Chương XIV: Tu Nhân
Tu Nhân tức là tu Tứ Ân để làm tròn Hiếu nghĩa:
là nền tảng của đạo Nhân tức là đạo làm người vậy. Không ai bỏ điều kiện hiếu nghĩa mà tu thành Tiên thành Phật bao giờ, vì Hiếu nghĩa là nền móng của đạo Nhân, cũng như muốn cất nhà phải xây nền đắp móng. Không xây nền, đắp móng thì làm sao dựng lên nhà cửa. Dầu có dựng sớm muộn gì cũng phải sụp đổ.
Tế Ðiên Hòa Thượng có nói: Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhân đạo.
Nhân đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Muốn tu thành Tiên thành Phật, trước phải tu
đạo làm người, đạo làm người mà không tu thì đạo tu Tiên Phật còn xa vời vậy.
Nhưng muốn tu nhơn đạo, điều trước tiên là phải làm tròn điều
Hiếu Nghĩa, như thánh nhơn đã nói: Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên.
Muôn vạn quyền kinh Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu.
Và theo Ðức Phât Thầy Tây An, “muốn làm xong hiếu nghĩa có
bốn điều ân ta cần phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn”.
Về bốn điều ân, Ðức Huỳnh Giáo Chủ có giải như vầy:
“Ân Tổ Tiên Cha Mẹ: Ta sanh ra cõi đời được có hình
hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành đủ trí khôn ngoan, trong
khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra
cha mẹ là nhờ có tổ tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn
tổ tiên nữa.
Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy
ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lảng, làm phiền
lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lỗi, trái với nhân đạo, ta rán hết sức
tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo
cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong huynh đệ, tạo
hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được
hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu
thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.
Còn đền ơn Tổ Tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ điếm nhục
tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con
cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ
đường.
“Ân đất nước: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ Tiên, cha mẹ, sống
ta cũng nhờ đất nước, quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn
cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy có bổn phận phải
bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê hương lúc
nghiêng nghèo, và làm cho được trở nên cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị
kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình
ta mới ấm.
Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như
không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải
rán tránh đừng làm việc gì sơ suất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng
giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.
Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.
“Ân Tam Bảo: Tam Bảo là gì? Tức Phật, Pháp, Tăng. Con
người nhờ tổ tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho
mình. Ấy về phương diện vật chất.
Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ
của Phật Pháp Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn
mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế
nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng
đem nền đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những
đại đệ tử của Ðức Phật vậy. Bởi vì Ðức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần
sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm
điều chỉ dạy do các chư Tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng
quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động
đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền đạo được phát
triển thêm ra, xây một tòa lâu đài đạo hạnh vô thượng vô song, rồi truyền mãi
mãi với hậu thế.
Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu
làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sơ
cơ và nhứt là tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái
được gieo rắc khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại
của Ðức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.
“Ân đồng bào và Nhân loại: Con người vừa mở mắt chào đời
đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh và cái niên kỷ
càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.
Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm
thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng ta đồng hưởng với họ.
Hoạn nạn họ cùng chia với ta.
Họ và ta cũng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ
hợp nhau thì thành lại một: ấy Quốc gia đó. Họ là ai? Tức những người ta thường
gọi bằng đồng bào vậy.
Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống
roi truyền, cùng có những trang lịch sử vẽ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn
nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong
bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết,
không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng
bào, hay có đồng bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp đền
cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.
Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào, ta còn có thế giới
người đang cậm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại,
là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân
loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có
thể tự túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với
những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau, nguy hiểm, giữ vững cuộc sống
còn nầy chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải nhờ đến nhân loại, nghĩa
là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ
đến mình và đồng chủng mình.
Vả lại cái tình từ bi bác ái của Ðức Phật mà ta đã nhận thức,
rất thâm huyền quảng huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt
màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết
các từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân loại chúng sanh.
Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng
bào mình, gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tin
tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ
trong cơn hoạn nạn”.
Nói tóm lại, nếu ta đền đáp xong Tứ Ân tức là ta đã làm
tròn điều Hiếu Nghĩa là nền tảng của đạo Nhân.
Vì vậy tu Tứ Ân có nghĩa là Tu Nhân hay đạo làm người.
Kết quả của Tu Nhân là tạo nên phước, như câu nguyện “chí dốc
tu hiền tạo phước duyên”. Nó là nấc thang để bước lên địa vị Tiên Phật. Không
hoàn tất việc Tu Nhân hay đạo Nhân thì không thể vượt lên hàng Phật Thánh.
“Cho nên điều kiện trước tiên của sự tu để thành Tiên thành
Phật là phải hoàn mãn đạo làm người, cũng như muốn cất nhà phải xây nền đắp
móng.” Vì vậy ông Thanh Sĩ có viết:
Muốn cho làm Phật làm Trời,
Trước nên làm trọn đạo người hiếu trung.
(Đám mưa dông)
Trước nên làm trọn đạo người hiếu trung.
(Đám mưa dông)
“Ðức Huỳnh Giáo Chủ cũng cho biết, phải trả xong nợ thế tức
nợ Tứ Ân hay đạo Nhân thì ngày kia mới đến được cõi Thượng nguơn (chỉ đến Thượng
nguơn chớ chưa siêu thoát):
Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,
Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày mai.
Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày mai.
Hay là:
Trả cho rồi nợ tiền khiên,
Ðến ngày hiệp mặt Kiểng Tiên vui vầy.
Ðến ngày hiệp mặt Kiểng Tiên vui vầy.
Do đó, Ngài luôn luôn khuyên người đời rán tu Nhơn đạo:
Hồng trần biển khổ thấy rồi,
Rán tu nhơn đạo cho tròn mới hay.
Rán tu nhơn đạo cho tròn mới hay.
“Tu nhân đạo tức thị là tu Tứ Ân mà phàm ai làm người cũng
có bổn phận lo đền đáp. Có đền đáp mới hoàn thành đạo Hiếu đối với Tổ Tiên cha
mẹ và Tam Bảo, mới vẹn toàn nghĩa vụ đối với đất nước và đồng bào nhơn loại.
“Trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đặt nặng
về tu Tứ Ân hay có thể nói Tứ Ân là yếu lý của Phật Giáo Hòa Hảo. Nó thuộc về
phần Tu Phước trong Tu Nhân, cũng như pháp môn Tịnh độ thuộc về Tu Huệ trong Học
Phật.
“Có Học Phật mà không Tu Nhân tức là có Tu Huệ mà không Tu
Phước. Như thế chỉ có Ðức mà thiếu Công.
“Pháp tu hoàn bị nhứt là pháp tu kiêm Tu Phước lẫn Tu Huệ,
hay vừa Tu Nhân vừa Học Phật thì mới trọn nghĩa Lập Công Bồi Ðức.
“Phương chi theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ, Tu Nhân hay Tu Tứ Ân
là phần căn bản của pháp môn Tu Nhân Học Phật là một pháp môn cốt đào luyện nên
hạng người Hiền, hầu có hội đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống đời Thượng
nguơn Thánh Ðức.
“Mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo là đào luyện người Hiền, thế
nên muốn trở nên Hiền trước phải hoàn thành đạo Nhân hay tu Tứ Ân, thiếu nó thì
việc Học Phật trở thành vô hiệu trong chương trình đào luyện người Hiền.
Thế nên, nếu không tu Tứ Ân thì đừng mong đạt thành quả vị
trong việc Học Phật. Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã quả quyết như vậy. Ngài khẳng định nếu
không tu Tứ Ân thì khó mà còn được xác thân. Thân xác mà không còn thì lấy đâu
để tu cho thành công đắc quả, như câu:
Nào là luân lý Tứ Ân,
Phải lo đền đáp xác thân mới còn.
Phải lo đền đáp xác thân mới còn.
“Chẳng những mất xác thân mà theo Ðức Huỳnh Giáo Chủ, còn
phải đọa linh hồn nữa. Vì vậy nên Ngài không dứt khuyên tu Tứ Ân, nếu không, chừng
bị đọa đừng có than trách:
Câu quân lý Tứ Ân chạm dạ,
Nếu chẳng gìn phải đọa đừng than.
Nếu chẳng gìn phải đọa đừng than.
“Ðó là hậu quả của sự thiếu tu Tứ Ân, đã mất xác thân mà
còn đọa cả linh hồn. Cứ theo lời khuyên dạy của Ðức Huỳnh Giáo Chủ nếu ai mà
hoàn thành được phép tu Tứ Ân, chẳng những được sống còn trong ngày hoại diệt
mà còn dứt được tội căn:
Ðến ngày biển cạn non mòn,
Tứ Ân đã trả chẳng còn tội căn.
Tứ Ân đã trả chẳng còn tội căn.
“Ngoài ra, nếu không siêu thoát thì cũng chứng quả Thần,
như Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã viết:
Một câu quan lý Tứ Ân,
Ta đừng phai lạt Phong Thần bảng ghi.
Ta đừng phai lạt Phong Thần bảng ghi.
“Nhưng điều vinh hạnh hay có thể nói: kết quả pháp tu Tứ Ân
là được trở nên người hiền, đúng như mục tiêu của pháp môn Học Phật Tu Nhân đã
dự liệu:
Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
Hành thiện tri kinh thị Sĩ Hiền.
Hành thiện tri kinh thị Sĩ Hiền.
“Hiếu nghĩa thuộc về tu Tứ Ân hay Tu Nhân, còn hành thiện
(làm lành) và tri kinh (học kinh điển) thuộc về Học Phật. Như thế muốn trở nên
Hiền nhơn, phải kiêm Tu Nhân và Học Phật, nhưng trọng yếu là phần Tu Nhân, vì
có Tu Nhân hay Tứ Ân mới lập được thân danh và công trạng với đời, như nhận xét
sau đây của Ðức Huỳnh Giáo Chủ:
Lập thân cứu thế nên công quả,
Muôn kiếp danh Hiền sách vẫn biên.
Muôn kiếp danh Hiền sách vẫn biên.
“Phải lập thân danh và công cứu thế thì mới có công: đó là
điều kiện phải có để làm nên người Hiền:
Chữ thứ nhứt nhẫn năng xử thế,
Là người Hiền khó kiếm trong đời.
Lập thân danh từng trải nơi nơi,
Chờ thời đại mới là khôn khéo.
Là người Hiền khó kiếm trong đời.
Lập thân danh từng trải nơi nơi,
Chờ thời đại mới là khôn khéo.
“Thì cũng nhận phải lập thân danh mới có công trong xã hội.
Nhưng lập thân danh bằng cách nào? Nếu không phải bằng con đường tu Tứ Ân hay
Tu Nhân đạo.
“Cho nên có thể kết luận, chỉ có con đường tu Tứ Ân mới lập
được thân danh mà trở nên người Hiền, như pháp môn Học Phật Tu Nhân đã trù liệu.
“Và chỉ có người Hiền mới đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống
đời Thượng nguơn. Như vậy là mục đích đào luyện người Hiền của pháp môn Học Phật
Tu Nhân đã đạt, nghĩa là gồm Tu Phước và Tu Huệ hay Tu Nhân và Học Phật.
Nợ thế âu toan đền nợ thế (Tu Nhân)
Đường tu sớm liệu vẹn đường tu. (Học Phật)
Đường tu sớm liệu vẹn đường tu. (Học Phật)
“Ðó là yếu lý của pháp môn Học Phật Tu Nhân, một pháp môn
đáp ứng với căn cơ của chúng sanh và hoàn cảnh cấp bách của thời kỳ Hạ nguơn sắp
chấm dứt, Hội Long Hoa sắp khai, và đời Thượng nguơn sắp lập”. (1)
Đó là sự nghiệp tôn giáo mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã kiến lập
với pháp môn Học Phật Tu Nhân để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ hoại diệt của
buổi Hạ nguơn.
Ngoài sự nghiệp về mặt đạo Ngài còn tạo dựng nên sự nghiệp
về mặt đời với hai thành quả về Quân sự và Chánh trị để phương tiện hướng dẫn
tín đồ cùng tham gia vào công cuộc cứu đời hầu có lập Công, cũng như hành đạo để
lập Ðức.
_________________________________________
(1) Vương Kim: Tại sao ta phải tu. Tr. 225-230.
_________________________________________
(1) Vương Kim: Tại sao ta phải tu. Tr. 225-230.
Đăng nhận xét