PHẦN II: SỰ NGHIỆP : THIÊN THỨ TƯ SỰ NGHIỆP VỀ MẶT ĐẠO: TÔN PHÁI PHẬT GIÁO HÒA HẢO
Chương XIII: Học Phật
Từ ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) ngày Ðức Huỳnh Giáo Chủ ra mở đạo cứu đời, cho đến ngày 25 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi (1947) ngày Ngài vắng mặt, tính ra trên 7 năm, trùng hợp với thời gian Ðức Phật Thầy Tân An ra hoằng hóa. Ðức Phật Thầy ra đời vào mùa thu năm Kỷ Dậu (1849) và tịch nhằm ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856) tính ra cũng 7 năm.
Một sự trùng hợp nữa là Ðức Phật Trùm, một chuyển kiếp của
Ðức Phật Thầy ra đời cũng trong thời gian 7 năm. Ngài ra mở đạo cứu đời năm Mậu
Thìn (1860) và tịch năm Ất Hợi (1875) tính ra cũng đúng 7 năm.
Trong thời gian 7 năm, một thời gian quá ngắn ngủi, Ðức Phật
Thầy Tây An đã khai sáng giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, một tông phái Phật đạo dân tộc,
với pháp môn Học Phật Tu Nhân, một pháp môn khế hợp với căn cơ chúng sanh của
thời Hạ nguơn mạt pháp.
Ðến như Ðức Huỳnh Giáo Chủ, trong vòng hơn 7 năm, ngoài việc
khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo, cũng một tông phái Phật đạo dân tộc thuộc
giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài còn thực thi pháp môn Tu Nhân Học Phật.
Cho nên có thể nói, khai thị pháp môn Học Phật Tu Nhân là Ðức
Phật Thầy Tây An, còn thực hiện hay áp dụng pháp môn đó vào đời là Ðức Huỳnh
Giáo Chủ.
Ðức Phật Thầy chỉ khai thị chớ chưa áp dụng thiết thực được
pháp môn Học Phật Tu Nhân vào đời sống là vì hoàn cảnh lúc bấy giờ chưa thuận
tiện hay thiếu cơ duyên, bởi lúc Ðức Phật Thầy ra đời, nước Việt Nam chưa mất
vào tay Pháp.
Ðến giai đoạn của Ðức Huỳnh Giáo Chủ, nước Việt Nam đã hoàn
toàn bị Pháp đô hộ, phong trào Cần Vương kháng Pháp nổi lên khắp nơi, cho nên
ngoài công việc xướng minh Phật đạo (Học Phật) đã lu mờ vì thất chơn truyền,
pha màu phương thuật và sắc tướng âm thinh, Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn tự thân đứng
ra xướng xuất công việc vãn hồi đạo Nhân (Tu Nhân) để làm tròn bổn phận của một
công dân đối với đất nước bị ngoại bang xâm chiếm, làm gương mẫu cho môn nhơn
noi theo, tạo lập công đức hầu trở nên người hiền, hội đủ điều kiện dự Hội Long
Hoa, vượt qua cơn Hạ nguơn hoại diệt mà sống còn trong đời Thượng nguơn an lạc.
Ðối với pháp môn Học Phật Tu Nhân, Ðức Huỳnh Giáo Chủ, vừa
làm công việc thừa kế, vừa làm công việc thực thi và phát triển. Cho nên mặc dầu
thời gian ra mở đạo rất ngắn ngủi (hơn 7 năm) Ngài đã cống hiến cho thế nhân đến
ba sự nghiệp vĩ đại về Đời và về Đạo.
Về Đạo, Ngài đã xây dựng nên một sự nghiệp tôn giáo. Đó là
tông phái Phật Giáo Hòa Hảo, một sự truyền thừa của giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương với
pháp môn Học Phật Tu Nhân, một giáo pháp đối cơ, cứu độ chúng sanh trong thời Hạ
nguơn hoại diệt.
Về Đời, Ngài đã tạo lập hai sự nghiệp: chánh trị và quân sự,
rồi tự thân đứng ra dìu dắt môn nhơn cùng tham gia tranh đấu hầu gây tạo công đức
trong công cuộc cứu dân giúp nước. Đây là sự nghiệp cách mạng mà Ngài đã dày
công tạo lập để làm phương tiện thực thi sự nghiệp Đạo đức, một sự nghiệp cứu
thế.
MỤC ÐÍCH CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO. – Sứ mạng của Ðức Huỳnh
Giáo Chủ hay mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo là hoàn thành sự nghiệp: cứu độ
chúng sanh cho được sống còn trong đời Thượng nguơn an lạc.
Ðức Huỳnh Giáo Chủ lâm phàm là vì sứ mạng cứu thế, như Ngài
đã viết:
“Thiên Tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ nguơn nầy, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh gây nên nghiệp quả, luật Trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi, cùng chư vị chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên đình ân xá bớt tội căn để kịp đến Long Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái bình…”.
“Thiên Tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ nguơn nầy, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh gây nên nghiệp quả, luật Trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi, cùng chư vị chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên đình ân xá bớt tội căn để kịp đến Long Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái bình…”.
Nhưng muốn được sống còn trong đời Thượng nguơn an lạc,
“làm dân Phật quốc, hưởng sự thái bình” thì trước hết phải đi qua ngưỡng cửa Hội
Long Hoa để được chọn lựa.
Ðiều kiện được dự Hội Long Hoa và được chọn lựa đưa qua đời
Thượng nguơn phải là người Hiền, như Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã cho biết:
Lập rồi cái Hội Long Hoa,
Ðặng coi hiền Ðức được là bao nhiêu.
Ðặng coi hiền Ðức được là bao nhiêu.
Hay là:
Trở chơn cho kịp Long Hoa,
Long Hoa có mặt ấy là Hiền Nhơn.
Long Hoa có mặt ấy là Hiền Nhơn.
Như thế, sứ mạng của Ðức Huỳnh Giáo Chủ hay mục đích của Phật
Giáo Hòa Hảo chung kết cũng chỉ qui vào công việc chọn người Hiền hay đào tạo
người Hiền, như Ngài đã cho biết trong Sấm Giảng:
Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện,
Tìm con lành dắt lại Phật đường.
Tìm con lành dắt lại Phật đường.
Hay là:
Kiếm con hiền đức dắt về,
Về nơi cõi Phật Tây phương an nhàn.
Về nơi cõi Phật Tây phương an nhàn.
Hoặc giả:
Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.
Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.
Ðể đạt mục đích cho người Hiền, hay đào luyện người Hiền,
giáo pháp của Phật Giáo Hòa Hảo đặt nặng vào chương trình đào tạo nên người hiền
đức, cũng như Nho Giáo có mục đích đào luyện nên hạng người quân tử.
Vậy giáo pháp ấy thế nào? Chương trình đào luyện nên người
hiền đức ra sao?
Ðức Huỳnh Giáo Chủ không ngại mà chỉ rõ trong quyển “Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền” tức quyển Qui tắc hành đạo:
Ðức Huỳnh Giáo Chủ không ngại mà chỉ rõ trong quyển “Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền” tức quyển Qui tắc hành đạo:
“Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong đạo chúng ta
thuộc hạng tại gia cư sĩ, Học Phật Tu Nhân vậy”
Trong lời tuyên bố nầy có hai điểm nên để ý:
1/ Tại gia cư sĩ.
2/ Học Phật Tu Nhân.
2/ Học Phật Tu Nhân.
Xem đó đủ thấy, hạng người mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ nhắm hay
tìm kiếm để đào luyện là hạng cư sĩ tại gia, nghĩa là Ngài nhắm vào đám quần
chúng đông đảo trong xã hội, đúng với thệ nguyện của Ngài là độ tận chúng sanh,
đương nhiên là hạng thiểu căn thiểu phước, hạng “chưa đủ những điều kiện xuất
gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng
bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay Ni cô đặng”, khác hơn các tông
phái khác nhắm vào hạng xuất gia “hoàn toàn ly khai với gia đình, quê hương, bè
bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am cốc… không còn thiết đến việc đời”.
Và phương pháp để cứu độ hạng thiểu căn thiểu phước, hạng
chiếm đa số trong thời kỳ Hạ nguơn nầy là pháp môn
Học Phật Tu Nhân, một pháp môn có 3 đặc tánh ưu thắng:
Ðối cơ nghĩa là phù hạp với căn cơ thiểu bạc của chúng
sanh trong thời mạt kiếp
Ðối cảnh nghĩa là thích ứng với hoàn cảnh ác liệt của buổi Hạ nguơn.
Phải pháp nghĩa là giản lược và cấp thời mới kịp cơ biến chuyển của Thiên định, chấm dứt cõi Hạ nguơn ô trược để lập đời Thượng nguơn khinh thanh an lạc.
Ðối cảnh nghĩa là thích ứng với hoàn cảnh ác liệt của buổi Hạ nguơn.
Phải pháp nghĩa là giản lược và cấp thời mới kịp cơ biến chuyển của Thiên định, chấm dứt cõi Hạ nguơn ô trược để lập đời Thượng nguơn khinh thanh an lạc.
Vì theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ thời cơ đã cấp bách căn khí
chúng sanh lại bạc nhược, nếu đem giáo pháp có tánh cách lâu dài hay cao viễn
ra giáo hóa thì không thể nào kịp, không sao tránh khỏi nạn hoại diệt của cõi đời
Hạ nguơn.
Chi bằng đào tạo nên hạng người hiền đức đủ điều kiện dự Hội
Long Hoa, khi được làm dân Phật quốc, hưởng cảnh lạc nhàn của cõi Thượng nguơn,
sẽ tiếp tục tu hành để đạt quả vị giải thoát, thành Tiên thành Phật.
Ví cũng như có người toan đóng một chiếc thuyền to để vưọt
qua bể cả, nhưng phải mất ít nhứt 2 tháng mới xong, trong lúc chỉ còn 15 hôm nữa
thì được biết có trận bão lụt sắp xảy ra. Nếu tiếp tục đóng chiếc thuyền đó thì
không khỏi bị trận bão lụt ấy cuốn mất cả thuyền lẫn mạng sống. Chi bằng theo lời
dạy của vị tiên giác, nên gấp đóng một chiếc xuồng nhỏ chỉ trong 5 hôm là xong,
rồi cấp tốc dùng xuồng ấy (Học Phật Tu Nhân) ra một cái đảo yên tịnh kia (cõi
Thượng nguơn) chắc chắn sẽ thoát khỏi trận bão lụt (cơ hoại diệt của Hạ nguơn).
Sau đó sẽ đóng chiếc thuyền lớn mà sang biển cả (biển sanh tử luân hồi) chẳng
là được an toàn tánh mạng và đi đến mục đích (đáo bỉ ngạn) hay sao?
Giáo pháp của Phật Giáo Hòa Hảo cũng như thế.
Cho nên, để độ tận chúng sanh khỏi cơn hoại diệt Ðức Huỳnh
Giáo Chủ đưa ra pháp môn Học Phật Tu Nhân để đào luyện nên hạng người Hiền Ðức
mà thôi.
Ngay trong bài nguyện qui y Tam bảo hay nguyện trước bàn Cửu
Huyền Thất Tổ, chúng ta cũng thấy Ðức Thầy dạy tín đồ của Ngài, nguyện “tu hiền”
để trở nên người hiền đức.
Đây là bài nguyện trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ:
Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền,
Cầu trên Thất Tổ chứng lòng thiềng.
Nay con tỉnh ngộ qui y Phật,
Chí dốc Tu Hiền tạo phước duyên.
Cầu trên Thất Tổ chứng lòng thiềng.
Nay con tỉnh ngộ qui y Phật,
Chí dốc Tu Hiền tạo phước duyên.
Và đây bài nguyên qui y trước ngôi Tam Bảo:
“… nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, qui y theo mấy Ngài Tu Hiền theo Phật đạo”.
“… nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, qui y theo mấy Ngài Tu Hiền theo Phật đạo”.
Cả hai bài nguyện đều nói rõ cứu cánh của hành đạo là Tu Hiền,
tu để trở thành người Hiền.
Nguyện là lời hẹn ước quyết thực hành để đạt đến cứu cánh.
Nếu kiếp nầy chưa hoàn thành lời nguyện thì trong các kiếp tới vẫn tiếp tục cho
đến ngày thực hiện. Nguyện ví không khác lời thề. Khi lập thệ thì suốt đời phải
giữ cho đến khi thực hiện mới giải thệ.
Như Ðức Phật A Di đà khi còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo đã lập 48
lời nguyện, trải qua vô lượng kiếp tu hành cho đến ngày thực hiện cõi Cực Lạc
đúng theo 48 lời nguyện mới chịu an trụ nơi cõi Tịnh độ.
Phàm đã lập nguyện, tức là mình thề quyết tâm tu hành để thực
hiện những lời thệ nguyện ấy.
Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mỗi đêm lễ bái đều lập lại lời
nguyện Tu Hiền, tu cho được trở thành người Hiền, chớ không thể làm trái với lời
nguyện. Làm trái tức là phản bội lời đã lập thệ.
Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã khuyên và cảnh giác:
Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi,
Phải làm tròn các việc vẹn toàn.
Phải làm tròn các việc vẹn toàn.
Dân chớ nên làm bướng làm càn,
Trong lúc ấy nguyện cho lấy có.
Trong lúc ấy nguyện cho lấy có.
Nguyện mà không hành y theo lời nguyện tức là bội ước đối với
Thầy Tổ, với Cửu Huyền thì mong gì tu hành cho đắc đao.
Đã biết mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo là Tu Hiền; vậy Ðức
Huỳnh Giáo Chủ thi thiết pháp môn nào để đào tạo nên người Hiền?
Như chúng ta đã thấy, phương pháp mà Ngài đem ra giáo hóa
là pháp môn Học Phật Tu Nhân.
HỌC PHẬT TU NHÂN. – Nhưng thế nào là Học Phật Tu Nhân?
Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã tóm lược giáo pháp ấy trong hai câu thơ sau đây:
Tu thân thiện tính phải chuyên cần,
Lục Tự Di đà, giữ Tứ Ân.
Lục Tự Di đà, giữ Tứ Ân.
Hay là:
Ðặng khuyên những kẻ ngỗ ngang,
Biết câu Lục Tự, gìn đàng Tứ Ân.
Biết câu Lục Tự, gìn đàng Tứ Ân.
Như thế pháp môn Học Phật Tu Nhân, gồm có hai môn Lục
Tự và Tứ Ân.
HỌC PHẬT
Lục Tự là niệm sáu chữ: Nam Mô A Di đà Phật. Lục Tự biểu thị cho pháp môn Tịnh độ là pháp môn chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà để cầu được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc, đúng với 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, vì Ngài đã thệ nguyện: Nếu ai niệm đến danh hiệu của Ngài là được Ngài dùng thần lực tiếp độ kẻ ấy vãng sanh về cõi Cực Lạc, hưởng sự nhàn an, chứng quả vô sanh, bất thối.
Đây là một pháp môn phù hạp với căn cơ thiển bạc của chúng
sanh thời mạt pháp vì không thể tự lực hành trì các pháp môn tối thắng tối cao
để vượt ra khỏi Tam giới, thoát nạn luân trầm trong tam đồ lục đạo.
Vì không thể tự mình tu hành để tự mình cứu độ nên chi Ðức
Phật Thích Ca khai thị pháp môn Tịnh độ tu cầu tha lực cứu độ chúng sanh vãng
sanh về cõi Cực Lạc, được tịnh hóa về cả hai phương diện chánh báo (chúng sanh)
và y báo (cảnh giới). Nhờ ở hoàn cảnh thanh tân tinh khiết, lại làm bạn với các
bậc thượng thiện nên sự học mau đạt thành quả vị không như ở cõi Ta bà, bao
quanh toàn những ác duyên chướng ngại, dầu muốn ngồi yên mà tu cũng khó mà tu
cho được.
Pháp môn Tịnh độ chẳng những dễ tu dễ đắc mà lại phù hạp với
mọi căn cơ; mọi trình độ cơ cảm nào cũng đều tu được cả, như Ðức Huỳnh Giáo Chủ
đã viết:
Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh;
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
Dầu Tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh;
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
Vì là pháp môn dễ tu, cõi Tịnh độ lại giải thoát con người
mọi sự buồn rầu lo sợ, không còn phải bận tâm lo ăn lo mặc, được rảnh rang tu học
mau đắc quả, nên chi Ðức Huỳnh Giáo Chủ không dứt khuyến tấn người đời tu theo
pháp môn Tịnh độ:
Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã,
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn.
Chốn Ta bà tim lụn dầu mòn,
Thân tứ đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Ðến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.
Ðến lâm chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây phương chư Phật đợi chờ.
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn.
Chốn Ta bà tim lụn dầu mòn,
Thân tứ đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Ðến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.
Ðến lâm chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây phương chư Phật đợi chờ.
Ngài còn quả quyết rằng Ngài đã rành đường ngõ, chứng tỏ
Ngài đã sống qua cảnh giới ấy:
Tìm Cực Lạc, đây rành đường ngõ,
Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.
Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.
Nếu Ngài không từ cõi ấy giáng sanh thì Ngài đã không thổ lộ:
Tây phương Cực Lạc, Khùng ngồi tòa sen.
Hay là:
Tây phương yêu chúng chẳng ngồi lâu,
Sắc của A Di Đà Phật Tổ.
Sắc của A Di Đà Phật Tổ.
Ngày đã thọ sắc lịnh của Ðức A Di Đà xuống trần, thế nên
pháp môn Tịnh độ là pháp môn mà Ngài lãnh sứ mạng phổ truyền để cứu độ chúng
sanh trong thời hoại diệt:
Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,
Ðức Di Đà truyền mở đạo lành.
Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.
Ðức Di Đà truyền mở đạo lành.
Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.
Pháp môn Tịnh độ mặc dầu dễ tu dễ hành nhưng cho được vãng
sanh về cõi Cực Lạc, chẳng phải ai ai cũng có thể làm được.
Sở dĩ ít người làm được là vì ít có người thành tựu niệm Phật
nhứt tâm tức niệm Phật tam muội mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ gọi nôm là niệm rành như
Ngài đã viết:
Xưa nay sáu chữ lạnh tanh,
Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.
Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.
Nhưng cho được vãng sanh, người niệm Phật phải hoàn mãn về
hai phương diện: nội nhân và ngoại duyên.
Về nội nhân là phải thành tựu niệm Phật nhứt tâm hay tam muội (chánh định) hay nói theo thuật ngữ của Ðức Huỳnh Giáo Chủ là niệm Phật cho sành.
Về nội nhân là phải thành tựu niệm Phật nhứt tâm hay tam muội (chánh định) hay nói theo thuật ngữ của Ðức Huỳnh Giáo Chủ là niệm Phật cho sành.
Nhưng ngoài nội nhân, còn phải được ngoại duyên trợ
trưởng thì hột giống (nội nhân) vãnh sanh mới phát triển. Về ngoại duyên, theo
Ðức Huỳnh Giáo Chủ, phải có 2 yếu tố khá quan trọng, rất khó thành đạt. Đó là 2
điều kiện mà người niệm Phật phải có là: được “trọn lành” và “trọn sáng” như Ðức
Huỳnh Giáo Chủ đã nêu ra trong điều thứ tám trong Tám điều Răn Cấm:
“Nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây phương
an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh”.
Cho được trọn lành, hành giả phải hoàn tất giai đoạn “chư
ác mạc tác” và “chúng thiện phụng hành” (điều ác đừng làm; điều lành gồm làm) của
Ðức Phật đã dạy, tức là hoàn thành đạo làm người, như Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã
nói:
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Và cho được trọn sáng, hành giả phải hoàn tất giai đoạn
“tự tịnh kỳ ý” trong bài Tứ cú kệ “chư ác mạc tác” của Ðức Phật, nghĩa là đã đạt
được sự tỏ ngộ tự tâm, tức là huệ tâm khai phát, như Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã nhận:
Nếu ai mà biết chữ tu trì,
Tâm bình tịnh được thì phát huệ.
Tâm bình tịnh được thì phát huệ.
Nhưng làm thế nào cho tâm được bình tịnh?
Thành thử điều kiện để được vãng sanh về cõi Cực Lạc, ngồi trên tòa sen tuy nói thì dễ mà thực hành thật là khó. Thử hỏi mấy ai dám nhận mình đã trọn lành (toàn thiện) và trọn sáng (toàn minh)?
Thành thử điều kiện để được vãng sanh về cõi Cực Lạc, ngồi trên tòa sen tuy nói thì dễ mà thực hành thật là khó. Thử hỏi mấy ai dám nhận mình đã trọn lành (toàn thiện) và trọn sáng (toàn minh)?
Vì vậy mà trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn gấp rút của
buổi Hạ nguơn sắp đến ngày chấm dứt, Ðức Huỳnh Giáo Chủ, chủ trương niệm Phật
chẳng qua là để dự Hội Long Hoa, như Ngài đã nói rõ trong bài thơ đọc khi ngồi
niệm Phật, như sau:
Mắt nhìn trần đỏ niệm Di đà,
Nguyện vái thân này khỏi đọa sa.
Muôn đạo hồng quang oai Ðức Phật,
Soi đường minh thiện đến Long Hoa.
Nguyện vái thân này khỏi đọa sa.
Muôn đạo hồng quang oai Ðức Phật,
Soi đường minh thiện đến Long Hoa.
Khi đã dự Hội Long Hoa là được sống còn trong đời Thượng
nguơn. Và theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ, mà được sống còn là nhờ tu pháp môn Tịnh độ
hay niệm Phật rành như Ngài đã khuyên nhủ:
Niệm Di đà rán niệm cho rành,
Thì mới được sống coi Tiên Thánh.
Thì mới được sống coi Tiên Thánh.
Ðược coi Tiên Thánh tức là được sống đời Thượng nguơn là cuộc
đời phàm Thánh đồng cư, nghĩa là người phàm sẽ sống lẫn lộn với Tiên Thánh
trong cõi Thượng nguơn an lạc.
Pháp môn Tịnh độ là pháp môn tu cầu tha lực, nghĩa là nhờ
vào nguyện lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn về nơi Tây phương Cực Lạc.
Nhưng ngoài môn tu cầu tha lực, Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn chỉ
phép tu Tự lực để trợ trưởng và bồi đắp cho phép tu Tha lực thêm sâu dày vững
chắc.
Căn cứ theo những điều chỉ dạy của Ðức Huỳnh Giáo Chủ trong
Sấm Giảng thì các pháp tu Tự lực có thể phân ra làm ba loại môn:
I. Loại môn thứ nhứt: – Ác Pháp là các pháp làm trở ngại
sự phát triển các thiện pháp, thường làm ô nhiễm thân tâm, gây nên lắm điều tội
lỗi khiến con người mãi vướng mắc trong vòng luân hồi đau khổ.
Thuộc về các ác pháp có thể kể:
Tam nghiệp hay Thập ác là những nghiệp do Thân Khẩu Ý tạo nên, như: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm thuộc về Thân; Lưỡng thiệt, Ỷ ngôn, Ác khẩu, Vọng ngữ thuộc về ác của Khẩu; Tham lam, Sân nộ, Mê si thuộc về ác của Ý.
Tam nghiệp hay Thập ác là những nghiệp do Thân Khẩu Ý tạo nên, như: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm thuộc về Thân; Lưỡng thiệt, Ỷ ngôn, Ác khẩu, Vọng ngữ thuộc về ác của Khẩu; Tham lam, Sân nộ, Mê si thuộc về ác của Ý.
Thất tình là bảy thứ tình cảm như: Mừng, giận, buồn,
yêu, ghét, muốn, sợ.
Lục dục là Danh vị, Tài lợi, Sắc đẹp, Tư vị, Hư vọng,
Tật đố.
Cộng lại là 13 con ma thường làm não loạn thân tâm con người,
khiến cho thân loạn động, tâm nhiễm ô.
Lục căn, Lục trần là sáu cội rễ (căn) trong thân
người như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, làm chỗ cho sáu cảnh (trần) như: Sắc
(màu sắc), Thinh (tiếng nói), Hương (mùi), Vị (vị), Xúc (chạm), Pháp (vạn vật)
xâm nhập vào nội tâm gây thành Lục thức (sáu cái biết) làm cho điên đảo
thân tâm. Do sáu căn mà sáu trần (bụi nhơ) bên ngoài thâm nhập (nhiễm) vào tâm
thức làm cho ô nhiễm, đảo điên, ngày đêm tiết rỉ ra ngoài (lậu) các thứ phiền
não bất tịnh, phá hoại công đức của con người cứ mãi lăn lộn trong tam đồ lục đạo.
Ngũ uẩn. Theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ là 5 thứ hoặc làm cho con
người trở nên đần độn, trụ mãi chỗ tối tăm, không tiến đến chỗ siêu thoát. Năm
thứ hoặc ấy là: Tham, Sân, Si, Nhân, Ngã.
Về Ngũ uẩn, Ðức Thầy có giải:
Lời Ta dạy hãy nên suy nghiệm,
Phải phá tan Ngũ uẩn trong mình.
Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,
Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.
Chữ gây gỗ là Sân hãy diệt,
Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.
Thêm chữ Si thiệt quá lòng dòng,
Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt.
Chữ Nhân Ngã cũng là quá gắt,
Dẹp năm tên được mới mừng cười.
Vô pháp tướng mới là thiệt tướng,
Phải phá tan Ngũ uẩn trong mình.
Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,
Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.
Chữ gây gỗ là Sân hãy diệt,
Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.
Thêm chữ Si thiệt quá lòng dòng,
Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt.
Chữ Nhân Ngã cũng là quá gắt,
Dẹp năm tên được mới mừng cười.
Vô pháp tướng mới là thiệt tướng,
Tứ đổ tường là bốn bức tường làm cho con người sa ngã,
bị nhốt chặt vào chỗ mê lầm tăm tối, không cho vượt ra ngoài ánh sáng của đạo mầu
để tiến lên con đường siêu thoát, khỏi chốn luân hồi sanh tử.
Về Tứ đổ tường, Ðức Huỳnh Giáo Chủ có giải:
Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,
Với bốn ma mới đặng an nhàn.
Tửu nhiễm vào thân thể bất an,
Sắc mến nó ngày kia lao khổ.
Ta nghiệm xét từ đời Bàn Cổ,
Có ai dùng mà đặng thành Tiên.
Mà đời nay theo nó liên miên,
Chữ Tài của khổ riêng một kiếp.
Bị tội cướp nào ai có tiếp,
Mà đời nay nó cứ mãi làm.
Chữ Khí hùng khuyên chớ có ham,
Mà lao lý tấm thân trần thế.
Với bốn ma mới đặng an nhàn.
Tửu nhiễm vào thân thể bất an,
Sắc mến nó ngày kia lao khổ.
Ta nghiệm xét từ đời Bàn Cổ,
Có ai dùng mà đặng thành Tiên.
Mà đời nay theo nó liên miên,
Chữ Tài của khổ riêng một kiếp.
Bị tội cướp nào ai có tiếp,
Mà đời nay nó cứ mãi làm.
Chữ Khí hùng khuyên chớ có ham,
Mà lao lý tấm thân trần thế.
Trên đây là những ác pháp cần phải trừ diệt, nều
ta muốn tu chỉnh thân tâm cho được chánh chơn thuần mỹ hầu có trang nghiêm các
hạnh lành cho con đường tiến tu giải thoát.
II) Loại môn thứ hai. – Chơn pháp là các pháp làm hiển
lý chân thật, phá tan mọi vọng kiến, soi đường cho chân lý hiển thị, giúp người
nhận rõ nguyên lý của sự vật.
Thuộc về Chơn pháp hay Hiển pháp, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã luận giải:
Thuộc về Chơn pháp hay Hiển pháp, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã luận giải:
Tứ diệu đề là bốn chân lý biện giải về sự khổ (Khổ đề),
nguồn gốc của sự khổ (Tập đề), phương pháp diệt trừ sự khổ (Diệt đề) để đi đến
con đường giải thoát (Đạo đề).
Đó là diễn trình Tứ diệu đề theo Ðức Phật. đến Ðức Huỳnh Giáo Chủ để cho phù hợp với căn cơ chúng sanh thời mạt pháp, Ngài đã sắp xếp cái diễn trình Tứ diệu đề lại như sau:
Đó là diễn trình Tứ diệu đề theo Ðức Phật. đến Ðức Huỳnh Giáo Chủ để cho phù hợp với căn cơ chúng sanh thời mạt pháp, Ngài đã sắp xếp cái diễn trình Tứ diệu đề lại như sau:
Tập đề là khi mới bước vào tu tập,
Diệt đề là phải diệt trừ các ác pháp.
Khổ đề là nhẫn chịu khổ trong lúc tu học,
Ðạo đề là đạt đến chỗ thành đạo.
Diệt đề là phải diệt trừ các ác pháp.
Khổ đề là nhẫn chịu khổ trong lúc tu học,
Ðạo đề là đạt đến chỗ thành đạo.
Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên chằng chịt nhau tạo
ra những chuỗi dây chuyền nhân quả của con đường luân hồi mà con người phải vướng
mắc không thoát ra được.
Về Thập nhị nhân duyên, Ðức Huỳnh Giáo Chủ có giải như vầy:
Về Thập nhị nhân duyên, Ðức Huỳnh Giáo Chủ có giải như vầy:
“Ðó là 12 duyên sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia
không có dứt; cái vô minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô thỉ. Có mê dốt ta
mới hành động, rồi hành động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết),
ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh sắc, còn ta
là loài hữu tình có cái biết ấy nên có xác thịt và linh hồn, danh sắc. Xác thịt
và linh hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, nhiễm với 6 trần
là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Có lục nhập mới có tiếp
xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc động, rồi từ chỗ tiếp xúc mới thọ
hưởng của tiền trần nên gọi là thọ cảm. Có thọ cảm, thọ hưởng của tiền trần rồi
mới có cái ưa thích, quyến luyến thâm tình nên gọi là ái,
“Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó thì ta
phải gắng công gìn giữ chặt chịa nên gọi là bảo thủ; mà gìn giữ chặt chịa thì mới
có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc
ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn
vật hễ sinh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa)
làm nên nào tứ thời, cảm mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất phải chết
nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp nhơn của già chết ấy là tại cái vô minh
mà ra tất cả”.
Ngũ trược là 5 thứ nhơ bẩn của cõi Ta bà làm ô nhiễm
thân tâm con người mãi đắm say trong cõi trần ai tục lụy. Năm sự dơ bẩn ấy là:
– Kiếp trược là kiếp sống con người vì đắm say ô
nhiễm mà lần lần giảm thọ. Do kiếp trược mà con người sanh ra 4 thứ trược tiếp
theo sau:
– Kiến trược là kiến thức ô trược, điên đảo.
– Phiền não trược là mối mê lầm nhơ bẩn.
– Chúng sanh trược là các loại hữu tình đều ô trược.
– Mạng trược là mạng sống ô trược.
– Kiến trược là kiến thức ô trược, điên đảo.
– Phiền não trược là mối mê lầm nhơ bẩn.
– Chúng sanh trược là các loại hữu tình đều ô trược.
– Mạng trược là mạng sống ô trược.
Nếu con người hiểu được nguồn gốc của sự khổ, nguyên nhân của
luân hồi và nhận thấy cõi trần cũng như đời sống con người ô trược thì hết say
đắm mà tìm phương tu hành để giải khổ, thoát kiếp luân hồi, siêu xuất cõi đời ô
trược.
Muốn được như thế, thay vì hành ác pháp, nên nhận rõ
nguyên lý chơn thật của sự vật rồi hành các thiện pháp để trang
nghiêm đời sống cho được thanh tịnh mà siêu xuất khỏi bể hồng trần đầy đau khổ.
III. Loại môn thứ ba. – Thiện pháp là các pháp
lành mà con người cần tu tập để gây lấy thiện duyên, sửa trị thân tâm cho được
thanh cao tốt đẹp hầu đắc quả Thánh Phật, dứt cuộc luân trầm, hoàn toàn giải
thoát.
Thuộc về thiện pháp, trong Sấm Giảng của Ðức Huỳnh Giáo Chủ
có chỉ dạy mấy pháp sau đây:
Bát Chánh là tám con đường chánh, nếu con người hành
theo sẽ tu chỉnh được thân, khẩu, ý được chánh chơn thiện mỹ. Ðể tu chỉnh bản
thân thì hành môn:
– Chánh kiến là thấy đúng theo sự thật.
– Chánh nghiệp là làm nghề nghiệp chơn chánh.
– Chánh mạng là giữ thân mạng chơn chánh trong sạch.
Để tu chỉnh miệng lưỡi thì hành môn:
– Chánh ngữ là giữ gìn lời nói chơn chánh.
Để tu chỉnh bản tâm thì hành môn:
– Chánh tư duy là giữ tư tưởng luôn luôn nghĩa điều chơn chánh.
– Chánh tinh tấn là giữ Ðức tin vững vàng và cương quyết tiến tới.
– Chánh niệm là giữ tâm không xen tạp những tà niệm.
– Chánh định là giữ lòng vắng lặng.
– Chánh nghiệp là làm nghề nghiệp chơn chánh.
– Chánh mạng là giữ thân mạng chơn chánh trong sạch.
Để tu chỉnh miệng lưỡi thì hành môn:
– Chánh ngữ là giữ gìn lời nói chơn chánh.
Để tu chỉnh bản tâm thì hành môn:
– Chánh tư duy là giữ tư tưởng luôn luôn nghĩa điều chơn chánh.
– Chánh tinh tấn là giữ Ðức tin vững vàng và cương quyết tiến tới.
– Chánh niệm là giữ tâm không xen tạp những tà niệm.
– Chánh định là giữ lòng vắng lặng.
Muốn cho sự tu hành được bền vững, không chán nản vì cảnh
gian lao hay thử thách, Ðức Huỳnh Giáo Chủ còn chỉ dạy thêm mục Bát nhẫn.
Bát nhẫn là 8 điều nhịn nhục mà người tu hành cần rèn
luyện để xử thế tiếp vật, điều phục thân tâm hầu có đủ sức chịu đựng; lướt qua
mọi gian nguy, đem lại hòa ái trong gia đình, trong xã hội mong sớm đạt thành đạo
quả.
Tám điều nhẫn ấy là:
Tám điều nhẫn ấy là:
– Nhẫn năng xử thế là đức nhẫn để đối xử với đời
và nhẫn đợi thời cơ. Hành được sẽ trở thành người hiền.
– Nhẫn hương lân là đức nhẫn giữ hòa khí đối với chòm xóm.
– Nhẫn phụ mẫu là đức nhẫn hiếu kính đối với cha mẹ.
– Nhẫn tâm là đức nhẫn giữ lòng an định.
– Nhẫn tánh là đức nhẫn giữ tánh điềm đạm.
– Nhẫn đức là đức nhẫn giữ đức độ hiền hòa.
– Nhẫn thành là đức nhẫn của thành tâm, tín tâm.
– Nhẫn hương lân là đức nhẫn giữ hòa khí đối với chòm xóm.
– Nhẫn phụ mẫu là đức nhẫn hiếu kính đối với cha mẹ.
– Nhẫn tâm là đức nhẫn giữ lòng an định.
– Nhẫn tánh là đức nhẫn giữ tánh điềm đạm.
– Nhẫn đức là đức nhẫn giữ đức độ hiền hòa.
– Nhẫn thành là đức nhẫn của thành tâm, tín tâm.
Trên đây là các pháp tu tự lực, sở dĩ Ðức Huỳnh Giáo Chủ chỉ
dạy là để trợ trưởng cho pháp tu tha lực của pháp môn Tịnh độ.
Ví như kẻ rớt xuống nước mong được người trên thuyền cứu vớt,
trong lúc người trên thuyền thòng tay xuống vớt (tha lực) mà người dưới nước
không cố sức vọt lên (tự lực) thì người trên thuyền dầu muốn cứu cũng không làm
sao được.
Vì vậy mà đồng thời với phép tu cầu tha lực, Ðức Huỳnh Giáo
Chủ còn chỉ dạy thêm pháp tu tự lực. Cũng như chiếc thuyền vừa chèo (tự lực) lại
còn được sức gió (tha lực) đẩy thêm thì thuyền sẽ mau tới bến.
Cứu cánh của pháp môn Tịnh độ là vãng sanh về cõi Cực Lạc,
nhưng vào thời pháp nhược ma cường của buổi Hạ nguơn mạt pháp nầy, gặp đầy ác
duyên trở ngại thì khó mà hành cho được phép niệm Phật nhứt tâm hay tam muội.
Niệm Phật mà không nhứt tâm thì khó mà được tha lực tiếp độ. Vả lại, theo Ðức
Huỳnh Giáo Chủ, cho được vãng sanh, người tu còn phải được trọn lành trọn sáng.
Thảng như không được vãng sanh thì người tu nhờ có niệm Phật
và tâm lành lánh dữ cũng trở thành người hiền có đủ điều kiện dự Hội Long Hoa
và sống đời Thượng Ðức.
Hiệu năng của Học Phật là tạo nên Ðức, thế nên còn cần phải Tu Nhân để tạo nên Công, hầu có đủ Công Ðức như cổ xe có 2 bánh, mới mong lần chạy nhanh được.
Hiệu năng của Học Phật là tạo nên Ðức, thế nên còn cần phải Tu Nhân để tạo nên Công, hầu có đủ Công Ðức như cổ xe có 2 bánh, mới mong lần chạy nhanh được.
Vì vậy mà ngoài việc Học Phật, hành giả hay tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo còn phải Tu Nhân mới trở nên người Hiền đúng với pháp môn Học Phật
Tu Nhân mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã khai thị.
Đăng nhận xét