CÁC BÀI PHÁP-LUẬN CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ PHẬT GIÁO HOÀ HẢO
CHÚ GIẢI : THIỆN TÂM
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
CHÚ GIẢI CÁC BÀI PHÁP LUẬN
(trang 445 – 460 SGTVTB 2004)
XUẤT XỨ VÀ VĂN THỂ
Đây là loạt bài Pháp luận nằm trong Thi Văn
Giáo Lý Toàn Bộ, do Đức Thầy sáng tác năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu
trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết các bài nầy bằng thể văn xuôi
(tản văn), lối thuyết giáo. (Lẽ ra chúng tôi phải soạn bài Thập Nhị Nhân Duyên
trước, nhưng vì theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại là Đức Thầy cho biết bài
Thập Nhị Nhân Duyên và Môn Hoàn Diệt nằm trong Tứ Diệu Đề; nên chúng tôi soạn
bài Đức Phật Đối Với Chúnh Sanh trước. Còn bài Thập nhị Nhân Duyên để sau soạn
chung với bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề”)
Bài 1.- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG SANH
CHÁNH VĂN
Một ông cha ở trong
gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy.
Tại sao ? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là
tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh
ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư,
nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất để cho con. Vậy thì tình thương vẫn
đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi
đứa. Tại sao vậy ? Vì đứa nào hiếu-thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ biểu, thì ông cha
âu-yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở
mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản
của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn-thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để
bảo-tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ
không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những
điều điếm-nhục gia-môn ! Những đứa ấy, ông cha có thể nén lòng mà rước lấy sự
chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng.
Cũng mường tượng như trên, hỡi các
người ! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng
con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng-sanh, dầu kẻ ngu, người trí, yêu tất
cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi
chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có
Phật-tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ
chúng-sanh, nhưng mà sự gần-gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi
kẻ tín-đồ. Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm
kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy
nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí
trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói
việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn
những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức
Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của
kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng
thành-tín kia đặng.
Bạcliêu, ngày
24-8 Nhâm-Ngũ (1942)
( SGTVTB 2004 , 447-449
)
LƯỢC GIẢI :
Xưa nay sở dĩ người ta tin Phật, qui y Phật là vì nhận nơi Ngài có
đức độ cao cả, trí tuệ siêu mầu vượt hẳn hàng phàm phu và Tiên Thánh. Có nhận
thức một cách chính xác như vậy, người ta mới vui lòng hăng hái, vâng làm theo
lời dạy bảo và giới hạnh của Ngài. Cũng nhằm mục đích đó, Đức Thầy dạy môn đồ
bài “Đức Phật Đối Với Chúng Sanh”. Căn cứ theo chánh văn gồm có các phần như
sau:
I.-TÌNH THƯƠNG CỦA CHA MẸ.
1-Tình thương của cha mẹ đối với các con:
Vì muốn cho tín đồ dễ
hiểu, trước nhứt, Đức Thầy đưa ra một bằng chứng cụ thể trước mắt mọi người, là
tình thương của người cha đối với đàn con trong gia đình. Tuy trong số các đứa
con ấy có chênh lệch lớn nhỏ, thông minh hay ngu dốt, tật nguyền hay nguyên
vẹn, nhưng cha mẹ vẫn thương đồng đều.
Bởi xét rằng do duyên nghiệp quá khứ và hiện tại của mỗi người con
không giống nhau như kẻ sanh trước thì lớn, sanh sau thì nhỏ. Người con nào
biết siêng năng học hành, tìm tòi những cái hay cái đẹp thì thông minh, còn kẻ
nào lười biếng ham chơi sẽ bị ngu dốt. Người nào thời quá khứ hoặc hiện tại
biết lo trau giồi tâm đức, ăn ở hiền lành thì được thân hình tốt đẹp, các căn
đầy đủ. Còn kẻ nào tư tưởng hành động hung ác thì mang thân tật bệnh, xấu xa.
Tuy thân tâm của các đứa con có khác biệt, song cùng đồng do huyềt nhục của cha
mẹ sanh ra và cũng uống chung một dòng sữa cho nên tình thương của cha mẹ đối
với các con không khác biệt.
2–Bổn phận người cha:
Do lòng thương yêu tha
thiết ấy, nên người cha có trách nhiệm nuôi cho con lớn, dạy dỗ cho con khôn
ngoan, lo cho con có nghề nghiệp căn bản sanh sống và đạo đức đối xử. Thậm chí
cha mẹ còn phải lo tạo sự nghiệp, tiền của, ruộng vườn giành để cho con trước
khi nhắm mắt,
Tóm lại, tình thương và sự lo lắng của cha mẹ đối với các con là
đồng đều, nhưng sự âu yếm và ban thưởng vẫn có khác, vì phải tùy theo tánh chất
tốt lành hay ngỗ nghịch của mỗi đứa con.
3-Đối với đứa con ngỗ nghịch:
Con ngỗ nghịch là con
bất hiếu, không vâng lời dạy bảo của cha mẹ, hung ác bạo tàn, lười biếng hoang
chơi, phá hoại sự nghiệp, làm những điều xấu xa mất cả danh giá của gia đình,
thân tộc. Đối với các đứa con nầy, người cha chỉ biết than thở và nén
lòng mà nhận sự chê bai, thống trách của kẻ khác, chớ không thể nào âu yếm và
ban thưởng đặng.
4-Đối với đứa con tốt lành:
Những người biết hiếu
thuận từ hòa, siêng năng tiết kiệm, cẩn ngôn cẩn hạnh, lo giữ gìn sự nghiệp,
giá phẩm của cha mẹ để lại, thì người con ấy sẽ được ông cha hằng ngày âu yếm
và ban thưởng.
II.- TÌNH TỪ BI CỦA PHẬT VÀ THẦY
1-Phật đối với chúng sanh và môn đồ:
Lòng từ bi của Phật và
Thầy lúc nào cũng bình đẳng thương xót khắp cả, từ nhơn sanh, môn đồ đến muôn
loài vạn vật hữu tình. Cũng thế, người cha đối với các hạng con vừa nói trên,
bất luận trí ngu, tinh tấn hay giải đãi, hoặc phát tâm tu cao thấp, trước sau,
song vì chúng sanh đều có Phật tánh như nhau, nên Phật và Thầy đều thương yêu
tất cả. Kinh xưa thường nói:“Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử”(Phật
thương chúng sanh như mẹ thương con).
Ngày nay Đức Thầy dạy:
“Phật thương bổn đạo như con,
Muốn cho bổn đạo lòng son ghi lời”.
Và:
“Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.
2-Bổn phận của Tổ Thầy:
Bởi đầy lòng từ bi bác
ái, nên Đức Phật, Đức Thầy lúc nào cũng có bổn phận giáo độ chúng sanh ra khỏi
vòng trầm luân oan nghiệt.
“Phật Tổ xưa còn ở nơi trần,
Ngài gắng sức ra công hoằng hóa”.
Và:
“Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.
Tuy lòng thương và sự giáo độ của Đức Phật và Đức Thầy rất bình
đẳng, vô tư, song sự gần gũi và ban phúc huệ có khác, vì phải tùy theo duyên
nghiệp và tâm hạnh của mỗi tín đồ.
3-Đối với tín đồ biết vâng lời:
Đối với những tín đồ tốt
thì Đức Phật và Đức Thầy luôn luôn gần gũi, ủng hộ, ban phước. Họ là
những người:
– Biết
tuân thủ lời chỉ dạy của Đức Phật, Đức Thầy, lo học hành Kinh Giảng để tìm hiểu
lý mầu trong Đạo pháp:
“Khá chí tâm học hành Kinh sám”. Hoặc:
“Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý”.( ĐT).
– Hằng lo vẹn gìn giới luật, quyết chí tu hành, thận trọng từ ý
nghĩ tới lời nói, việc làm, tránh điều xấu ác và biết bảo vệ thân danh chung
cho Đạo.
Xưa có một kỹ sư, gia đình rất giàu có. Vợ chồng vị kỹ sư nầy sanh
được ba người con trai, khi lớn lên đều được đi học. Hai cậu con trai lớn
thường hay biếng trễ, duy chỉ có cậu con út là chăm chỉ học hành.
Hôm nọ, vị kỹ sư thấy mình đã già yếu, nên kêu ba người con đến
bảo:
-Chắc chẳng còn bao lâu nữa Ba sẽ từ biệt cõi đời, vậy mỗi con nên
nói rõ ý muốn của mình để Ba phân chia của cải cho !
Người con lớn đứng lên nói:
-Thưa Ba ! Ý con muốn trước khi từ trần, Ba giao cái gia tài đồ sộ
nầy cho con !
Người con thứ nhì nói:
-Thưa Ba ! Phần con muốn được Ba giao hết đất vườn cho con.
Vị kỹ sư nhìn qua người con út nãy giờ đứng làm thinh, hỏi:
-Còn con út muốn gì, cứ nói ?
Cậu bé đứng khoanh tay thưa:
-Thưa Ba ! Nguyện vọng của con là chỉ mong Ba cho con ăn học để
trở thành một kỹ sư như Ba.
Ông kỹ sư mỉm cười tỏ vẻ hài lòng, rồi nhìn ba người con phân
trần:
-Trước kia, sau khi ba ăn học thành tài, tiền của hết sạch, chỉ
còn lại hai bàn tay trắng, nhờ có mớ kiến thức và biết siêng năng tiết kiệm mà
Ba tạo nên sự nghiệp như thế nầy. Hôm nay, hai con lớn muốn Ba giao hết gia
tài, vườn ruộng nầy cho thì cũng được, nhưng hai con nên biết dầu có tiền của
bao nhiêu đi nữa, hễ tiêu xài trong một thời gian nào đó rồi cũng hết. Còn
thằng út, em của hai con, nó nuôi chí và siêng năng học hành để thành một kỹ sư
thì sau nầy nó sẽ tạo ra sự nghiệp có thể giàu gấp mấy lần Ba hiện nay.
Quả thật, đứa con út của vị kỹ sư về sau cũng tốt nghiệp kỹ sư như
cha và trở nên giàu có hơn cả người cha.
Câu chuyện trên giúp cho người tu nhận rằng: Đức Phật và Đức Thầy
lúc nào cũng muốn cho tín đồ thành Đạo giải thoát, song với điều kiện là phải
thực hành y theo lời dạy của các Ngài. Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:
“Qui y thì khá làm y,
Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
Và:
“Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu
cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy”.
Vậy nhà tu muốn kết quả tốt, mỗi người của chúng ta nên ghi nhớ và
thực hành các điểm căn bản như sau:
a)- Bốn cách phát tâm:
1-Phát tâm kính tin
Đức Phật và Thầy, tức phải vâng lời chỉ dạy của Phật và Thầy.
2-Phát tâm thương kính Phật và Thầy, tức chẳng phụ công ơn
của các Ngài.
3-Phát tâm tưởng nhớ Phật và Thầy, tức muốn gặp các Ngài.
4-Phát tâm phụng hành theo lời giáo huấn của Phật và Thầy,
tức phải độ tất cả chúng sanh nơi tự tánh (phiền não) và chúng sanh ở bên
ngoài.
b)- Bốn điều tự quyết:
1-Vâng lời Phật và Thầy
phải tự quyết tâm qui.
2-Chẳng phụ công ơn của Phật và Thầy ta phải tự quyết hành y.
3-Muốn được gặp Phật và Thầy ta phải tự quyết tinh tấn tu hành.
4-Độ chúng sanh ta phải tự quyết từ bi bình đẳng.
c)- Bốn điều duy nhứt:
1-Tự quyết tâm qui tất
phải duy nhứt Niết Bàn.
2-Tự quyết hành y tất phải duy nhứt Chánh Đạo.
3-Tự quyết tiến tu tất phải duy nhứt giải thoát mê ly.
4-Tự quyết từ bi bình đẳng, tất phải duy nhứt cứu khổ muôn
loài.
Đức Thầy luôn nhắc nhở:
“Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhơn ái”.
4)- Đối với tín đồ dối tu:
Những kẻ tín đồ không
thật tâm tu niệm, chẳng phụng hành theo lời giáo huấn của Tổ Thầy, phá giới
thôi chay, hành động nhiều điều xằng bậy, làm mất phẩm giá chung cho Đạo, thì
Đức Phật cũng như Đức Thầy “Chỉ lấy lòng từ bi mà nhận sự trách cứ của kẻ
ngoại đạo, chớ không thể nào gần gũi và ban phước huệ cho kẻ chẳng thành tín
kia đặng”.
Thuở Đức Thầy mới khai Đạo (1939). Hôm nọ, Ngài đang đứng trước
sân nhà của Ông Nguyễn Duy Hinh, phía dưới Tổ Đình khoảng 100m, lúc đó có mặt
Ông Năm Chơn, ông Lê Văn Diệp và ông Nguyễn Duy Hinh.
Đức Thầy nhìn các ông nói:
-Các ông bây giờ là bà con thân tộc với tôi, và cũng là tín đồ lớn
nữa. Nhưng sau nầy có việc tôi phải vắng mặt trong một thời gian. Chừng tôi trở
lại chưa chắc gì các ông được gặp tôi, nếu các ông chẳng tự lo tu hành.
Ngưng lại một phút, Ngài nói tiếp:
-Đến ngày ấy không phân biệt người dưng hay thân tộc, không phân
biệt tín đồ lớn hay nhỏ, hoặc già trẻ, sang hèn, sau trước…nếu ai tu hành đúng
theo giáo lý của tôi thì được gặp tôi. Bằng không sẽ bị lọc ra hết !
Điều nầy trong Sám Giảng quyển Ba, Ngài đã nói:
“Ai mà ta dạy chẳng gìn,
Thì sau đừng trách mất tình yêu đương”.
Cho nên Ngài hằng khuyên:
“Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.
Đại khái qua bài “Đức Phật đối với chúng sanh”, ta
thấy rằng lòng thương yêu giáo độ của Tổ Thầy đối với chúng sanh và môn
đồ thật bình đẳng, bao la vô bờ bến nhưng cũng rất thực tế và công bình đáo để.
Có làm thì có ăn, có tu thì có hưởng, không hề vị tư cá biệt. Là một tín đồ nhà
Phật, chúng ta phải chú ý ở điểm nầy, để giữ trọn niềm tin và lo tu thân lập
hạnh, đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy, hầu đáp lại tình từ ái rộng sâu của
các Ngài.
CHÚ THÍCH :
HUYẾT NHỤC: máu
và thịt, đồng nghĩa chữ “cốt nhục”(xương thịt). Ý nói đàn con cùng một dòng
tinh huyết, cốt tủy của cha mẹ sanh ra, và cũng cùng uống một dòng sữa của mẹ
mà lớn lên, nên gọi là tình ruột thịt.
“Cũng đồng cốt nhục hoài thai,
Nên ta rán sức miệt mài dạy khuyên”.
BỔN PHẬN: Phần
việc và trách nhiệm của mình.
GIA CƯ: Nhà ở.
ÂU YẾM: Quấn quít, quyến
luyến, thương yêu không rời.
HIẾU THUẬN:
Hiếu: hết lòng phụng dưỡng cha mẹ; thuận: nghe theo. Tuân lời cha mẹ dạy bảo để
sống hòa thuận vui vẻ. Xem thêm tr. 130.
TỪ HÒA: Hiền lành hòa huỡn,
không nóng nảy, hung hăng, quá khích.
GIA SẢN: Nhà cửa và tài sản của
cải.
ĐIẾM NHỤC: Xấu
xa nhục nhã.
MÔN ĐỒ: Học trò (nghĩa của chữ
tín đồ).
DUYÊN NGHIỆP: Cũng
gọi là nghiệp duyên. Nghiệp là việc làm hay tạo tác, là hột giống. Duyên là
những cái trợ trưởng cho việc làm hay hạt giống ấy, lên cây kết trái. Ý nói
những thành quả xấu tốt ở hiện tại, là do nhân duyên tạo tác lành dữ của mỗi
người ở quá khứ mà ra. Đây là định luật nhân duyên nghiệp báo.
“Phải rõ nghiệp duyên trần cấu tạo”.( ĐT)
PHẬT TÁNH: Tánh
giác ngộ, tức là hột giống Phật. Đức Phật bảo mỗi chúng sanh đều có tánh giác
ngộ như nhau (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).Đức Thầy cũng
nói:
“Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
Các chúng sanh đều có như ta”.
ĐẠO MẦU: Sự mầu nhiệm sâu kín
trong giáo pháp Đạo Phật. Đức Thầy có câu:
“Quan sát Đạo mầu nẻo ẩn vi”.
Và:
“Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,
Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.
KINH LUẬT:
Kinh giảng và giới luật. Hai tạng trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận.
“Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật”.( ĐT)
THÀNH TÍN: Cũng
gọi là tín thành. Có nghĩa là tin tưởng và hành Đạo một cách thành thực chơn
chánh, không hề lãng tâm dối trá.
“Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,
Chớ nào dụng hương đăng trà quả”.( ĐT)
Đăng nhận xét