BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ - Giai-Đoạn Hoạt-Động Tranh-Đấu (Chương VIII TỔ CHỨC HÀNG NGŨ)

ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ (Chương VIII TỔ CHỨC HÀNG NGŨ) VƯƠNG KIM

ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ - Giai-Đoạn Hoạt-Động Tranh-Đấu (Chương VIII TỔ CHỨC HÀNG NGŨ)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ THAM CHÁNH

ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ CÙNG CÁC VỊ TIỀN BỐI



Chương VIII: Tổ-chức hàng-ngũ

Đức Thầy vẫn biết tham vọng của quân phiệt Nhựt muốn thực hiện cái ác mộng làm chủ Đông Á, như Ngài đã thấy thâm tâm của họ, khi chiếm Đông Dương hay Tân Gia Ba, thay vì tuyên bố cho các phần đất thuộc địa nầy được độc lập, giao trả quyền cai trị lại cho bổn xứ, họ lại thi hành chánh sách “dịch chủ tái nô”, nghĩa là họ thay thế địa vị của bọn thực dân cũ để xây dựng chế độ thực dân mới của họ.

Đức Thầy vẫn biết tham vọng ấy nên chi đã thổ lộ tâm tư trong hai câu đối:
Trương Tiên tá Hớn phi thần Hớn,
Quan Thánh cư Tào bất đê Tào. 
Ngài sở dĩ đi với Nhựt là để khỏi bị Pháp mưu hại mà thôi. Ngài sống với Nhựt cũng như Quan Công xưa kia sống với Tào Tháo trong lúc thất thủ để chờ cơ hội thoát ly.
Phương chi Ngài biết trước thời cơ, thế nào quân Nhựt vận số cũng không chịu nổi cuộc phản công của Đồng Minh hết năm Dậu (1945) nên chi trong một bữa ăn đãi quan Nhựt, nhằm ngày 30 tức ngày chay lạt, mà Ngài cho làm gà. Có người tín đồ nhắc Ngài thì Ngài nói: người Nhựt ăn không hết nửa con gà.
Như vậy Ngài đã biết trước Nhựt không tồn tại hết nửa năm Dậu (1945). Ngài đã thấu rõ máy huyền cơ nên chi Ngài âm thầm lo liệu để kịp kỳ ứng phó với thời thế.
BAN TRỊ SỰ PHẬT-GIÁO-HÒA-HẢO. – Từ ngày Đức Thầy ra đời cho đến khi bị đưa đi lưu cư, không có khoảng thời gian nào rỗi rảnh để cho Ngài sắp xếp nền Đạo thành một tổ chức có qui mô, hệ thống. Mãi cho đến khi được đưa về Sài Gòn, nương náu trong vòng bảo vệ của Hiến Binh Nhựt, nghĩa là từ ngày dời về căn nhà ở đường Lefèvre, Ngài mới được rãnh trí để lo sắp xếp nội bộ: Tổ chức các Ban Trị Sự.


Mặc dầu gọi là Ban trị Sự và nền Đạo nên danh là Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng về tổ chức chưa dựa vào điều lệ hay nội qui nào. Ngài chọn lựa trong hàng tín đồ thuần thành những người có đạo hạnh và uy tín trong vùng rồi chỉ định hoặc làm Hội Trưởng Tỉnh bộ, Quận bộ hay Thôn bộ. Người được chọn sẽ tùy tiện giới thiệu thêm người khác. Thành thử trong Ban Trị Sự không có con số nhứt định.
Đó là tình trạng các Hội trưởng trong Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo hồi lúc Đức Thầy còn bị ràng buộc nương náo trong vòng bảo vệ của Hiến Binh Nhựt.
Do sự tổ chức rời rạc ấy mà trong lúc Đức Thầy đi kinh lý miền Tây, cuộc tiếp rước không được nhứt trí và xảy ra những điều phiền toái làm cho Ngài khó xử trí khi có nhiều tín đồ giành nhau đón Ngài về nhà mình.
Đến nay được công khai hoạt động, nhứt là để chấm dứt tình trạng tổ chức rời rạc, Ngài mới nghỉ đến sự chỉnh đốn lại các Ban Trị Sự và tổ chức thành hệ thống.
Mặc dầu không có điều lệ, Đức Thầy cũng đã có ý niệm về hình thức Ban Trị Sự gồm có 1 Hội Trưởng, 1 Phó Hội Trưởng, 1 Thơ ký, 1 Thủ bổn, 1 viên tổ chức, 1 viên liên lạc, 1 viên tuyên truyền, một số kiểm soát và cố vấn.
Sau khi chỉnh đốn xong cơ cấu các cấp Tỉnh, Ngài mới nghĩ đến việc sắp xếp cơ quan Trung Ương. Cứ như được biết vào khoảng tháng 5 năm 1945. Ban Trị Sự Trung Ương được thành hình trong đó Đức Thầy giữ chức Chánh Hội Trưởng, còn ông Lương Trọng Tường chức Chánh Thơ Ký (1). Ngoài ra còn được biết quí ông Trần Văn Tâm, La Văn Thuận và một số nữa không nhớ tên, lãnh các chức vụ khác trong Ban Trị Sự Trung Ương.
______________________________________________________________
(1). Cứ như được biết Đức Thầy có cấp cho ông Tường giấy chứng minh chức Chánh Thư Ký, nhưng vài hôm sau thì thâu hồi.
VIỆT NAM PHẬT GIÁO LIÊN HIỆP HỘI. – Thật ra thì khi Ngài về ở căn nhà đường Lefèvre, Ngài đã dự thảo chương trình thống hợp các tông phái Phật Giáo thành một lực lượng lấy tên là Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội.
Trong bài Hiệu Triệu của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội, Ngài đã có lời kêu gọi thống nhứt giới tu hành theo Phật Đạo như sau:
Các bực Tăng Sư, Thiền Đức! Các Cụ có nhớ chăng? Trên lịch sử Việt Nam thời xưa, nhà Đại Đức “Khuông Việt” dầu khoác áo cà sa rời miền tục lụy, thế mà khi Quốc gia hữu sự cũng ra tay gánh vác non sông,

“Từ khi người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngoài gọi rằng cho ta tự do tín ngưỡng; nhưng bên trong tìm đủ mọi cách âm thầm chia rẽ và phá hoại cho tín đồ nhà Phật không có sức đoàn kết chấn hưng hầu bài trừ cái lưu tệ dị đoan mê tín.

“Đã vậy lại không có cơ quan tuyên truyền thống nhứt, cũng chẳng có trường chung đào luyện Tăng Sư. Các cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ sở của Đạo phải bị lấp vùi, nước còn nền Đạo được phát khai rực rỡ.” 
Để cụ thể hóa sự đoàn kết, Ngài thành lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội với tôn chỉ liên hiệp các tông phái đạo Phật, các nhà Sư, các nhà trí thức có xu hướng về Phật Giáo, để:
1. Tìm cách nâng cao tinh thần đạo Phật.
2. Tìm những phương tiện cứu giúp kẻ nguy nàn vì thời cuộc hiện tại gây ra.
3. Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang tế.
4. Binh vực lẫn nhau trong sự tín ngưỡng tự do. 

Để đạt mục đích trên, Hội sẽ tổ chức ba đặc ban:
a) Ban nghiên cứu Đạo Phật gồm có những nhà Sư, những nhà thông thái để hằng ngày tra cứu kinh điển dịch sách hay viết sách nói về Đạo Phật.

b) Ban Huấn luyện và truyền bá gồm các nhà Sư, cư sĩ trí thức hoạt động được hội phái đi các nơi giảng giải Đạo Phật cho đại chúng, hoặc giả mở trường dạy Đạo Phật.

c) Ban chẩn tế gồm có các nhà hảo tâm thiện nam tín nữ hoạt động chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo nàn đói khó, tật bịnh, hoặc giả thành lập các nhà dưỡng lão hay nuôi kẻ mồ côi người tàn tật.
Nếu có thể được, mua trữ thuốc men vải sồ, lúa gạo để dành cho cuộc phước thiện.
Vẫn tưởng Hội sẽ được các nhà Sư hưởng ứng, nhưng trái lại, vì tinh thần “riêng chùa riêng Phật” nên Hội đành chết non.
ĐI KHUYẾN NÔNG. – Bắt đầu từ năm 1944 trận thế chiến thứ hai trở nên ác liệt do Đồng Minh phản công thắng lợi ở mặt trận Thái Bình Dương. Việt Nam bị phong tỏa, hàng hóa không nhập cảng được trở nên khan hiếm đắt đỏ, trái lại lúa gạo vì không xuất cảng được nên mất giá rẻ mạt. Trong lúc đồng bào miền Bắc thiếu gạo ăn thì ở Sài Gòn người Pháp dùng lúa thế cho than chụm các nhà máy điện. Vì giá lúa quá rẻ, nông gia bắt đầu bỏ ruộng hoang, xoay qua làm nghề khác. Tình hình nông nghiệp lâm nguy.
Để cứu vãn tình thế, người Nhựt yêu cầu Đức Huỳnh Giáo Chủ đi khuyến nông, vì chúng biết Ngài có ảnh hưởng rất lớn vùng châu thổ sông Cửu Long là vùng đất phù sa màu mỡ, vựa lúa của miền Nam, trong lúc bình thường đã sản xuất chẳng những dư sức nuôi miền Trung miền Bắc mà còn thừa thải xuất cảng ra nước ngoài đem lại cho nước nhà một nguồn ngoại tệ rất lớn.
Thừa cơ hội nầy, Đức Thầy nhận lời đi khuyến nông trước là khuyến khích nông dân, sau là củng cố hàng ngũ. Hơn thế nữa riêng Ngài cũng cảm thấy có nhiệm vụ thiêng liêng đối với dân tộc, nên chi Ngài đứng ra cổ võ đồng bào miền Nam, ngoài việc tăng gia sản xuất còn chung sức, nào tiền nào gạo chở ra cứu giúp, và cũng là dịp cho Ngài thăm viếng khuyến miễn tín đồ bấy lâu xa cách.
Cuộc hành trình nầy được mệnh danh là cuộc Khuyến nông, kéo dài trong hai tháng, đi khắp các tỉnh miền Tây Nam Việt, diễn thuyết 107 nơi, số người đến nghe trùng trùng điệp điệp.
Bấy lâu có người mộ đạo đã tự qui y mặc dầu chưa hề gặp Ngài, cũng có người nghe danh cảm mộ mà không biết mặt, nay nghe tin Ngài về thì vô cùng hân hoan phấn khởi. Sự vui mừng của anh em tín đồ trong mong Ngài về không còn bút mực nào tả cho hết. Người ta dựng lên những cổng chào ở mỗi chặng đường và dài theo lộ đặt bàn hương án tỏ lòng kính mộ không khác quang cảnh khi rước sắc Thần trong làng. Trên đường Ngài đi qua, già trẻ nữ nam sắp hàng theo hai bên vệ đường làm thành hàng rào dài, đứng chực chờ cả ngày cả buổi, không quản nắng mưa miễn được chiêm ngưỡng dung nhan. Có điều làm cho mọi người cảm động là mỗi khi Ngài đi qua, nhiều cụ mừng đến rơi lệ dầm dề, nghẹn ngào chào mừng không nên tiếng.
Và một khi Ngài đi qua rồi thì anh em rùng rùng, hoặc đạp xe hoặc kéo bộ chạy theo tạo thành một quang cảnh tấp nập làm trở ngại cuộc lưu hành. Vì vậy mà Ngài ra lịnh, ai ở đâu thì tiếp rước ở đó, chớ không được qua vị trí khác. Mặc dầu có lịnh cấm, nhưng cũng có người khéo léo tìm cách đi trước, bằng đường thủy thay vì bằng đường bộ.
Vì số người đến đón quá đông nên cuộc tiếp rước phải tổ chức ở những nơi rộng rãi, thường là sân vận động, đình chùa hay rạp hát mới chứa hết.
Ở mỗi địa điểm tập hợp, người ta có dựng một diễn đài cao để cho mọi người ba bên bốn bề, dầu ở xa cũng trông thấy hình dáng, gương mặt hay bộ tịch của Ngài khi lên thuyết giảng.
Mặc dầu đông đảo không thể tưởng tượng, nhưng khi Ngài cất tiếng thì đâu đó đều lặng lẽ, cho nên dầu ở xa cũng nghe tỏ rõ. Ngài có một giọng nói thanh tao, trong trẻo, hấp dẫn lạ thường, vừa hùng hồn vừa truyền cảm. Ai nghe cũng xúc động, khi mủi lòng rơi lệ, lúc phấn khởi hân hoan.
Ngài nói thao thao bất tuyệt, ai ai cũng nhận Ngài có tài hùng biện, nói rất khỏe, nói không vấp, nói có mạch lạc, rất hấp dẫn. Có ngày, Ngài đăng đàn 5, 6 chỗ, nói ngót hai ba tiếng đồng hồ mà không thấy mệt, không tiếng khan. Mỗi ngày dời chỗ nhiều lần mà không nơi nào diễn giải giống nơi nào, dầu người với trình độ nào nghe cũng thích thú.
Vì Ngài ám thông tâm lý nên nói rất phù hạp mọi căn cơ, khi thì với giọng bình dị khi thì văn vẻ cao siêu. Do đó người nghe không thấy chán, mặc dầu đứng lâu 2, 3 tiếng đồng hồ, càng nghe càng thấy khoái cảm, say mê.
Với bất cứ đề tài nào, Ngài cũng nói trôi chảy, thông suốt từ cảnh đồng bào chết đói ngoài Bắc, hết sức thê thảm, qua những lời thiết tha kêu gọi nông dân nỗ lực cấy cày, đến những giáo lý cao siêu của nhà Phật, đề tài nào Ngài cũng diễn giảng thao thao bất tuyệt, nhả ngọc phun châu, càng lúc càng thu hút đông người đến nghe, đổ xô như nước lũ.
Trong thời gian “đi khuyến nông” có vài việc làm cho Ngài bực mình là anh em tín đồ tranh nhau rước Ngài về nhà riêng. Cho được công bằng, khỏi mất lòng người nầy, được lòng người khác, Ngài chỉ chấp nhận đến hội quán, bằng không thì đến ở nhà hàng.
Sau đây là lộ trình khuyến nông:
Khởi hành tại Sài Gòn ngày mồng 1 tháng 5 năm Ất Dậu, nhằm ngày 10-6-1945, đi thẳng xuống Cần Thơ rồi đến Cái Răng, Sóc Trăng, Bãi Xào.
Sau khi thuyết giảng tại Sóc Trăng và Bãi Xào, phái đoàn đến Bạc Liêu ngày mồng 6 tháng 5 năm Ất Dậu tức ngày 15-6-1945. Đến đây Ngài nghỉ ở nhà ông Võ Văn Giỏi.
Chiều ngày mồng 7 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài thuyết giảng tại đình Tân Hưng trong châu thành Bạc Liêu.
Ngày mồng 8 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài khuyến nông ở Vĩnh Châu và chiều lại thuyết giảng tại Sóc Đồn làng Hưng Hội.
Ngày sau tức ngày 9 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài đi thăm Linh Quang Tự của ông Chung Bá Khánh dựng trong đồn điền của ông ở làng Vĩnh Lợi và thuyết Pháp rồi nghỉ trưa ở đây. Chiều lại Ngài trở về nhà ông Võ Văn Giỏi ở Bạc Liêu. Trong thời gian ở Bạc Liêu, Ngài có đi Hòa Bình, Gia Rai và Cà Mau.
Ngày 12 tháng 5 năm Ất Dậu nhằm ngày 21-6-1945 phái đoàn từ giã Bạc Liêu đi Rạch Giá, trải qua Vị Thanh, Giồng Riềng, và đến Rạch Giá ngày 16 tháng 5 năm Ất Dậu, ở nhà ông Nguyễn Công Hầu.
Hôm sau, ngày 17 tháng 5 Ất Dậu, Ngài đi Cái Sắn, Tân Hội rồi trở về Rạch Giá, nghỉ hai ngày 19 và 20.
Ngày 21 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài đi Sóc Xoài và Ba Hòn bằng ghe máy.
Trong thời gian ở Rạch Giá, Ngài diễn giảng tại rạp Hòa Lạc và đến thăm đình thờ Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực và quan Phó Cơ Điều tại làng Vĩnh Thanh Vân trong châu thành Rạch Giá.
Từ giã Rạch Giá, phái đoàn đi Hà Tiên nơi đây có sẵn xe của ông Phán Hồ Viết Long và thầy thuốc Đỗ Văn Viễn chực chờ rước về Châu Đốc. Khi xe về gần tới Châu Đốc thì được tin Hà Tiên bị Đồng Minh dội bom. Ngài vừa ghé nhà ông Phán Long thì chợ Châu Đốc có báo động. Ngày ấy Ngài dùng cơm nhà thầy thuốc Viễn và nghỉ đêm ở đó.
Sáng hôm sau, Ngài thuyết giảng tại sân vận động. Trưa lại Ngài đi Bình Di thuyết giảng tại làng Khánh Bình.
Hôm sau Ngài thuyết giảng ở Tịnh Biên rồi bận về có ghé Xà Tón, Thới Sơn, Nhà Bàn. Khi tới núi Sam Ngài có viếng mộ Phật Thầy và tỏ ra buồn bực.
Ngày hôm sau, Ngài đến thuyết giảng tại chợ Cái Dầu làng Bình Long.
Bữa sau Ngài qua Tân Châu, thuyết giảng tại sân vận động, dùng cơm trưa nhà ông Quan Hữu Kim, rồi đi Hồng Ngự, thuyết giảng tại nhà Hương Sư Sô, Hội Trưởng Ban Trị Sự Quận Hồng Ngự. Chiều lại Ngài về tới Hòa Hảo ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu, nhằm ngày 5-7-1945.
Trên đường về Hòa Hảo, Ngài cho ghe máy ghé thăm ông Năm Hiệu. Ngài lên tới nhà thì ông Năm Hiệu đã tắt thở trước đó 10 phút.
Ngài dặn trong gia đình ngày mai (17-5-Ất Dậu) khi Ngài thuyết giảng ở Chợ Vàm về sẽ an táng.
Đêm về Hòa Hảo anh em tín đồ tựu lại đông đảo xếp hàng từ trong nhà Đức Ông ra đến đại lộ, lên đến Chợ Cái Tắc (Mỹ Lương), Đức Thầy phải đi bộ cho anh em thấy mặt qua ánh sáng của chiếc đèn “măng-sông” do một người xách theo.
Sáng ngày 27 tháng 5 Ất Dậu, Ngài diễn đài Chợ Vàm làng Phú An, tổ chức tại sân vận động. Buổi trưa Ngài dùng cơm tại nhà Hương Hào Phỉ.
Trên đường về, Ngài có ghé đưa linh cữu ông Năm Hiệu ra phần mộ.
Chiều ngày hôm đó, Ngài thuyết giảng tại đình Hòa Hảo.
Trong mấy ngày ở Hòa Hảo, Ngài có làm lễ đem lư hương từ Tổ Đình xuống chùa An Hòa Tự, nhằm ngày 30 tháng 5 Ất Dậu (15-7-1945)
Sáng ngày mồng 1 tháng 6 năm Ất Dậu, Ngài qua Năng Gù nơi đây có xe Ban Trị sự tỉnh Long Xuyên đón Ngài rước về tỉnh lỵ Long Xuyên, tới đây độ 11 giờ và ở trọ nơi khách sạn của tỉnh thành.
Ngày mồng 2 tháng 6 năm Ất Dậu, Ngài đi Vĩnh Trạch và Núi Sập.
Ngày 3 tháng 6 năm Ất Dậu Ngài đi thuyết giảng ở Chợ Mới.
Ngày 4 tháng 6, Ngài đi Mỹ Luông.
Ngày 5 tháng 6, Ngài đi Đốc Vàng, chiều trở về Mỹ Hội Đông. Sáng hôm sau Ngài thuyết giảng tại sân vận động của làng này rồi về Long Xuyên và thuyết giảng tại công sở làng Mỹ Phước (Châu thành Long Xuyên).
Ngày hôm sau Ngài đi Cái Sắn.
Hôm sau, Ngài đi Thốt Nốt và chiều trở về nghỉ tại Long Xuyên. Đến 11 giờ đêm, Ngài đi luôn về Cần Thơ để hôm sau thuyết giảng tại sân vận động.
Bữa sau, Ngài đi Xà No thăm Hương Bộ Thạnh rồi thuyết giảng tại Cái Tắc. Bữa sau nữa, Ngài đi khuyến nông tại Phụng Hiệp và Cái Răng. Và mấy ngày sau đó, Ngài đi thuyết giảng ở Trà Mơn, Ô Môn, Cờ Đỏ.
Sau Cần Thơ, Ngài đi Sa Đéc, Cao Lãnh, Vĩnh Long, Tam Bình, An Trường, Trà Vinh, Càn Long đến Bến Tre rồi trở về Sài Gòn.
Mặc dầu, cuộc khuyến nông kéo dài trong 2 tháng nhưng không nơi nào Ngài ở lâu. Ngài chỉ đi thoáng qua cho anh em tín đồ được trông thấy dung nhan của Ngài cho thỏa lòng bấy lâu mong ước. Tuy Ngài đã đi rồi, nhưng anh em vẫn ghi đậm hình dáng của Ngài vào tâm não, nhứt là lời vàng ngọc của Ngài đã khuyến giáo. Anh em đa số đều thuộc nằm lòng những đoạn trong bài khuyến nông và nông nả thi hành theo lời của Ngài tha thiết kêu gọi:
Giờ đây xem lại mùa màng,
Năm rồi miền Bắc tan hoang còn gì.
Chỉ có xứ Nam kỳ béo bở,
Cơ hội nầy bỏ dở sao xong.
Cả kêu điền chủ, phu nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên;
Nam kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung.
Sau Hoặc là:

Kẻ phụ tá cũng trọng trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông;
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai;
Mưa nắng ai đâu nài thân xác,
Chí hy sanh dầu thác cũng cam;
Miễn sao cho cánh đồng Nam,
Dồi dào lúa chín gặt đem về nhà.
Chừng ấy mới hát ca vui vẻ,
Ai còn khi là kẻ dân ngu;
Không đem được chút công phu,
Không đem sức lực đền bù nước non.
Gởi một tấm lòng son nhắn nhủ,
Khuyên đồng bào hãy rũ cho đông ;
Nắm tay trở lại cánh đồng,
Cần lao nhẫn nại Lạc Long cổ truyền.
Sau 2 tháng đi khuyến nông về, đã có nhiều tai biến xảy ra tại Sài Gòn, khiến Ngài vô cùng bi thảm viết ra bài thơ sau đây diễn tả cảnh Đồng Minh dội bom tàn phá Sài Gòn:
Lìa Sài Gòn trong vòng hai tháng,
Khi lộn về tiệm quán tanh banh;
Bởi chúng pháo lũy phi hành,
Quăng bom mù quáng tan tành còn chi.
Động lòng của kẻ từ bi,
Tây phương tâu lại A Di Phật Đà.
Rằng bên thế giới Ta bà,
Chúng sanh tàn sát cũng là vì tham.
Di Đà mở cuộc hội đàm,
Cùng chư Bồ Tát quyết đam pháp lành.
Tịnh bình rước khắp chúng sanh,
Làm cho giác ngộ hiền lành như Ta.
Công đồng hoạch định san hà,
Nước ai nấy ở nhà nhà tự do.
Điều được biết là sau khi khuyến nông về. Ngài không lại căn nhà ở đường Lefèvre nữa mà đi thẳng lên biệt thự số 38 đường Miche (nay là đường Phùng Khắc Khoan) là nơi anh em tín đồ đã xếp đặt sẵn trong lúc Ngài đi Hậu Giang.

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget