vừa cảm
đức vừa lòng kinh hãi.
Lời ấy
há em không nhớ lại,
Để sớm
hôm bơi chải cứu đời;
Nếu trễ
qua chẳng kịp cơ trời,
1050.
Thương bá tánh nổi trôi biển cả.
Ta cúi
đầu cảm lời quí hóa,
Đúng
như lời Ngài đã nhắc qua;
Trước
kia vì gặp cảnh nồi da,
Đây vừa
thẹn vừa là chán ngán.
Muốn
qui sơn ngồi trên đá tảng,
Tịnh
thiền cho đến đoạn khí trần;
Cảnh
giết nhau lòng chẳng muốn gần,
Khi đó
Phật hiện thân bảo thế.
Ân đức
ấy lấy chi so kể,
1060.
Đây vẫn còn ghi để không quên;
Cũng đồng
như cảnh tượng ở trên,
Đây vừa
mới nghĩ nên bỏ xác.
Liền
có Ngài hiện ra trước mắt,
Đem
nhiều lời châu ngọc dạy cho;
Khiến
cho lòng thêm nỗi âu lo,
Ân nặng
biết sao cho vẹn được.
Thân gầy
lại đang nhiều trái ngược,
Việc
khó làm nên được ý mình;
Nếu
cánh buồm bị gió xé banh,
Ân chẳng
vẹn cơ duyên cũng lỡ.
Lại
đang cảnh cửa nhà đồ sộ,
Cột bé
e khó đỡ vững vàng;
Nói tới
đây Đạo sĩ chặn ngang,
Liền cất
giọng kệ vang như kiểng.
1075.
Lái một thuyền lớn ngàn,
Chuyển
đi khắp hải giang;
Tượng
một con tuy ít,
Kéo được
gỗ đầy đàng.
Mặt trời
vẫn có một,
Soi
sáng khắp trần gian;
Đừng
buồn thân lẻ một,
Nhỏ dầu
có sức lan.
Bảo tiếp
rằng khắp trong nhân vật,
Thăng
hay trầm chỉ một lần nầy;
Dễ
siêu mà cũng dễ đọa đầy,
Khá
giúp họ khỏi sai đường lối.
Thành
Tiên Phật luôn luôn nhàn rỗi,
Rớt quỉ
ma mãi mãi lao lung;
Được
làm người ấy cũng bực trung,
1090.
Rơi vào loại côn trùng tối hạ.
Lành ắt
siêu, dữ thì phải đọa,
Chơn
chánh nên, giả trá thì hư;
Tà bất
công, chánh vẫn vô tư,
Thân
dù khổ miễn người vui được.
Việc lớn
nhỏ cũng vì dân phước,
Chánh
đó ư! và phước đó ư!
Tuy giải
bày có lắm ngôn từ,
Kết luận
chỉ mấy lời nói đó.
Nhiệt tâm
có tất làm chẳng khó,
1100.
Em nhớ khuyên đời chớ ngại nghi;
Và
riêng em khá bớt ưu bi,
Cây một
cội chung qui nhiều trái.
Còn cơ
duyên xác còn tồn tại,
Dù trải
qua đèo ải bao phen;
Chớ ngại
chi thân thế yếu hèn,
Trong
hèn yếu có chen cứng mạnh.
Đừng nệ
khó cũng đừng than bịnh,
Máy Trời
kia đã định từ lâu;
Lúc em
vừa mười sáu tuổi đầu,
1110.
Đã thấy bóng nhiệm mầu có phải?
Có một
vật sáng xanh hình thái,
Thường
đêm bay qua lại trong màn;
Đẹp
như sao sáng sắc dịu dàng,
Nhìn
lâu mấy không chan chói mắt.
Em đã
lắm lần đưa tay bắt,
Nhưng
không hề nắm được một lần;
Kỳ diệu
thay vật thấy rất gần,
Vói lấy
mãi bao lần không đụng.
Tuy
quái lạ em không kinh khủng,
1120.
Trái lại cho Phật dụng phép mầu;
Khi ấy
lòng em rất tin sâu,
Sự đạo
lý bắt đầu tinh tấn.
Tâm
thường sáng hơn thường muôn bận,
Đêm
đêm tai nghe giảng đủ lời;
Lẽ thạnh
suy bĩ thới trong đời,
Đâu
chánh giáo đâu nơi tà đạo.
Nghe
không sót những lời châu báu,
Chơn
Thần luôn đi dạo khắp phương;
Như
nào là Địa ngục Thiên đường,
1130.
Cảnh vui khổ đã từng thấy rõ.
Điều ấy
rất ít người tìm có,
Em há
không cho đó phi thường;
Vật
sáng kia là Định Minh Cương,
Phật
dùng để ngăn đường tà quái.
Hộ em
lúc xác còn thơ dại,
Mà
lòng tu sớm lại phát sinh;
Để khỏi
loài yêu quỉ trá hình,
Hại mạng
hoặc dắt khuynh đường ác.
Còn đến
chuyện khi ngâm khi hát,
1140.
Em thường nghe réo rắt bên tai;
Cũng
là do nơi Đức Phật Ngài,
Mượn lời
ấy để khai đạo khí.
Có nhuần
thắm được mùi đạo lý,
Giúp
cho em thần trí sớm khai;
Để em
dìu bá tánh sau này,
Được tỉnh
giấc mê say lầm lạc.
Người
của em từ hồn lẫn xác,
Hầu hết
nhờ Đức Phật săm soi;
Giúp
cho em tất giúp cho đời,
1150.
Bởi em với mọi người hữu thệ.
Lúc ấy
Phật rõ ngày hậu thế,
Dùng Định
Minh Cương vệ thân em;
Có phải
chăng mỗi lúc em xem,
Vừa hớn
hở vừa thêm tin tưởng.
Phật
khéo giúp sâu xa ảnh hưởng,
Đạo sớm
nên, tâm lượng sớm khai;
Kẻ thọ
ân to lớn thế này,
Há chẳng
nhớ đêm ngày lo trả.
Nghe đến
đây bồi hồi trong dạ,
1160.
Nhớ lại khi thấy quả minh châu;
Mỗi
đêm thường bay múa trên đầu,
Sáng
chẳng chói xem lâu thấy mến.
Mỗi
ngày ta chờ cho đêm đến,
Để
cùng vui với ánh sáng xanh;
Lòng mộ
tu lại gặp điềm lành,
Ta
không xiết kính tin mừng rỡ.
Chuyện
lạ tự lòng mình hiểu nhớ;
Không
đem ra nói hớ cho ai;
Kể
cũng là mười mấy năm dài,
1170.
Nay được nhắc đến tai mới nhớ.
Ta vừa
cúi đầu vừa lời mở,
Vật lạ
kia thật có như lời;
Đây
không nhờ vật ấy đến nơi,
Chưa ắt
trở nên người tu niệm.
Thêm
được có những lời chỉ điểm,
Tai
đây thường nghe đến ngày đêm;
Khiến
cho lòng tinh tấn càng thêm,
Trọng
đạo đức hơn trên vật tạm.
Ân ấy
khiến lòng đây quá cảm,
1180.
Sớm hôm lo bái sám không rời;
Nói đến
đây Đạo sĩ ngăn lời,
Rằng :
em nhớ đang hồi khi ấy.
Em có
viết một bài tấu khải,
Đã gởi
cho thập giái Phật Tiên;
Chứng
cho em có những lời nguyền,
Gánh bớt
khổ dân trên quả đất.
Noi Thất
tổ chỉ đường tu Phật,
Nguyện
đến loài súc vật côn trùng;
Nghe
tiếng em hoặc thấy hình dung,
1190.
Liền cảm mến phát lòng mộ đạo.
Ngày
nào còn có người khổ não,
Em còn
lo chỉ giáo không thôi;
Thà
vui lòng cõi Phật mất ngôi,
Không
vui bỏ một người nào khổ.
Em còn
nguyện mẹ cha tông tổ,
Bảy đời
qua được độ siêu thăng;
Khi
nguyện rồi em có nhớ chăng,
Một
ánh sáng bay băng ngang mặt,
Lại có
mùi thơm tho nồng nặc.
1200.
Lúc ấy em rởn óc cả người,
Vừa
vui mừng vừa sợ oai Trời;
Không
hình ảnh vô hồi mầu nhiệm,
Ánh
sáng ấy Phật Ngài chứng điểm.
Những
lời em đã nguyện đấy ư.
Chẳng
thành tâm nguyện đến bao chừ,
Cũng
khó thấy được nơi điềm quí.
Ta liền
thưa : thật là trúng lý,
Tâm của
đây lúc ấy thật nguyền;
Nên cảm
lòng của các Phật Tiên,
1210.
Sau khi nguyện thì liền ứng chứng.
Từ ấy
đây hằng lo bổn phận,
Sao vẹn
tu? Sao trọn lời nguyền;
Rồi bỗng
nhiên nầy đến bỗng nhiên,
Nhờ
các đấng thiêng liêng chỉ bảo.
Đạo sĩ
rằng thời cơ đã báo,
Phật
Tiên thường mật giáo chư duyên;
Mượn
xác phàm hoặc mượn bút nghiên,
Tùy cơ
để dạy khuyên trần thế.
Mau
hơn việc đầu sanh cơ thể,
1220.
Độ chúng sanh khỏi trễ thời trời;
Mượn một
tay đã độ một người,
Mượn
nhiều xác tỉnh hồi nhiều kẻ.
Vừa
phương tiện cũng vừa mau lẹ,
Đạo sĩ
liền ngâm kệ như vầy:
1225.
Hiện tại ở trên quả đất này,
Bất kỳ
thông dốt gái hay trai;
Có
duyên Phật, Phật sang dìu dắt,
Còn
nghiệp ma, ma đến phủ vây.
Gieo
giống xưa lâu nay vẫn nở,
Tạo
nhân xa trước hiện đền ngay;
Lành
thì lành đến, hung hung tới,
Quái lạ
có nhiều cuộc trí vay.
Đạo sĩ
luôn tiếp lời nhẹ bảo,
Nhân
ngàn năm quả đáo nhứt thời;
Người
lành duyên sẽ lắm vui tươi,
Thương
kẻ ác vô hồi khổ nạn.
Sổ vay
trả cuối năm thanh toán,
Nghiệp
dữ lành rốt hạn chia phân;
Có
duyên Thần thì được gặp Thần,
1240.
Có duyên Phật sẽ trông thấy Phật.
Duyên
ma quỉ tất ma quỉ dắt,
Giống
nào thì nấy gặp không sai;
Cảnh
trần gian quá đổi vần quay,
Nhiều
sanh lạ nhiều người chết lạ.
Buổi Mạt
thế quái kỳ nhân quả,
Để mắt
vào dễ há không kinh.
Thêm
có nhiều tà phép hữu linh,
Kẻ đã
chết kêu tên sống dậy.
Tự chặt
tay chân rồi ráp lại,
1250.
Không đớn đau không chảy máu me;
Chúng
có nhiều quỉ thuật bày khoe,
Kẻ mê
tín nếu nghe thì khổ.
Nhiều
kỳ chứng kể thôi vô số,
Thương
bá gia không chỗ nào an;
Kẻ hiện
sanh trên cõi trần hoàn,
Ai
cũng phải nạn mang nhiều ít.
Trò
văn vật càng nhiều khuyến khích,
Sự ác
gian càng chất thêm cao;
Càng
ăn sang mặc đẹp chừng nào,
1260.
Hố tội lỗi thêm sâu chừng nấy.
Bên
sau lẽ cạnh tranh thắng bại,
Chẳng
ai lo lợi hại xác hồn;
Nhiều
kẻ mưu thân được sanh tồn,
Trái lại
tự làm hồn tiêu diệt.
Tuy
đang sống mà người đã chết,
Nhưng
họ không tự biết chi đâu;
Bữa tiệc
ngon dễ bị lấy đầu,
Chẳng
tìm hiểu cứ bâu cười múa.
Đem
muôn kiếp đổi vui một bữa,
1270.
Lại tự cho sáng suốt khôn ngoan;
Giòi đục
chui trong đám xương tàn,
Đâu bền
bĩ đâu rằng êm ấm.
Nếu
sanh chúng để lòng suy gẫm,
Thấy
chán đời hơn đắm cảnh đời;
Chán lớp
tuồng giả dối gạt người,
Chán
thời cuộc lửa vùi mái trại.
Chán kẻ
khôn vò đầu đứa dại,
Chán
lòng người nỡ hại mạng người;
Chán
bên trong xã hội hiện thời,
1280.
Đầy tội ác nặc mùi hôi thúi.
Coi mạng
người rẻ như cát bụi,
Chán
thân mòn như củi trong lò;
Dù mưu
cho phú quí bao to,
Không
sống mãi để mà bảo vệ,
Chán
cái kiếp vua quan dân thế,
Ai
cũng đều nô lệ cho thân;
Nó khiến
lo tính đủ thế thần,
Rốt cuộc
chỉ ra phân cỏ ủ.
Những
mặc đẹp ăn ngon sướng thú,
1290.
Cũng chôn theo cốt rũ xương tàn;
Có cái
nào còn được thế gian,
Kiếp tạm
giả phải chăng đáng chán.
Làm tội
ác không trường hưởng đặng,
Mang
tiếng đời lại vấn nghiệp mê;
Hết
thân nầy rồi kế thân kia,
Sanh tử
mãi không hề ngừng đứt.
Chi bằng
biết thân là tạm vật,
Chớ vì
thân tạo nghiệp bất lành;
Hãy mượn
thân lo việc tu hành,
1300.
Ngăn dứt lối tử sanh luân chuyển.
Hiểu
rõ kiếp người không trường viễn,
Nên đỡ
nâng hơn chuyện gạt lường;
Phải
thương nhau và phải hộ tương,
Hợp sức
mở rộng đường sanh sống.
Chống
bịnh tật đói nghèo cũng chống,
Không
ai vui riêng sống một mình;
Giàu
giúp nghèo quan giúp dân tình,
Mạnh
giúp yếu khôn nên thương dại.
Buôn
nhẹ lời cho vay nhẹ lãi,
1310.
Sống cho mình còn phải cho người;
Đua
nhau làm hiền đức tốt tươi,
Sẽ khiến
chẳng còn người hèn hạ.
Đời
đâu cũng bình yên thong thả,
Thù
oán không chiến họa cũng không;
Khi
thác hồn luôn được thong dong,
Lúc sống
khắp người lòng yêu mến.
Điều nầy
nếu mỗi người đạt đến,
Ấy là
phương dĩ huyễn độ chơn;
Đem giả
thân đổi lấy chơn thân,
1320.
Gió nghiệp lặng sóng trần ngưng hạ.
Huống
cõi thế sắp ngày tàn tạ,
Cái
phàm thân như giá rựng đông;
Thân mất
rồi muôn việc cũng không,
Luống
mưu độc luống công làm ác.
Sớm tu
ắt sớm ngày giải thoát,
Biết
khổ lo cho được khổ qua;
Lửa
cháy bao không chịu bước ra,
Như thế
có phải là tự sát.
Chỉ một
nhịn khỏi muôn lần thác.
1330.
Đời ít ai chịu xét để làm,
Cứ lo
ôm mãi cái lòng tham;
Tham phú
quí tham đàng danh vọng,
Tham sắc
đẹp tham nhà cao rộng.
Tham bạc
tiền tham sống tư riêng,
Do
lòng tham tội lỗi chẳng kiêng;
Đêm
ngày cứ tiếp liên điều ác,
Giết hại
người của tiền cướp đoạt,
Hưởng
đôi hồi rồi thác như ai,
Vẫn cứ
tham vẫn cứ mê say,
1340.
Nối nhau mãi đời đời không dứt.
Cha chết
rồi kế con cũng mất,
Cháu bỏ
thây tới chắc chôn thân;
Chồng
qua đời kế vợ tạ trần,
Vua
chúa chết quan dân cũng chết,
Kẻ chết
rồi lợi danh cũng hết,
Ai lại
không rõ biết điều này;
Chẳng
ngán ngao còn mãi mê say,
Mê
qua, đến mê nầy mê tới.
Cha mê
kế lại con mê nối,
1350.
Từ xưa nay một lối đi hoài;
Thân
tham danh tham sắc tham tài,
Tiêu mất
cả có ai còn sống.
Trái lại
do nơi lòng tham vọng,
Chịu
biết bao khổ chốn Ta-bà;
Lòng
tham nầy nếu nhịn được là,
Các việc
khổ xảy ra sao được.
Đạo-sĩ
tiếp kệ nghe thảnh thót:
1358.
Lòng tham là gốc khổ,
Tham dứt
khổ đâu có;
Việc
tu chẳng nói nhiều,
Không
tham là đạo ngộ.
Tham nầy
là tham ác,
Không
phải tham phước đức;
Nên
càng nhiều lòng tham,
Càng
khổ bao giờ dứt.
1366.
Biết rằng tham là hại,
Nên
khuyên khắp nhơn loại;
Nếu muốn
được an vui
Lòng
tham mau chừa cải.
Tại
sao người lại tham,
Tại
lòng mến thân phàm;
Nhưng
phàm thân vốn tạm,
Tham mấy
cũng không kham.
1374.
Vì lòng tham danh lợi,
Nên khắp
trên thế giới;
Chỗ nọ
tới chỗ kia,
Chiến
tranh thường dấy khởi.
Tôi phản
chúa cướp ngôi,
Bạn hại
bạn lấy lời;
Người
giết nười đoạt của,
Do
lòng tham khiến xui.
1382.
Danh mất thân cũng mất,
Mất
dân mất cả đất;
Bị người
đời chê cười,
Cũng tại
lòng tham ác.
Vì
tham bị tham hại,
Người
đời tham qua lại;
Cảnh
khổ cứ triền miên,
Càng
xem càng kinh hãi.
1390.
Hiện trên mặt đất nầy,
Chiến
họa ướm đó đây;
Mạng
dân như hũ mắm,
Cũng
lòng tham tạo gây.
Đã gọi
tham là khổ,
Sự khổ
kể vô số;
Biết
nói sao cho cùng,
Tham
tâm nên sớm bỏ.
Lời Đạo-sĩ
tuôn như suối đổ,
Nói
không ngừng ý rõ lời thông;
1400.
Sau khi ngài ngâm kệ vừa xong,
Ta rằng
: đúng như trong lời kệ.
Nếu khắp
cả người trên dương thế,
Đồng dứt
lòng tồi tệ tham lam;
Thì
đâu còn có kẻ tục phàm,
Binh lửa
khỏi tai nàn cũng khỏi.
Không
ai rách cũng không ai đói,
Thế giới
nầy hóa cõi Thần Tiên;
Từ
thôn quê cho đến thị thiềng,
Đâu
đâu cũng bình yên vô sự.
1410.
Tự như nhiên dứt đường sanh tử,
Người
là Tiên, Tiên thị là người;
Cũng sẽ
không biển đổi non dời,
Nguơn
nào cũng màu trời thanh bạch.
Đạo-sĩ
rằng: em phân đúng cách,
Khắp
người không tham tất thái bình;
Đâu có
ngày đất ngửa trời chinh,
Người
nào cũng là Tiên là Phật.
Điều nầy
có lắm người nhận thức,
Nhưng
thiếu lòng cương quyết thi hành;
1420.
Nên bao lâu việc cũng chẳng thành,
Ta rất
tiếc nhơn sanh ấy lắm.
Muôn
kiếp khó hiểu chơn-lý đặng,
Khi hiểu
rồi mà chẳng làm theo;
Chừng
khi thân tan rã như bèo,
Trí hiểu
ấy làm sao kiếm lại.
Đâu mỗi
kiếp mỗi làm người mãi,
Thảng
sanh vào thế giới thú cầm;
Sống
ngu đần sống kiếp tối tăm,
Trí
minh mẫn đâu làm sao có.
1430.
Huống nữa nếu sanh loài sâu bọ,
Hiểu
biết càng thâu nhỏ lại hơn;
Sớm
sanh chiều lại chết mất thân,
Câu
chơn-lý đâu từng nghe được.
Sao lại
cứ biết xuôi làm ngược,
Ấy phần
đông nhân vật thế gian;
Khổ
nàn thêm chất chứa khổ nàn,
Đem dầu
chữa lửa đang mạnh ngọn.
Thần
chết vẫn bên mình chờ đón,
Nay lầu
cao mai chốn hố sâu;
1440.
Mới vui say kế chịu thảm sầu,
Vừa cười
đó kế âu khóc đó.
Chúng
sanh thể cá nằm trong rọ,
Há
không tìm đường ngõ trốn đi;
Đợi đến
người đem chặt vảy vi,
Mới lo
liệu việc chi đã muộn.
Phải
lo tu trước khi nước cuốn,
Rán
làm lành lúc chẳng tai ương;
Đừng để
khi gặp cảnh thê lương,
Mới trực
tỉnh không phương nào kịp.
1450.
Việc khi đến đến mau như nhíp,
Đừng rằng
chưa thấy việc đổi thay;
Thấy
trứng gà lành vỏ bên ngoài,
Chớ tưởng
nó còn dài ngày tháng.
Trong
trứng có gà con chờ sẵn,
Chỉ
phút giây phá trứng chun ra;
Máy
thiên cơ cũng thế đâu xa,
Vỏ quả
đất vỏ gà rất giống.
Hãy
xét kỹ rồi tu mau chóng,
Đến việc
rồi hết dụng Nam mô;
1460.
Người thường trông thấy việc đã phô,
Không
biết được những đồ còn đậy.
Bầu hư
không vô biên thế giới,
Ngày
đêm luôn có cõi hoại tiêu;
Tợ
trên cây bất luận sớm chiều,
Thường
có lá úa xào mãi mãi.
Có
hình thể tất là có hoại,
Quả đất
cùng nhân loại như nhau;
Hết kiếp
rồi thì cũng tiêu hao,
Chớ
đâu phải sống lâu vô hạn.
1470.
Vạn vật phải theo cơ chuyển hoán,
Có thứ
nào giữ đặng trường tồn;
Chớ
cho rằng đất rộng mênh mông,
Vững
chắc mãi chớ không sao cả.
Lớn thế
mấy rã thời cũng rã,
To dường
bao khi hạ hạ ngay;
Người
có xem cảnh sụp đất đai,
Tất hiểu
được trong đôi phần đấy.
Nhà gạch
lắc lư như nhà giấy,
Người
té lăn khó chạy đứng yên;
1480.
Rồi tự nhiên lửa dậy khắp miền,
Đất bằng
bỗng sụp nên biển giả.
Ngoài
tưởng tượng của người tất cả,
Việc nầy
ai lại há không nghe;
Chúng
sanh luôn sống phút không dè,
Lấy việc
nhỏ để mà hiểu rộng.
Cơ tận
thế khác nào đất động,
Một
phút giây đâu cũng tan hoang;
Rán tu
hành nầy bớ thế gian,
Chớ ngần
ngại ắt mang tai ách.
1490.
Vì thương chúng mới phân tách bạch,
Em nhớ
đem trao hết cho người;
Khá gắng
công chớ có biếng lười,
Ngày cứ
đến bóng trời không đợi.
Lo trước
để sau rồi khó hối,
Phúc đức
là nguồn cội sanh tồn;
Phúc đức
là then Cực lạc môn,
Chúng
sanh rán lo nôn phước đức.
Thí
không tiếc ấy là gọi phúc,
Thương
người như thân tức đức ư,
1500.
Không cần đem nói hết kinh thư,
Bao
nhiêu đó đủ dời phúc đức.
Mong
sanh chúng được lòng chân thật,
Làm việc
chi cũng ắt thành công;
Nói rồi
làm đừng bỏ nằm không,
Lớn
hơi chậm nhỏ trong chốc lát.
Đạo sĩ
liền ung dung cất hát :
1507.
Bắc thang phước đức đăng Tiên,
Nắm
dây thành thật leo lên Phật- Đài;
Quyết
lòng tu một kiếp nầy,
Đạo mầu
được đắc Như Lai được kề,
Nhẹ
mình lướt khỏi sông mê,
Trái
oan hết buộc não nề dứt xong;
Độ
siêu cha mẹ tổ tông,
Độ
luôn quyến thuộc khắp trong bảy đời.
Mình
vàng có ánh sáng ngời,
Long
Hoa hội được chung ngồi Phật Tiên.
Chuông
đạo đức đánh lên khắp chốn,
Kẻ
lành duyên phản bổn qui căn.
Các
gông cùm thế tạo đều quăng,
1520.
Phi thân đến cung Hằng cho thỏa;
Lúc mê
muội gặp đường đạo cả,
Như
đói lòng gặp quả đào Tiên.
Há
lòng không mừng rỡ tu hiền,
Cởi mở
hết oan khiên nghiệp báo;
Xưa tu
mười mới là đắc đạo,
Nay một
tu vẫn đáo Tây Phương.
Đức từ
bi hỉ xả không lường,
Chúng
sanh cũng khá nương đạo pháp;
Ngăn
thói tục ngăn lòng ô tạp,
1530.
Tập nói lành tập việc làm lành.
Quen
thật thà hơn thói gian manh,
Cách
đi đứng ngồi nằm đoan chánh;
Mang
xác phàm tập cho lòng Thánh,
Giồi
mài cho đúng hạnh chơn tu.
Ngày
hai thời vẫn nhớ công phu,
Thà bỏ
xác đường tu không bỏ;
Muốn cho
ngọn tâm đăng sáng tỏ,
Sáu
căn đừng cho gió trần vào.
Rèn
nơi lòng bất luận lúc nào,
1540.
Cũng trong lặng như thau nước lóng;
Chỗ
thanh vắng như nơi xao động,
Vẫn
xem thường chẳng vọng móng tâm.
A Di
Đà Phật nhớ niệm thầm,
Ý hướng
Phật hơn tâm hướng thế;
Biết rằng
thiện làm không sợ trễ,
Xét là
tà chừa để liền khi.
Kinh dạy
sao thì vẫn hành y,
Đạo quả
sớm muộn gì cũng đắc;
Đạo sĩ
ngó ngay ta bảo chắc,
1550.
Nếu thành tâm niệm Phật ba ngày.
Cứ niệm
liền không hở phút giây,
Chẳng
móng việc trần ai một mảy;
Tất được
Phật hiện ra chỉ dạy,
Chẳng
đúng ta chẳng phải là người.
Lời nầy
em nhớ bảo khắp nơi,
Già trẻ
khá y lời tu niệm;
Kẻ thật
tu Phật đang tìm kiếm,
Nên
khi người chí nguyện thành lòng.
Tức thời
từ các hướng Tây Đông,
1560.
Có chư Phật hóa thân đến chứng;
Lòng
còn chút bợn nhơ xen ẩn,
Khó
mong gì thấy đặng Phật Ngài.
Tâm bợn
nhơ như mắt kéo mây,
Không
thấy được trời đầy sao tỏ;
Phật
Ngài khắp nơi nào cũng có,
Chúng
vọng tâm mắt ngó không ra.
Cứ tưởng
rằng chỉ có người ta,
Không
có Phật mới là gây tội;
Mê lại
sống nhằm đời giả dối,
1570.
Khiến lòng mê càng tối thêm hơn.
Quen gạt
lường hơn việc nghĩa nhơn,
Gặp
chuyện phải không cần đếm kể;
Người
nầy thế kẻ kia cũng thế,
Lấy kế
mà chọi kế không thôi.
Đua sống
bằng mọi cách bại tồi,
Do đó
khiến cuộc đời thêm rối;
Vật chất
tiến tinh thần lại thối,
Lớp
ngoài xinh trong lõi xấu đen.
Vẫn
không chừa mọi việc đê hèn,
1580.
Hiện đang gọi kim tiền thời đại;
Các tệ
ấy toàn là chướng ngại,
Làm
cho người không thấy Phật Tiên.
Chúng
sanh hung còn Phật lại hiền,
Kẻ đi
xuống người lên khác lối;
Cố
nhiên chẳng bao giờ tương hội,
Hãy
cùng đi một lối thử nao.
Chắc
chắn là sẽ được gặp nhau;
Người
ta có Phật nào không có,
Sắp đến
lúc thế gian giũ bỏ.
1590.
Chư Phật Tiên càng có thêm nhiều,
Chẳng
khác chi ruộng thất bao nhiêu;
Người
đi mót càng nhiều chừng nấy,
Gần có
cuộc tan thương biến cải.
Nhưng
hiền nhơn có mấy ai đâu,
Như thế
nầy chừng cuộc đáo đầu;
Sẽ
tiêu hết còn đâu mà kể,
Rất
thương tiếc cho người dương thế.
Các Phật
Tiên mắt để khắp nơi,
Tìm kiếm
người lòng dạ tốt tươi;
1600.
Độ cho khỏi nạn trời kế cận,
Cũng
phương tiện việc tu chỉ dẫn.
Kịp hội
thi để chứng đạo trường,
Đường
từ bi về cõi Tây Phương;
Có phước
đức lên đường Tiên cảnh,
Trung
qui Thần, hiếu qui Nhơn Thánh.
Phật
Tiên đâu hề rảnh phút nao,
Có người
lành bất kể chỗ nào;
Cũng
đi tới để âu dìu dắt,
Trong
nhà điếm trong trường đổ bác.
1610.
Đến như người đổ rác tanh hôi,
Có thiện
căn có được tâm hồi;
Phật vẫn
đến tận nơi hóa độ.
Miễn
sanh chúng được lòng giác ngộ;
Phật
đâu nài ở chỗ uế nhơ,
Tâm sạch
trong tuy cái thân dơ.
Thân ấy
rửa bao giờ cũng dễ,
Thân
trong sạch mà tâm nhơ uế;
Muôn đời
chưa há dễ rửa ra,
Nên
chi dù ở chốn xấu xa.
1620.
Có kẻ sạch tâm là Phật đến,
Hóa đủ
cách độ người hướng thiện;
Đem
thân ra quyền biến mọi phương,
Khiến
hung sùng trở lại hiền lương.
Khỏi
đày đọa trong đường thống khổ,
Nếu chẳng
giúp được người tỉnh ngộ;
Đến tận
đời còn có ai đâu,
Nên Phật
Ngài đi khắp năm châu.
Dạy
sanh chúng đạo mầu được biết,
Đạo hiểu
rồi đường tu mài miệt;
1630.
Dứt lỗi lầm bỏ việc nhuốc nhơ,
Thuận
thời trời hợp máy huyền cơ.
Tất
qua khỏi ngày giờ hắc ám,
Tâm Phật
có mấy ai thông cảm;
Lo cho
đời chẳng hạn ngày đêm,
Biết
chừng nào sóng khổ lặng êm.
Để chư
Phật ngồi yên một chỗ,
Đôi mắt
Đạo sĩ gần ướm đổ;
Ngài
ngâm lên bài kệ thiết tha:
1639.
Khắp ba ngàn thế giới,
Ở
trong cõi Ta bà;
Chúng
sanh nầy độ dứt,
Chúng
sanh khác sanh ra.
Lòng từ
bi vô số,
Kẻ
hung ác hằng hà;
Xưa độ
nay vẫn độ,
Chúng
sanh vẫn còn đa.
Chánh
quả dù đã đắc,
Không
ngồi an Liên tòa;
Mắt
xem đời không nháy,
1650.
Tai bên chúng chẳng xa.
Thấy
lành thì đến độ,
Nghe
nguyện tức chứng qua;
Có thiện
duyên liền tới,
Sạch
dơ cũng thay là…
Hiện
cõi nầy sắp rốt,
Phật
Ngài càng bôn ba.
Đông
Tây dạy đạo lý,
Nam Bắc
cứu chư gia;
Không
phút giờ nào rảnh,
1660.
Đáng kính thay! Phật- Đà!
Nghe kệ
khiến lòng ta cảm động,
Nhận
cho lời ấy đúng không sai;
Chính
thân nầy đã được Phật Ngài,
Hóa hiện
đến giáo khai nhiều bận.
Từ thuở
bé đến khi khôn lớn,
Xác hồn
nầy nhờ đấng từ bi;
Nếu
không do nơi sức huyền vi,
Thân nầy
khó hướng qui cửa Phật.
Bịnh
được cứu giấc mê được thức,
1670.
Đâu là Tiên đâu tục được tường;
Toàn
nhờ ân Đức Phật Tây Phương,
Chịu
khổ đến bên giường dạy dỗ.
Phận
hèn nầy Phật còn đến độ,
Huống
chi người được có đại căn;
Tất Phật
Ngài gần gũi thường hằng,
Hơn
tình mẹ với con khắn khít.
Nghĩ đến
đây quá nên cảm kích,
Rồi tự
nhiên nước mắt trào ra;
Đạo sĩ
bèn vỗ nhẹ vào ta,
1680.
Rằng anh chẳng nói ngoa với thế.
Chính
em được Phật Ngài độ tế,
Tất
không còn chỗ để nghi nan;
E những
người chưa thấy mình vàng,
Chưa
biết được Phật tâm từ mẫn.
Em
cũng khá dùng lời chỉ dẫn,
Giúp
trần gian rõ đấng Từ Bi;
Khá lo
tu bỏ lối vô nghì,
Để chư
Phật bớt đi lo lắng.
Thân
mình cũng oan sầu dứt đặng,
1690.
Có phải là được vẹn đôi bề;
Cõi hồng
trần nhiều nỗi thảm thê,
Nên xa
lánh hơn mê nhiễm tới.
Chữ
quyền tước với câu phú quới,
Đừng để
cho nó lợi dụng mình;
Có tước
quyền phú quí hiển vinh,
Nên
dùng nó làm lành làm phải.
Được
danh thơm lại còn phước đại,
Thí một
hai lời lãi chín mười;
Chẳng
khác nào cày sạ hợp thời,
Một
thúng giống thu hồi nhiều thúng.
1700.
Nếu bố thí không lòng lợi dụng,
Được
phước hay không cũng mặc tình;
Cũng
chẳng cần ai biết đến danh,
Vì thấy
khổ động tình giúp đỡ.
Ấy
càng được phứơc nhiều vô số,
Tâm
kia cùng Phật có xa chi;
Cứu độ
người do tánh từ bi,
Chớ chẳng
muốn điều gì tất cả.
Tuy
nhiên việc trước kia vẫn trả,
Mặc dù
người chẳng dạ mong cầu;
1710.
Có gieo thì có trổ không đâu,
Xưa
nay vẫn chẳng bao giờ sái.
Chẳng
ham danh nhưng danh cứ lại,
Không
mong lời lời tới tự nhiên;
Khinh
phú quyền nhưng trọng phú quyền,
Cho cả
xác lẫn hồn được hưởng,
Ấy lời
thật chớ không nói bướng.
Đừng vội
cho mâu thuẫn trắng đen,
Luật
công bằng nhơn quả tự nhiên;
Không
ai có thể làm sai được,
1720.
Kẻ dương thế khá suy nhiều lượt.
Coi lời
nầy có chắc hay không,
Nếu nhận
cho là lẽ chí công;
Nên
hành gấp chớ hòng ngần ngại,
Em nhớ
đem chuyện nầy tỏ lại.
Cho
người đời xét lấy tu hành,
Khi tu
lòng phải được chơn thành;
Để khỏi
kiếp hy sinh vô ích,
Trời tối
lại còn thêm mắt bịt.
Khách
trần gian khó biết lối ra,
1730.
Em mau tay dắt đỡ người ta;
Qua
gai góc được ra đại lộ,
Phó mặc
cái phàm thân lao khổ.
Miễn
sao đời tỉnh ngộ là hơn,
Khổ một
mình vui cả muôn dân;
Há
không lấy làm mừng để chịu,
Chữ
gian truân với câu huyền diệu.
Giá so
bằng em hiểu hay chăng?
Ra công
trồng mới có trái ăn,
Đường
xa chẳng bước năng sao tới.
1740.
Lúc em đang hai mươi mốt tuổi,
Nơi
phòng riêng vào buổi ban trưa,
Thình
lình nghe ngọn gió phất đưa;
Một cụ
lão đầu phơ tóc bạc,
Tướng
đẹp đẽ phàm phu khác xác,
Vẻ
đoan nghiêm đôi mắt hiền từ;
Nơi
tay cầm chiếc gậy Ý Như,
Bỗng
hiện đến ngay nơi em nghỉ.
Cụ lão
vỗ vào em và chỉ,
Trong
chăn mền ngọc quí đâu sanh;
1750.
Trên đồi khô sen chẳng nứt nanh,
Con há
chịu yên mình một góc.
Đập đá
cứng mới tìm thấy ngọc,
Vào
bùn lầy sẽ bọc nhiều sen;
Nói xong
rồi cụ biến đi liền,
Em
chưa kịp hỏi thêm chi cả.
Em vừa
mừng vừa là buồn bã,
Mừng
được lời khuyến hóa bề trên,
Buồn
vì chưa một tiếng ơn đền,
Chắc
em đã không quên điềm ấy.
1760.
Ta thưa rằng thật là có vậy,
Đây dễ
quên chuyện ấy bao giờ;
Đang
khi đây đôi mắt vừa mơ,
Chíp một
cái gió đưa mát mặt.
Thì
người cổ đã trông tận mắt,
Lời
cao siêu được rót vào tai;
Vừa dịu
dàng vừa rất thanh bai,
Từ ấy
vẫn đêm ngày kêu hú.
Kẻ lạc
lối mau tìm cội cũ,
Hãy chừa
đi những thú ăn chơi;
1770.
Lo tu hành hương nước chiều mơi,
Cầu Phật
độ qua nơi khói lửa.
Cơ tận
diệt không bao lâu nữa,
Khuyên
chớ nên lần lựa mốt mai;
Hãy
đua chen niệm Phật ăn chay,
Ai
cũng rán ra tay làm phước.
Nền
chánh đạo mấy khi gặp được,
Khi gặp
rồi khá bước vào ngay;
Nguyện
xả thân tìm thấy Phật Ngài,
Dù lao
khổ chớ thay đổi chí.
1780.
Rán một kiếp hành chơn đạo lý,
Muôn đời
sau khỏi bị trầm luân;
Lại
còn xem được cõi Thượng nguơn,
Đúng
minh-đức, tân-dân chí-thiện.
Ấy đại
lược lời đây đã khuyến,
Từ chỗ
gần cho đến chỗ xa;
Đạo sĩ
bèn dùng kệ ngâm ra :
1787.
Giữa trời đêm tăm tối,
Tiếng
trống giục gần xa;
Trẻ ít
người thức giấc,
Già
nhiều kẻ tỉnh ra.
Gốc được
lo chi ngọn,
Con sẽ
nối gương cha;
Huống
già nhưng lòng trẻ,
Còn trẻ
tại tâm già.
Vả lại
giàhay trẻ,
Cũng
là giống người ta;
Độ được
thì cứ độ,
Già mấy
chớ bỏ qua.
Chứng
quả trong giây phút,
1800.
Không phải mất đâu xa;
Đến
như người sắp chết,
Vẫn tỏ
ngộ được là.
Đừng
buồn lòng khi thấy,
Trẻ ít
tu hơn già.
Ta rằng
: Ngài kệ qua đúng lẽ,
Già tu
nhiều nhưng trẻ ít tu;
Trẻ có
tu chỉ được buổi đầu,
Lần lượt
rớt lại sau gần hết.
Làm
cho đây lòng buồn chi xiết,
1810.
Hạng thiếu niên không biết tu hành;
Tồi tệ
trong xã hội càng sanh,
Hại đất
nước dân tình cũng hại.
Khổ
tương lai khổ ngay hiện tại,
Đạo lu
mờ đời lại rối ren;
Người
sống trong cái sống tối đen,
Đức hạnh
thiếu nhân tình cũng thiếu.
Dắt
nhau đến cuộc đời bẩn thiểu,
Trong
ngục tù một điệu giống nhau;
Toàn
là người tội lỗi hùng hào,
1820.
Cảnh rùng rợn không sao tả xiết.
Khiến
nhơn loại sớm ngày tiêu diệt,
Cảnh
thương tâm nói biết sao cùng;
Càng
xét ra càng bắt não nùng,
Muốn
phó cả Thiên-Công định xử.
Đạo sĩ
rằng : vì đời hung dữ,
Phật mới
khuyên em sự dạy đời;
Nếu bằng
ai cũng biết tỉnh hồi,
Thì Phật
chẳng một lời chỉ giáo.
Phụ
lão há chẳng lời dạy bảo,
1830.
Đá cứng trong có báu ngọc sanh;
Phải
ra công đập đá tan tành,
Mới có
thể kiếm tìm được nó.
Chốn
bùn lầy có hoa sen trổ,
Muốn
hái sen chịu khó bước vào;
Lời ấy
theo em đã nghĩ sao?
Không
chịu khổ dễ nào được chứng.
Chẳng
gần đám hung sùng gian lận,
Thì
làm sao độ chúng thiện căn.
Hiện
trong tay có Phược Yêu Thằng (4),
1840.
Há ngại bước Đường Tăng Tam Tạng.
Thứ
sát sanh thứ ham dâm loạn,
Thứ
hung hăng lỗ mãng ngang tàn;
Cũng dắt
cho đến cõi Tây phang,
Không
nỡ bỏ giữa đàng ngơ ngáo.
Đồng tới
chỗ và đồng đắc đạo,
Lòng từ
bi rốt ráo tận cùng;
Hết khổ
nàn tới lúc thung dung
Xưa
nay cuộc tuần huờn vẫn thế.
Lao khổ
mấy xin em chớ nệ,
1850.
Cũng không nên cố để lòng buồn,
Em than
thầm nhưng lớn tợ chuông,
Vang động
cả chín tầng trời đất.
Nơi
sơn đảnh lòng anh quặn thắt,
Lo rằng
em sớm gác máy chèo;
Những
người đang mỏi dạ trông theo,
Sẽ đứng
mãi bến chiều ngơ ngác,
Lui
cũng lỡ đến không ai dắt;
Cảnh ấy
còn bi đát nào hơn,
Em há
không cạn xét xa gần,
1860.
Để giúp kẻ còn chân núm níu.
Kẻ mến
em không riêng đạo diệu,
Còn mến
luôn dáng điệu hình dung,
Bỏ xác
nầy tạo xác sau cùng,
Giống
mấy họ cũng không tin chắc;
Huống
chi nếu khác mày khác mặt,
Lòng họ
càng ngờ vực thêm nhiều;
Thì dầu
cho em có réo kêu,
Họ
cũng chẳng nghe theo cho mấy.
Như thế
chỉ luống thân hóa cải,
1870.
Không khiến cho quảng đại người tu;
Nếu
như em đợi khoảng xa lâu,
Kẻ
quen biết khi nào chết hết.
Khi ấy
dù khác thân khác nết,
Sẽ
không ai phân biệt điều gì;
Nhưng
nếu em chờ đến chừng ni,
Sẽ chết
hết còn chi mà độ.
Việc tới
gấp ở bên cửa sổ,
Chẳng
lo mau ngồi đó mà chờ,
Người
khát đang sắp chết từ giờ,
1880.
Than nước ít bảo chờ mưa xuống.
Người
sắp chết khát thì cho uống,
Nước
ít nhưng cứu sống được người;
Nếu ngồi
chờ mưa xuống tới nơi,
Thì
người đã chết rồi hết cứu.
Tài đức
đủ hay là không đủ,
Gặp việc
lành thì cứ ra tay;
Không
dần dà hẹn mốt hẹn mai,
Coi
như lửa cháy mày một thứ.
Cứ một
mực lòng người như thử,
1890.
Mặc cho câu thiên lý thế nào;
Ví dầu
thân vạn khổ thiên lao,
Hành
thiện chẳng lãng xao ý muốn.
Rán độ
kẻ thế gian kẻo muộn,
Nên
cùng không một bận nầy thôi;
Chẳng
khác chi sắp cuối mùa rồi,
Không
xạ gấp ắt trôi tất cả.
Lần thứ
chót rán thi công quả,
Trễ
qua rồi dễ há kiếm ra;
Chữ Phật
Tiên đâu cũng vẫn là
1900.
Tìm nhơn thiện để mà tế độ.
Buôn gặp
dịp há ngồi chịu lỗ,
Chẳng
đua chen cho có đồng lời;
Loạn
dân tâm loạn cả thế thời,
Lấy đạo
lý giúp đời bình tịnh.
Thấy
khổ mới nhiều người sực tỉnh,
Có đau
răng thì miệng hả ra,
Bình
thường ai gọi Phật về nhà,
Hữu sự
lắm người ta khẩn đảo.
Thường
cảnh ấy khiến người theo đạo,
1910.
An thân mà thọ giáo ít ai;
Phật tử
nên thừa lấy dịp này,
Kêu gọi
kẻ còn say chưa tỉnh.
Nhân
tai ách hoặc nhân khi bịnh,
Để độ
cho thiện tín thiểu căn,
Ấy là
cơ giáo hóa thường hằng,
Từ xưa
các chơn tăng đã dụng.
Trong
hoàn cảnh thăng trầm sanh chúng,
Phương
tiện đưa vào cổng từ bi,
Mỗi một
lần có cuộc biến di,
1920.
Chính là mỗi một kỳ đại độ.
Một
bát cơm một manh áo bố,
Có thể
làm tỉnh ngộ được người,
Không
đợi nhiều bạc bảy vàng mười,
Mới bố
thí cho người cùng khổ.
Cái
nón lá cái tàu mo nhỏ,
Cũng
che người được đỡ cơn mưa,
Đâu lựa
là có phố lầu to;
Mới
giúp kẻ bị mưa trên lộ.
Lúc buồn
ngủ được manh chiếu nhỏ,
1930.
Mừng hơn thường khi có nệm cao;
Việc
đang cần dù nhỏ thế nào,
Cũng sẽ
trở nên cao giá trị.
Em há
chẳng lấy đây nghiệm nghĩ,
Không
còn buồn tài trí thô sơ;
Nên
đem lời Phật mách huyền cơ,
Để kêu
thúc kẻ ngơ ngẩn chí.
Tuy
lao khổ gặp đường đạo lý,
Ấy là
điều báu quí vô cùng,
Nếu
không lo cho vẹn thií chung,
1940.
Xác tan nát mà hồn cũng mất.
Đem giống
gieo khơi trên mặt đất,
Chẳng
tưới tăng phân chất bón vào;
Sẽ khô
lần cho đến tiêu hao,
Bông
trái chẳng khi nào có được.
Phải gắn
công vun phân tưới nước,
Nên
chăm nom săn sóc thường hoài;
Đủ nắng
mưa và đủ tháng ngày,
Có
bông trái đâu sai ý muốn.
Chớ muốn
sớm cũng đừng than muộn,
1950.
Sớm lên thì chiều xuống đâu thôi,
Tạo
hóa xưa nay đã định rồi,
Người
không thể đổi dời khác được.
Việc
thời tiết nếu người đi ngược,
Sự bất
thành lại chuốc hại thân,
Hãy
bình tâm chớ nóng tánh trần,
Đông
khi mãn thì xuân liền tới.
Người
có đợi hay là không đợi,
Luật
tuần hoàn một lối cứ xây;
Hết
đêm rồi thì kế đến ngày,
1960.
Không hề đứng dừng ngay lại được.
Mỗi
ngày qua người ta mỗi bước,
Cứ bước
luôn ai được ngồi an;
Bước
ngục môn hoặc bước Thiên đàng,
Người
một nẻo cứ toan lo bước.
Càng
bước càng thấy gần đến trước,
Khổ hoặc
vui đón rước người đi;
Về
thiên đàng do bước đạo nghì,
Sa địa
ngục tại vì bất nghĩa.
Trong
hai phía tự dồn một phía,
1970.
Muốn hay không vẫn thế không sai;
Ai
cũng đều theo định luật này.
Không
ai đứng khỏi ngoài ấy được;
Người
khá chọn đường lành để bước,
Hãy
mau mau nẻo ác lui chơn.
Đạo sĩ
bèn ngâm lớn lên rằng:
Nẻo ác
tuy rằng có lợi to,
Cũng
nên lui bước chớ nên dò;
Vì là
chỉ sướng thân đương tại,
Muôn
kiếp sau đây khổ lắm trò.
1980.
Lắm trò khổ sở gánh mang vào,
Xưa sướng
dường bao nay khổ bao!
Kế xảo
được nên danh với lợi,
Chỉ là
ăn trước trả về sau.
Về sau
phải trả nợ ăn rồi,
Vốn một
mà lời đến cả mươi;
Điều ấy
cũng cần suy xét tới,
Lợi
danh bằng cách ác nên thôi.
1988.
Nên thôi nẻo dữ để theo lành,
Lợi chẳng
hại người danh chánh danh;
Lợi tại
kỳ công danh tại nghĩa,
Danh lợi
nầy đâu tội lỗi sanh.
Tội lỗi
sanh đem phước đối trừ,
Hư mà
sửa mãi chẳng còn hư;
Đừng rằng
đã lỡ cho luôn lỡ,
Lỡ lớn
ra rồi lấp khó ư!
1996.
Khó ư! Khi việc muộn màng rồi,
Việc
nhỏ dường bao cũng chẳng xuôi;
Nên sớm
tính toan hơn muộn liệu,
Lỗi
không thêm lớn việc không trôi.
2000.
Không trôi nhờ sớm quyết nơi lòng,
Nhơ bợn
nơi tâm rửa sạch trong,
Bóng
nguyệt lăng-nhăng vì sóng vỗ;
Khi
lòng tịnh được huệ liền thông.
Liền
thông rỗng cả cái thân tâm,
Không
chỗ vương mang những lỗi lầm;
Lầm lỗi
đã gây khi trước đó,
Như là
cảnh mộng chẳng lưu âm.
1460.
Lòng vẫn muốn không hề ngừng nghỉ.
Mẹ đấy
con! mưu thần chước quỉ,
Lo sau
thành như ý đã mong;
Tội
bao nhiêu cũng thị bằng không,
Độc ác
khác nào chông tẩm thuốc.
Mẹ đấy
con! thân mưu lắm cuộc,
Mà
cũng không sống được lâu dài;
Chỉ
làm cho thêm kiếp bào thai,
Lên
cõi tạm chịu ngày khổ não.
Mẹ đấy
con! xét suy chu đáo,
1470.
Tất chán điều gian xảo phần nhiều;
Vì nó
không khiến kẻ thân yêu,
Còn xô
kiếp trôi theo bể khổ.
Mẹ đấy
con! hãy mau tỉnh ngộ,
Lánh
đường tà tìm ngõ chánh chơn;
Sớm
chiều lo làm việc phước nhơn,
Đừng
chiều cái tâm trần dục vọng.
Mẹ đấy
con! cuộc đời đã mỏng,
Nên mượn
ngay kiếp sống hiện thời;
Để
giúp người ở khắp mọi nơi,
1480.
Những lợi ích khi người thiếu thốn.
Mẹ đấy
con! lấy thân làm vốn,
Để gây
nhiều công lớn đức dày;
Nên
nguyện tu ngay một kiếp này,
Cho được
đến Phật- Đài mới thỏa.
Mẹ đấy
con! dù cho nhồi quả,
Tự nhủ
lòng chớ dạ núng nao;
Càng
khổ nhiều đạo hạnh càng cao,
Nên lấy
đó làm câu an ủi.
Mẹ đấy
con! lời kia không dối.
1490.
Không gian lao khó nổi công thành,
Chẳng
cho chơn đạp sỏi dày sành;
Tây
phương khó đưa mình đến chốn,
Mẹ đấy
con! mỗi khi nguy khốn,
Mà vẫn
vui không núng tim gan.
Là mỗi
lần lên một nấc thang,
Càng
chịu được là càng cao được.
Mẹ đấy
con! thói quen khi trước,
Nay bỏ
đi là việc khó khăn;
Bỏ được
là mới thiệt chơn tăng,
1500.
Linh hồn được siêu thăng do đấy.
Mẹ đấy
con! rán mà nhẫn nại,
Buồn nầy
qua rồi lại đến vui;
Chớ bận
lòng đến cảnh ngược xuôi,
Hạ buồm
giữa biển khơi rất uổng.
Mẹ đấy
con! mây bay nước cuốn,
Chớ nó
đâu hề đứng một nơi;
Hết khổ
lao rồi đến thảnh thơi,
Lời mẹ
dạy con ơi nên nhớ.
Mẹ đấy
con! gỡ cho xong nợ,
1510.
Qua kiếp nầy về ở Lạc bang;
Cùng
các chư Bồ Tát đồng hàng,
Không
bịnh lão không đàng sanh tử.
Mẹ đấy
con chín từng ngôi thứ,
Toàn
hoa sen có đủ sắc màu;
Cảnh
an vui không sự khổ lao,
Rán tu
niệm để mau qua đó.
Mẹ đấy
con! nói xa khó rõ,
Việc gần
đây nên tỏ con hay;
Cõi
Ta-bà chừng đến sau này,
1520.
Trở lại cảnh Bồng Lai chẳng khác.
Mẹ đấy
con! những người sắp thác,
Tự biết
liền mang xác vào rừng;
Ngồi
dưới cây rồi tự bỏ thân,
Đất liền
nứt tự chôn lấy xác.
Mẹ đấy
con! tiết trời luôn mát,
Người
lớn cao khuôn mặt tốt tươi;
Hiền
lành và luôn nét vui cười,
Ai đều
cũng đầy lời lễ nghĩa.
Mẹ đấy
con! Rán mà trau trỉa,
1530.
Làm sao cho được nhẹ tâm hồn;
Để sau
ngày biến đổi càn khôn,
Được sống
sót hưởng phần thưởng ấy.
Mẹ đấy
con! chừng tân thế giới,
Chẳng
bao giờ chim thấy rũ lông;
Các loại
cây lá úa cũng không,
Chẳng
hề có muỗi mòng châm chít.
Mẹ đấy
con! các loài rắn rít,
Trong
miệng không nọc độc như nay;
Và
không còn những loại cây gai,
1540. Đâu
đâu cũng toàn cây hữu dụng.
Mẹ đấy
con! khắp đâu đâu cũng,
Nước
biển sông như nước ao hồ;
Vẫn
trong không một chút bợn nhơ,
Cá vẫn
lội không hề khiếp sợ.
Mẹ đấy
con! ngày đêm sáng rỡ,
Có trời
trăng thay đổi luôn luôn;
Người
vui không hề thấy cảnh buồn,
Ai
cũng được thân luôn no ấm.
Mẹ đấy
con! lúa kia khỏi rấm,
1550.
Tự mọc lên trên chốn ruộng đồng;
Khi
chín rồi có gió thổi lồng,
Tự bay
thẳng vào trong kho dựa.
Mẹ đấy
con! nhà không đóng cửa,
Không
lo ai dòm ngó của ai;
Chẳng
một người nào bị thiếu xài,
Của
rơi cũng chẳng ai thèm lượm,
Mẹ đấy
con! lòng gian khi ướm;
Tự
trong thân lửa đượm cháy ra,
Trong
phút giây là tự tiêu ma;
1560.
Vì thế kẻ xấu xa không có.
Mẹ đấy
con! rán theo hiền ngõ,
Để sống
cho tới đó mà coi;
Ai
cũng đều tài phép hẳn hòi,
Tạo
nên một cảnh đời kỳ bí.
Mẹ đấy
con! nhờ câu đạo lý,
Khỏi
tai ương khỏi bị trầm luân;
Được
coi đời mầu nhiệm huyền thâm,
Của
Tiên Phật lập nên kỳ tới.
Mẹ đấy
con! sang qua đời mới,
1570.
Mỗi nơi đều có cội Long Hoa;
Dưới cội
thường có Đức Phật- Đà,
Vì
sanh chúng nói ra pháp bảo.
Mẹ đấy
con! nhiều người đắc đạo,
Có lục
thông tự dạo bốn phương;
Nơi Phật-
Đà rộng mở đạo trường,
Nói
nhiều pháp chưa từng nghe đến.
Mẹ đấy
con! đến đây đáng mến,
Càng mến
càng đưa đến đạo mầu;
Trái
oan không hề bị buộc câu,
1580.
Dù phải ở bao lâu không chán.
Mẹ đấy
con! gần ngày phán đoán,
Khắp nữ
nam hãy rán mà tu;
Đến
ngày kia sẽ được đền bù,
Những
cực khổ từ lâu đã chịu.
Mẹ đấy
con! đường trần bận bịu,
Rốt cuộc
là phải liễu theo trần;
Nát
linh hồn nát cả xác thân,
Điều ấy
há lòng không biết tiếc.
Mẹ đấy
con! những khi tận diệt,
1590.
Lửa khác hơn lửa thét thường ngày;
Không
vật nào đương nổi lửa này,
Vì thế
chẳng mấy ai tồn tại.
Mẹ đấy
con! nước thường ngày chảy,
Vật nhẹ
thì là nổi phải không;
Nhưng
ngày kia có cuộc thủy hồng,
Vật nhẹ
tợ sợi lông vẫn đắm.
Mẹ đấy
con! mùi thiền khi thắm,
Lửa
không thiêu nước chẳng đắm thân;
Thường
có vì hộ pháp Long Thần,
1600.
Đứng sẵn ở bên thân che chở;
Mẹ đấy
con! mắt chừng khi mở,
Lạ nước
non lạ cả đất trời;
Pháp
Phật Tiên ngài khéo đổi dời,
Sự mau
lẹ vẫn ngoài tưởng tượng.
Mẹ đấy
con! có vàng muôn lượng,
Cũng
không qua được chốn ấy đâu;
Chỉ có
lòng biết hướng đạo mầu,
Mới
qua được phía cầu bên ấy.
Mẹ đấy
con! chớ nên ngần ngại,
1610.
Rán mở lòng bác ái từ bi;
Và nhớ
luôn niệm chữ A Di,
Giúp đời
được điều gì cứ giúp.
Mẹ đấy
con! hoa sen nở búp,
Rán
làm cho đến lúc lớn ra;
Đừng nửa
chừng đạo đức rời xa,
Hoa
khô héo thì là thống khổ.
Mẹ đấy
con! sự tu vẫn mộ,
Mặc dù
là ai có ghét ưa;
Được
như vậy không sớm thì trưa,
Trai với
gái ở thời văn vật,
Há để
thua Bàng Đạt xưa sao!
Xưa
ngu khờ mà được giác mau,
Nay
thông thái tại sao chậm tỉnh;
Xưa dốt
nát nhưng giàu trí tín,
Nay
khôn lanh nhưng kém tinh thần;
Chỉ hay
ho với lối tục trần,
Không
soi thấu được phần siêu việt.
Biết
cái giả chớ không biết thiệt,
2810.
Làm nhiều mà chẳng được hưởng lâu;
Óc
thông minh đem để vào đâu,
Chẳng
tìm biết cái nào chơn giả;
Cứ mưu
nọ thế kia gây họa,
Gạt lừa
nhau chiếm bã lợi danh;
Giỏi về
mưu lấn đất cướp thành,
Việc
xô xát dân tình là giỏi.
Mình
muốn sống thì người khỏi nói,
Cũng
hiểu lòng họ đối thế nào;
Vẫn biết
yêu mạng sống như nhau,
2820.
Đâu muốn bị người nào giết hại.
Mình tồn
tại cho người tồn tại,
Nỡ dứt
tình đồng loại sao đành;
Sống bằng
phương xô xát nhơn sanh,
Cách sống
ấy hôi tanh như thú.
Sống
nhơn đạo sống tình cảm đủ,
Mới sống
theo ý vị loài người;
Chỉ đấu
tranh bằng trí bằng lời,
Cũng đủ
lựa gì nơi nanh vuốt.
Dắt
nhau đến chỗ gây chiến cuộc,
2830.
Ý vị loài người mất hết rồi;
Thay
vì dùng nanh vuốt tranh mồi,
Dùng
đao kiếm cướp xôi với bánh.
Mất hết
cả cái gì thiên tánh,
Chỉ là
loài mạnh đặng yếu thua;
Hiện
nay như đống rác sắp đùa,
Kẻ bạo
ác cũng chưa thấy thức.
Thế là
họ phải đành yên giấc,
Theo
ngày tàn của đất Hạ nguơn;
Chỉ
thương người còn chút thiện duyên,
2840.
Họ bị kẹp kềm hơn tự tạo.
Em
khéo giúp hạng nầy biết Đạo,
Họ tỉnh
rồi việc đáo đến nơi;
Việc
cũng không còn phải xa vời,
Em chớ
để người trôi mất uổng.
Nước
có lên rồi thì có xuống,
Em đừng
buồn đám ruộng ngập nhiều;
Thứ
nào châm cạn rễ thì tiêu,
Mùa tiết
phải chiều theo khó cải.
Ấy là
cũng một phương lựa đãi,
2850.
Quét sạch loài cỏ dại phá mùa;
Em buồn
anh lòng cũng bắt chua,
Việc
chi cũng do cơ tạo hóa.
Em thường
trách sao hiền mang họa,
Còn đứa
hung thong thả không sao;
Em nhớ
rằng danh mộc chừng nào,
Càng
chịu đục chịu bào chừng ấy.
Không
chịu thế sao nên hình đấy,
Còn những
nào cây vạy (6) đứng yên;
Ấy chỉ
là đợi lớn thêm niên,
2860. Dùng
làm cũi ra than là dứt.
Huống
những kẻ hiền lành nhơn đức,
Cũng
như nền của một ngôi nhà;
Những
khó khăn những nỗi xót xa,
Là kèo
cột rui đà cho đó.
Các vật
nầy thảng như không có,
Cái nền
kia suốt gió suốt mưa;
Ai đắng
cay ai có giày bừa,
Em rán
chịu chớ ngơ chí lực.
Trước
sau vẫn lo câu đạo đức,
2870.
Chớ quá buồn đành dứt xác trần;
Chúng
sanh đang khô chốn mê tân,
Mạng sống
tợ như đờn dây thẳng.
Lòng
bác ái há ngồi yên đặng,
Cũng
không đành nín lặng Tây Phương;
Huống
lời xưa đã thệ tỏ tường,
Nay
không độ đợi cơn nào độ.
Biết
bao kẻ bơ vơ trên lộ,
Há
không đưa tay trỏ đường về;
Thấy lạc
lầm mình phải ủ ê,
2880.
Tình ấy vốn trong lề nhà Phật.
Một
khi để cho tình ấy mất,
Sẽ
không trông thấy mặt Như Lai;
Bao kiếp
qua khổ cực chẳng nài,
Há lại
tiếc làm chi kiếp chót.
Chớ vô
ý để người dừng gót,
Thưa
bóng người cửa Phật chẳng nên;
Kẻ mến
em khéo dắt họ lên,
Chớ để
họ rớt chìm trở lại.
Không
dễ có được lòng hăng hái,
2890.
Để mất rồi khó tái được đâu;
Một khi
người đã biết hồi đầu,
Đừng để
họ lờn câu đạo lý.
Nếu họ
trở nên lờn tâm trí,
Khó gọi
cho tỉnh lại như xưa;
Kẻ tu
do hoàn cảnh đẩy đưa,
Chừng
bỏ đạo cũng do tình thế.
Những
hạng ấy không nên nhắm kể,
Bởi họ
theo thời thế ấy thôi;
Thời sớm
yên thì họ tu dồi,
2900.
Thời chậm đến họ trôi theo nước.
Họ bền
được thì là rất phước,
Bằng
không là tại ít căn duyên;
Cũng
chẳng nên đem dạ trách phiền,
Bỏ
luôn kẻ sâu duyên với Phật.
Nhờ có
sự lễ nghi phong chất,
Loài
người cùng thú vật khác nhau;
Muốn
thế không đạo lý chặm vào,
Như
nhuộm chẳng cầm màu bay hết.
Làm
người để mất đi chính nết,
2910.
Khác nào hoa mất hết mùi hương;
Xã hội
nào không kẻ hiền lương,
Xã hội
ấy mất đường thạnh trị.
Em
khéo giúp người thông đạo lý,
Tất nước
nhà trở lại an ninh;
Và chừng
khi có cuộc vang thinh,
Khổ họa
cũng chẳng sanh ra lớn.
Dân
còn bước chơn hài chơn hớn,
Phần lớn
do thiếu thốn đức tin;
Ấy là
mầm tai họa đáng kinh,
2920.
Khéo giúp họ được minh nơi trí
Dân
trong nước không thông chơn ngụy,
Sẽ rối
luôn khó trị cho yên,
Dân
trí khi được mở sáng lên;
Đâu hư
với đâu nên thấy rõ,
Cố
nhiên nẻo tà liền tự bỏ.
Tự xếp
mình vào ngõ chánh chơn,
Muốn
thế là theo lẽ trước hơn;
Phải
phát mạnh tinh thần đạo đức.
Lấy đạo
đức để tri giả thật,
2930.
Như địa bàn chỉ Bắc với Nam;
Độ được
ngay tất cả việc làm,
Giúp đỡ
chẳng gian tham là chánh.
Lợi dụng
hoặc gạt lừa bá tánh,
Ấy phải
nên quyết định là tà;
Cứu
mình rồi lo cứu người ta,
Ấy
đúng thuyết Thích Ca đã dạy.
Độ
mình chẳng độ người hoặc hại,
Quả
quyết rằng tông phái của tà;
Cứ lấy
đây mà xét rộng ra,
2940.
Sẽ biết được đâu tà đâu chánh.
Tà là
phải mau lo xa lánh,
Chánh
thì nên phát mạnh lòng tin;
Nào luật
nghi qui củ chặt gìn,
Xấu mấy
cũng trở nên người tốt.
Trừ những
kẻ chỉ mang có lốt,
Không chịu
đem lòng thật hành y;
Dù bao
lâu cũng chẳng nên gì,
Cây
không uốn hình chi chẳng giống.
Người
vốn lấy tánh quen mà sống,
2950.
Cả món chi đều cũng do quen;
Dù
tanh hôi dù quá thấp hèn,
Người
ta có thể quen được cả.
Ví dụ
sợ Trời khi quen dạ,
Không
bao giờ dám hả miệng kêu;
Đến uống
ăn cử động các điều,
Do
quen tánh phần nhiều thành tật.
Thói
quen rất là quan hệ nhứt,
Cho
nên cần lựa tập thói quen;
Đừng
cho quen những thói hư hèn,
2960.
Nên tập sửa tánh quen nhơn đức.
Quen
tha thứ quen lời chơn chất,
Quen
thương người quen giúp gần xa;
Lòng
cho quen thờ mẹ kính cha,
Thấy
ai khổ cũng là quen cứu.
Quen
niệm Phật như người quen rượu,
Quen
thế nầy tội lỗi đâu sanh;
Đời cứ
quen những việc bất lành,
Do đó
tạo muôn ngàn tội ác.
Đã
quen dữ đổi lành khó thật,
2970.
Nhưng cố lòng tập riết sẽ quen;
Em khá
mau đem hết lời khuyên,
Khiến
người sớm lòng quen đạo lý.
Chớ thấy
khó khăn mà nản chí,
Thú tập
lâu còn múa nên nghề;
Thì
loài người từ chỗ vụng về,
Tập
mãi sẽ nên bề khéo léo.
Nay sự
thế đã là mỏng mẻo,
Khá
rèn lòng quen nẻo thiện lương;
Nếu
không tin như giặc cùng đường,
2980.
Xác hồn chẳng còn phương cứu gỡ.
Chớ vội
nói việc chi không sợ,
Việc đến
nơi hồn vỡ mật tan;
Quả địa
cầu chỉ một tiếng vang,
Nhơn
loại đủ xương tan thịt nát.
Bần với
phú cũng ra tro mạt,
Mái
tranh cùng nóc gạch ra bùn;
Kiếp
trần gian như ấm nước đun,
Không
thấy hết mà lần khô cạn.
Kẻ lớn
nhỏ nên suy cho hãn,
2990.
Để lo tu càng sớm càng nên;
Trên
sen đài khi được đề tên,
Châu
báu há dám đem so sánh.
Mỗi
khi nghĩ đến Tây Phương cảnh,
Anh
còn nôn muốn đến ở ngay;
Tại
sao người trong cõi trần ai,
Chẳng
lo trở gót hài về đó.
Chừng
ngày hội Long Hoa mở ngỏ,
Đức Thế
Tôn hiện rõ cảnh này;
Để cho
người mong ước lâu nay,
3000.
Được thấy rõ ở ngay trước mắt.
Ngày ấy
cũng không còn xa xắc,
Anh
đang chờ góp mặt vào đây;
Cùng
chư Tiên thi thố phép tài,
Rõ
công đức của ai nhiều ít.
Có nhiều
Tiên ẩn nơi u tịch,
Muôn
triệu năm cách biệt hồng trần;
Ngày ấy
đều giá hạc đằng vân,
Xuống
thế để chúc mừng Thánh Đức.
Kể sao
xiết mùi thơm nồng nực,
3010.
Mây đủ màu chói rực mười phương;
Các Thần
Tiên dung mạo khác thường,
Mây đỡ
gót long lân chầu chực.
Em
cũng rán tạo thêm công đức,
Để
cùng anh hiệp mặt chốn này;
Khi ấy
em khéo độ gái trai,
Được
đi tới hội nầy cho phỉ.
Kẻ
trung hiếu với người liêm sĩ,
Cùng hạng
người thành ý tu hành;
Và những
người làm phước làm lành,
Đều có
thể đồng sanh tới đó.
Phần
thưởng ấy để dành cho họ,
Nhắc
nhở cho họ nhớ kẻo quên;
Nói đến
đây Đạo sĩ ngâm lên:
3024.
Đến được hội nầy có mấy ai,
Nóc đền
lợp lấy ngũ tường mây;
Bên
mình Tiên trưởng ra muôn phép,
Trước
ngõ Thần linh hiển đủ oai.
Thú
nói tiếng người không dấp dáp,
Sân chầu
sen ngọc ngát hương bay.
Khéo
dìu thiện tín về nơi ấy,
Em sẽ
gặp anh ở hội này.
3032. Đạo
sĩ dứt xong bài thơ ấy,
Ta rằng
: xin nhớ lấy y lời;
Quyết
đưa thân nầy với mọi người,
Đồng
đi đến tận nơi hẹn ấy.
Dù cho
phải khó khăn đến mấy,
Cũng
không nao tâm trí đã nguyền,
Riêng
lòng đây sau trước đồng nhiên,
Chỉ ngại
chúng không nguyền một lối.
3040.
Thảng như thế ngày Rồng Mây hội,
Một
thân nầy trơ trọi đến nơi;
Mặt
mũi nào dám ngó chín Trời,
Và thẹn
hổ những lời Ngài dạy.
Vừa
nghe Đạo sĩ liền chận lại,
Rằng:
Em đừng lấy đó làm lo;
Nếu
không thành như sự hẹn hò,
Lẽ ấy
cũng là do người đấy.
Nếu em
đã tận tâm khuyên dạy,
Chẳng
nghe theo lỗi ấy tại người;
3050.
Em lỗi chi mà thẹn chín Trời,
Cùng
anh ngại trước nơi gặp gỡ.
Nhưng
việc ấy chẳng bao giờ có,
Vì còn
nhiều người nhớ đến em;
Họ
đang lo rửa chỗ luốc lem,
Kẻ ấy
sẽ cùng em đi tột.
Nước
nhà họ cũng là rường cột,
Việc
tu hành lại rất kỹ cang;
Họ sẽ
đeo cho tới Niết Bàn,
Em chớ
ngại một thân trơ trọi.
3060.
Rất nhiều kẻ có căn thượng cõi,
Họ nhờ
em được hối phần đông;
Những
kẻ nầy trung hiếu đầy lòng,
Họ sẽ
vẹn thỉ chung với đạo.
Theo
anh thấy khí lành tiên báo,
Ngày
chung qui thành đạo nhiều người;
Em gặp
anh với vẻ vui tươi,
Chớ chẳng
phải sầu vơi đâu nhỉ.
Vậy em
chớ quá nên xa nghĩ,
Nghe
hay không tự ý người đời;
3070.
Lòng từ bi cứ nhắc chiều mơi,
Quên bụi
cát quên trời mưa nắng.
Lấy đạo
vị bán mùi cay đắng,
Thấy
thương đời chớ chẳng thấy đau;
Xưa
thơm tho nay vẫn ngọt ngào,
Tình
bác ái chẳng bao giờ mỏn.
Câu thệ
hải sơn minh gìn trọn,
Quyết
độ người khỏi chốn nàn tai;
Lời thệ
kia chẳng kết hình hài,
Vẫn
còn phải chuyển lai không nghỉ.
3080.
Em dụng hết tinh thần ý chí,
Kiếp nầy
dìu hết kẻ thiện duyên;
Để sau
khi qua cuộc biến thiên,
Em đến
động anh thiền một lúc.
Cõi thế
mặc cho người chen chúc,
Ngày vui
qua đến phút khổ sang;
Đời
Thượng nguơn muôn tuổi lạc nhàn,
Hạn kỳ
hết cũng lần đến khổ.
Chỉ
khi nào về nơi Tịnh độ,
Mới
không còn sự khổ tái hồi;
3090.
Thế nên dù sau cuộc lập đời,
Đạo Phật
vẫn khắp nơi truyền giáo.
Tuy no
ấm tuy đời quí báu,
Nhưng
không ai bận bịu tâm vào;
Gái
cùng trai bất luận người nào.
Tinh
thần cũng vượt cao thường tánh,
Nhờ đó
chẳng ai thèm tranh cạnh;
Đời sống
trong phong cảnh Thần Tiên,
Cũng lầu
vàng các ngọc muôn thiên;
Chỉ tạo
để mà xem chẳng mến.
3100.
Bề trí đạo rất là cao viễn,
Nên chẳng
ai gây chuyện sai lầm;
Đây thật
là thế giới Minh Tâm,
Người
người vẫn nói làm một rập.
Sẵn hiền
đức thêm lòng tu tập,
Cho
nên siêu về Phật phần đông;
Buồm
to thêm gió thuận xuôi dòng,
Đưa
thuyền đến bến trong chốc lát.
Muốn
hái trái có thang sẵn bắc,
Quả
đào kia sẽ chắc vào tay;
3110.
Nhờ thế mà người được sang đây,
Tất sẽ
đến được Tây phương Phật.
Khắp
trai gái sao còn mê giấc,
Khá lo
tu để gặp đời tân;
Say đắm
chi các thứ tạm trần,
Dục
chưa mãn kế thân tàn tạ.
Sự thất
vọng nhiều hơn thỏa dạ,
Ai
cũng như thế cả khác đâu;
Nay gặp
kỳ thiện ác đáo đầu,
Nỗi buồn
khổ càng sâu gấp mấy.
3120.
Người đời nay biết lo hối cải,
Theo
đường lành mới phải khôn ngoan;
Tuy biết
rằng vạn sự đầu nan,
Nhưng
nếu được kiên tâm giai vị.
Rán chịu
khó theo đường đạo lý,
Cho hồn
linh khỏi bị đọa sa;
Mọi
tai nàn thân được lánh qua,
Chớ
theo mãi cái đà hung dữ.
Đạo sĩ
bèn kể bài thời sự :
3129.
Trung ương ba tiếng sấm,
Nghe
tiếng gáy phụng hoàng;
Nhìn
trời vừa đứng ngọ,
Phật
vương xuất thế gian.
Ngày
giờ nầy chưa tới,
Nhân
sanh trong thế giới;
Còn khổ
nạn nhiều bề,
Không
nơi nào tránh khỏi.
Khắp
người trong thiên hạ,
Lấy
phước để trừ họa;
Chớ chữa
lửa bằng dầu,
Xác hồn
mau tiêu phá.
3141. Kệ
xong Đạo sĩ liền niệm nhỏ,
Rồi bỗng
nhiên hiện rõ vừng non;
Từ
trong non có một Sơn Thần,
Mặc áo
mũ đàng hoàng bước tới;
Chào Đạo
sĩ và ông liền nói,
Được lệnh
trên sắp đổi về Đông,
Dãy
non nầy sẽ hóa đồng không,
Cảnh
xinh đẹp vô cùng khó kể.
Những
người sớm khuya rèn kinh kệ,
3150.
Lòng hiền lương hiếu để trung cang;
Sẽ được
xem cảnh ấy rõ ràng,
Ngoài
ý của trần gian đã tưởng;
Ai
cũng được ấm no sung sướng,
Không
ai không màn trướng tốt tươi.
Trải
muôn năm mới có một đời,
Chớ
đâu phải mỗi thời mỗi có;
Dịp nầy
nếu khắp người lớn nhỏ,
Chẳng
lo tìm sao khó gặp ra,
Nơi
non nầy nhiều vị Tiên gia;
3160.
Đều xuống thế để mà hóa độ.
Các vị
chẳng nài thân lao khổ.
Len lỏi
trong khắp chỗ trần gian,
Quyết
độ đời khỏi cảnh lầm than;
Lo tu
niệm dứt đàng sanh tử,
Đại hội
đồng các Tiên đã dự,
Cuộc
biến thiên lành dữ thế nào;
Được
biết rành mọi việc trước sau,
Nên
lòng quá xót đau hạ giới.
Mới
đành tách chân ra khỏi núi,
3170.
Lâm trần gian chỉ lối tu hành;
Rất
mong cho khắp cả chúng sanh,
Lo bỏ
dữ về lành cho sớm.
Để sau
cuộc nạn tai ghê gớm,
Sắp nổi
ra khắp chốn cùng nơi;
Sự thảm
thê khó kể hết lời,
Phía
Tây của ngọn đồi kế đấy.
Có nhiều
loài thú cầm kỳ quái,
Rất
hung hăng không loại nào bì;
Đến thời
kỳ chúng nó ra đi,
3180.
Ăn xé kẻ bất tri nhơn nghĩa.
Ai gặp
nó cũng bay hồn vía,
Nhưng
nó không hại kẻ lương hiền;
Ấy là
do lệnh của hoàng thiên,
Trị tội
kẻ không kiêng trời đất.
Không
hiếu đễ chẳng lòng trung trực,
Cho
hùm tha sấu bắt cũng vừa;
Kẻ ở
ăn ngay thảo sớm trưa,
Chúng
thú sẽ lưng đưa cho cỡi.
Ấy phần
thưởng người tròn đạo ngỡi,
3190.
Qua biển rộng vượt lối núi rừng;
Nói đến
đây ông bỗng liền ngưng,
Rồi lại
tiếp kệ lên oai khí:
Kẻ ngồi
trên sư tử,
Người
lại ngự chim bằng;
Thiếu
chi ông cỡi cọp,
Nhièu
vị ngồi trên lân;
Ai
cũng đều nghiêm chỉnh,
Đến dự
hội Phong Thần.
Chim mừng
kêu ríu rít,
3200.
Hoa cảm nở rộ rần;
Chính
Thần khi nghĩ đến,
Lòng
hoan hỷ muôn phần.
Ước
mong người hạ giới,
Đồng
rán sức lập thân;
Nếu
không siêu về Phật,
Cũng
rán được qui Thần.
Làm hiền
chớ làm dữ,
Để xem
cõi Thượng nguơn;
Thần
chỉ biết nhiêu đó,
3210.
Không còn nói chi hơn;
Xin
chúc cho nhị vị,
Duyên
muôn năm sớm gần.
Dứt kệ
xong Sơn Thần biến mất,
Đạo sĩ
liền đưa mắt ngó ta;
Rằng:
Sơn thần đã nói vừa qua,
Em
lãnh hội gần xa được chớ?
Xưa có
một người vào non ở,
Sớm
khuya lo chuông mỏ tu hành;
Sự
tương rau trai giới chặt gìn,
3220.
Lòng hằng muốn thác sanh cõi Phật.
Nhưng
lửa giận trong lòng chưa dứt,
Thường
hay phiền những vật trái lòng;
Một
hôm kia có một bò đồng,
Phá
đám rẫy ông trồng rất tốt;
Lòng
ông phát nóng lên như đốt,
Rượt
đánh bò gần chết mới thôi.
Sau ít
ngày ông lánh cõi đời,
Hồn được
hóa Thần ngồi giữ núi,
Muốn về
Phật mà lòng chưa nguội;
3230.
Phạm tội gần như tội sát sanh,
Thế cho
nên quả Phật chẳng thành.
Làm thần
cứ đi quanh theo núi,
Chính
là vị thần vừa mới tới;
Sắp tới
ngày phải đổi về Đông,
Bởi
dãy non ấy sẽ hóa không;
Mọc trở
lại phương đông rất đẹp.
Cả vạn
vật cứ luôn tan hiệp,
Thợ Trời
ông khéo sắp đặt ra;
Cuộc đổi
dời ở một lần ba,
3240.
Quá lớn đến quỉ ma cũng biết.
Sự có
thật chớ sao ngụy thuyết,
Khắp
chúng sanh nên quyết lòng tin;
Để sớm
khuya hương nước gắn gìn,
Ngó bốn
hướng lòng thành khấn Phật.
Cầu hồn
được về An dưỡng quốc,
Độ xác
thân qua cuộc đại nàn;
Làm hiền
lương đâu tốn bạc vàng,
Mà lại
được khỏi mang ác báo.
Con
cái nhớ gìn câu hiếu thảo,
3250.
Vợ chồng cho phải đạo xướng tuỳ;
Người
đối nhau cần biết lễ nghi,
Sự tốt
đẹp còn chi hơn được.
Người
đời chẳng chịu suy sau trước,
Tạo làm
chi những cuộc bất hòa;
Mãn kiếp
rồi cũng hóa ra ma,
Hơn
người cũng chỉ là hơn tạm.
Nay nhằm
lúc gió mưa u ám,
Ổ chim
đời khó bám trên cây;
Cuộc
xoay vần rày đó mai đây,
3260.
Giàu nghèo có mấy ai cầm chắc.
Nên
đem những mồ hôi nước mắt,
Rửa bụi
tâm hơn tát vào đời;
Phải sớm
lo kịp hội nay mơi,
Cửa
Tiên Phật định đời tội phước.
Tuổi sống
lâu thân no ấm được,
Nếu ai
mà có ước trong lòng;
Hãy lo
tu sẽ thỏa dạ mong,
Lời Phật
Thánh vẫn không dối gạt.
Cố đèn
sách tất ngày đỗ đạt,
3270.
Có trồng thì sẽ chắc có ăn;
Gái
cùng trai khá giữ đạo hằng,
Chớ
đem dạ ngại ngùng sè sụt.
Em khá
dụng đủ lời kêu thúc,
Khiến
cho người bỏ tục tầm Tiên;
Cõi hồng
trần muôn thảm ngàn phiền,
Khá tỉnh
thức chớ nên ngủ mãi.
Chừng
gặp cuộc tang điền thương hải,
Có vật
chi tồn tại được đâu;
Chi bằng
mau tìm kiếm đạo mầu,
3280.
Thân dù mất hồn đâu dễ mất.
Huống
chi nếu được nhiều âm chất,
Sẽ được
như rắn lột không chừng;
Thân vạn
niên ở cõi trường xuân,
Quí
báu có chi cân cho xứng.
Trên đường
đạo lắm người lựng khựng,
Nửa muốn
lui nửa muốn tiến đi;
Tâm
chí không rõ rệt quyết kỳ,
Ngày rốt
cuộc chẳng nên chi cả.
Anh
càng thấy càng thêm xót dạ,
3290.
Hạng ấy như gói giá ấy thôi;
Nằm
trong bao nứt mọng đâm chồi,
Không
phân bón không trời mưa nắng.
Trái
bông chẳng bao giờ sanh đặng,
Mạng
căn kia tiếc uổng dường bao;
Em
khéo nhiều lời ví thấp cao,
Cứu vớt
kẻ vàng thau chưa rõ.
Em gọi
được cơn mê của họ,
Công đức
kia lớn có chi bằng;
Nếu
sau nầy họ được siêu thăng,
3300.
Độ được cả thân bằng quyến thuộc.
Nêu
cao một tấm gương sáng suốt,
Quí
báu nầy châu ngọc đâu so;
Nhiệm
vụ nầy em khá âu lo,
Chầy
kíp cũng phải cho hoàn tất.
Tuy
anh ở động trung tịch khuất,
Nhưng
phải đâu ẩn dật tỵ trần;
Anh
luôn dùng đến lối phân thân,
Cho đi
khắp xa gần độ thế.
Về
phương diện kiến nguy chi tế,
3310.
Có phút nào anh để cho quên;
Lòng
đâu màng ai biết đến tên,
Miễn cứu
được người hiền là quí.
Em đã
được cùng anh một chí,
Khiến
duyên xưa mùi vị thêm nồng;
Khi thấy
em định bỏ thân hồng,
Làm anh
phải bôn chôn lai viếng.
Trễ một
phút mảnh gương nát biến,
Rồi
làm sao hàn gắn cho nguyên;
Thấy
việc em, anh chẳng ngồi yên,
3320.
Mối tình cả vạn niên còn đấy.
Xưa
cha đẻ lắm lời khuyên dạy,
Rằng:
anh em bây hãy thương nhau;
Thằng
Kết khuyên, thằng Cấu nghe vào,
Hai đứa
khá dạy nhau mọi việc;
Được
như thế cha dù có chết,
Lấy
làm vui chẳng tiếc hận chi.
Lời của
cha quí báu dường ni,
Lòng
anh vẫn luôn ghi nhớ mãi;
Vậy em
khá cùng anh nhớ lại,
3330.
Làm theo lời cha dạy khi xưa;
Muôn
năm qua như kiếp hiện giờ,
Tình
huynh đệ vẫn là có một.
Điều
phải chẳng dạy nhau ráo rốt,
Quyết
khơi nguồn đạo đức khắp nơi;
Để làm
cho tất cả người đời,
Ai đều
cũng nên người lương thiện.
Còn Trời
đất còn non nước biển,
Tình đệ
huynh còn mến nhau luôn;
Trong
Phật- Đài anh trống em chuông,
3340.
Giục thúc kẻ trên giường mê mộng.
Họ chết
cả mình đâu vui sống,
Họ
cùng mình dòng giống không hai;
Họ
nhơn loài mình cũng nhơn loài,
Rất
quan hệ như cây với lá.
Giúp họ
tất giúp mình không lạ,
Huống
chi là sẵn dạ từ bi;
Giúp họ
riêng mình có tiếc gì,
Nguyện
sao lấp cạn đi biển khổ.
Để cho
cả nữ nam lớn nhỏ,
3350.
Ai cũng luôn được có an vui;
Khắp
nơi đều đạo đức nực mùi,
Không
còn thấy một nơi nào khổ.
Ách nước
không, tai trời chẳng có,
Không
nghe ai làm khó cho ai;
Trên
thanh liêm dưới rất thẳng ngay,
Trong
khuôn phép và ngoài lễ nghĩa.
Ai
cũng tự gương lòng trau trỉa,
Biết
thẹn khi lầm lỡ điều gì;
Cảnh nầy
chừng nào được hiện y,
3360.
Lòng của kẻ từ bi mới thỏa.
Người
được ở ăn như thế cả
Cõi tục
liền được hóa nên Tiên;
Không
tử sanh không sự não phiền,
Đâu
đâu cũng ổn yên nhàn nhã.
Ngày ấy
phải làm cho kết quả,
Em
cũng nên tuyên hứa cùng anh;
Cõi Lạc
An cố tạo cho thành,
Để cho
khắp dân lành được hưởng.
Nếu chưa
được nên như ý tưởng,
3370.
Còn xông pha liệu lượng chưa thôi;
Vui
cho thân gió bụi tô giồi,
Miễn
sanh chúng được hồi an lạc.
Ta liền
cúi đầu xin ghi tạc,
Thân
tâm nầy trút hết cho đời,
Cảnh Lạc
An chừng được xong rồi,
Đây mới
chịu yên ngồi bàn thạch.
Đạo sĩ
liền chỉ tay vào vách,
Một vị
Thần hiện bước ra chào;
Đạo sĩ
rằng: lời hứa thế nào,
3380.
Nhà ngươi đã trước sau nghe rõ.
Hãy
làm chứng cho lời hứa đó,
Vị Thần
rằng: Xin nhớ y lời;
Nói
xong rồi chơn nọ vừa lui,
Vừa biến
hóa tự hồi nào mất.
Đạo sĩ
rằng : chớ nên sai thất,
Có Thần
minh chứng thật hẳn hoi;
Ngày
giờ qua mau lẹ như thoi,
Ý nguyện
chớ để trôi một khắc.
Cuộc
thế biến đổi trong nháy mắt,
3390.
Có rồi không, không lập thành hình;
Đò từ
bi chực rước chúng sinh,
Không
để khách hữu tình huốt đỏi.
Đạo sĩ
liền kệ lên inh ỏi :
Muốn
nên được vách lầu,
Nhờ
nhiều gạch kết câu;
Rừng
sâu một ngọn đuốc,
Khó rọi
sáng khắp đâu.
Nếu
không chư Bồ Tát,
Lời Phật
chẳng truyền sâu;
3400.
Thảng anh không đến sớm,
Em đã
rút nhịp cầu.
Không em
đương tại thế,
Lời
anh gởi vào đâu;
Chơn
duyên đâu dễ có,
Có được
quí hơn châu.
Đường
xa chở đông khách,
Xe được
có hai trâu;
Chắc
chắn về đến chốn,
Như ý
nguyện không lâu.
3410.
Đạo không người truyền bá,
Đâu
lan khắp địa cầu;
Anh mừng
em bỉnh chí,
Trên
đường rải đạo mầu.
Công đức
ngày càng lớn,
Bảy
báu dám so đâu;
Chúng
sanh tuy hiện khổ,
Được
nghe rõ lời châu;
Đâu
vui và đu khổ,
Siêu đọa
hãn đuôi đầu.
3420.
Tiền nhiều đầy hộc tủ,
Khó đổi
đạo một câu;
Thường
tự do nghe pháp,
Tiền bạc
chẳng bị thâu.
Nữ nam
sao lại chẳng,
Hoan hỷ
để tu cầu;
Tu được
hưởng phước lạc,
Hiện tại
và ngày sau;
Lời
nói trong tình thật,
Không
dối gạt ai đâu.
3430.
Khắp làng quê chợ búa,
Khá
chiêm nghiệm từ câu;
Đừng
chỉ nghe thấp thố,
Vội le
lưỡi lắc đầu.
Khi gặp
mà không thấy,
Qua rồi
kiếm được đâu;
Rán lo
tu cần kíp,
Chớ đểí
dạ cơ cầu.
Cuộc đời
chừng đến việc,
Trăm
thảm với ngàn sầu;
3440.
Cơm sẽ không đủ bữa,
Nước
chẳng thấm ướt hầu.
Sao
người không tính trước,
Chưởng
phước để danìh sau.
Anh mỗi
khi tưởng tới,
Bắt
thương hại dường bao;
Vậy những
lời anh nói,
Em nên
nhớ ghi vào.
Để tùy
phương dắt chúng,
Ra khỏi
cảnh đồ lao;
3450.
Lo gấp đừng để trễ,
Cánh
gà vàng bay mau.
Ta rằng
: những lời nào Ngài dạy,
Đây xin
nuôi dưỡng mãi trong lòng;
Có dịp
liền đem nó phổ thông,
Cho khắp
kẻ xa gần được biết.
Tánh
thô bạo nếu người trừ diệt,
Ấy là
do ân đức của Ngài;
Phận
hèn nầy thuyền khẳm tát tay,
Việc
chẳng thấm vào đâu cho mấy.
3460.
Bẩm tánh đã vốn yêu nhân loại,
Được
hay không vẫn phải lo nôn;
Ngày
như đêm cứ mãi bôn chôn,
Lo đến
đỗi phổi tim bầm dập.
Muốn bỏ
xác vì câu tái lập,
Chớ
tình yêu vạn vật đâu quên;
Nay được
Ngài dạy rõ hư nên,
Tình
yêu ấy càng thêm rộng lớn.
Chừng
nào rửa sạch đời nhơ bợn,
Thì
lòng nầy mới đặng yên vui;
3470.
Ngày nào còn có kẻ ngược xuôi,
Đây
còn phải tới lui chỉ dạy.
Ước gì
chẳng gặp điều trở ngại,
Để
tình yêu nầy rải gieo xa;
Mọi việc
luôn nhờ Đức Phật- Đà
Đã dạy
dỗ gần xa cặn kẻ.
Khiến
tinh thần đây thêm mạnh mẽ,
Không
cảnh nào bàng bẽ được lòng;
Hồn
thường đêm gần gũi Phật ông,
Được
truyền hóa tấm lòng từ ái.
3480.
Dù sống thác vẫn thương nhơn loại,
Độ đến
khi trai gái đồng thành;
Thì
lòng đây mới dứt đường sanh,
Cùng
chư Phật đồng yên cõi tịnh.
Những danh
lợi với câu chung đỉnh,
Lòng
đây không bận đến điều nào;
Rất
coi thường chức trọng quyền cao,
Chỉ
quí trọng tình yêu nhơn loại.
Lao khổ
mấy cũng đeo nó mãi,
Vui hy
sinh cả thảy mọi điều;
3490.
Đạo sĩ rằng : Ý nguyện cao siêu,
Đáng
cho chúng noi theo đòi bữa.
Nếu ai
cũng như em xem sửa,
Cõi đời
không bao thuở lao lung;
Em khá
đeo lòng ấy đến cùng,
Với
chư Phật vốn không sai lạc.
Rán
cho ý nguyện kia thành đạt,
Để khắp
nơi được bớt âu sầu;
Khi
gái trai đồng biết đạo mầu,
Tự trị
lấy chẳng cầu ai trị.
3500.
Không ra oai mà an thành thị,
Chẳng
dụng quyền vẫn trị thôn hương;
Ai
cũng đồng đi có một đường,
Thương
người cũng như thương mình vậy.
Lo làm
phải không vui làm quấy,
Thấy hại
người như hại lấy mình;
Dưới
trên cùng đồng khí đồng thinh,
Chung sức
tạo hòa bình no ấm.
Mùi đạo
khắp người đồng nhuần thắm,
Nói với
làm tất chẳng trái nhau;
3510.
Không như người chỉ thếp ra màu,
Chẳng
thành thật theo câu đạo lý.
Vì lẽ
chẳng trừ xong tệ ý,
Cảnh dễ
xui lòng khởi việc tà;
Hễ khi
nào thuận cảnh đưa ra,
Ý xấu
chụp như gà gặp thóc.
Chỉ mé
nhánh không đào tận gốc,
Mé bao
nhiêu càng mọc bấy nhiêu;
Tâm ý
là mẹ đẻ các điều,
Nó xấu
khiến bao nhiêu điều xấu.
3520.
Thói giả dối khó phương che giấu,
Sớm muộn
gì cũng lộ ra ngoài;
Cho
nên phường lòe sự lạt chay,
Thường
hay bị kẻ ngoài bắt gặp.
Làm lấy
có chớ không thật tập,
Dù việc
chi cũng thất bại luôn;
Nên sự
tu chớ có làm tuồng,
Phải
thành thật từ trong tim não.
Khỏi bị
người lột trần mũ áo,
Lại có
ngày quả đạo tay thâu;
3530.
Khiến quỉ thần đều phải khấu đầu,
Nghiệp
sanh tử còn đâu lai vãng.
Cõi
thanh tịnh vui câu trường mạng,
Hết lo
ai trả oán báo thù;
Thật
quí thay người được chơn tu,
Khổ một
thuở nhàn du vĩnh kiếp.
Vậy em
lựa phải cơ phải dịp,
Đem lời
nầy khuyên khắp nhơn sanh;
Rán hướng
theo Phật pháp tu hành,
Bớt lo
lối cạnh tranh bất thiện.
3540.
Dù người có tạo tành lắm chuyện,
Cũng đổ
theo cảnh biến không còn;
Của thế
thời bị thế thời mòn,
Sản vật
vẫn là con thời thế.
Luống
công dụng đến muôn xảo kế,
Thân mất
đi hoặc thế đổi dời;
Mọi vật
trong tay thảy đều rời,
Cảnh
giả dối giống nơi cảnh mộng.
Nghiệm
xét kỹ lấy làm bi thống,
Làm
nhiều nhưng thường chẳng bao nhiêu;
3550.
Phước ít xong phần tội thì nhiều,
Cứ
luân chuyển mãi theo nghiệp tạo.
Thường
gánh chịu ngàn muôn ác báo,
Kể sao
cùng sự não khổ thân;
Đứng
ngoài xem thấy rõ kiếp trần,
Lòng
Tiên Phật bội phần thương xót.
Nếu ai
cảnh khổ chưa thoát lọt,
Thời kỳ
nầy nên biết lo tu;
Ngày
giờ không nán để ngao du,
Chớ lần
lựa việc nào cũng hỏng.
3560.
Đời chẳng giữ bền câu danh vọng,
Đạo
không thông đến chốn cơ huyền;
Tục chẳng
rồi Tiên lỡ hội Tiên,
Hết lời
để tả nên khổ ấy.
Đúng
như Phật đã cho em thấy,
Khổ cuối
đời trong đại thọ gương;
Người
đời tuy chưa thấy tận tường,
Nhưng
lắm kẻ đã thường nghe tới.
Nếu chẳng
chịu ăn năn chừa lỗi,
Chừng
đáo đầu tiếc hối muộn màng;
3570.
Giờ nầy trong khắp cõi thế gian,
Còn tu
được khá toan liệu gấp.
Việc lần
mỏn như cây nến thắp,
Phật
Tiên không dối gạt người đời;
Rán để
tâm nghiên cứu cạn lời,
Hầu
tìm hiểu được nơi đáng hiểu.
Bỏ những
việc không nên lịu địu,
Để
nghiệp không trì níu được mình;
Được tự
do đến cõi bất sanh,
Ngày
nào cũng ninh bình khoái lạc.
3580.
Không bị ép trong đường sống thác,
Tâm hồn
vui thân được nhẹ nhàng;
Quả đất
nầy dù có nát tan,
Thân
cũng chẳng lụy mang tai khổ.
Riêng
phần được hoàn toàn siêu độ,
Sức
còn thừa để phổ cứu người;
Có phải
chăng là việc tốt tươi,
Đáng
thi thiết đáng nơi học hỏi.
Vậy em
rán ra công kêu gọi,
Kẻo
người không nghĩ tới đoạn này;
3590.
Đạo sĩ liền cất giọng khoan thai,
Ngâm
liên tiếp hai bài tứ tuyệt.
Vật nặng
không thuyền khó quá giang,
Nghiệp
sâu không Phật cứu sao an,
Chúng
sanh khắp cõi Ta-Bà khổ,
Nên hiểu
lo tu kẻo muộn màng.
Lạc nẻo
được người chỉ dắt cho,
Há
không mừng rỡ để theo dò,
Người
qua bóng khuất không trông thấy,
Khổ ấy
người sao chẳng xét đo.
3600.
Vừa trách thiện vừa là khuyến dạy,
Khiến
lòng ta kính ái thêm hơn;
Cúi
mình rằng lời của chơn nhơn,
Rất
chí lý đáng dân truyền tụng.
Đây
xin hứa nói ra khắp chúng,
Khiến
cho ai đều cũng được nghe;
Đạo sĩ
rằng nhưng phải dặt dè,
Lựa phải
lúc nói ra mới quí.
Đừng để
chúng lầm rằng lời ngụy
Làm
cho mùi đạo lý mất thanh,
3610.
Lúc hiếm hoi người mới mua dành;
Khi ế
đọng họ đành ngó lảng,
Lựa chỗ
có người thường lai vãng.
Để ra
công lập quán bán hàng,
Đừng để
sau khi bụng no rang;
Mới
đem dọn đầy bàn vô ích.
Đâu đợi
phải có nhiều cá thịt,
Lúc
đói dù muối cục cũng ngon;
Em lấy
đây định việc mất còn,
Nên hư
chỉ một cơn nầy đấy.
3620.
Ta rằng : Xin vâng theo ý ấy,
Đắt
bán ra ế đậy cất vào;
Thiếu thì
thêm, dư bớt ra mau,
Không
gánh củi trở vào rừng núi.
Mọi việc
phải xem theo thời buổi,
Để
không cho lỡ tối lỡ trưa;
Việc
làm chi cũng phải cho vừa
Vừa sở
nguyện vừa cơ tạo hóa,
Cứ như
thế mở đường đạo cả,
Sẽ
không lầm sai có phải chăng;
3630.
Đạo sĩ rằng : Ý rất thâm hoằng,
Cứ
theo đó mà hành thì đúng.
Ta rằng
: nhưng còn lo cho chúng,
Nhạc
tuy hay mà chẳng biết nghe;
Cho rằng
như tiếng nhái tiếng ve,
Như thế
rất tiếc cho bài bản.
Đạo sĩ
rằng : người đâu một hạng,
Trong
mười người tất đặng năm ba;
Nhạc dở
hay được biết phân ra,
Họ biết
cảm khi hòa đúng nhịp.
3640.
Nhạc sĩ há chẳng nên thừa dịp,
Đưa hồn
người đến tột trời xanh;
Quên hết
bao mưu mẹo bất lành,
Sống
trở lại với tình trăng nước.
Em còn
nhớ hơn mười năm trước,
Đang
lúc em ngồi chuốt cung tên;
Nghe
bên tai có tiếng nói lên :
Nhắm
cho đúng hồng tim mà bắn.
Ấy là
lời cụ già khéo dặn,
Trong
số đông có hạng thiện căn;
3650.
Rán tìm ra để độ siêu thăng,
Ví như
kẻ bắn cung thiện nghệ.
Ta rằng
: đã có nghe như thế,
Không thấy
ai đứng kế bên mình;
Việc
thường nghe nên lấy làm tin,
Cứ một
mực nhắm nền đạo lý.
Đạo sĩ
rằng : lời như Phật chỉ
Một
câu nhưng nhiều ý ẩn vào,
Huệ ít
nhiều thành hiểu khác nhau,
Chung
qui cũng đồng vào cửa đạo.
3660.
Theo em hiểu nghĩa lời cụ lão,
Ấy về
phần tiến đạo tự thân;
Còn lời
anh vừa mới tố trần,
Nghĩa ấy
vốn thuộc phần nhiếp hóa.
Hai
nghĩa cũng đi về đạo cả,
Độ
mình rồi độ kẻ đồng siêu;
Sông rạch
tuy là nhánh ra nhiều,
Cũng
nơi biển chảy nào đâu khác.
Lý của
em cứ ôm gìn chặt,
Không
trái ngang sai lạc mà lo;
3670.
Nhưng buổi qua với lúc hiện giờ,
Phận sự
khác thời cơ cũng khác.
Buổi
qua ở trong phần tự giác,
Còn hiện
giờ đến lượt giác tha;
Đúng
theo lời dạy của cụ già,
Mũi
tên phải bắn ra cho trúng.
Em khá
nghĩ cách nào độ chúng,
Đừng để
cho mất giống hiền nhân;
Anh
non đài không thể ngồi trân,
Cũng
vì lẽ thương dân còn khổ.
3680.
Mượn thần thông hiện ngay tới chỗ,
Để
cùng em phân tỏ ngọn ngành;
Đừng vội
rời bỏ xác tuổi xanh,
Hãy mượn
nó để minh đạo lý.
Việc rất
gấp không còn hồ mị,
Chẳng
sớm lo để trễ hết lo;
Sẵn
gươm thần lại sẵn có đò,
Không
rước khách còn chờ chi nữa.
Trên
đường lộ lại thêm có ngựa,
Sự tiến
lui đây đó tiện bề;
3690.
Há không lo cứu gấp người mê,
Qua khỏi
chốn ủ ê thảm não.
Anh
còn quên một điều quí báu,
Mười
năm qua ngay dạo ban trưa;
Bất ngờ
em đã gặp mẹ xưa,
Đã chỉ
giáo thời cơ lắm việc.
Biết
bao lẽ bi ai thống thiết,
Mẹ đã
đem nói hết cho em;
Tuy động
trung anh đã được xem,
Vừa thấy
mẹ và em cả thảy.
3700.
Lòng anh rất vô cùng kính ái,
Xưa mẹ
tâm rộng rãi vô biên;
Thường
giúp người đói lạnh cơm tiền,
Thời
buổi ấy xóm giềng đều mến.
Mẹ mộ
đạo vốn không bờ bến,
Nhờ thế
mà đạt đến Phật- Đài;
Vậy
khi nào thuận tiện giờ ngày,
Em đem
hết những lời mẹ dạy.
Nào sanh
tử nào câu thành bại,
Kể ra
cho cả thảy được nghe;
3710.
Nay việc đời đã mỏng tợ the,
Không
còn phải dấu che chi nữa.
Lời của
mẹ ngọt như mật sữa,
Nếu em
đem kể rõ cho đời;
Chắc sẽ
làm cảm được nhiều người,
Bỏ
hung ác theo nơi lương thiện.
Mặc dù
đã muôn năm cách viễn,
Anh
không hề quên tiếng mẹ xưa;
Nhân
duyên nầy đâu phải dễ mua,
Em khá
nhớ đừng ngơ phút chốc.
3720.
Nghe Đạo sĩ nhắc ta liền khóc,
Việc ấy
là có thật không sai;
Những
lời khuyên tao nhã thanh bai,
Còn
văng vẳng bên tai ta đấy.
Rằm
Tháng Mười chính là ngày ấy,
Câu
chuyện kia hiện lại cho ta;
Xin hẹn
cùng lớn nhỏ trẻ già,
Việc ấy
sẽ kể ra kỳ tới.
Ta vừa
nghĩ vừa tuôn mắt xối,
Rằng
lâu rồi nào phải mới đây;
3730.
Nhưng xét vì chưa tiện để bày,
Nên chẳng
kể cho ai được biết.
Nhưng lòng
vẫn chờ khi xuôi việc,
Đem kể
ra cho hết ngọn ngành;
Để người
Nam Bắc được biết rành.
May ra
có xuôi tình đạo đức.
Đạo sĩ
rằng: Người đang chờ chực,
Nên
nói ra hơn cất vào lòng,
Đành rằng
khi thuận nước xuôi dòng,
Sẽ dễ
nói rộng trong khắp chúng.
3740.
Nhưng việc gấp như thoàn đã lủng,
Nên
nói mau hơn ngóng chờ thời;
Nếu cuộc
đời còn thấy xa vời,
Anh
chưa đến tận nơi em đấy.
Vui
cho em bỏ thân gầy ấy,
Để đổi
thân khác phải tốt chăng;
Anh xuống
đây vì lẽ thấy rằng,
Sự thế
chẳng dùng dằng được nữa.
Làm
cho tột chẳng nên mưa mứa,
Được
hay không một bữa nầy thôi.
3750.
Thế nên anh mới dụng hết lời,
Khuyên
em tiếp tục nơi phổ hóa;
Lo gấp
tợ chữa nhà phát hỏa,
Trễ một
giờ sẽ hóa đồng bằng;
Rán
thương người còn chút thiện căn,
Lo cứu
họ khỏi tan hồn xác.
Mùi đạo
được thơm ra bát ngát,
Cũng ở
trong thời cuộc nầy đây,
Những
kẻ làm vinh diệu Phật- Đài;
Em vốn
cũng một trong tay ấy.
3760.
Có một hôm em nằm ngó thấy,
Trong
đồng hoang cỏ dại mênh mông,
Một bụi
sen đứng tợ trời trồng;
Em vừa
đến một bông liền nở,
Hoa có
vẻ tươi cười mừng rỡ;
Như tớ
kia gặp chủ xa đàng,
Ấy điềm
lành để báo trước rằng:
Em nên
đạo trong cơn loạn lạc.
Việc
đã đúng như điềm chẳng khác,
Em vẫn
còn nhớ chắc phải không?
3770.
Ta rằng: đâu quên được trong lòng,
Việc mầu
ấy vô cùng khích lệ;
Nguyên
do sau khi đây phát thệ,
Như những
điều đã kể trước đây.
Thì liền
đêm ấy được thấy ngay,
Đúng
như chuyện của Ngài vừa kể.
Trong
đồng cỏ âu sầu hoang phế,
Một bụi
sen được ló cao lên;
Khi
đây vừa đến kế một bên,
Thì
hoa lại trổ liền lập tức.
3780.
Mùi thơm tho bay ra nồng nực,
Khiến
cho bao thảo vật chung quanh;
Như cảm
lây mùi vị thơm lành,
Vẻ ủ dột
đổi thành tươi tắn.
Thấy
việc đã chưa từng thấy đặng,
Khiến
lòng đây vô hạn vui mừng;
Ngọn
gió từ đâu quét vào thân,
Đây liền
thức nhưng lòng còn tiếc.
Đạo sĩ
rằng : diệu huyền khó biết,
Điềm ấy
do phép Đức Như Lai;
3790.
Vừa cho em hiểu phận sau này,
Vừa
khiến để miệt mài thêm nữa.
Nếu chẳng
gắng trau tria thường bữa,
Sẽ khô
lần như cỏ chung quanh;
Đức Từ
bi khéo hiện điềm lành,
Không
phải kẻ tu hành khó hiểu.
Phật
thương chúng sanh hằng muôn triệu,
Chúng
sanh không một nhểu biết ơn;
Lòng bạc
đen còn có chi hơn,
Vì thế
cứ đọa luôn cõi khổ.
3800.
Thùng rác sắp đến ngày đem đổ,
Cũng
chưa vui rời bỏ cho an;
Đợi đến
khi ra đống tro tàn,
Chừng ấy
mới ăn năn sao kịp.
Muốn
khỏi họa chính nay nhằm dịp,
Rán mà
lo kẻo huốt trôi qua;
Em khá
đem ví dụ gần xa,
Khuyên
trần thế rán mà cải hóa.
Nay
còn có thể làm công quả
Thì
nên lo chớ khá biếng lười;
3810.
Chịu khó làm hiền đức tốt tươi,
Sau được
hưởng yên nơi yên chỗ.
Làm
hung dữ như hùm như hổ,
Thêm hận
thù thêm khổ cho thân;
Mạnh
dù bao cũng sẽ yếu lần,
Không
ai được đứng trân một chỗ.
Hơn
thua cũng đi về tử lộ,
Tạo làm
chi những thứ bất lương;
Cũng cần
đem hết trí suy lường,
Để sớm
có mở đường giải thoát.
3820.
Thấy bá tánh lòng còn bạc ác,
Xem
thường lời Tiên Phật dạy khuyên;
Quá
thương thành đến phải trách phiền,
Muốn
nín lặng ngồi yên sơn động.
Nhưng
không nỡ đứng xa để ngóng,
Cảnh
đê mê của chúng nay mai;
Nếu cố
tình trách kẻ mê say,
Bụng dạ
khác chi người dương thế.
Huống
chi đã trải muôn thế hệ,
Vẫn
không quên cứu tế các loài;
3830.
Nên mới dùng đến phép phi hài,
Qua lại
khắp trần ai độ chúng.
Cơ Trời
đất khéo xoay rất đúng,
Anh gặp
em trong chốn hồng gian;
Rồi từ
đây phải rẽ đôi phang,
Mỗi
người mỗi nơi toan việc đạo.
Câu thế
giới “Liên dây hòa hảo”,
Em khá
lo chu đáo mọi bề;
Mang
ân thầy chi xiết nặng nề,
Rán trả
chớ bỏ bê lỡ dở.
3840.
Chừng được khi rảnh rang nần nợ,
Lòng mới
yên đây đó ngao du;
Mọi việc
còn trong cảnh rối bù,
Há lơ
lảng cho đâu hỏng đấy.
Sao Trời
mắt khi trông ngó thấy,
Vận
toàn thân để nhảy khỏi bồn;
Không
lo trườn ra đến mé cồn,
Thân
đâu khỏi bị chôn trong chảo.
Người lòng
đã biết tin theo đạo,
Rán tiến
lên chớ ngáo ngơ lòng;
3850.
Kẻ nào đường Phật pháp chưa thông,
Xin
hãy rán ra công học hỏi.
Em cố
nhớ hết lời anh nói,
Để
khuyên người còn tối việc tu;
Ngọn
đèn trần càng lúc càng lu,
Cảnh
tăm tối có đâu tránh khỏi.
Lớp ma
vật lớp người cùm trói,
Kể sao
cho hết nỗi thiết tha;
Nói đến
đây Đạo sĩ chan oà,
Rằng
em nhớ mười ba năm trước.
3860.
Đang trong lúc em ngồi uống nước,
Bỗng
nhiên nghe trong ruột bàng hoàng;
Bỏ đi
nằm liền phát mơ màng,
Có một
vị mình vàng hiện tới;
Rằng
có sự liên quan thế giới,
Rồi dắt
em đi đến Kiều-Xà,
Khi đến
nơi đã chật người ta;
Kẻ kêu
khóc người la inh ỏi.
Hai
bên lộ núi cao vòi vọi,
Trước
mặt thì cầu nổi ngang sông;
3870.
Phía sau đầy thú dữ lửa hồng,
Chỉ độc
đạo chớ không nẻo khác.
Ai cũng
phải xô nhau ồ ạt,
Để qua
cầu hầu thoát khỏi nàn;
Nhưng
dưới cầu rắn độc làng khang,
Nếu
ngoài điều nhắm mắt chạy ngang;
Không
còn cách nào hơn nữa được.
Ván cầu
vì quá nên trơn nhớt,
Nên
nhiều người bị trợt xuống sông;
Hầu hết
đều bị rắn mạng vong,
3880.
Cảnh thê thảm nói không hết được
Em có
hiểu những người đã trợt,
Họ thuộc
vào hàng bực nào không;
Ấy hạng
người ăn ở hai lòng,
Ngoài
lương thiện mà trong ác đức.
Nên phải
bị rắn kia cắn rứt,
Vừa với
tâm ác độc đang mang;
Cầu ấy
khi người bước qua ngang,
Nếu ác
đức mắt liền bị chóa,
Chơn
run lên không phương kiềm tỏa;
3890.
Sức mạnh bao cũng ngã tức thì,
Trái lại
người hiền vẫn cứ đi,
Cũng
như lộ thường khi chẳng khác.
Người
thiện chẳng giống như kẻ ác,
Có khí
lành xông khắp cả thân;
Khiến
quỉ ma không dám đến gần,
Loài rắn
rít cũng không nhiễu hại.
Em
nghĩ sao? Cây cầu rắn ấy,
Do người
hai lòng mới có ra;
Có
luôn loài hung dữ độc xà,
3900.
Mọi việc tại nghiệp mà thành có.
Người
hung với người hiền đồng ngó,
Kẻ hung
thì, thấy có rắn đầy;
Còn
người hiền thấy nước với cây,
Sự thấy
ấy vẫn sai nhau cả.
Như giụi
mắt thấy lằn lửa nhóa,
Chẳng
giụi thì không có thấy chi;
Thấy rắn
hay không cũng thế ni,
Cứ lấy
đó mà suy thì hiểu.
Còn những
bậc đã nên đạo diệu,
3910.
Giả với chơn được hiểu cả hai;
Thấy
rõ đâu là rắn là cây,
Nghiệp
hoặc chẳng mờ tai với mắt.
Mọi lời
nầy em nên góp nhặt,
Để
khuyên người chưa được hiểu thông;
Rán mà
tu để có qua sông,
Khỏi bị
rắn làm vong thân mạng.
Ta rằng:
Những lời Ngài quí đáng,
Đây có
bao giờ dám lảng quên;
Kể từ
nầy mọi việc hư nên,
3920.
Đây xin nguyện sẽ đem kể nốt.
Đúng
như lời của Ngài vừa thốt,
Kiều-Xà
làm hoảng hốt nhiều người;
Đây
xem qua lòng bắt rụng rời,
Rồi tự
hỏi sao đời quá khổ.
Vị
mình vàng chừng như đã rõ,
Trả lời
rằng: “cảnh đọ với lòng”;
Lời
đơn sơ ý rộng bao đồng,
Đây
còn nhớ mãi trong não trí.
Đạo sĩ
rằng: đã qua giờ tý,
3930.
Vậy anh xin hồi vị non mây;
Chúc
em nhiều công đức lần nầy,
Cùng
anh sẽ chờ ngày gặp lại.
Đạo sĩ
liền ngâm lên chậm rãi,
Một
bài thơ nghĩa ái sâu xa :
Muôn
năm qua tợ một ngày qua,
Tình
nghĩa đệ huynh vẫn mặn mà;
Trò
chuyện đã nhiều xin giã gót,
Hẹn
nhau gặp tại hội Long-Hoa.
Ngâm
xong Ngài ngó ta lần chót,
3940.
Rồi ung dung quày gót bước đi;
Đi trong
lằn ánh sáng uy nghi,
Lần lần
biến thân về phương Bắc.
Cảm lời
xưa cảm lời son sắt,
Khiến
ta rơi nước mắt đậm đà;
Không
một lời chi tiễn đưa ra,
Cứ nín
lặng như là khúc gỗ.
Chừng
Đạo sĩ biến đi khuất chỗ,
Ta mới
là sực nhớ lại thân;
Đang
ngồi trên giường bịnh tần ngần,
3950.
Một mình với ngọn đèn bên góc.
Vừa nằm
xuống vừa ôn trong óc,
Lời hư
nên đã được nghe qua;
Tự thấy
rằng không thể kiếm ra
Cố nhớ
chẳng rời xa một đoạn.
Tuy
đang bịnh nhưng ta cũng rán,
Gượng
viết ra thành bản nầy đây;
Rất mong
rằng lớn nhỏ gái trai,
Nhớ đọc
kỹ chớ nài mệt mỏi.
Bởi thấy
khổ Phật Tiên mới gọi.
3960.
Nào phải đâu chuyện nói bông đùa,
Lời
hôm nay như những lời xưa;
Thanh
Sĩ chẳng bao giờ nói dối,
Xác hải
ngoại hồn trong quốc nội.
Vẫn
không quên nghĩ tới anh em,
Thấy
ai còn mặt mũi lọ lem;
Ta như
thể kim châm gan ruột,
Hãy
chùi rửa những điều nhơ nhuốc;
Để
giúp cho đây bớt âu lo,
Mặc dù
đường tu lắm gay go,
3970.
Chớ lấy đó cóp co tâm chí,
Trên
cùng dưới hãy nên nhứt trí,
Để mà
lo tạo phúc lợi chung;
Rán cấy
cày chống nạn bần cùng,
Lo học
hỏi cho thông đầu óc.
Thà chịu
chết đừng rời cội gốc,
Hết khổ
lao đến lúc thanh nhàn;
Mọi việc
đều theo luật tuần hoàn,
3978.
Chớ bỏ cuộc nửa đàng rất uổng.
Viết
xong ngày 20-11-1958
Ghi
chú:
(1)
‘cơ kỉnh’ đồng nghĩa với ‘cơ cẩn’
(2) ‘hối
quá’: hối lỗi (Hán Việt), có bản ghi ’hối hóa’
(3) ‘dức’
(từ xưa): than vãn, bày tỏ tâm sự
(4)
‘Phược Yêu Thằng’: dây trói yêu quái.
(5) ‘bẫy
nò’: bẫy dùng bắt thú, nò dùng bắt cá.
(6) ‘vạy’:
cong theo 3 chiều trong không gian.
(‘cong’
được dùng trong mặt phẳng 2 chiều.)
XEM QUYỂN 1 LỜI VÀNG TRONG MỘNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 2 VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ - THANH SĨ XEM QUYỂN 3 RẰM THÁNG MƯỜI - THANH SĨ XEM QUYỂN 4 ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH - THANH SĨ XEM QUYỂN 5 TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN - THANH SĨ XEM QUYỂN 6 HỠI QUÊ NHÀ - THANH SĨ XEM QUYỂN 7 ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG - THANH SĨ XEM QUYỂN 8 TÔI KHÔNG QUÊN - THANH SĨ XEM QUYỂN 9 ÁNH SÁNG TỪ BI - THANH SĨ XEM QUYỂN 10 ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - THANH SĨ XEM QUYỂN 11 THẦN CƠ THẬT LUẬN - THANH SĨ XEM QUYỂN 12 CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO - THANH SĨ XEM QUYỂN 13 ĐỜI MẠT PHÁP - THANH SĨ XEM QUYỂN 14 LÀ PHẬT TỬ - THANH SĨ XEM QUYỂN 15 TÌNH ĐẠO PHẬT - THANH SĨ XEM QUYỂN 16 ĐẾN LIÊN HOA - THANH SĨ XEM ĐOẢN KHÚC: TÔI CÒN ĐÂY MÀ - THANH SĨ
Đăng nhận xét