Nội Dung
PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC
TIẾT MỘT: TÍNH CÁCH TRỌNG YẾU CỦA SỰ PHÁT NGUYỆN
Trong một chương đã nói sự quan trọng của lòng tin. Nay xin giải rõ tính cách trọng yếu của sự phát nguyện.
Ngài Ngẫu ích Đại sư nói: "Được vãng sanh hay không là
do Tín Nguyện có hay không; còn phẩm vị vãng sanh cao hay thấp là tùy việc trì
danh sâu hay cạn"
Ở đây, chưa bàn đến phẩm vị cao thấp sau khi vãng sanh. Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết là có được vãng sanh hay không đã. Vì vậy mà chưa bàn đến vấn đề hành trì sâu hay cạn, mà chỉ nên bàn đến tín nguyện có hay không mà thôi.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh độ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Sở dĩ vì thế mà sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh độ.
Đức Phật A Di Đà ngày xưa phát 48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành Thế giới Cực lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười phương đều lấy sự phát nguyện vãng sanh làm căn cứ tu hành của tông Tịnh độ. Một đằng Phật nguyện tiếp dẫn, một đằng chúng sanh nguyện vãng sanh, hai nguyện gặp nhau, hai lực lượng tự, tha, hỗ trợ nhau mới đủ sức kết thành quả vãng sanh. Vì thế, người tu tịnh nghiệp quyết phải phát nguyện dũng mãnh.
Trong 48 lời đại nguyện của đức A Di Đà, lời đại nguyện thứ 19 nói một cách rõ ràng, rằng nếu có người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước Ngài, lúc lâm chung nhất định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có phát nguyện là quyết định phải được vãng sanh.
Lại nữa, trong kinh "Phật thuyết A Di Đà" đức Phật Thích Ca bảo ngài Xá Lợi Phất: "Nếu có người đã phát nguyện, đương phát nguyện, sắp phát nguyện, nguyện sanh về thế giới đức Phật A Di Đà, các người ấy tất đã sanh, hoặc đương sanh hoặc sắp sanh tại thế giới kia, và, hết thảy đều được quả bất thoái chuyển vô lượng Chánh đẳng Chánh giác." Đoạn trích dẫn đây cũng thuyết minh rằng phàm hễ có nguyện tức có vãng sanh vậy.
Lại nữa, trong kinh Hoa nghiêm cũng từng dạy rằng: "Người ấy khi gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều bại hoại, tất cả thân thuộc thảy đều xa rời, tất cả uy thế đều tan rã ... chỉ còn nguyện vương là hằng cùng theo dõi, hướng dẫn trước mắt; trong một khoảnh khắc, liền được vãng sanh thế giới Cực lạc." Căn cứ vào các kinh văn trích dẫn trên đây, ta thấy công dụng của phát nguyện là như thế nào rồi vậy.
Bây giờ, trên thực tế, đây là câu chuyện mà thầy Bạch Sa ở Quy Nhơn đã kể cho tôi nghe:
Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều nguyên buôn bán ở Quy Nhơn, là một đàn việt chùa Bạch Sa và đã giúp thầy ấy kiến tạo ngôi chùa Bạch Sa hiện nay. Bà chuyên tu pháp môn niệm Phật và chỉ phát nguyện khi thọ chung được gặp ngày vía đức A Di Đà (tức là ngày 17 tháng 11 âm lịch) và được biết trước giờ phút thọ chung ấy. Năm bà mất, đã 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Đầu tháng 11 năm ấy, bà đến xin thầy Bạch Sa tụng cho một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 tháng ấy bà về chầu Phật. Thầy Bạch Sa lấy làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là bổn đạo thuần thành đã lâu năm nên thầy cũng phải chiều theo. Cái tin ấy đã làm cho bà con và đạo hữu kinh ngạc. Đến ngày 17, họ tu tập đến nhà bà rất đông để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Suốt buổi sáng hôm ấy, bà vẫn khỏe mạnh và bình tĩnh như thường ngày, khiến thầy Bạch Sa trong thâm tâm e sợ, không khéo phen này làm trò cười cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp việc in một in cơm đem lên nhờ thầy cúng Phật rồi đem xuống cho bà, bà chắn in cơm làm hai phần, tự mình ăn một nửa, còn một nửa bảo người giúp việc ăn mà từ tạ rằng: "Gọi là đền đáp công ơn mụ giúp đỡ tôi trong mười mấy năm trường, nay đến ngày vĩnh biệt, xin biếu mụ ăn nữa phần cơm này để sau nhờ Phật tiếp dẫn mụ về Tây phương." Nói xong, rửa mặt súc miệng và thay áo quần thì đúng 12 giờ trưa, bà chào tất cả mọi người, ngồi xếp bằng, hai tay chấp trước ngực mà hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người trong nhà. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà Thái Xương, tiếng đồn bà thành Phật lan ra khắp các tỉnh.
Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh độ. Phát nguyện là một nhu kiện không thể không có, ta không nên suất lượt để phải mất công hiệu và lợi ích rất đồng, nhưng lớn về sau.
Từ xưa nay, người tu theo pháp môn Tịnh độ đã làm ra rất nhiều bài văn phát nguyện vãng sanh Cực lạc. Mỗi bài đều có một ý nghĩa hoặc sâu hoặc cạn nhưng mục đích chung vẫn là: "Nguyện khi thân mạng gần chung, biết trước giờ chết mà thân tâm vẫn được an vui, được thấy Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn."
Trong các bài phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài "Khể thủ Tây phương" của ngài Liên Trì đại sư, bài "Nhứt tâm quy mạng" của ngài Từ Vân Sám chủ, bài "Thập phương tam thế Phật" của ngài Đại Từ Bồ Tát. Bài nào bài nấy, lời văn rất hay, ý nghĩa rất đầy đủ và hàm xúc. Trong quốc văn ta thì có bài "Đệ tử chúng con tư vô thủy" và bài "Đệ tử kinh lạy." Sau một thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật, ta nên vận hết thành tâm đọc một trong những bài ấy, hoặc đọc tiếp hai ba lần cũng được. Đọc như thế tức là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện rồi vậy. Lúc lâm chung, nhất định sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Thế giới Cực lạc
Nếu không muốn lắp theo khuôn cơ sẵn, ta có thể tự mình viết lấy bài phát nguyện riêng cho thích hợp cũng được. Đại cương lời phát nguyện không ngoài việc cầu vãng sanh, cầu Phật tiếp dẫn, cầu chứng quả, để trở lui tam giới cứu độ chúng sanh đồng sanh Lạc quốc. Còn nếu muốn thêm những chi tiết nào thâm thiết khác, ấy là tùy hoàn cảnh và sở nguyện riêng từng người.
Trong văn phát nguyện bao giờ cũng có câu cầu Phật và chúng Bồ tát đến tiếp dẫn là vì lẽ gì ? Xin thưa: Người tu Tịnh độ, nếu công phu chưa được thuần thục, thường hay bị hãm vào trong những trạng thái sau đây, nên khi lâm chung không niệm được, hoặc lắm khi cũng không kịp mời người khác hộ niệm giùm. Các trạng thái ấy có thể là: hoặc vì bệnh khổ bức bách nên sinh hôn mê, hoặc bị bà con thương tiếc khó bề xả bỏ nên sinh si luyến, hoặc vì sự nghiệp của tiền khó đứt lòng tham đắm nên sinh bi ai, hoặc vì thù hận đầy dẫy khó giải nỗi lòng nên sinh sân hận v.v... Đó là chưa kể cả trường hợp hoạnh tử, miệng chưa kịp niệm đã vong.
Nếu lúc gần lâm chung mà không được Phật hiện đến tiếp dẫn thì không được vãng sanh, lại còn vì các sự đau khổ tham sân luyến tiếc mà bị đọa lạc ba đường dữ nữa là khác. Vì các lý do ấy nên trong văn phát nguyện, bao giờ cũng phải cầu Phật đến rước để tiếp dẫn mới là chu đáo. Sự phát nguyện hằng ngày có thể ở tại chùa vào bất luận giờ nào cũng được, miễn là sau khi lễ Phật xong thì quỳ ngay trước điện Phật mà đọc lời phát nguyện. Nếu ở nhà có bàn thờ Phật thì hằng ngày nên đốt hương lạy Phật rồi phát nguyện. Hoặc giả, nếu không tiện thờ Phật thì viết câu: "Nam mô Thập phương Tam thế Phật Bồ tát" dán lên trên vách, hằng đêm trước khi đi ngủ, đối mặt vào vách mà đốt hương phát nguyện. Gặp khi đi đường, chưa kịp trở về thì nên xây mặt về hướng tây chắp tay niệm năm, mười hiệu Phật rồi lâm râm đọc lời phát nguyện. Ta lại có thể phát nguyện mỗi khi làm được một việc thiện nào, bất luận lớn nhỏ v.v...
Trong nghi lễ phát nguyện, điều tuyệt đối cấm hẳn là không được đối trước đền tháp thờ thần thánh ma quỷ mà phát nguyện.
Ở đây, chưa bàn đến phẩm vị cao thấp sau khi vãng sanh. Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết là có được vãng sanh hay không đã. Vì vậy mà chưa bàn đến vấn đề hành trì sâu hay cạn, mà chỉ nên bàn đến tín nguyện có hay không mà thôi.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh độ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Sở dĩ vì thế mà sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh độ.
Đức Phật A Di Đà ngày xưa phát 48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành Thế giới Cực lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười phương đều lấy sự phát nguyện vãng sanh làm căn cứ tu hành của tông Tịnh độ. Một đằng Phật nguyện tiếp dẫn, một đằng chúng sanh nguyện vãng sanh, hai nguyện gặp nhau, hai lực lượng tự, tha, hỗ trợ nhau mới đủ sức kết thành quả vãng sanh. Vì thế, người tu tịnh nghiệp quyết phải phát nguyện dũng mãnh.
Trong 48 lời đại nguyện của đức A Di Đà, lời đại nguyện thứ 19 nói một cách rõ ràng, rằng nếu có người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước Ngài, lúc lâm chung nhất định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có phát nguyện là quyết định phải được vãng sanh.
Lại nữa, trong kinh "Phật thuyết A Di Đà" đức Phật Thích Ca bảo ngài Xá Lợi Phất: "Nếu có người đã phát nguyện, đương phát nguyện, sắp phát nguyện, nguyện sanh về thế giới đức Phật A Di Đà, các người ấy tất đã sanh, hoặc đương sanh hoặc sắp sanh tại thế giới kia, và, hết thảy đều được quả bất thoái chuyển vô lượng Chánh đẳng Chánh giác." Đoạn trích dẫn đây cũng thuyết minh rằng phàm hễ có nguyện tức có vãng sanh vậy.
Lại nữa, trong kinh Hoa nghiêm cũng từng dạy rằng: "Người ấy khi gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều bại hoại, tất cả thân thuộc thảy đều xa rời, tất cả uy thế đều tan rã ... chỉ còn nguyện vương là hằng cùng theo dõi, hướng dẫn trước mắt; trong một khoảnh khắc, liền được vãng sanh thế giới Cực lạc." Căn cứ vào các kinh văn trích dẫn trên đây, ta thấy công dụng của phát nguyện là như thế nào rồi vậy.
Bây giờ, trên thực tế, đây là câu chuyện mà thầy Bạch Sa ở Quy Nhơn đã kể cho tôi nghe:
Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều nguyên buôn bán ở Quy Nhơn, là một đàn việt chùa Bạch Sa và đã giúp thầy ấy kiến tạo ngôi chùa Bạch Sa hiện nay. Bà chuyên tu pháp môn niệm Phật và chỉ phát nguyện khi thọ chung được gặp ngày vía đức A Di Đà (tức là ngày 17 tháng 11 âm lịch) và được biết trước giờ phút thọ chung ấy. Năm bà mất, đã 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Đầu tháng 11 năm ấy, bà đến xin thầy Bạch Sa tụng cho một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 tháng ấy bà về chầu Phật. Thầy Bạch Sa lấy làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là bổn đạo thuần thành đã lâu năm nên thầy cũng phải chiều theo. Cái tin ấy đã làm cho bà con và đạo hữu kinh ngạc. Đến ngày 17, họ tu tập đến nhà bà rất đông để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Suốt buổi sáng hôm ấy, bà vẫn khỏe mạnh và bình tĩnh như thường ngày, khiến thầy Bạch Sa trong thâm tâm e sợ, không khéo phen này làm trò cười cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp việc in một in cơm đem lên nhờ thầy cúng Phật rồi đem xuống cho bà, bà chắn in cơm làm hai phần, tự mình ăn một nửa, còn một nửa bảo người giúp việc ăn mà từ tạ rằng: "Gọi là đền đáp công ơn mụ giúp đỡ tôi trong mười mấy năm trường, nay đến ngày vĩnh biệt, xin biếu mụ ăn nữa phần cơm này để sau nhờ Phật tiếp dẫn mụ về Tây phương." Nói xong, rửa mặt súc miệng và thay áo quần thì đúng 12 giờ trưa, bà chào tất cả mọi người, ngồi xếp bằng, hai tay chấp trước ngực mà hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người trong nhà. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà Thái Xương, tiếng đồn bà thành Phật lan ra khắp các tỉnh.
Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh độ. Phát nguyện là một nhu kiện không thể không có, ta không nên suất lượt để phải mất công hiệu và lợi ích rất đồng, nhưng lớn về sau.
Từ xưa nay, người tu theo pháp môn Tịnh độ đã làm ra rất nhiều bài văn phát nguyện vãng sanh Cực lạc. Mỗi bài đều có một ý nghĩa hoặc sâu hoặc cạn nhưng mục đích chung vẫn là: "Nguyện khi thân mạng gần chung, biết trước giờ chết mà thân tâm vẫn được an vui, được thấy Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn."
Trong các bài phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài "Khể thủ Tây phương" của ngài Liên Trì đại sư, bài "Nhứt tâm quy mạng" của ngài Từ Vân Sám chủ, bài "Thập phương tam thế Phật" của ngài Đại Từ Bồ Tát. Bài nào bài nấy, lời văn rất hay, ý nghĩa rất đầy đủ và hàm xúc. Trong quốc văn ta thì có bài "Đệ tử chúng con tư vô thủy" và bài "Đệ tử kinh lạy." Sau một thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật, ta nên vận hết thành tâm đọc một trong những bài ấy, hoặc đọc tiếp hai ba lần cũng được. Đọc như thế tức là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện rồi vậy. Lúc lâm chung, nhất định sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Thế giới Cực lạc
Nếu không muốn lắp theo khuôn cơ sẵn, ta có thể tự mình viết lấy bài phát nguyện riêng cho thích hợp cũng được. Đại cương lời phát nguyện không ngoài việc cầu vãng sanh, cầu Phật tiếp dẫn, cầu chứng quả, để trở lui tam giới cứu độ chúng sanh đồng sanh Lạc quốc. Còn nếu muốn thêm những chi tiết nào thâm thiết khác, ấy là tùy hoàn cảnh và sở nguyện riêng từng người.
Trong văn phát nguyện bao giờ cũng có câu cầu Phật và chúng Bồ tát đến tiếp dẫn là vì lẽ gì ? Xin thưa: Người tu Tịnh độ, nếu công phu chưa được thuần thục, thường hay bị hãm vào trong những trạng thái sau đây, nên khi lâm chung không niệm được, hoặc lắm khi cũng không kịp mời người khác hộ niệm giùm. Các trạng thái ấy có thể là: hoặc vì bệnh khổ bức bách nên sinh hôn mê, hoặc bị bà con thương tiếc khó bề xả bỏ nên sinh si luyến, hoặc vì sự nghiệp của tiền khó đứt lòng tham đắm nên sinh bi ai, hoặc vì thù hận đầy dẫy khó giải nỗi lòng nên sinh sân hận v.v... Đó là chưa kể cả trường hợp hoạnh tử, miệng chưa kịp niệm đã vong.
Nếu lúc gần lâm chung mà không được Phật hiện đến tiếp dẫn thì không được vãng sanh, lại còn vì các sự đau khổ tham sân luyến tiếc mà bị đọa lạc ba đường dữ nữa là khác. Vì các lý do ấy nên trong văn phát nguyện, bao giờ cũng phải cầu Phật đến rước để tiếp dẫn mới là chu đáo. Sự phát nguyện hằng ngày có thể ở tại chùa vào bất luận giờ nào cũng được, miễn là sau khi lễ Phật xong thì quỳ ngay trước điện Phật mà đọc lời phát nguyện. Nếu ở nhà có bàn thờ Phật thì hằng ngày nên đốt hương lạy Phật rồi phát nguyện. Hoặc giả, nếu không tiện thờ Phật thì viết câu: "Nam mô Thập phương Tam thế Phật Bồ tát" dán lên trên vách, hằng đêm trước khi đi ngủ, đối mặt vào vách mà đốt hương phát nguyện. Gặp khi đi đường, chưa kịp trở về thì nên xây mặt về hướng tây chắp tay niệm năm, mười hiệu Phật rồi lâm râm đọc lời phát nguyện. Ta lại có thể phát nguyện mỗi khi làm được một việc thiện nào, bất luận lớn nhỏ v.v...
Trong nghi lễ phát nguyện, điều tuyệt đối cấm hẳn là không được đối trước đền tháp thờ thần thánh ma quỷ mà phát nguyện.
TIẾT HAI: GIỚI THIỆU VÀI BÀI PHÁT NGUYỆN CỦA NGƯỜI XƯA VÀ NGHI THỨC PHÁT NGUYỆN
a) NỘI DUNG PHÁT NGUYỆN
Bài của Ngài Từ Vân sám chủ:
NGUYÊN VĂN
Nhứt tâm quy mạng!
Cực lạc Thế giới
A Di Đà Phật
Nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã
Từ thệ nhiếp ngã
Ngã kim chánh niệm
Xưng Như Lai danh
Vị Bồ đề đạo
Cầu sanh Tịnh độ
Phật tích bổn thệ:
"Nhược hữu chúng sanh,
Dục sanh ngã quốc
Chí tâm tín nhạo,
Nãi chí thập niệm,
Ngược bất sanh giả.
Bất thủ chánh giác";
Dĩ thữ niệm Phật nhân duyên,
Đắc nhập Như Lai
Đại thệ hải trung.
Thừa Phật từ lực,
Chúng tội tiêu diệt,
Thiện căn tăng trưởng,
Nhược lâm dục mạng chung
Dự tri thời chí,
Thân vô bệnh khổ,
Tâm bất tham luyến,
Ý bất điên đảo,
Như nhập thiền định.
Phật cập thánh chúng,
Thủ chấp kim đài.
Lai nghinh tiếp ngã,
Ư nhứt niệm khoảnh
Sanh Cực lạc quốc.
Hoa khai kiến Phật,
Tức văn Phật thừa,
Đốn khai Phật huệ,
Quảng độ chúng sanh
Mãn Bồ đề nguyện.
DỊCH
Một lòng quy kính
Phật A di đà
Thế giới Cực lạc
Nguyện lấy tịnh quang chiếu con
Từ thệ nhiếp con,
Con nay chánh niệm
Xưng hiệu Như Lai,
Vị đạo Bồ đề
Cầu sanh Tịnh độ
Phật xưa có thề:
"Nếu có chúng sanh,
Muốn sanh nước ta
Hết lòng tín niệm,
Dù chỉ mười niệm,
Mà chẳng đặng sanh.
Thề chẳng làm Phật";
Nhờ nhơn duyên niệm Phật này
Được vào trong biển đại thệ
Của Đức Như Lai
Nhờ từ lực Phật
Các tội tiêu diệt,
Căn lành tăng trưởng,
Khi thân mạng gần chung
Biết trước giờ chết
Thân không bệnh khổ,
Tâm không tham luyến,
Ý không điên đảo,
Như vào thuyền định,
Phật và Thánh chúng,
Tay nâng kim đài.
Đến nghinh tiếp con,
Trong khoảng một niệm
Sanh về Cực lạc
Sen nở thấy Phật.
Liền nghe Phật thừa.
Bừng tỏ Phật huệ,
Lui về độ sanh,
Tròn nguyện Bồ đề
Bài của Ngài Đại từ Bồ tát:
NGUYÊN VĂN DỊCH
Thập Phương Tam thế Phật, Trong ba đời mười phương.
A Di Đà đệ nhứt. Phật Di Đà thứ nhất,
Cửu phẩm độ chúng sanh Chín phẩm độ chúng sanh.
Oai đức vô cùng cực.Oai đức cao tột bậc.
Ngã kim đại quy y. Con nay nguyện quy y.
Sám hối tam nghiệp tội. Sám hối tội ba nghiệp.
Phàm hữu chư phước thiện Phàm làm được phước thiện,
Chí tâm dụng hồi hướng, Thảy nhứt tâm hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn.Nguyện cùng người niệm Phật,
Cảm ứng tùy thời hiện; Tùy thời hiện cảm ứng;
Làm chung Tây phương cảnh Khi làm chung thấy rõ,
Phân minh tại mục tiền; Cảnh Tây phương trước mắt;
Kiến văn giai tinh tấn. Thấy nghe đều tinh tấn
Đồng sanh Cực lạc quốc; Đồng sanh về Cực lạc;
Kiến Phật liễu sanh tử, Thấy Phật đoạn sanh tử,
Như Phật độ nhứt thế. Như Phật độ hết thảy.
Vô biên phiền não đoạn, Dứt vô biên phiền não,
Vô lượng pháp môn tu, Tu vô lượng pháp môn,
Thệ nguyện độ chúng sanh. Độ hết thảy chúng sanh.
Tổng nguyện thành Phật đạo. Đều trọn thánh Phật đạo.
Hư không hữu tận, Hư không có hạn,
Ngã nguyện vô cùng. Nguyện con không cùng.
Tình dữ vô tình,Hữu tình vô tình,
Đồng viên chủng trí.Đều trọn trí giác.
Một bài phát nguyện khác:
NGUYÊN VĂN DỊCH
Nguyện dĩ thử công đức, Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm ư Phật độ, Trang nghiêm nơi cõi Phật,
Thượng báo tứ trọng ân, Trên đền bốn ơn sâu,
Hạ tế tam đồ khổ. Dưới độ ba đường khổ,
Nhược hữu kiến văn giả Nếu có kẻ thấy nghe
Giai phát bồ đề tâm. Đều phát lòng Bồ đề.
Tận thử nhứt báo thân, Khi báo thân này mãn,
Đồng sanh Cực lạc quốc Đồng sanh về nước Cực lạc.
NGUYÊN VĂN
Nhứt tâm quy mạng!
Cực lạc Thế giới
A Di Đà Phật
Nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã
Từ thệ nhiếp ngã
Ngã kim chánh niệm
Xưng Như Lai danh
Vị Bồ đề đạo
Cầu sanh Tịnh độ
Phật tích bổn thệ:
"Nhược hữu chúng sanh,
Dục sanh ngã quốc
Chí tâm tín nhạo,
Nãi chí thập niệm,
Ngược bất sanh giả.
Bất thủ chánh giác";
Dĩ thữ niệm Phật nhân duyên,
Đắc nhập Như Lai
Đại thệ hải trung.
Thừa Phật từ lực,
Chúng tội tiêu diệt,
Thiện căn tăng trưởng,
Nhược lâm dục mạng chung
Dự tri thời chí,
Thân vô bệnh khổ,
Tâm bất tham luyến,
Ý bất điên đảo,
Như nhập thiền định.
Phật cập thánh chúng,
Thủ chấp kim đài.
Lai nghinh tiếp ngã,
Ư nhứt niệm khoảnh
Sanh Cực lạc quốc.
Hoa khai kiến Phật,
Tức văn Phật thừa,
Đốn khai Phật huệ,
Quảng độ chúng sanh
Mãn Bồ đề nguyện.
DỊCH
Một lòng quy kính
Phật A di đà
Thế giới Cực lạc
Nguyện lấy tịnh quang chiếu con
Từ thệ nhiếp con,
Con nay chánh niệm
Xưng hiệu Như Lai,
Vị đạo Bồ đề
Cầu sanh Tịnh độ
Phật xưa có thề:
"Nếu có chúng sanh,
Muốn sanh nước ta
Hết lòng tín niệm,
Dù chỉ mười niệm,
Mà chẳng đặng sanh.
Thề chẳng làm Phật";
Nhờ nhơn duyên niệm Phật này
Được vào trong biển đại thệ
Của Đức Như Lai
Nhờ từ lực Phật
Các tội tiêu diệt,
Căn lành tăng trưởng,
Khi thân mạng gần chung
Biết trước giờ chết
Thân không bệnh khổ,
Tâm không tham luyến,
Ý không điên đảo,
Như vào thuyền định,
Phật và Thánh chúng,
Tay nâng kim đài.
Đến nghinh tiếp con,
Trong khoảng một niệm
Sanh về Cực lạc
Sen nở thấy Phật.
Liền nghe Phật thừa.
Bừng tỏ Phật huệ,
Lui về độ sanh,
Tròn nguyện Bồ đề
Bài của Ngài Đại từ Bồ tát:
NGUYÊN VĂN DỊCH
Thập Phương Tam thế Phật, Trong ba đời mười phương.
A Di Đà đệ nhứt. Phật Di Đà thứ nhất,
Cửu phẩm độ chúng sanh Chín phẩm độ chúng sanh.
Oai đức vô cùng cực.Oai đức cao tột bậc.
Ngã kim đại quy y. Con nay nguyện quy y.
Sám hối tam nghiệp tội. Sám hối tội ba nghiệp.
Phàm hữu chư phước thiện Phàm làm được phước thiện,
Chí tâm dụng hồi hướng, Thảy nhứt tâm hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn.Nguyện cùng người niệm Phật,
Cảm ứng tùy thời hiện; Tùy thời hiện cảm ứng;
Làm chung Tây phương cảnh Khi làm chung thấy rõ,
Phân minh tại mục tiền; Cảnh Tây phương trước mắt;
Kiến văn giai tinh tấn. Thấy nghe đều tinh tấn
Đồng sanh Cực lạc quốc; Đồng sanh về Cực lạc;
Kiến Phật liễu sanh tử, Thấy Phật đoạn sanh tử,
Như Phật độ nhứt thế. Như Phật độ hết thảy.
Vô biên phiền não đoạn, Dứt vô biên phiền não,
Vô lượng pháp môn tu, Tu vô lượng pháp môn,
Thệ nguyện độ chúng sanh. Độ hết thảy chúng sanh.
Tổng nguyện thành Phật đạo. Đều trọn thánh Phật đạo.
Hư không hữu tận, Hư không có hạn,
Ngã nguyện vô cùng. Nguyện con không cùng.
Tình dữ vô tình,Hữu tình vô tình,
Đồng viên chủng trí.Đều trọn trí giác.
Một bài phát nguyện khác:
NGUYÊN VĂN DỊCH
Nguyện dĩ thử công đức, Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm ư Phật độ, Trang nghiêm nơi cõi Phật,
Thượng báo tứ trọng ân, Trên đền bốn ơn sâu,
Hạ tế tam đồ khổ. Dưới độ ba đường khổ,
Nhược hữu kiến văn giả Nếu có kẻ thấy nghe
Giai phát bồ đề tâm. Đều phát lòng Bồ đề.
Tận thử nhứt báo thân, Khi báo thân này mãn,
Đồng sanh Cực lạc quốc Đồng sanh về nước Cực lạc.
b) NGHI THỨC PHÁT NGUYỆN
Chuẩn bị: Rửa tay, súc miệng, y phục chỉnh tề
Hành lễ: Đến trước Phật đài đốt hương cúng dường Phật. Chắp tay trước ngực, đọc:
Đại từ đại bi thương chúng sanh,
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài.
Tướng tốt rực rỡ tự trang nghiêm.
Đệ tử chi thành quy mạng lễ
Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo.
(1 lạy)
Đệ tử, pháp danh .............. nguyện Quy y Phật, là Đấng Phước Huệ vô biên, thề đời đời kiếp kiếp không quy y thiên thần quỷ vật(1 lạy)
Đệ tử, pháp danh .............. nguyện Quy y Pháp, là nền Giáo lý vô thượng, thề đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo (1 lạy)
Đệ tử, pháp danh .............. nguyện Quy y Tăng là những bậc Thánh hiền thanh tịnh, thề đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu ác đảng(1 lạy)
Nam mô Ta bà giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật(1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật (1 lạy)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Đại thế Chí Bồ tát(1 lạy)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Thập phương tam thế, nhứt thế chư Phật, vô lượng Bồ tát (1 lạy)
Xong quỳ niệm danh hiệu Phật (càng nhiều càng tốt)
Tiếp theo, đọc lời phát nguyện (một trong các bài trên)
Đọc xong lời phát nguyện, đứng dậy, đọc Tam tự quy và Hồi hướng.
TAM TỰ QUY:
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh thể nhập đạo cả, phát lòng vô thượng (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấm nhuần giáo lý (hay thấu rõ kinh tạng), trí tuệ như biển (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại (1 lạy)
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Chung cùng khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
(vái 3 vái, lui ra)
Có thể áp dụng nghi thức này hằng ngày, hoặc một thời, hoặc hai thời, trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy.
Nếu nhà không thiết được bàn Phật thì ngồi ngay ngắn trên giường hay trước bàn viết, bàn ăn, chắp tay ngang ngực, quán tưởng như có tượng Phật trước mặt, rồi đọc trọn cả nghi thức như trên. Chỗ nào trong nghi thức có ghi 1 lạy thì thay vào 1 vái. Điều cốt yếu là phải thực hành đều đều và nhứt thiết tránh cho được cái thông bệnh là "thủy cần chung đãi."
Hành lễ: Đến trước Phật đài đốt hương cúng dường Phật. Chắp tay trước ngực, đọc:
Đại từ đại bi thương chúng sanh,
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài.
Tướng tốt rực rỡ tự trang nghiêm.
Đệ tử chi thành quy mạng lễ
Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo.
(1 lạy)
Đệ tử, pháp danh .............. nguyện Quy y Phật, là Đấng Phước Huệ vô biên, thề đời đời kiếp kiếp không quy y thiên thần quỷ vật(1 lạy)
Đệ tử, pháp danh .............. nguyện Quy y Pháp, là nền Giáo lý vô thượng, thề đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo (1 lạy)
Đệ tử, pháp danh .............. nguyện Quy y Tăng là những bậc Thánh hiền thanh tịnh, thề đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu ác đảng(1 lạy)
Nam mô Ta bà giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật(1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật (1 lạy)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Đại thế Chí Bồ tát(1 lạy)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Thập phương tam thế, nhứt thế chư Phật, vô lượng Bồ tát (1 lạy)
Xong quỳ niệm danh hiệu Phật (càng nhiều càng tốt)
Tiếp theo, đọc lời phát nguyện (một trong các bài trên)
Đọc xong lời phát nguyện, đứng dậy, đọc Tam tự quy và Hồi hướng.
TAM TỰ QUY:
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh thể nhập đạo cả, phát lòng vô thượng (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấm nhuần giáo lý (hay thấu rõ kinh tạng), trí tuệ như biển (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại (1 lạy)
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Chung cùng khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
(vái 3 vái, lui ra)
Có thể áp dụng nghi thức này hằng ngày, hoặc một thời, hoặc hai thời, trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy.
Nếu nhà không thiết được bàn Phật thì ngồi ngay ngắn trên giường hay trước bàn viết, bàn ăn, chắp tay ngang ngực, quán tưởng như có tượng Phật trước mặt, rồi đọc trọn cả nghi thức như trên. Chỗ nào trong nghi thức có ghi 1 lạy thì thay vào 1 vái. Điều cốt yếu là phải thực hành đều đều và nhứt thiết tránh cho được cái thông bệnh là "thủy cần chung đãi."
Đăng nhận xét