CHÚ GIẢI QUYỂN NĂM KHUYẾN THIỆN
Chú giải từ câu 211 – 408 (Quyển 5 Khuyến Thiện)
CHÁNH VĂN
211. Lòng
Thái-tử cũng không xiêu-ngả,
Ra khỏi đền du
ngoạn một khi.
Buổi đầu tiên gặp
những chuyện gì,
214. Gặp cụ lão
tay nương gậy chống.
Ngài xem qua lòng
bèn cảm-động,
Lần thứ hai thấy
kẻ ốm đau.
Xét cõi trần
trong dạ héo xào,
218. Chi xiết
nỗi núng-nao cõi tạm.
Lần thứ ba xe lìa
khỏi trạm,
Được trông nhìn
kẻ chết đang khiêng.
Về đền-đài cảm
xúc buồn riêng,
222. Hằng để
trí tầm phương giải-thoát.
Lần thứ tư vừa đi
dạo mát,
Bỗng gặp người
tốt đẹp trang-nghiêm.
Nào dè đâu Trời
đã ứng điềm,
226. Giả
tăng-sĩ gợi lòng Thái-tử.
Ngài hiểu rõ ấy
là phận-sự,
Phải xuất gia tầm
Đạo mau mau.
Liền quày
xe trở lại lai trào,
LƯỢC GIẢI (Từ câu 211 đến câu 230)
-Mặc dù sống trong cảnh lầu đài danh vọng múa hát đờn ca, con
ngoan vợ đẹp, nhưng lòng Thái Tử chẳng hề nhiễm trước, lại thường lộ vẻ u buồn
trước cảnh đau khổ giả dối của chúng sanh. Ngài thấy mình cần phải tìm một lối
thoát, một nếp sống chơn thật và có ý nghĩa cao đẹp, trường tồn.
-Hôm nọ Thái Tử thấy lòng buồn bả, liền đến tâu với Phụ Vương, cho
phép Ngài ra ngoài thành du ngoạn. Vua Tịnh Phạn quá yêu Thái Tử, nay lại thấy
con không vui nên chấp thuận, nhưng Vua mật lệnh cho quan dân dẹp tất cả những
gì coi là cực khổ, đau thương và cấm không cho một bóng dáng nhà tu nào lai
vãng trong các con đường mà Thái Tử sắp đi qua.
-Được phép Vua cha, lần đầu tiên Thái Tử cho xe tiến ra cửa
thành phía Đông. Đi vừa đặng một khoảng đường, Ngài gặp cụ lão mắt lờ, tai
điếc, má cóp da nhăn; tuy tay có chống gậy, song cụ bước đi trong sự run rẩy,
xem rất là khổ sở khiến Ngài động mối từ tâm.
–Lần thứ hai, Ngài du ngoạn cửa thành phía Nam, bỗng
thấy người tật bịnh đang ngồi dựa lề đường; thân thể ốm gầy, da vàng mặt bủn,
miệng nhai thức ăn mà nuốt không vô, rên rỉ khóc than, trông thật là thảm não !
–Lần thư ba Thái Tử cho xe ra cửa thành phía Tây. Đi
được một đoạn đường, bỗng gặp cái thây chết, đoàn người đang khiêng đi, phía
sau thân nhân theo kêu réo, khóc than thảm thiết. Ngài liền quay lại hỏi người
đánh xe: Những cái già, cái bịnh mà ta đã thấy hai hôm rồi và cái chết hôm nay,
có ai tránh khỏi chăng ?
Người đánh xe đáp:
– Thưa Ngài: Tất cả con người sanh ra cõi đời, đều cũng phải già,
bịnh rồi chết mất, chớ không một ai tránh khỏi cả. Thái Tử nghe xong lòng chan
chứa nỗi buồn, khi trở lại Hoàng Cung, Ngài vận dụng hết tâm trí để tìm phương
giải thoát.
–Lần thứ tư Thái Tử cùng người đánh xe ra cửa thành phía
Bắc; dưới ánh bình minh trời trong gió mát, Thầy tớ vừa đi vừa ngắm xem
cảnh vật. Bỗng gặp một vị Sa Môn, đứng đi khoan nhã, dung mạo đoan nghiêm ra vẻ
người thanh tĩnh. Thái Tử khởi lòng kính mộ, bước tới bái vị Sa Môn và hỏi: “
Ông là ai vậy ?”
Sa Môn đáp:
“Tôi là người đã thoát khỏi mọi nỗi sanh, già, bịnh, chết vì tôi
chẳng còn luyến ái một sự vật nào trong thế gian.”
-Nghe câu trả lời ấy, Thái Tử liền hiểu ngay mình phải mau mau tầm
Đạo, mới mong giải khổ cho mình và cả vạn loại chúng sanh. Ngài liền chào vị Sa
Môn, lập tức bảo Xa Nặc quay xe trở lại thành, để tâu xin với Phụ Hoàng cho
Ngài lên đường tìm Chánh Đạo.
CHÚ THÍCH :
XIÊU NGÃ: Nghiêng chiều theo,
thuận xuôi khuất phục theo, sa ngã theo. Ví dụ: xiêu ngã theo dục lạc.
DU NGOẠN: Đi
dạo chơi, lấy sự ngắm xem phong cảnh làm thú tiêu dao hay giải khuây.
CẢM ĐỘNG: Cảm xúc mà động lòng,
đối cảnh sanh tình. Do thấy các cảnh tượng mà khởi lên lòng thương mến.
DẠ HÉO XÀO:
Lòng se thắt lại, ủ rũ dã dượi, như hoa héo lá xào. Đức Thầy có câu:
“Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi,
Biết gốc lành sao cội không gìn.”(Thu Đã Cuối).
CHI XIẾT: Không sao kể xiết.
CÕI TẠM: Cõi tạm giả. Có nghĩa
không thật, không bền chắc lâu dài, tức chỉ cho cõi trần chúng ta đang ở. Ý nói
tất cả từ thân quyến, của tiền đến xác thân của ta cũng đều giả tạm, không thật
có. Cổ nhân từng bảo:“Thế thượng vạn bang độ thị giả,
Nhơn gian Đạo đức quả duy chơn”.
(Trên đời không vật chi là thật,
Chỉ có Đạo mầu mới thiệt chơn).
Đức Thầy nay cũng nói:“Thế trần tạm giả gạt đời ta.”
(Tỉnh Bạn Trần Gian), hoặc:“Tạo duyên giả phàm gian thân giả.”(Cho
Ô. Tham tá Ngà).
TRẠM: Nơi xe đậu, xe ngừng,
hoặc nhà để xe hay nơi nghỉ tạm rồi đi nữa.
CẢM XÚC: Nghĩa như chữ cảm
động đã giài trên.
GIẢI THOÁT: Xem
chú thích tại tr. 34 Tập 3/3 nầy.
ỨNG ĐIỀM: Bày
lộ ra, hiển hiện ra cho thấy. Đây là trường hợp lúc Thái Tử du ngoạn. Vua Tịnh
Phạn đã ra lệnh cấm: không cho một Tăng Sư, Đạo Sĩ nào lai vãng đến con đường
Thái Tử sắp đi qua, nhưng bỗng nhiên hôm ấy lại có một Tăng Sĩ xuất hiện. Đó là
do Phật Trời hóa hiện để gợi chí xuất gia của Thái Tử.
TĂNG SĨ: Thầy tu (Xem thêm chữ
“Chư Tăng”, tr. 216-217 Tập 3/3).
XUẬT GIA: Xem
chú thích tại tr. 87 Tập 3/3.
VƯƠNG PHỤ: Vua
cha, tức Tịnh Phạn Vương.
MÙI THẾ: Mùi đời, mùi tục lụy.
Vì đời có vui buồn, sướng khổ, cũng như vật thực có đủ mùi: chua, cay, đắng, mặn,
ngọt. Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
“Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ,
Bước thế đồ gót rỗ kỳ khu.”
Đức Thầy cũng từng bảo trong “Thức Tỉnh Một Nữ Tín
Đồ”: “Nếu mãi mê-man mùi tục lụy,
Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.
CHÁNH VĂN
231.
Vua buồn thảm dùng lời khóc kể,
Rằng: Cha già
biết cậy nhờ ai.
Khuyên con nên ở
chốn điện-đài,
234.
Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn.
Lòng Thái-tử
quyết theo ý muốn,
Thừa đêm khuya
lén trốn vào rừng.
Lìa cha già, vợ
đẹp, con cưng,
238.
Thân chẳng sá xông-pha bờ bụi.
Ngài thuở ấy nên
mười chín tuổi,
Tâm đại-hùng
cương-quyết tu-trì.
Trải bao phen
lao-khổ xiết chi,
Sau Ngài đến
Rạch-Ni Liên-Thuyền.
Thấy cỏ hoa cảnh
bắt tham-thiền,
244.
Ngồi khổ-hạnh sáu năm bên ấy.
Đạo gần đắc
Ma-Vương theo khuấy,
Dùng thần-thông
nghị-lực dẹp tan.
Ấy mới vừa đắc
Đạo hoàn-toàn,
248.
Và lần bước phô-trương độ chúng.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 231 đến câu 248) :
-Nghe Thái Tử xin xuất gia tầm Đạo, Vua Tịnh Phạn rất sầu não, nên
dùng đủ lời khuyên lơn: Cha đã già yếu chỉ hy vọng một mình con, sau nầy sẽ
thay cha mà trị vì thiên hạ. Vậy hiện giờ con nên ở lại, vừa lo giữ gìn cơ
nghiệp và vừa tu tập lần lần, rồi sau sẽ xuất gia, cũng chẳng trễ lắm đâu !
Thái Tử tâu tiếp: “Nếu Phụ Vương muốn con nối nghiệp thì xin giúp
con ba việc: 1.“Làm sao cho con trẻ hoài không già, 2. Mạnh hoài không đa,
3. Sống hoài không chết để cứu khổ được chúng sanh thì con sẽ vâng lời mà ở
lại”. Nghe qua, Vua Tịnh Phạn lấy làm bối rối, vì không thể làm sao cho
Thái Tử thỏa mãn các việc ấy; nhưng Vua cũng cố tình ràng buộc Thái Tử. Ngài
liền cho tăng thêm các cuộc vui chơi luôn cả ngày đêm trong cung điện.
-Riêng lòng Thái Tử đã nhứt quyết nên vào một đêm nọ, sau cuộc múa
hát của các cung nữ, mọi người đều an giấc,Thái Tử muốn vào từ giã vợ con lần cuối,
nhưng e gặp trở ngại, nên nén lòng lui ra. Ngài kêu Xa Nặc thắng yên ngựa; rồi
Thầy trò cùng lên lưng ngựa Kiền Trắc vượt khỏi thành. Hôm ấy là ngày mùng
Tám tháng Hai âl, đúng năm Ngài 19 tuổi.
Phi ngựa đến sông A Nô Ma trời vừa rạng đông, Thái Tử xuống ngựa
lấy gươm cắt tóc và lột áo mão cùng đồ trang sức, trao hết cho Xa Nặc, bảo mang
về Hoàng Cung, để vua Cha thấu rõ chí xuất gia của Ngài. Bấy giờ Thái Tử chỉ
còn một hình một bóng, chẳng quản trước núi cao rừng thẳm, thú dữ chông gai.
Ngài đem bộ nhung phục đổi cho anh thợ săn để lấy bộ đồ dà mặc vào để không còn
vướng mắc chút mùi vương giả nào trong thân nữa.
-Trước hết, Thái Tử đến vấn Đạo nơi ông Bạc-Già, nhưng giáo lý nầy
không thể đưa người đến chỗ giải thoát nên Ngài từ giã ra đi. Kế Ngài gặp hai
ông A-La- Ra và Uất-Đầu Lâm-Phất, ở lại tu thiền định với hai ông nầy 6 năm.
Khi nhận ra pháp tu nầy chỉ đắc đến quả về Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng,
chớ chưa ra khỏi Tam giới, Ngài liền giã từ đi nữa.
-Sau rốt Ngài đến khu rừng già Ưu-Lâu Tần-Loa, phía Nam núi Tượng
Đầu, gần bờ sông Ni-Liên-Thuyền. Thấy phong cảnh tốt đẹp nên Ngài trụ tại đây
tu khổ hạnh 6 năm nữa. Với lối tu ép xác hành khổ của Ngài vượt bực hơn
năm người bạn cùng tu, khiến họ vô cùng kính nể. (Năm người đó là:
Kiều-Trần-Như, Át-Bệ, Bạt- Đề, Ma-Nam Câu-Ly và Thập-Lực Ca-Diếp.). Hôm nọ, vì
quá kiệt sức nên Ngài đang đi bỗng ngã xỉu, chừng tỉnh lại Ngài mới nhận ra lối
tu như vầy quá lầm lạc, vì trí tuệ chưa mở, Đạo quả chưa thành mà đã bỏ thân
thì làm sao cứu độ được ai, nên Ngài quyết định ăn uống lại như thường (đường
Trung Đạo).
-Gần nơi ấy có thiếu nữ Tu-Xá-Đề, cùng một tỳ nữ đi ngoạn cảnh,
vừa gặp Thái Tử thì nàng biết ngay là người bị kiệt sức vì nhịn đói. Nàng bước
nhanh về nhà, lấy thứ sữa hảo hạng, đựng trong cái bát vàng đem đến dâng cho
Ngài. Ngài dùng sữa xong, sức lực dần dần bình phục, liền xuống sông
Ni-Liên-Thuyền tắm rửa sạch sẽ, rồi Ngài đi thẳng đến cội cây Bồ-Đề (Tất Bát
La) ngồi thiền định luôn 49 ngày và Ngài phát đại thệ:“Nếu Ta không
thành Đạo chứng quả, nguyện trọn đời chẳng rời gốc cây Bồ Đề nầy”.
-Lúc Thái Tử sắp thành đạo, bọn Ma Vương hiện đến dùng đủ cách phá
Ngài: đầu tiên chúng giả vờ kính phục, yêu cầu Ngài nhập Niết bàn ngay, nhưng
bị Ngài bác bỏ. Chúng liền dùng binh ma khí giới, hoán võ hô phong, song cũng
chẳng hại được Ngài. Ma Vương liền trở cách, cho ba đứa con gái đến, dùng hình
vóc lả lơi khêu gợi, lời lẽ ngọt ngào quyến rũ, nhưng tất cả đều phải khuất
phục dưới thần lực của Ngài.
-Sau khi chiến thắng bọn Ma Vương (ngoại ma) và các vi
tế phiền não (nội ma), Thái Tử Sĩ Đạt Ta đắc quả “Vô Thượng Bồ
Đề”(Chánh đẳng Chánh giác), hiệu là “Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”,
và hôm ấy vào ngày mùng Tám tháng Chạp (năm Ngài 30 tuổi). Đắc đạo xong,
Đức Phật thực hiện ngay chí nguyện Đại Từ Bi, lần Chuyển Pháp Luân đầu tiên là
Ngài đến rừng Lộc Giả (Khổ Hạnh Lâm), thuyết pháp “Tứ Diệu Đề và Bát Chánh
Đạo” cho năm anh em ông Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm người ấy đều tỏ ngộ
và chứng quả A La Hán. Từ đó, Phật Pháp Tăng có đủ (Phật là Đức Thích Ca
Mâu Ni, Pháp là Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, Tăng là năm anh em ông
Kiều Trần Như); cũng từ độ ấy Phật cùng chư Tăng du hành khắp nơi, khai hóa Đạo
mầu để rộng độ các tầng lớp chúng sanh.
CHÚ THÍCH :
NỐI NGHIỆP: Tiếp nối sự nghiêp của ông cha từ trước. Đây
nói sự nối ngôi Vua.
CHẲNG SÁ:
Không nệ hà, không kể, không quản. Ví dụ: Chẳng sá sự gian lao, cực khổ. Cũng
dùng như chữ chi sá, đâu sá hay sá gì, như Đức Thầy có
viết:“Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.”(Quyết Rứt Cà Sa).
XÔNG PHA: Lướt tới, sấn tới, dấn
thân vào chịu đựng mọi sự gian nan gai gốc. “Nước non ngàn dặm xông pha cũng
đành.”(Lục Vân Tiên) Đức Thầy từng nói (bài Gọi Đoàn Thanh Niên):
“Xông pha chiến địa gian nan sá gì”.
ĐẠI HÙNG: Sức
dũng cảm mạnh mẽ to lớn. Tâm đại hùng là lòng dũng mãnh dứt bỏ được sự nhiễm ô
luyến ái. Đây là một trong ba chí đức mà thế gian thường ca ngợi Phật Thích Ca:
1/-Ngài đoạn tuyệt được cảnh đời vương giả: vợ đẹp, hầu xinh là tâm
Đại Hùng.
2/-Tự dùng sức mạnh của tinh thần hàng phục được nội ma (dục vọng)
và ngoại ma (Ma Vương) dưới cội Bồ Đề, đó là tâm Đại Lực.
3/- Sau khi đắc Đạo, Phật không nỡ nhập Niết Bàn sớm, vẫn trụ thế
49 năm để cứu độ các giới chúng sanh, đó là tâm Đại Từ Bi .
Đức Thầy từng thốt:
“Phải chổi dậy nương dây hùng tráng,
Chữ đại hùng, đại lực, từ bi”
(Diệu
Pháp Quang Minh)
CƯƠNG QUYẾT: Lòng
cứng cỏi khăng khăng và nhứt định làm cho được việc, dù gặp lắm cản trở, khó
khăn cũng không hề lơ đễnh lùi sụt. Đức Phật có dạy:“ Đời sống của các ngươi
có vui tươi hay đau khổ đều do các ngươi quyết định và tạo lập lấy”.
TU TRÌ: Xem chú thích tại tr.
84 Tập 1/3.
RẠCH NI LIÊN THUYỀN: Cũng viết là Ni Liên Thiền (Phạn ngữ: Nairânjânâ), Tàu dịch là
Bất lạc trước hà, có nghĩa: con sông chẳng đắm nhiễm dục lạc. Vốn là một con
sông nằm gần núi Tượng Đầu, xóm Ưu-Lâu-Tần-Loa, thuộc nước Ma-Kiệt-Đà (Ấn Độ).
Trước khi tịnh tọa dưới cội Bồ Đề, Đức Thích Ca có xuống rạch Ni-Liên-Thuyền
tắm rửa sạch sẽ. Do đó, người đời sau thường tán tụng nước ở con sông nầy có
diệu năng rửa sạch mọi điều nhơ bẩn (Ni Liên hà lý, phi hữu cấu nhi kiến
trừ).[sách Pháp Huyễn Châu Lâm].
THAM THIỀN: Cũng
gọi là Thiền định hay Thiền na (Phạn ngữ: Dhyana), Tham là suy
gẫm, quán xét; Thiền là tịnh lự, tư duy. Nói chung, tham thiền là
chú tâm yên lặng mà quán xét suy gẫm để diệt trừ phiền não hoặc tìm hiểu Đạo lý
mầu nhiệm. Đức Thầy từng dạy:“Phật pháp Thiền na dốc thực
hành.” (Cho cô Năm Võ thị Hợi), hoặc:“Định tâm thần như mặt nước
hồ,
Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối”(GMTK, Q.4).
KHỔ HẠNH: Hạnh tu ép xác hành
khổ. Lúc Đức Thích Ca đến Khổ Hạnh Lâm cùng với năm anh em Kiều Trần Như, tu
theo lối ép xác, hành khổ. Mỗi ngày đêm Ngài chỉ ăn một vài hột mè, uống một ít
giọt sương, thân hình gấy ốm, đến đỗi bày cả bộ xương ra. Hôm nọ, vì quá kiệt
sức nên Ngài đang đi bỗng té xỉu; chừng tỉnh dậy, Ngài mới phát kiến được hai
xu hướng sai lầm:
1/-Sống cảnh quá đầy đủ sung sưóng thì tu không được.
2/-Tu ép xác hành khổ lại càng không kết quả.
Nhờ đó, Ngài tìm ra được con đường Trung Đạo, liền từ giã
nơi đây, đến ngay cội cây Bồ Đề ngồi tham thiền suốt 49 ngày liền đắc quả Như
Lai.
MA VƯƠNG: Xem chú thích tại tr.
56 Tập 1/3.
THẦN THÔNG: Phạn
ngữ: Rddi. Thần là linh diệu, không thể
liệu lường được. Thông là vô ngại, lưu thông tự tại, không chi ngăn trở
nổi. Thần thông là tiếng nói chung để gọi Ngũ thần thông của hàng
Tiên nhơn hay Lục thần thông của các bậc La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát và
Phật. Gọi tắt là Ngũ thông hay Lục thông. Đức Giáo Chủ từng cho biết trong
“Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ”:
“Mắt nhìn thấy thần thông biến
hóa,
Đức Di Đà hiện chóa hào quang.”
NGHỊ LỰC: Sức mạnh mẽ để tiến tới.
Đây chỉ về sức mạnh của tinh thần. Nhà tu hành có năm sức mạnh (ngũ lực) để đạt
đến quả Phật.
1/-Tín lực: Cái gốc tin tưởng có sức
phá tan, những tà tín dối trá.
2/-Tinh tấn lực: Cái gốc tinh tấn tăng
trưởng, có sức phá tan tâm giải đãi nhơ xấu.
3/-Niệm lực: Cái gốc niệm tưởng chơn
chánh tăng trưởng có sức phá tan các tà niệm.
4/-Định lực: cái gốc thiền định tăng
trưởng có sức phá tan các loạn động.
5/-Huệ lực: Cái gốc sáng suốt tăng
trưởng có sức phá tan vô minh vọng hoặc trong tam giới.
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh có dạy rằng:“Nhờ nghị
lực giúp nhà nhà tu đến khi đắc đạo và thoát khỏi luân hồi sanh tử”. Đức
Thầy nay cũng nói:
“Quyết lòng rửa sạch tiền khiên,
Ra oai ra lực hùng yên mới là”.
(Để Chơn Đất Bắc)
ĐẮC ĐẠO HOÀN TOÀN: tức được giác hạnh viên
mãn, cũng gọi là chứng quả Phật. Vì nhà tu từ bực Thinh Văn…đến Bồ Tát vẫn còn
tiếp tục tu cho đến khi chứng quả Như Lai mới thành đạt mục đích, nên gọi là
đắc Đạo hoàn toàn.
PHÔ TRƯƠNG: Trưng bày ra.
ĐỘ CHÚNG: Cứu vớt, hóa độ chúng
sanh.
CHÁNH VĂN
249. Ngài
bèn xét ở trong Phật chủng,
Các chúng-sanh đều có như Ta.
Bị vô-minh vọng-tưởng vạy-tà,
252. Nên quay lộn Ta-bà cõi
khổ.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 249 đến câu 252) :
-Trên con đường châu du độ thế, Đức Phật đã
quán biết tất cả chúng sanh đều có hột giống Phật, tức mỗi ai cũng cũng đồng
một thể tánh như Phật (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh). Nếu chúng
sanh biết giác ngộ tu hành tất sẽ thành Phật, sánh cùng Ngài không khác. Ví như
hai ly nước: trong là Phật, đục là chúng sanh, nếu ta đem lọc ly nước đục cho
hết cặn thì hai ly nước đều trong sạch như nhau.
Sở dĩ hiện giờ ta thấy chúng sanh và Phật
khác nhau, là vì chúng sanh bị vô minh vọng tưởng che mờ căn tánh từ vô thỉ,
rồi cứ tiếp tục gây nghiệp trần mê mà phải sanh tử mãi trong cõi Ta bà thống
khổ.
CHÚ THÍCH :
PHẬT CHỦNG: Hột giống Phật. Ý nói tất
cả chúng sanh đều có hột giống Phật, cũng gọi là Phật tánh. Vậy ai muốn thành
Phật phải làm cho hột giống Phật của tự tâm mình phát sanh. Trong “Tự Tánh Chơn
Phật Kệ” Đức Lục Tổ có dạy:
“Đốn giáo Pháp kiếp nầy đặng gặp,
Tự tánh liền thấy Phật hiện
thân.
Người tu hành muốn kiếm Phật
thân,
Nơi nào kiếm chơn thân của Phật
?
Trong tự tánh thấy thường chơn
thật,
Có chơn thì giống Phật mới
thành,
Chẳng thấy tâm kiếm Phật ngoài
thân,
Tâm vọng khởi thiệt phần si ám”.
Đức Thầy nay cũng xác nhận:
“Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.”(Sấm Giảng Q.1)
CÁC CHÚNG SANH ĐỀU CÓ NHƯ TA: Mỗi mỗi chúng sanh đều có
chơn tánh như Phật. Lúc Đức Phật mới thành Đạo, Ngài có nói: Ta xem cả thảy
chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng Như Lai cả (Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai).
Thuở xưa, nơi cánh rừng nọ, có một con sư tử
cái, đã mang thai và phải bịnh mấy hôm, kiếm ăn không được, nên bụng đói thắt
thẻo. Không thể chịu đói lâu ngày, sư tử gượng ra mé đường mòn của bầy dê
thường qua lại, ý định rình bắt một con dê, ăn đỡ lòng.
Nó núp khuất trong bụi rậm chờ bầy dê đi
ngang, liền nhảy ra vồ một con, nhưng dê lẹ làng tránh chạy. Sư tử vì đau yếu
lại chụp hụt mồi, nên bị té va đầu vào gộp đá, vẫy chết.Trước khi dứt thở nó
sanh được một sư tử con. Giờ sau, sư tử con đứng lên, bơ vơ một mình, bỗng bầy
dê khác đi tới, nó liền chạy theo. Bầy dê thấy sư tử còn bé, trông rất ngoan
hiền nên cho nhập bọn, bú sữa và cùng ăn cỏ. Từ đó sư tử con sống chung với bầy
dê, nó đinh ninh rằng mình là loài dê.
Hôm nọ, sư tử chúa đứng trên núi cao nhìn
thấy sư tử nhỏ sống chung với bầy dê mà vẫn được hòa hợp, trìu mến, nó lấy làm
lạ bèn nghĩ cách tìm hiểu nguyên nhân. Suy tính xong, sư tử chúa xuống núi ẩn
mình vào lùm cây dựa đường, chờ bầy dê đi ngang, nó phóng ra chụp được sư tử
nhỏ, và hỏi:
-Tại sao mầy là sư tử mà lại sống chung với
bầy dê, làm mất thể diện cả loài ?
Sư tử nhỏ vùng vẫy không được bèn cải chính
và năn nỉ:
-Tôi là dê chớ không phải là sư tử, ông làm
ơn buông tha cho tôi theo bầy !
-Mầy là sư tử chớ không phải là dê, biết chưa
?
Tôi là dê ông à ! Xin ông khoan hồng cho tôi một lần đi !
Sư tử chúa thấy giải thích mãi không kết quả, liền kéo xển sư tử
nhỏ đến bờ giếng, chỉ xuống mặt nước trong lặng và bảo:
-Nhìn xuống đây coi hình mầy có phải giống hình tao không? –Sư tử
nhỏ nhìn xuống ngơ ngác…Sư tử chúa liền rống lên một tiếng vang dội cả rừng. Sư
tử nhỏ bất giác rống theo, tới đây nó mới chợt tỉnh mình là sư tử. (phỏng theo
Tạp Thí Dụ Kinh)
Câu chuyện trên giúp ta nhận rằng mỗi chúng sanh từ vô thỉ đều
đồng một bản thể với chư Phật, song vì vô minh điên đảo mà phải lẫn lộn mãi
trong sáu đường sanh tử rồi mê chấp mình là chúng sanh mãi mãi, không thể nào
làm Phật được. Nay nhờ Đức Phật, Đức Thầy dùng mọi phương tiện giác tỉnh, chúng
sanh mới nhận ra nơi mình có sẵn tánh Phật, nếu ai biết tu hành tất được đồng
hòa một bản thể cùng chư Phật, ấy là thành đạo giải thoát.
Cũng như sư tử con, vì nghiệp mê ràng buộc, nên đầu thai vào bụng
mẹ, khi sanh ra và lớn lên trong bầy dê, rồi vọng chấp mình là dê (dụ cho chúng
sanh). May nhờ có sư tử chúa (dụ chho đấng giác ngộ) tìm mọi biện pháp khai
ngộ, sư tử con mới bừng tỉnh mình là sư tử.
VÔ MINH: Phạn ngữ: Avidya, phiên
âm là A-vĩ-di, Tàu dịch là Vô minh. Vô có nghĩa là không; minh
là rõ, sáng. Chúng sanh mê mờ không rõ tâm chơn như diệu minh của mình, trở lại
nhận lầm các vọng tưởng nên gọi là vô minh (mê si).
Chính vô minh là mối đầu của Thập nhị Nhân duyên để dẫn từ hành,
thức đến sanh tử. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận có viết:“Mọi pháp
trong sạch là chơn như, mọi nhân nhiễm trược gọi là vô minh”. Lại nữa chơn
như diệu minh ví như mặt trời, vô minh ví như mây. Đức Thầy viết (trong Khuyến
Thiện, Q.5):
“Màn vô minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy
làm chơn”.
VỌNG TƯỞNG: Móng
nghĩ việc sái quấy, tà vạy, không hạp với Đạo lý chánh pháp. Trong Đại Thừa
Nghĩa Chương có câu:“Kẻ phàm phu mê tối đối với sự thật, bèn khởi ra các
tướng của các pháp, chấp lấy tướng cho là danh, rồi y theo danh mà giữ lấy
tướng; bởi chỗ giữ lấy chẳng chơn thật, nên kêu là vọng tưởng”. Và đoạn
khác đã nói:“Chấp một cách sai lạc không chơn thật, kêu là vọng. Đem cái
vọng tâm mà giữ lấy điều mình chấp, kêu là tưởng.”(Mậu chấp bất chơn, danh
chi vi vọng, vọng tâm thủ tướng, mục chi vi tưởng)
VẠY TÀ: Cũng viết là tà vạy.
Có nghĩa: gian dối cong vẹo, không chơn chánh ngay thẳng.
TA BÀ: Xem lại chú thích tại
tr. 62 Tập 2/3.
CHÁNH VĂN
253. Lòng
thương chúng thuyết-phương Tịnh độ
Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.
Nếu
như ai cố chí làm lành,
256.
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-Quốc.
Cả vũ-trụ
khắp cùng vạn-vật,
Dầu
Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc-sanh.
Cứ
nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành,
Được
cứu-cánh về nơi an-dưỡng.
Chỉ
một kiếp Tây-phương hồi hướng,
262. Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 253 đến câu 262) :
-Bởi quá thương xót chúng sanh mãi trôi lăn trong bể trần gian
khổ, nên xưa kia Phật đã thuyết Vô Lượng Kinh Pháp để tùy cơ giáo hóa, nhưng vì
muốn rộng độ hết các từng lớp chúng sanh, Phật mới ân cần khai thị Pháp môn “Tịnh
Độ”. Bởi tu theo pháp môn Tinh Độ rất giản tiện và dễ chứng đắc hơn hết.
Ngài đã từng thốt:“Tịnh độ Pháp môn chí huyền, chí diệu bất tu dư hạnh nhi đắc
lục ba-la-mật.”(Pháp môn niệm Phật rất huyền, rất diệu; chẳng cần tu pháp
nào khác vẫn đắc được sáu phương tiện sang qua bờ giác). Thế nên thời nay Đức
Huỳnh Giáo Chủ cũng tiếp tục xiển dương Pháp môn ấy để rộng độ chúng sanh:“Môn
Tịnh độ là phương cứu cánh, Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.”(Khuyến
Thiện, Q.5).
-Ngài cho biết tất cả chúng sanh, không phân biệt tiên, phàm, ma,
quỉ, súc sanh, nếu quyết chí làm lành lánh dữ và nhứt tâm trì niệm sáu chữ “Nam
Mô A Di Đà Phật” với lòng tin vững chắc, chí nguyện thiết
tha, phụng hành tinh tấn thì chỉ trong một kiếp chắc chắn được vãng sanh
về Tây phương Cực Lạc, thoát chồn mê đồ, chấm dứt cảnh sanh tử luân hồi. Ngài
hằng khuyến tấn:
“Rán trì tâm tuởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.”(Kệ Dân, Q.2) “Di Đà lục tự ấy phương châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm”.
(Đáp lời Ông Nguyễn Kỳ Trân)
Và:“Về Cực lạc thảnh thơi an dưỡng,
Ấy là ngày ban thưởng công tu”.
(Cho Ông Cò Tàu Hảo)
CHÚ THÍCH :
PHƯƠNG TỊNH ĐỘ: Là
phương pháp trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” để được trở về với “Bản
lai thanh tịnh (tánh), hoặc Vãng sanh Cực lạc (tướng)”. Pháp nầy do Đức
Phật Thích Ca truyền ra để giới thiệu cõi Cực lạc và tán dương công đức vô
lượng thọ vô lượng quang của Phật A Di Đà cùng nguyện lực lớn lao của Ngài.
Nhân đó, khai thị pháp môn Tịnh độ. Tôn chỉ gồm trong ba bộ kinh: Di Đà, Vô
Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ.
Sau đó chừng 700 năm, Đức Mã Minh Bồ Tát, Long Thọ Bồ Tát và Thế
Thân Bồ Tát, cực lực khuyên người tu pháp môn Tịnh độ. Từ đó, Pháp môn nầy được
lưu hành khắp Á châu, nhưng tùy theo sở nhận của mỗi người mà tu lấy, chớ không
có tổ chức thành hệ thống. Mãi đến đời Tống bên Trung Hoa, có Ngài Huệ Viễn
thâm ngộ môn Tịnh độ mới đứng ra tập hợp các Đạo sư, lập thành Hội Liên xá. Bắt
đầu từ đó Pháp môn nầy thạnh hành khắp dân gian.
Khi Ngài Huệ Viễn Đại Sư tịch rồi thì có các Ngài: Thiện Đạo Đại
Sư, Thừa Viễn Đại Sư, Pháp Chiếu Đại Sư, Diên Thọ Đại Sư nối nhau hưng truyền
Pháp môn Tịnh độ, gây nên phong trào niệm Phật mạnh mẽ. Từ đó đến nay đa
số người tu hành lúc lâm chung đều có thoại ứng vãng sanh về cõi Cực lạc.(Xem
các Mẩu chuyện Vãng sanh trong Đạo pháp Nghi vấn).
CHÚNG SANH: Xem
chú thích tr. 40 Tập 1/3.
VŨ TRỤ: Cũng viết là võ trụ. Vũ
là không gian: bốn phương và trên dưới. Trụ là thời gian: quá khứ, hiện tại và
vị lai. Ý chỉ khắp thế giới. Đức Thầy thường nói:
“Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao.”(Hoài Cổ)
TIÊN PHÀM MA QUỈ: Ý chỉ chung hết chúng sanh trong 6 nẻo luân hồi, gồm có ba đường
thiện: Trời (Tiên), Người (phàm), A tu la (thần), và ba đường ác: Địa ngục, Ngạ
quỉ, Súc sanh.
NHỨT TÂM: Xem chú thích tại
tr.40 Tập 2/3.
TÍN, NGUYỆN, PHỤNG, HÀNH: Ba đức tính căn bản của người tu Pháp môn Tịnh độ:
1/-TÍN là đức tin đầu tiên của hành giả. Cổ nhân từng bảo: Người
có đức tin như xe có đủ bánh, sẽ lăn đi một cách dễ dàng (Nhơn hữu tín như xa
hữu luân). Cho nên, kẻ có lòng tin chắc thì đường xa bao nhiêu cũng đến,
quả vị bao cao cũng thành, bằng ngược lại mọi việc khó thành công. Hoa Nghiêm
Kinh, Phật đã dạy:
“Tín vi đạo nguyên công đức mẫu,
Tăng trưởng nhất thiết chư thiện pháp.
Trừ diệt nhất thiết nghi hoặc,
Thị hiện khai phát vô thượng Đạo.”
(Tin là đầu đạo mẹ công đức,
Tin là căn lành cha của quả.
Tin thì thoát khỏi ngoại Đạo tà,
Tin thì tiến vào thiền định chánh,
Tin thì được siêu phàm nhập Thánh,
Tin thì hay thành Phật độ sanh.)
Cho nên người tu Pháp môn niêm Phật phải luôn có đức tin dũng
mãnh:
-Tin lời Đức Phật thuyết không sai.
-Tin cõi Cực lạc là có thật.
-Tin Đức Phật A Di Đà giữ đúng đại nguyện:“ Giả sử khi tôi
thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi (Cõi
Cực Lạc) nhẫn đến mười niệm (danh hiệu tôi), nếu không được sanh thì tôi
chẳng lấy ngôi Chánh Giác.”
-Tin Pháp môn Tịnh độ là thù thắng hơn các pháp (dễ tu dễ chứng
đắc).
-Tin mình có đủ khả năng thành Phật hoặc vãng sanh về Lạc Quốc.
2/-NGUYỆN: là chí quyết định, là lời hứa hẹn, là lòng thiết
tha, mong muốn thực hiện cho kỳ được. Chính nó là động cơ thúc đẩy người tu mau
đạt đến mục đích. Từ ngàn xưa, chư Phật, chư Tổ, chư Sư khi phát tâm tu hành
đều có lập nguyện. Ngay như tiền kiếp của Phật A Di Đà (vua Vô Tránh Niệm), lần
đầu tiên Ngài đến Pháp Hội Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bốn mươi tám lời đại
nguyện. Cho nên ai tu pháp môn Tịnh độ cần phải có lập nguyện vững vàng, như
Đức Thầy đã dạy trong hai “Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Ông Bà”:
“Rày con xin giữ Đạo hằng,
Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
Thoát nơi khổ hải Liên đài được lên”.
Hoặc là:
“Nguyện đem công quả tu hành,
Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài.
Về Phật quốc ngày ngày an lạc,
Cả giống dòng giải thoát luân trầm.
Rồi đem Đạo pháp huyền thâm,
Độ trong sanh chúng hết lầm hết mê”.
3/-PHỤNG HÀNH: là vâng lời và thi hành theo Pháp môn Niệm
Phật, cùng làm lành lánh dữ để được vãng sanh về Cực Lạc.
Hành giả tu theo Pháp môn nầy, nếu đã có lòng tin và chí nguyện mà
không chịu thực hành thì chẳng khác nào người tin đi học sẽ biết chữ và có chí
muốn học, nhưng rồi không chịu học thì suốt đời vẫn còn dốt. Trái lại, nếu có
thực hành mà thiếu lòng tin và chí nguyện thì cũng không đi tới đâu.
Nói tóm lại, Tín Nguyện Hành là ba yếu tố căn bản của người tu pháp
môn Tịnh Độ, nếu thiếu một không thể được. Nó chẳng khác nào cái đảnh ba chân,
thiếu một chân đảnh để không vững. Thế nên Kinh Phật cho nó là ba món tư lương
(lương thực đi đường). Người niệm Phật nếu không đủ Tín Nguyện Hạnh, ắt phải
ngã gục giữa đoạn đường, bằng có đủ sẽ thành công một cách dễ dàng.
CỨU CÁNH: Xem chú thích tại tr.
79 Tập 3/3.
AN DƯỠNG: Xem chú thích tại tr.
60 Tập 2/3.
HỒI HƯỚNG: Hồi
là chuyển xây lại, hướng là ngó về, tức là những công đức, thiện căn mà mình đã
tu bồi được, nay nguyện hồi hướng về mục đích của mình đã nhắm. Cho nên chữ hồi hướng đối
với nhà tu Phật là xoay chuyển công đức hướng về ba chỗ:
1- Chỗ sở chứng chơn như thật tướng.
2- Chỗ sở cầu vô thượng Bồ Đề.
3- Chỗ sở độ tất cả chúng sanh.
Ngoài ra còn hồi hướng công đức cho Cửu Huyền
Thất Tổ đặng siêu thăng Tịnh độ. Nhưng chữ hồi hướng ở đây là ý chỉ xoay chuyển
công đức về chỗ vãng sanh Cực lạc. Đức Thầy có câu:
“Đem thân hồi hướng gốc lành,
Làm tôi Phật Tổ chí thành chí
chơn”.
(Cho Ông Cò Tàu Hảo)
KIẾP: Phạn ngữ: Kalpa, phiên âm
là kiếp-ba, dịch là đại thời hay bá vạn niên.
Theo Phật học thì Kiếp là thời kỳ rất dài, thật khó lấy số năm,
tháng mà kể. Kiếp lại có ba bực: tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp. Nhưng chữ kiếp
ở đây Đức Giáo Chủ chỉ cho một đời sống của con người, như Ngài từng nói:“Kiếp
người dường chùm gởi bám vào cây.”(Trao Lời Cùng Ông Táo).
MÊ ĐỒ: Đường mê, cảnh giới mờ
ám, tức là con đường luân hồi trong ba cõi chúng sanh. Bồ Đề Tam Luận có viết:“Phàm
các pháp mê đồ đều từ trong vọng tưởng mà ra”.
LUÂN HỒI: Xem
chú thích tại tr. 36 Tập 1/3.
CHÁNH VĂN
263. Xét cõi trần sống khổ giạt-trôi,
Vô lượng thứ ở
trong thế-giới.
Lời Phật thuyết
ta xin nhắc lại,
266. Ta-bà khổ, Ta-bà lắm khổ.
Có bao người xét
cho tột chỗ,
Tịnh-độ vui,
Tịnh-độ nhàn vui.
Cảnh thanh-minh
sen báu nặc mùi,
270. Nào ai rõ cái vui triệt
đáo.
Vì phần Ta rất
yêu-mến Đạo,
Chẳng nệ chi trí
siển tài sơ.
Lấy lời xưa kết
lại ít tờ,
274. Cho thiện-tín rỗi nhàn xem-xét.
Dứt mê tâm dứt
điều hờn ghét,
Rán cần chuyên
niệm Phật làm lành.
Thường trau-giồi
chí-hướng cao-thanh,
278. Cho khỏi thẹn con lành
Phật-Giáo.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 263 đến câu 278) :
-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ nhận xét kiếp sống của tất cả chúng sanh
dẫy đầy sự đau thương thống khổ, chẳng khác nào cánh bèo bị gió tạt sóng nhồi,
lênh đênh theo dòng nước giữa bể trần vô định. Đã vậy, mỗi chúng sanh còn phải
luân chuyển biết bao lần trong ba cõi sáu đường, không thể so đếm được.
-Vì quá thương xót chúng sanh, Đức Thầy mới nhắc lại lời Kinh pháp
mà xưa kia Đức Phật đã thuyết giáo: sanh trong cõi Ta bà mỗi chúng sanh đã chịu
vô vàn đau khổ, lại còn bị bao nhiêu cảnh khổ khác dồn tấp đến. Trong Kinh Pháp
Hoa, Phật đã nói: Ba cõi không an cũng như nhà lửa, chứa đầy sự khổ, rất khá
ghê sợ, thường bị sự sanh, già, bịnh, chết, lo buồn…như các ngọn lửa thiêu đốt,
chẳng hề ngưng dứt. (Tam giới vô an, do như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn,
thậm khổ bố úy, thường hữu sanh, lão, bịnh, tử, ưu hoạn như thị đẳng hỏa, xí
nhiên bất túc). Thế mà chẳng mấy người xét nghiệm cho thấu hiểu ngọn ngành
để tìm phương xa lánh.
-Đối với cảnh Ta bà thống khổ thì có cảnh Cực lạc (Tịnh Độ) tột
vui. Bởi cảnh nầy do công đức và nguyện lực của Đức A Di Đà tạo nên. Từ đất cát
đến cung điện toàn bằng bảy báu, ánh sáng muôn trùng, nào hoa sen năm sắc,
thanh lịch thơm tho; nào ao có nước “tám công đức”, chim kêu tiếng pháp, cây
báu diễn lời lành. (Tám công đức: 1. Nước trong trẻo, 2. Man mát, 3.
Ngon ngọt, 4.Mềm nhẹ, 5. Đượm nhuần trơn bóng, 6. Yên ổn hòa nhã, 7. Trừ đói
khát, 8. Nuôi lớn các căn.) Đến các thức ăn, áo mặc đều tự sanh theo ý muốn và
mỗi người có đủ phép thần thông tự tại. Thật là một cõi vô cùng trang nghiêm,
vui đẹp:“Không già, không bịnh chẳng ngày nào lo.”(Từ Giã
Làng Nhơn Nghĩa). Thế mà ít có ai thấu triệt được cái tột vui ấy.
-Bởi lòng quá mến yêu đạo đức, nên Đức Giáo Chủ “chẳng nệ
chi trí siển tài sơ”, đem lời quí báu của Phật, dệt lại mấy trang trong
quyển Giảng nầy để khuyên khắp tín đồ, khi nhàn rỗi hãy lấy ra xem và nghiệm
xét hầu có tiến thân trên đường sang Phật Quốc.
Nếu ai biết giác ngộ tu hành thì hãy sớm dứt bỏ lòng mê si tà
kiến, sân hận ghét ganh, siêng năng niệm Phật và làm lành lánh dữ. Đồng thời lo
rèn luyện cho mình có một tâm chí kiên nhẫn để tiến hành theo định hướng thanh
cao của đạo đức. Có được như vậy, ta mới xứng đáng là một tín đồ Đạo
Phật.
CHÚ THÍCH :
SỐNG KHỔ: Đời sống đau khổ. Ý nói kiếp sống của con
người trong cõi trần gian chịu nhiều nỗi bi thương thống khổ, không một chúng
sanh nào thoát khỏi. Đức Phật xưa từng bảo:“Đời là bể khổ, nước mắt của
chúng sanh khóc cảnh sanh ly tử biệt từ vô thỉ đọng lại, nếu có chỗ chứa còn
nhiều hơn bể cả”. Trong Trí Độ Luận cũng viết:“Vô lượng chúng sanh hữu
tam chướng thân khổ: lão, bịnh, tử; tam chướng tâm khổ: tham, sân, si; tam
chướng hậu thế khổ: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh”.(Vô lượng chúng sanh có ba
món khổ của Thân là: Già, bịnh, chết; ba món khổ của Tâm là Tham lam, Sân nộ,
Mê si; ba món khổ của đời sau là: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.)
Đức Thầy nay cũng nói:
“Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,
Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.”(Kệ Dân, Q.2)
Cho nên, Ngài hằng khuyên:
“Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
Rán tầm vào đến chỗ an cư.”(Thiên Lý Ca)
GIẠT TRÔI:
Cũng gọi là trôi giạt. Có ý nói: vật gì bị sóng gió đánh bạt ra vào, lui tới
nhiều lượt, lại bị nước đùa chảy trôi đi nơi nầy, nơi khác. Nghĩa bóng: chỉ
cuộc đời của con người đầy gian nan khổ sở, rày đây mai đó.
VÔ LƯỢNG THỨ: Xem
chú thích chữ “vô lượng” tại tr. 218 Tập 3/3.
TA BÀ: Xem chú thích tại tr.
62 Tập 2/3.
TỘT CHỖ: Đến nơi cùng tột rốt
ráo.
TỊNH ĐỘ: Xem chú thích tại
tr.198-199 Tập 3/3.
THANH MINH: Trong
sạch sáng sủa. Cảnh thanh minh là cảnh Cực lạc, vì cõi nầy rất yên lặng trong
sạch nên có tên là “Thanh tịnh Hải hội”, và cõi nầy toàn bằng bảy báu,
ửng ra ánh sáng vô cùng tận, nên có tên là “Vô Lượng Quang”. Gọi chung
là Cảnh thanh minh.
TRIỆT ĐÁO: Đến
chỗ cùng tột, hơn hết. Vui triệt đáo là cái vui tột hơn hết, không có cái vui
nào bằng.
TRÍ SIỂN TÀI SƠ: Trí kém thiếu, tài thấp thỏi. Đây là tiếng nói khiêm nhượng. Đức
Thầy cũng viết :
“Tài sơ trí siển nôm na,
Mặc tình chê ghét phận ta ta tường”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
RỖI NHÀN: Rảnh rang thong thả,
không bận việc. Đức Thầy khuyên:“Lúc rảnh việc nên thường coi Kệ giảng.”(Lời
khuyên bổn đạo – Tám điều răn cấm).
MÊ TÂM: Lòng mờ tối si mê, nhận
lầm sự lý: vọng tưởng cho là trí huệ, việc chánh nhận ra tà, việc tà nhận ra
chánh. Cũng đồng nghĩa với chữ vô minh và mê si.
Trong “Sa Di Thập Giới” có đoạn:“Nỗi khổ bị thiêu đốt
trong ba đường dữ, nỗi khổ của con Lạc đà, con Lừa chở nặng và nỗi khổ đói khát
bức bách của loài Ngạ quỉ chưa gọi là khổ mấy; Si mê không tu học, chẳng biết
hướng đi (giải thoát) mới gọi là khổ”.
Cho nên Đức Giáo Chủ hằng dạy:
“Trần tâm rứt sạch cuộc mê si,
Quan sát đạo mầu nẻo ẩn vi”.
(Cho Ô. Trần Quang Hạnh)
HỜN GHÉT: Tâm
sân hận và ghen ghét, tật đố một trong tam độc (tham sân si) và cũng là một
trong 10 món phiền não căn bản.
Kinh xưa có nói:
“Nhất niệm sân tâm khởi,
Bá vạn chướng môn khai”
Vị phiền não chi căn,
Thọ tam đồ chi khổ.”
( Một niệm lòng khởi sân si,
Trăm ngàn cửa chướng tức
thì mở khai.
Phiền não là gốc chẳng sai
Ba đường chịu khổ khó ngày
thoát ra).
Đức Thầy nay cũng dạy, trong bài “Thu Đã Cuối”:
“Vượt cảnh khổ muôn phần u ám,
Ganh, ghét, hờn thì thảm muôn bề”.
CẦN CHUYÊN: Xem
chú thích tại tr.69 Tập 2/3.
CHÍ HƯỚNG: Tâm
chí và khuynh hướng. Lòng nghiêng ngã theo một đường hướng đã định thì quyết
đạt cho được chí nguyện đó. Ví dụ: Ông ấy đã nuôi dưỡng một chí hướng đạo đức
cao thượng.
CAO THANH: Xem
chú thích tại tr.80 Tập 2/3.
CHÁNH VĂN
279. Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo :
Khổ Ta-bà nhiếp
lại tám phần.
Bởi chúng-sanh
mang lấy xác thân,
282.
Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc.
Vào bụng mẹ chung
quanh bao-bọc,
Có khác nào ở
chốn ngục tù.
Buổi mẹ đau huyết
kiệt hình thu,
286. Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
Ta kể sơ những
điều bi-thống,
Mẹ no cơm
chật-chội khó-khăn.
Khi ra đời
đau-đớn vô ngằn,
290. Cất tiếng khóc nếm mùi
dương-thế.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 279 đến câu 290) :
-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ nhắc lại lời giảng của Đức Thích Ca
Mâu Ni:“Tất cả chúng sanh trong cõi trần chịu muôn ngàn điều khổ não, kể
chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có
thể xảy ra muôn ngàn sự khổ não kia.”(Sơ giải Tứ Diệu Đề). Sở dĩ có những
nỗi khổ trên là vì chúng sanh có xác thân, nếu thân không có thì mọi sự khổ
chẳng do đâu mà sanh được. Lão Tử cũng xác nhận điều nầy: Ta có đại hoạn, vì
ta có thân, nếu ta không thân hoạn nạn đâu có (Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu
thân; nhược ngô vô thân, hà hoạn chi hữu). Và Đức Phật đã từng giảng rõ:“Thân
là gốc của sự khổ. Nó là cái quả của các nghiệp tiền trần (quá khứ) mà nó cũng
là cái nhân của quả vị lai”.
Vậy cái khổ thứ nhứt là sự sanh, bởi những tiền kiếp chúng
sanh còn tạo nghiệp sanh tử, nên thần thức phải đầu thai vào bụng mẹ. Ở trong
đó bị bào thai bao bọc bịt bùng, như người tù bị nhốt trong ngục thất. Thai nhi
bắt đầu chịu sự nuôi dưỡng bằng vật ô uế (tinh huyết) của mẹ, những khi người
mẹ đau yếu, máu huyết không đầy đủ thai nhi phải ốm thon lại. Lúc mẹ đói lòng,
cũng như cái túi treo lơ lửng thường hay chới với. Ngược lại, khi mẹ được ăn
uống no bụng thì thai nhi bị sự chèn ép của bao tử và ruột rất chật chội khó
khăn. Suốt thời gian ở trong bào thai hài nhì phải chịu bao lần khổ đau, sầu
cảm vì ảnh hưởng nơi người mẹ.
-Chẳng thế, khi đúng ngày khai nở, thai nhi phải ép mình để chui
ra “Sản môn ô uế”, thật là đau đớn vô cùng, như một con voi chui qua kẹt đá
nhỏ. Cho nên lúc ra khỏi mình mẹ, đứa bé phát lên tiếng khóc “khổ a”, chứng tỏ
đã nếm cái hương vị của cõi đời đầy trược khổ.
CHÚ THÍCH :
NHIẾP LẠI: Gồm
lại, thâu gọn lại hay tóm lại.
TÁM PHẦN: Do chữ Bát khổ, tức
tám phần đại khổ của mỗi chúng sanh, gồm có: Sanh, Lão, Bịnh, Tử, Mưu cầu bất
đắc, Ái biệt ly, Oan tắng hội, Ưu sầu lo ngại.
HUYẾT KIỆT: Máu
khô cạn hay là hết. Đây ý nói vì đau ốm nên máu huyết trong người bị giảm bớt,
khô dần.
HÌNH THU: Thân thể bị co rút
lại. Đây chỉ cho xác thân của đứa con trong bào thai bị ốm thon lại, bởi người
mẹ mang bịnh mà ra.
LỎNG BỎNG:
Tiếng chao của một vật đựng trong bầu lỏng lẻo và lững đững không đụng đâu. Ví
dụ: Lắc bầu nghe lỏng bỏng ở trong.
BI THỐNG: Thương cảm đau nhức. Ý
chỉ cho sự quá đau xót thương cảm.
VÔ NGẰN: Không bờ bến, chẳng
biết đâu là cùng. Đây có nghĩa không sao kể xiết.
DƯƠNG THẾ: Cõi
đời, cõi có ánh sáng mặt trời, đối với cõi âm không có ánh sáng. Chỉ cho thế
giới loài người đang sống.
CHÁNH VĂN
291.
Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể,
Từ trẻ thơ đến
tuổi thành nhân.
Hết tráng-cường
đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng
lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ
nưng chống chỏi,
296. Thử nghĩ coi lao nhọc cùng
chăng ?
Đoạn thứ ba ma
Bịnh làm nhăng,
Đeo hành phạt xác
thân ô-uế.
Bởi thời-thế
chuyển xây biến-thể,
300. Thêm uống ăn chẳng được
điều-hòa.
Là nguyên-nhân
căn bịnh phát ra,
Thân trằn-trọc
hôn mê nhức-nhối.
Cơn bịnh hoạn
càng không tránh nổi,
304. Còn mang thêm tật nọ tật
kia.
LƯỢC GIẢ(Từ câu 291 đến câu 304) :
-Đến giai đoạn thứ hai là sự già khổ. Từ khi cất tiếng chào
đời đến khi thân hình mạnh khỏe, vui tươi của tuổi xuân đầy nhựa sống, như một
đóa hoa đang cười nụ, khoe hương. Phút chốc bị thời gian cướp mất, với tấm thân
quắc thước hiên ngang, với bao vẻ yêu kiều diễm lệ, giờ đây chỉ còn trong mộng
tưởng. Một nhà thơ đã cất tiếng buồn than:
“Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa,
Một thân khô kiệt, nghĩ buồn tênh.”(Cổ Thi)
Thật vậy, bấy giờ chỉ còn lại một thân già nua, gầy đét, gối mỏi
lưng còm, mắt mờ tai điếc và mỗi khi đi, đứng, nằm, ngồi rất chậm chạp khó
khăn. Xét qua thể trạng ấy, thử hỏi khách trần gian ai mà chẳng công nhận sự
già là một nỗi khổ khôn cùng.
-Đến thứ ba là sự đau khổ. Có nhiều nguyên nhân làm cho con
người phải vương mang bệnh tật: 1. Do thời tiết nóng lạnh, gió mưa thay đổi,
khiến tạng phủ xoay chuyển theo không kịp mà sanh bịnh. 2. Do sự ăn uống ngủ
nghỉ thiếu chừng mực, vệ sinh, hoặc ăn phải các món không hạp cơ thể mà sanh
đau yếu. Ngoài ra cũng còn các lý do như nghiệp quả và phiền não (tham sân si)
thành ra bịnh.
-Khi một người đã mang bịnh thì cả thân xác, tinh thần lẫn quyến
thuộc đồng chịu khổ: thân thì mất ăn bỏ ngủ, đau nhức khó chịu, phần tâm trí từ
lo sợ đến bấn loạn hôn mê; còn thân quyến thì lo thuốc thang chạy chữa đủ cách.
Nhiều khi bệnh nhơn không được lành hẳn, lại còn phải mang tật suốt đời, thật
là khổ thảm muôn phần.
CHÚ THÍCH :
LÃO KHỔ: Những nỗi khổ về sự
già yếu, đây là cái khổ thứ nhì trong Bát khổ. Người xưa từng bảo:
“Già nua là cảnh điêu tàn,
Cây già cây cỗi, người già người suy”.
A Hàm Kinh có chép:“Nhứt lão sơn, vị nhơn lão mại, tắc hình sắc
khô tụy, tinh thần hôn muội, lão sơn năng hoại, nhứt thiết tráng niên chi hạnh
sắc dã.”(Một là núi già, là gọi người già yếu thì hình thể khô đét, tinh
thần mờ mệt. Núi già có thể phá hoại mọi hình sắc tươi đẹp của tuổi tráng
niên).
THÀNH NHÂN: Xem
chú thích tại tr.237,Tập 3/3.
TRÁNG CƯỜNG:
Mạnh mẽ, sức mạnh của thời tráng niên hay tướng dạng lực lưỡng của tuổi trẻ.
LAO NHỌC: Mệt mỏi, cực nhọc quá
sức.
MA BỊNH: Ma (Phạn ngữ: mâra),
có nghĩa cái năng lực làm trở ngại, nhiễu loạn hay cướp đoạt mạng người; bịnh
có nghĩa là đau ốm. Bởi sự đau ốm hay phá hoại, làm trở ngại và cướp đoạt
mạng người nên gọi nó là ma bịnh. Chính nó là sự khổ thứ ba trong
Bát khổ. Đức Thầy còn có câu:“Để ma bịnh theo hờ bén gót.”(Thu Đã
Cuối).
LÀM NHĂNG: Làm việc xằng bậy, phá
phách, gây khó khăn chẳng cho yên ổn.
HÀNH PHẠT: Hành hạ răn phạt. Ý nói
bịnh hoạn làm cho xác thân con người bị khổ sở, như bị ai đày đọa đánh đập.
XÁC THÂN Ô UẾ: Thân xác dơ bẩn, không
trong sạch. Xác thể của mỗi chúng sanh, tuy bên ngoài bao phủ một lớp da mịn
màng trơn láng, dễ nhìn, dễ cảm nhưng xét kỹ bên trong chứa đầy gan ruột, phổi
phèo, máu thịt, toàn là vật không sạch và cửu khiếu* cùng các lỗ chơn lông
thường rịn chảy ra những vật thúi hôi, nên gọi là thân ô uế.(*Cửu khiếu:
9 lỗ: 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, 2 mắt, 1 miệng, 1 đường đại và 1 đường tiểu).
Ngài Hoài Tây Cư Sĩ có luận rằng:“Thân ta
từ khi nhập vào bào thai đến lúc sanh ra có bảy lần không sạch”:
1)-Chủng tử không sạch: do từ vọng
niệm ái dục của cha mẹ mới sanh.
2)-Thọ sanh không sạch: Nhờ tinh huyết
của cha mẹ mới thành thai.
3)-Chỗ ở không sạch: Ở dưới tạng phủ
của mẹ thật là ô uế.
4)-Vật ăn không sạch: Mỗi ngày nút
huyết trong bào y mà sống và lớn lên.
5)-Lúc sanh không sạch: Thai nhi phải
lăn lóc trong cửa trược lộ mà ra.
6)-Bốn vóc không sạch: Trong bụng chứa
đầy những vật ô uế.
7)-Ngày rốt ráo chẳng sạch: Khi chết
cả thân đều sình lên hôi hám khó kể, cho đến khi tàn mất.
(Phần Hán văn: Nhất chủng tử bất tịnh, Nhị
thọ sanh bất tịnh, Tam trụ xứ bất tịnh, Tứ thực đạm bất tịnh, Ngũ sở sanh bất
tịnh, Lục cử thế bất tịnh, Thất cứu cánh bất tịnh.)
THỜI THẾ: Thời là mùa tiết, thế là
cõi đời. Nói chung là mùa tiết trong cõi đời (xem thêm chữ Tiết tại tr. 228 Tập
3/3).
BIẾN THỂ: Thay đổi trạng thái khác,
từ mùa tiết nầy đổi sang mùa tiết khác.
ĐIỀU HÒA: Hòa hợp nhau và có độ
lượng chừng mực.
CĂN BỊNH: Gốc bịnh.
TRẰN TRỌC: Bứt rứt, lăn lộn, trăn
trở, không yên.
HÔN MÊ: Trạng thái của người bịnh
nằm mê man thiêm thiếp, như say, như ngây ngất không còn biết gì nữa.
TẬT: Mang bịnh suốt đời không chữa trị được gọi
là tật, hoặc giả sau một cơn bịnh nặng, người đau còn mang tật: đui, điếc, câm,
ngọng, què, xụi.v.v…
CHÁNH
VĂN
305. Rồi từ
đây đến lúc chia lìa,
Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải.
Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
308. Có sanh
ra khổ-hải đâu chừa.
Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn thân tan-nát.
Gần hấp-hối tâm-thần xao-xác,
312. Trí
vẩn-vơ kinh-sợ vô cùng.
Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
Mà cũng không thoát luật tuần-huờn.
Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
318. Chẳng trốn lánh tử thần
cho khỏi.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 305 đến câu 318) :
-Đến lượt thứ tư là cái khổ về sự chết.
Khi người lâm cơn bịnh nặng, gia đình hết phương chạy chữa và thân xác không
còn chịu đựng nổi, đành đi lần vào cõi chết. Phàm sanh ra cõi đời hễ cái gì có
hình tướng đều phải hư hoại (Phàm hữu sở tướng giai thị hư vọng). Thế nên con
người đã có sanh ra, tất phải đi theo định luật già, bịnh rồi chết mất, chớ
không một ai thoát khỏi. Những nỗi khổ ấy sâu dày như biển rộng, chẳng biết đâu
là bờ bến.
-Thử ôn lại quãng đời con người từ sanh ra
cho đến khi chết, sự lao khổ không sao kể xiết. Sanh ra đã khổ, bệnh tật lại
còn khổ hơn, thêm nỗi phải lo sao cho có cơm ăn áo mặc, dầm mưa dãi gió, xuôi
ngược bao lần. Vì mãi tháo vác việc đời mà phải sức cùng, lực tận để rồi một
ngày kia cái thân giả hợp nầy theo luật đào thải mà tan nát và trả về cho tứ
đại. Xét ra còn cảnh tượng nào đau khổ bằng khi thấy trạng thái con người lúc
hấp hối lìa trần: mắt họ trừng lên, môi giựt, răng nghiến lại, tâm thần bấn
loạn, kinh sợ tiếc thương đều phô diễn; rồi dần dần họ lịm đi để giã biệt cõi
đời ảo mộng. Tất cả những vật sở hữu đều bỏ lại hết, chỉ còn mang theo các
nghiệp nhân tội phước đã gây tạo lúc sanh tiền.
“Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
Chỉ có tội phước hỡi còn,
Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm Đài,
Phước nhiều Tiên cảnh lên rày
Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê”.
(Khuyến Thiện, Q.5)
-Vả lại trong đời biết bao bực Đế Vương Khanh
tướng, thế lực tiền tài, danh y, bác học, họ tìm đủ phương cách ngăn ngừa, cứu
chữa để kéo dài tuổi thọ, nhưng rồi cũng phải khuất phục trước luật tuần hườn.
Dù cho có học phép trường sanh hay ẩn mình nơi hang cùng, núi thẳm cũng không
thoát khỏi tử thần.
CHÚ THÍCH :
TỬ KHỔ: Nỗi khổ trong lúc chết.
Cái khổ thứ tư trong Bát khổ.
HỮU HÌNH TẮC HOẠI: Cái gì có hình tướng thì
phải hư hoại. Ý nói cả vũ trụ vạn hữu, từ sơn hà đại địa, sự nghiệp của tiền,
cho đến xác thân của con người đều đi theo định luật thành, trụ, hoại, không,
chớ chẳng có một vật nào trường tồn cả. Trong Kinh Di Giáo, Phật nói:“Nhứt
thiết thế gian động bất động pháp, giai thị bại hoại bất an chi tướng.”(Tất
cả các vật động hay không động ở trong thế gian đều là tướng chẳng an). Và Kinh
Hiền Ngu cũng bảo :
“Nhứt thiết hành vô thường, sanh giả giai
thị khổ.
Ngũ ấm không, vô tướng, vô hữu ngã, ngã sở”.
(Hết thảy đều vô thường, sanh ra tất phải
khổ.
Năm ấm không có tướng, ta và của đều không).
Đức Thầy nay cũng hằng cảnh giác:
“Cảnh dương gian muôn thảm
ngàn sầu,
Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.
Sông với núi trước kia mắt ngó,
Khi chết rồi thấy nó đặng nào.
Ai biết đường hãy sớm tẩu đào,
Kiếm đạo lý mà nhờ mà nhỏi.”
(GMTK, Q.4)
KHỔ HẢI:Xem chú thích chữ biển
khổ tại tr.170 Tập 1/3.
HUYỄN THÂN: Thân giả hợp không có
thật. Bởi nó là hiện thân của nghiệp báo, cũng là dưới sự chi phối của nhân
duyên, nên nó biến hoại không thường, thay đổi chẳng ngớt, như mới trẻ đó kế
già, rồi chết mất. Lại nữa thân xác con người do tứ đại (đất, nước, gió. lửa)
hợp thành, nên khi chết rồi thì xương, thịt rã ra hườn lại đất, máu huyết chảy
theo nước, hơi thở hòa theo gió, sự ấm trở về với sức nóng của mặt trời, chớ
không còn nguyên được, nên gọi là huyễn thân. Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
“Tuồng huyễn hóa
ai bày ra đấy,
Kiếp
phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu ?
Chẳng qua một nắm cỏ
khâu xanh rì
!”
Đức Thầy cũng bảo:“Nào hay thân vô
thường tạm mượn do tứ đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù vân, cái sắc
nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tan không chi
bền chắc…”(Lời Khuyên Bổn Đạo). Và Ngài thường cảnh tỉnh:
“Biết được trần gian là mộng
huyễn,
Tử thần sửa soạn kéo vào quan”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
HẤP HỐI: Sắp chết, thần thức sắp
lìa khỏi xác.
XAO XÁC: Bấn loạn, không an định
tỉnh táo.
VẨN VƠ: Nhởn nhơ, rối rắm, nhớ
nghĩ chuyện không đâu. Đức Thầy nói:“Trí vẩn vơ tuởng nhớ đó đây.”(Khuyến
Thiện, Q.5).
LÂM CHUNG: Đến lúc cuối cùng, lúc
chết.
CÕI TẠM: Tức cõi giả tạm. Ý nói
cõi đời chúng sanh đang ở không chắc thật lâu dài.
Nhân Vương Kinh có chép:“Chư giới thú
sinh, tùy nghiệp duyên sanh, như ảnh như hưởng, nhứt thiết giai không.”(Các
thế giới đã có đều do duyên nghiệp mà sanh, giống như hình bóng và tiếng dội,
chớ sự thật thảy thảy đều không). Đức Thầy hằng cho biết:“Công danh phú
quí chung hườn mộng.”(Không Không). Và:
“Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần,
Thế trần tạm giả gạt đời ta”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
TỘI PHƯỚC: Các điều hung dữ, tà quấy
gian xảo là tội, còn các việc chơn chánh, hiền lành là phước. Như phạm tội ngũ
nghịch, thập ác và các giới luật của Đạo là tội. Còn hành thập thiện, giữ giới
và có lòng từ bi thương người mến vật là phước.
Xưa, Đức Phật dạy rằng:“Cầu phước chẳng
qua trai giới, bố thí; cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sanh; cầu huệ chẳng
qua học rộng nghe nhiều; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn những tư tưởng quấy”.
Đức Thầy cũng từng viết:
“Khi nhắm mắt hồn lìa
khỏi xác,
Quỉ vô thường đắt xuống
Diêm Đình.
Sổ sách kia tội phước đinh
ninh,
Phạt với thưởng hai đường
tỏ rõ.”(Kệ Dân, Q.2)
LUẬT TUẦN HUỜN: Luật xoay vần của vạn vật
trong thế gian, hễ đi giáp vòng thì trở lại chỗ phát khởi. Cả vũ trụ vạn hữu
đều xoay theo định luật “Thành, trụ, hoại, không” hay là “Sanh, già,
bịnh, chết”. Đây gọi tắt là Luật sanh tử, hễ con người có sanh ra tất phải
có chết rồi tiếp tục sanh trở lại. Chỉ có người tu hành giải thoát, mới vượt
khỏi.
CÙNG CỐC THÂM SƠN: Hang cùng, núi sâu.
TỬ THẦN: Thần chết. Vì cái chết ai
cũng ghê sợ, nên cho nó là Tử thần. Đức Thầy cũng viết:“Thần chết kia ôm
hót bên mình.”(Thu Đã Cuối).
Xưa, có bốn anh em phạm chí (tu sĩ Bà la môn
), đã tu luyện đắc được ngũ thông, mỗi người đều biết rõ bảy ngày nữa sẽ chết
một lượt, nên họ hợp nhau để tìm kế hoạch lánh tử thần.
-Anh thứ nhứt nói: Tôi sẽ tàng hình vào giữa
hư không, thì tử thần chẳng biết đâu mà bắt.
-Anh thứ nhì cho biết: Tôi sẽ xuống biển lặn
trong nước, trên chẳng ló đầu, dưới không đụng đất thì tử thần chẳng biết tôi
đâu mà tìm.
-Anh thứ ba trình bày: Tôi sẽ chẻ núi Tu Di,
vô ngồi ở trong rồi khép lại, tử thần làm gì kiếm được tôi.
-Anh thứ tư cười bảo: Riêng tôi sẽ giả hình
khác rồi lẫn lộn vào chợ đông, tử thần vô phương tìm gặp.
Bàn tính xong, đợi gần tới ngày giờ bốn người
đồng thi hành theo diệu kế của mình, nhưng đúng giờ phút ấy bốn anh em đồng
chết một lượt.
Bấy giờ Đức Phật đang ngồi nơi Tịnh xá, dùng
Đạo nhãn thấy rõ mọi việc của bốn Phạm Chí, bèn kể rõ cho các đệ tử nghe, đoạn
Ngài ngâm bài Kệ:
“Phi không phi hải trung,
Phi nhập sơn thạch gian,
Vô hữu địa phương sở
Khả thoát bất thọ tử”.
(Chẳng không chẳng biển cả, Chẳng vào trong núi đá, Không có miếng
đất nào, Thoát được cái chết cả).
CHÁNH VĂN
319. Đoạn thứ năm nghĩ-suy
tìm-tỏi,
Cầu Chẳng Thành
những việc thích-ham.
Người trên đời ai
cũng lòng tham,
322. Muốn phước, thọ, phẩm,
hàm, tiền của.
Nào vợ đẹp, hầu
xinh, là-lụa,
Không được thì
bực-tức ưu-phiền.
Cả tâm thần
điêu-đứng đảo-điên,
326. Vậy có phải khổ hay là chẳng ?
Đoạn thứ sáu Biệt
Ly cay đắng,
Người mình thương
bỗng lại chia-lìa.
Khi khóc-than
nước mắt đầm-đìa,
330. Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.
Ở thế-gian mấy ai
thoát lọt,
Nợ gia-đình đeo
đắm căn-duyên.
Cơn nguy nghèo
thân-thể truân-chuyên,
334. Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan hiệp,
hiệp tan ân-ái,
Đến xong đời để
lại sầu-ưu.
Cái khổ này dầu
lắm trí mưu,
338. Cũng chung chịu như người tăm-tối.
Lược Giải (Từ câu 319 đến câu 338) :
-Đến khổ thứ năm là những nỗi khổ mưu tính tham cầu mà chẳng
thành.
Khởi nguyên từ lòng ham muốn, chúng sanh mới rơi vào
cõi tục, nên khi sanh ra cõi đời con người đã có sẵn hột giống tham lam. Muốn
sao cho mình được ở lầu các cao sang, nào ruộng cả nhiều tiền, uy quyền chức
tước, nào vợ đẹp hầu xinh, vàng vòng gấm nhiễu, cả gia đình đều sống một cuộc
đời hạnh phúc triền miên.
-Ngược lại, nếu sự mong muốn ấy không đạt thành thì con người bứt
rứt xốn xang, u buồn dã dượi, cả tâm trí bị quay cuồng đảo lộn không phút nào
an tịnh, có khi phải liều mình tự sát. Trước cảnh trạng ấy, ai trông vào mà
chẳng công nhận đây là một nỗi khổ.
-Tới lượt thứ sáu là các nỗi khổ của những người thân yêu nhau mà
phải chia lìa.
Ở đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc, tình thương yêu nhau
rất mực, nên muốn sống mãi mãi bên nhau, nhưng rất không thể toại nguyện. Trong
lúc cảm thương khắng khít bỗng gặp cuộc phân ly, kẻ lệ sầu khôn ráo, người ruột
thắt từng cơn, bao nỗi nhớ thương thật vô cùng chua xót mà cả thế giới loài
người có mấy ai vượt khỏi.
-Phàm hễ có gia đình phải có sợi dây ái ân ràng buộc, chằng chịt
nợ duyên, gốc bởi tiền căn vọng tưởng. Giữa tình cha con, chồng vợ lúc nào cũng
đậm đà gắn bó, song vì mưu cầu cho cuộc sống, hoặc vì tình cảm éo le khiến phải
chia tay. Lúc ấy, kẻ phiêu bạt chơn trời ôm nỗi buồn thương đau xót, người ở
lại ngày đêm chờ đợi nhớ nhung. Thì ra cuộc đời chỉ là một trường “bi hoan
ly hiệp”, đau khổ trường miên, ít khi nào được an vui thư thái.
-Sanh ly đã khổ, tử biệt lại còn khổ hơn, hết hồi tan hiệp, hiệp
tan; kế đến lúc có một người chấm dứt cuộc đời thì bao kẻ còn ở lại, đành ôm
mối sầu ưu vĩnh viễn. Cái khổ nầy dầu cho kẻ cao sang tài trí, cũng phải chung
chịu như bao nhiêu người hạ tiện.
CHÚ THÍCH :
CẦU CHẲNG THÀNH: Do chữ “Mưu cầu bất đắc khổ”, tức là cái khổ thứ năm trong Bát
khổ. Có nghĩa: sự khổ về việc mưu tính mong cầu mà chẳng được như ý.
PHƯỚC THỌ: Được
hạnh phúc và sống lâu.
PHẨM HÀM: Chức
tước, cấp bực của hàng quan lại. Đây chỉ cho ba việc danh, lợi, quyền.
HẦU XINH:
Người tỳ thiếp (vợ nhỏ) có nhan sắc, cũng gọi là nàng hầu, vì bổn phận của tỳ
thiếp phải theo hầu hạ chồng và vợ lớn.
LÀ LỤA: Các thứ hàng mỏng, dệt
bằng tơ rất mịn, láng và đẹp. Nghĩa bóng chỉ cho sự ăn mặc, chưng diện sang
trọng. Đức Thầy cảnh tỉnh, trong “GMTK, Q.4”: “Nào
lụa là lãnh nhiễu tố sô,
Chớ ham mến mà sau lao lý”.
BỰC TỨC: Bứt rứt xốn xang vì
không thỏa mãn điều mong ước.
ƯU PHIỀN: Lo buồn sầu não.
TÂM THẦN: Xem lại chú thích tại
tr. 124 Tập 3/3.
ĐIÊU ĐỨNG:
Khốn khổ, ở trong tình trạng khó lo toan.
ĐẢO ĐIÊN: Xem lại chú thích tại tr.
228 Tập 3/3.
BIỆT LY: Do chữ “Ái biệt ly
khổ”, tức cái khổ thứ sáu trong Bát khổ. Có nghĩa những người mình đã thương
yêu, như vợ con và thân bằng quyến thuộc mà lại bị chia lìa, nên phải khổ.
ĐẦM ĐÌA: Dầm dề. Ví dụ: Dòng lệ
đầm đìa.
ĐEO ĐẮM: Mang mển, ràng buộc
khó mà rời rứt ra được.
CĂN DUYÊN: Căn
là gốc rễ, duyên là duyên do, là nguyên nhân. Đây ý nói duyên gia đình chồng vợ
(tiền khiên túc trái) đã ràng buộc với nhau do từ nhiều kiếp trước tới giờ.
TRUÂN CHUYÊN: Xem
lại chú thích tại tr.216 Tập 3/3.
LƯU LẠC: Trôi rụng. Ý nói đời
sống bị dời đổi, nay nơi nầy, mai nơi khác như nước trôi hoa rụng.
TAN HIỆP: Cũng gọi là tan hợp.
Có nghĩa: đời sống của gia đình thân tộc có lắm lần xa nhau rồi hợp lại. Đây là
định luật “bi hoan ly hiệp” của dòng đời, không mấy ai tránh khỏi. Đức
Thầy từng nói:“ Đời cùng Đạo bi hoan ly hiệp.”(Nang Thơ Cẩm Tú).
ÂN ÁI: Tình cảm thân yêu, gắn
bó giữa cha con, chồng vợ, thân tộc…
SẦU ƯU: Buồn rầu lo lắng.
TRÍ MƯU: Trí là thông minh, có
tài xét đoán, mưu là tính toán kế hoạch. Nói chung là người có học thức, sáng
láng và đủ tài mưu mẹo.
CHÁNH VĂN
339.
Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,
Hễ thương nhau
tất có ghét nhau.
Thường tranh-đua
tiếng thấp lời cao,
342.
Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán.
Muốn tránh xa
đừng trông tâm dạng,
Cứ gặp nhau mắt
tựa kim châm.
Làm cho người đau-đớn
âm-thầm,
346. Khổ như thế diễn
ra mãi mãi.
Đoạn thứ tám Ưu
Sầu lo ngại,
Cuộc tang-thương
dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một
nỗi nợ-nần,
350.
Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên-số
phận mình nhơ sạch,
Rầu gia-đình
chúng bạn khinh cười.
Giàu thì lo chen
lấn với người,
354. Miễn cho đuợc
đầy rương đầy tủ.
Của dương-thế góp
tom bảo-thủ,
Sợ gian-phi trộm
cướp rình-mò.
Lo tước-quyền cho
được thơm-tho,
358.
Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 339 đến câu 358) :
-Đến lượt thứ bảy là các nỗi khổ giữa những người oán thù, hận
ghét với nhau mà thường gặp gỡ.
Phàm người ở đời hễ có thương tất có ghét mà nguyên do là sự hơn
thua cao thấp, tranh chấp giữa nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn ai. Từ đó đôi
đàng đâm ra oán hờn thù hận, rồi dần đến chỗ ấu đả chém giết lẫn nhau.
-Một khi đã thành cừu địch thì không ai còn muốn nghe thấy tăm
hơi, hình thể nhau nữa, vì khi gặp nhau lòng rất xốn xang khó chịu, như kim
châm vào mắt. Nhưng khổ nổi càng muốn tránh xa lại càng thường gặp gỡ, nên khi
giáp mặt nhau đôi đàng đều ôm ấp nơi lòng bao sự khổ đau thù ghét. Nỗi khổ này
cứ thế mà tiếp tục diễn ra như một truyền thống của nhân loại.
-Còn cái khổ thứ tám là những nỗi khổ lo sợ buồn rầu mà trong đời
ít có người giải thoát được. Bởi cảnh hồng trần là cuộc bể dâu, nay dời mai
đổi:“Cuộc tang thương biến cải cảnh trần.”(Khuyên Người Giàu Lòng
Phước Thiện). Cảnh thiên nhiên còn phải nay lở mai bồi thì kiếp sống con người
đâu tránh khỏi sự giàu nghèo thay đổi. Ôi ! bao nỗi vui buồn lo nghĩ tràn ngập
tâm tư, bởi lòng người còn tham vọng và chưa nhận được đời là mộng ảo.
-Kẻ nghèo thì lo chạy sớm chạy chiều, tảo tần vất vả, nhưng vẫn
thiếu trước hụt sau, nào nợ nần chồng chất, đau không thuốc uống, cơm bữa đói
bữa no; nào cửa nhà xiêu dột, quần áo rách rưới lang thang. Thật là:“Nhà
nghèo dạ tợ như bào, Vợ đau con yếu phương nào cho an.”(Khuyến Thiện,
Q.5). Thêm nỗi bị người khinh chê cười nhạo, khiến lòng càng đau buồn, tủi nhục
cho kiếp số quá vô phần bạc phước.
-Đến như hạng giàu sang, cũng chẳng mấy ai được an vui thư thái,
vì khi đã dư ăn, dư để lại muốn giàu thêm cho hơn thiên hạ, nên họ chẳng dứt lo
nghĩ tính toán. Muốn sao cho ruộng đất cò bay thẳng cánh, vàng bạc của cải đầy
ấp cả nhà bất kể hành động xấu tốt, miễn bao gồm tiền của trong thế gian về cho
mình mới hả dạ:
“Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
-Chẳng thế, khi có của họ còn phải lo cho mình được tước quyền
danh vọng để ăn trên ngồi trước hơn người. Hằng đêm còn nơm nớp lo âu, vì sợ
trộm cướp đào tường phá cửa. Cũng chưa hết, họ còn phải lo tính đến số người
thiếu nợ, lời vốn ra sao, hoặc đòi cho được hoặc cốn chồng lên, để rồi ít lâu
dỡ nhà lấy đất mà trừ.
Xét như trên, từ hạng nghèo khó đến bực cao sang quyền quí đều
phải chung chịu cái khổ “ưu sầu lo ngại”.
CHÚ THÍCH :
KHỔ OAN TẮNG HỘI: Các nỗi khổ của những người đã thù ghét và chẳng ưa nhau mà lại
thường gần gũi, gặp gỡ nhau, là khổ thứ bảy trong Bát khổ. Niết Bàn Kinh có
chép:“Sao kêu là “Oan tắng hội khổ”? Ấy là cái khổ mà con người buộc
lòng phải chung cùng, gần gũi với những nhân vật và hoàn cảnh chính mình không
ưa thích”.
NHẪN NHỊN:
Xem chú thích chữ “nhẫn nhục” tại tr. 133-136 Tập 3/3.
CỪU OÁN: Thù địch căm hờn nhau.
TÂM DẠNG: Hình dáng tim hơi.
Đừng trông tâm dạng là không còn nghe thấy hình bóng, dáng dấp nữa.
ÂM THẦM: Lặng lẽ giữ kín nơi
lòng, không cho ai biết.
ÂU SẦU LO NGẠI: Những nỗi khổ về sự buồn rầu lo sợ, thứ tám trong Bát khổ. Cái
khổ nầy các Kinh cũng chép là:“Ngũ Ấm xí thạnh khổ.”(Năm ấm hiệp lại làm
thân người, nếu chẳng điều hòa, có một ấm nào lừng lẫy thì làm cho người phải
khổ).
TANG THƯƠNG DÂU BỂ: Do câu “Thương hải biến di tang điền” hoặc “Tang điền biến di
thương hải”. Có nghĩa biển xanh hóa ra ruộng dâu hay ruộng dâu hóa ra biển
xanh. Ý nói sự đời thay đổi nghèo giàu, tan hợp, vui mừng, lo sợ không chừng.
Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
“Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy”.
Đức Thầy cũng từng bảo:
“Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
Thiên địa diệt gian dĩ thiện riêng”.
(Lộ Chút Cơ Huyền)
DUYÊN SỐ: Căn duyên và số phần
của mỗi người hay nhiều người.
BẢO THỦ: Gìn giữ, giữ lấy. Một
trong mười hai nhân duyên
GIAN PHI: Kẻ gian dối, làm điều
chẳng phải: không đúng đạo nghĩa chánh đáng. Đây chỉ cho kẻ trộm cướp.
CHÁNH VĂN
359. Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
Sao
nhơn sanh cứ mãi đắm say?
Chẳng tu thân đặng dựa Phật-Đài,
362. Cho thong-thả hưởng mùi sen
báu.
Thần-Thức nhập Thai-Sen tinh hảo,
Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
Thân thì Thân Công-Đức hiền lành,
366. Bất di dịch khỏi vì khổ lão.
Thể
Thanh-Tịnh thường không huyên náo
Hết
lo toan nắng lạnh gió mưa.
Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
370. Ta thoát cuộc lao-đao vì nó.
Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,
Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.
Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
374. Thoát luân-chuyển khỏi đeo khổ tử.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 359 đến câu 374) :
-Tám điều khổ đã luận giải qua, cả chúng sanh trong thế giới Ta
bà, dù kẻ sang người hèn hay già trẻ trí ngu cũng đồng chung chịu, chớ không
một ai được thung dung thong thả. Thế mà nhân loại cứ mãi say mê đắm đuối, nên
Đức Giáo Chủ phải cất tiếng buồn thương, sao chẳng sớm lo trau thân gìn Đạo,
niệm Phật làm lành, hướng về Phật quốc để được thù hưởng vị diệu mầu của mùi
sen báu. Cho nên đối với cõi Ta Bà có tám điều khổ, cõi Cực Lạc lại có tám
điều vui:
1/-Nếu chúng sanh nào được vãng sanh về Lạc Quốc thì thần thức gá
vào thai sen tinh khiết nơi ao thất bảo. Lúc ở trong đó thần thức cũng được
hưởng sự vui đẹp trong lành:“Diệm Hồng-Liên thơ thớ quần ca.”(Cho
Ô. Tham tá Ngà). Khi đúng ngày giờ nở ra thân Liên hoa trang nghiêm, đẹp đẽ.
Không như cõi Ta Bà phải ở trong bào thai ô uế và khi sanh cả mẹ lẫn con đau
đớn vô ngần, nên ở cõi Cực Lạc chẳng hề có các nỗi khổ về sự sanh.
2/-Sở dĩ có được cái thân trong sạch, đủ 32 tướng hảo, bởi hương
nhụy của sen báu cấu thành là do thời gian chí tâm niệm Phật và tu tập công
đức. Cho nên thân liên hoa được trẻ đẹp luôn luôn, không hề bị biến hoại hay
già yếu. Vì vậy mà cõi Cực lạc chẳng hề có các nỗi khổ về sự già nua lờ
lệch.
3/-Ở cõi Cực lạc thân tâm luôn được thanh tịnh an nhiên, lại thời
tiết rất điều hòa trong mát, nên không còn lo sợ bị mưa nắng bất hòa, nhiễu
loạn thân xác. Do đó người ở cõi ấy không còn bị những nỗi khổ về bệnh tật.
4/-Đã không già yếu, bệnh tật nên người ở cõi Cực lạc được sống vô
lượng số tuổi, đồng hưởng thọ trường tồn bất diệt ngang hang với chư Bồ Tát và
Đức Phật Di Đà, chẳng còn luân hồi sanh tử, nên không hề có các nỗi khổ về
sự chết.
CHÚ THÍCH :
TU THÂN: Xem chú thích tại tr.
146 Tập 2/3.
PHẬT ĐÀI: Đài
Phật ngự. Đây có nghĩa nơi Phật ngự, cõi Phật, cũng có ý chỉ cõi Cực lạc.
Đức Thầy từng nói:“Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật đài.”(Bài
Nguyện Trước Bàn Thờ Ông Bà), khác nghĩa với câu:“Phật đài phưởng
phất mùi hương.”(Khuyến Thiện, Q.5).
THẦN THỨC: Cái
tâm thức linh diệu của giống hữu tình, cũng gọi là thần hồn hay linh
hồn, nhưng theo kinh Phật còn gọi là Hữu hay Ấm, chia ta bốn thời gian:
1-Hiện ấm (bản hữu) là chỉ cho lúc thân còn sống hiện tại.
2-Tử ấm (tử hữu) là khi thân tiêu hoại.
3-Trung ấm (trung hữu) là sau khi chết mà chưa đi đầu thai.
4-Sanh ấm (sanh hữu) là sau khi chuyển thế đầu thai rồi.
Do cái sanh rồi tới các ấm…bốn ấm cứ tiếp nối xoay vần không
khi nào dứt. Sanh ấm và tử ấm thì thời gian của nó rất ngắn ngủi. Hiện
ấm thì tùy theo thọ mạng của loài sống hoặc dài hoặc ngắn, còn thọ mạng của
trung ấm ngắn là 7 ngày, dài là 49 ngày. Cái Thần Thức nói đây là
cái Thân trung ấm.
THAI SEN: Bào thai bằng hoa sen,
căn cứ theo Kinh Di Đà, người tu theo Pháp môn Tịnh độ (niệm Phật làm lành);
khi lâm chung thần thức vãng sanh về cõi Cực lạc được gá vào hoa sen nơi ao
thất bảo. Tùy theo công đức tu tập của hành giả đó mà hoặc lâu, hoặc mau được
nở ra thân liên hoa, nên gọi là thai sen.
Ông Sư Vãi Bán Khoai đã xác minh:
“Niệm Phật sen nở đợi chờ,
Cây nào bông nấy bốn mùa tốt tươi”.
Đức Thầy cũng nói:
“Tây phương đua nở hoa liên,
Chờ người hữu phước thiện duyên từ hoà”.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp
Nơi)
Hoặc: “Ao sen báu Tây phương đua nở,
Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.”(Kh.Thiện, Q.5)
TINH HẢO: Tốt đẹp, trong sạch,
chẳng chút trần cấu bụi nhơ.
CÔNG ĐỨC: Xem chú thích tại tr.
217 Tập 3/3.
DI DỊCH: Dời đổi. Có ý nói thân
người ở cõi Cực lạc chẳng hề bị thay đổi từ trạng thái trẻ ra già.
THANH TỊNH: Xem
lại chú thích tại tr.181 Tập 3/3.
HUYÊN NÁO: Ồn
ào, náo động, bận rộn không yên tịnh. Ví dụ: Ở gần chợ huyên náo suốt ngày.
LAO ĐAO: Xem chú thích tại tr.
164 Tập 2/3.
SANH MẠNG:
Mạng sống, kiếp sống.
ĐỒNG THỌ: Cùng sống lâu như
nhau, không hề chết mất hay chênh lệch số tuổi.
AN NHIÊN: Yên ổn tự nhiên, lúc
nào cũng như vậy, không có sự sanh tử.
BẤT DIỆT: Chẳng chết mất, chẳng
hư hoại.
TRƯỜNG TỒN: Còn
lâu dài mãi mãi.
LUÂN CHUYỂN: Xem
chú thích tại tr. 62 Tập 2/3.
CHÁNH VĂN
375. Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
Không nhọc-nhằn
lo việc sanh-nhai.
Trí yên nhàn nhìn
cảnh Phật-Đài,
378. Khỏi quả khổ mưu-cầu-bất-đắc.
Cả Hải-Chúng thảy
đều vững-chắc,
Toàn dân lành đâu
có đắn-đo.
Dứt ái-ân
quyến-thuộc chuyện-trò,
382. Thoát sống khổ thương-yêu-ly-biệt.
Chữ Hoà-Thuận kể
sao cho xiết,
Tâm đồng nhau
thượng-thiện vui-vầy.
Cảnh như như
chẳng có đổi thay,
386. Không màng biết phân chia nhơn-ngã.
Sẵn vị ngôi rành
phân thượng hạ,
Khỏi khổ câu
oán-ghét-gặp-nhau.
Thân tâm
thường-trụ hết rạt-rào,
Chất thô-trược
tiêu tan mất cả.
Cõi Tịnh-độ lắm
điều thanh-nhã,
392. Khổ buồn-rầu-lo-sợ chẳng
còn.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 375 đến câu 392) :
Lược giải nối tiếp đoạn trên ( 8 điều vui ở Cõi Cực Lạc ) :
5/-Ở cõi Cực lạc từ y phục, thức ăn uống đến lâu đài cung điện và
mọi tiện nghi khác đều tùy ý mà hóa hiện đầy đủ, cho nên người sanh về đây,
không còn phải cực lòng làm ăn sanh sống, chỉ còn nghe thuyết giảng pháp mầu và
tu tập công đức thêm. Tâm trí lúc nào cũng an nhiên, thần thông tự tại mà nhìn
cảnh quí báu của mười phương chư Phật, hầu có thân hành đến cúng dường. Do đó
người ở cõi Cực lạc không còn các nỗi khổ mưu tính mà chẳng thành.
6/-Tuy người vãng sanh về cõi Cực lạc đông như biển cả (hải
chúng), không thể nào chép kể cho hết, nhưng tất cả đều có một tâm hồn giải
thoát như nhau, chẳng còn một mảy nhiễm ô, ân ái, nên không có sự ràng buộc về
gia đình thân tộc. Hơn nữa, thân người có ra bởi sen báu tạo thành và cả thảy
đều trường tồn bất diệt, nên chẳng hề có các nỗi khổ về sanh ly tử biệt.
7/-Vả lại, người sanh về cõi Cực lạc đều là hạng thượng thiện (trọn
lành trọn sáng), lại thêm mọi vật đều hóa sanh, nên giữa người với người không
có sự phân biệt nhân ngã, cùng nhau hòa thuận vui vầy. Có khác nhau chăng là do
công đức riêng của mỗi người mà có ngôi vị thấp cao. Bực công đức sâu dầy, trí
huệ thuần thục, chứng quả Phật, Bồ Tát, kẻ kém hơn thì chứng thành Hiền Thánh.
Mặc dù quả vị có khác, nhưng đồng là bậc thượng thiện nên đã dứt tâm phân biệt
nhơn ngã, vì vậy mà không có cái khổ oán ghét gặp nhau.
8/-Đến cái khổ Buồn rầu lo sợ do năm ấm lừng lẫy tạo nên, người
sanh về cõi Cực lạc không hề có, là vì ở cõi ấy y báo và chánh báo thảy đều một
màu thanh tịnh. Các cảnh vật (y báo) như đất đai lầu các, ao cây đều bằng bảy
báu rất trang nghiêm đẹp đẽ; đến như nước chảy, lá rụng, chim hót cũng toàn là
những pháp nhiệm mầu vi diệu để trợ trưởng ý chí tiến tu của mọi người (Chánh
báo) cũng không náo loạn, luôn được an định (thường trụ) trong cảnh giới
siêu nhiên tự tại.
CHÚ THÍCH :
Y THỰC: Các thức ăn và những y
phục để mặc.
SANH NHAI: Làm
ăn để nuôi thân sống. Ví dụ: Nghề sanh nhai, kế sanh nhai:“Bán buôn canh cửi
hay thay, Sanh nhai phải giữ trong tay một nghề.”(Ca dao).
HẢI CHÚNG:
Người ta cu hội rất đông xem như biển cả. Ý nói số người ở cõi Cực lạc quá
nhiều, không cách nào để đếm cho hết, nhưng chỉ có một lòng từ bi, bình đẳng và
giải thoát, nên gọi là hải chúng.
Trong Tăng Nhứt A Hàm Kinh có giải:“Chúng Tăng như biển cả kia,
các nước sông nước rạch chảy vào biển thì tên sông tên rạch đều mất hết, chỉ
còn có một tên biển cả mà thôi”.
ĐẮN ĐO: Áy náy, sợ sệt lo âu.
Cũng có nghĩa là cân nhắc phân biệt lợi hại.
HÒA THUẬN:
Cũng gọi là thuận hòa. Có nghĩa: thuận thảo và hòa hợp với nhau, không hề chinh
mích.
THƯỢNG THIỆN: Bậc
đã trọn lành, trọn sáng, bên trong có trí đức, bên ngoài gồm đủ thắng hạnh. Ví
dụ: Bậc Thượng thiện tri thức.
NHƯ NHƯ: Lý thể của pháp tánh.
Thể bình đẳng, chẳng hai và các pháp vẫn đồng nhau, gọi là Như Như. Lại nữa,
vạn pháp chẳng phải không và cũng chẳng phải có, tức là Như Như.
Chính Như Như là Trung Đạo, tướng của đệ nhất nghĩa, của Niết Bàn.
Vô Lượng Thọ Kinh nói:“Các hàng Bồ Tát sanh qua cõi Tịnh Độ của Đức Phật A
Di Đà, hiểu rằng các pháp đều Như Như”.
Và trong Trung Luận cũng chép:“Chẳng sanh, cũng chẳng diệt,
chẳng thường cũng chẳng đoạn, chẳng một cũng chẳng khác, chẳng lại cũng chẳng
đi”. Những tướng những pháp như vậy tức là Như Như, Phật, Như Lai.
Chữ cảnh Như Như ở đây là nói cảnh trước sau như một, không dời
đổi.
NHƠN NGÃ: Cũng
viết Nhân ngã. Nhân là người; ngã là ta, tức là tánh phân biệt người, ta và của
người của ta trong chỗ hơn thua tốt xấu. Ấy là do sự chấp trước sai lầm cho
thân nầy là cái ta thật thể, nên sanh tâm phân biệt như vậy. Nhơn đó các vọng
kiến một ngày một tăng trưởng xô đẩy con người chạy theo mê lầm huyễn hoặc.
Nhơn ngã là hai trong tứ tướng* và cũng hai trong ngũ uẩn.(*Tứ tướng:
Tướng nhơn, Tướng ngã, Tướng chúng sanh, Tướng thọ giả.)
Đức Lục Tổ đã bảo:
“Vô ngã, vô nhân, vô khả đắc,
Nhựt quang phản chiếu rạng ngàn thu”.
Đức Thầy nay cũng dạy:
“Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
Nhân ngã sân si cũng dẹp đành”.
(Tặng Ô. Giáo Đàng)
THƯỜNG TRỤ: Trạng
thái hằng còn, không sanh diệt biến đổi.
RẠT RÀO: Lừng lẫy, bực dọc, làm
cho tâm trí bứt rứt không yên.
THÔ TRƯỢC: Thô
là ô dề kịch cộm; Trược là vẩn đục không sạch. Chất thô trược là những chất nhơ
bẩn xấu xa, như những hình thể nặng nề, máu thịt, đồ ăn, thức mặc và những đồ
sanh ra cặn bã hôi thúi.
THANH NHÃ:
Trong sạch và tao nhã vui đẹp.
CHÁNH VĂN:
393. Chốn Ta-bà tim lụn dầu
mòn,
Thân tứ-đại của
người cũng thế.
Mau thức-tỉnh
tu-thân kẻo trễ,
396. Đến tội rồi mới hối muộn-màng.
Chi cho
bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới-luật
nghe Kinh trọng Phật.
Đến lâm-chung quả
lành đâu mất,
400. Cõi Tây-Phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu
thân thiện-tín hẫng-hờ,
Chừng họa
đến e cho khó tránh.
Môn Tịnh-độ
là phương cứu-cánh,
404. Rán phụng-hành kẻo phụ
Phật xưa.
Lòng từ-bi
chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền
giác rước đưa sanh-chúng.
Trong một nước nhân
tài hữu dụng,
408. Kẻ tu hành đa phước thì
nên.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 393 đến câu 408) :
-Căn cứ vào định luật “Thành, Trụ, Hoại, Không” thì thế
giới chúng ta đang ở sớm muộn gì cũng tan rã, bởi nó là hữu hình tất không
tránh khỏi ngày hoại diệt. Chính nay đã đúng kỳ:“Bầu trái đất một phen
luân chuyển.”(Nang Thơ Cẩm Tú). Cho nên Đức Giáo Chủ ví trái đất
nầy như cây đèn sắp hết dầu, chẳng biết bị tắt giờ nào.
-Vậy mỗi người hãy xét lại thân xác của mình, đã do bốn chất: Đất,
Nước, Lửa, Gió hiệp thành thì rồi đây nó phải tan rã. Sự tan rã ấy rất mau lẹ
như hạt sương buổi sáng. Ta thử đọc lời nhận xét của Thiền Sư Vạn Hạnh:
“Thân như điển ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc Xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy,
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô”.
(Thân như bóng chớp chiều tà,
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rồi.
Sá chi suy thạnh việc đời,
Thạnh suy như hạt sương rơi
đầu cành).
Do đó, Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp nhơn sanh, sớm tỉnh giấc mê lầm,
lo tu sửa thân tâm cho kịp thời giải thoát. Bằng cứ mãi chần chờ, khi số vô
thường chực đến dầu có ăn năn cũng chẳng kịp “Nếu để chờ sấm nổ vang
thinh, E bá tánh ăn năn đã muộn.”(Diệu Pháp Quang Minh).
-Thế là ngay bây giờ chúng ta hãy gấp rút liệu toan, qui đầu Phật
pháp, niệm Phật làm lành và nghiêm trì giới luật. Được thế, ngày lâm chung sẽ
vãng sanh qua cõi Phật, tạo thân liên hoa bất diệt trường tồn mà toại hưởng
ngôi vị toàn thiện toàn minh. Và vì cõi Tây Phương Cực lạc hiện giờ Đức A Di Đà
cùng chư Bồ Tát đang chờ đón chúng ta:“ Ở Tây Phương chư Phật ngóng
trông, Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật.”(Kệ Dân, Q.2).
-Nếu ai cứ mãi nghi nan, lần lựa và thờ ơ trong việc tu thân hành
thiện, lo chạy theo: danh, lợi, tình…rồi gây tạo các nghiệp mê tội lỗi, để khi
tai họa đưa đến, ắt khó vượt qua cho khỏi. Đành vậy, nhưng Đức Thầy chẳng nở
ngồi yên nhìn chúng sanh chịu khổ, nên Ngài xiển dương Pháp môn Tịnh độ, một
Pháp môn rất dễ tu và dễ chứng đắc; chỉ có chí tâm niệm Phật làm lành mà được
giải thoát rốt ráo.
Xưa Đức Phật đã dạy:“Trong biển sanh tử, chỉ có pháp môn niệm
Phật là hơn hết. Người tu theo pháp môn nầy, như gặp phương thuốc hay trị bịnh,
giản dị mà cốt yếu, thẳng băng một loạt, chỉ chuyên một niệm Phật mà tới bờ bên
kia (giải thoát). Chẳng luận xuất gia hay tại gia, ai nấy đều có thể phụng
hành.”(Trích trong Khế Kinh) .
Do đó, Đức Thầy khuyên khắp tín đồ nên kính vâng và trì hành môn
Tịnh Độ, chẳng những được cứu cánh mà cũng khỏi phụ lời di chúc của Đức Phật
thuở xưa.
-Bởi lòng quá thương xót vạn loại chúng, Đức Giáo Chủ chẳng ngại
cảnh trần đầy nắng sương mưa gió: “Dạy đời nào quản nắng mưa, Ước mong bá
tánh sớm ưa tu hành.”(Dặn Dò Bổn Đạo) nên Ngài cương quyết lái con
thuyền Đại Đạo để tiếp độ chúng sanh còn lặn ngụp giữa bể đời thống khổ, hầu
đưa họ tiến sang bờ giác.
Vả lại, từ xưa đến nay những kẻ có đủ tài trí luôn được đời trọng
dụng. Cũng như trên bước đường đạo, hễ ai tu hành được nhiều phước đức thì
chứng quả thành công, đó là chuyện hiển nhiên không thể khác được.
CHÚ THÍCH :
TA BÀ: Xem chú thích tại tr.
62 Tập 2/3..
THÂN TỨ ĐẠI:
Thân là mình, xác thể con người, (Phạn ngữ: Kâya). Tứ đại (Phạn ngữ:
Mahabhutas), có nghĩa bốn thể chất lớn trong thế gian, tức là Đất, Nước, Lửa,
Gió. Bốn món ấy tạm hiệp lại làm thân con người và vạn vật, nên gọi là thân tứ
đại. Bởi trong xác thể của mỗi chúng sanh những cái gì thuộc chất đặc, như:
xương thịt thì thuộc về đất, chất lỏng thuộc về nước, hơi ấm thuộc về lửa, hơi
thở thuộc về gió, nên khi chết thân xác rã ra và trả về với bốn chất ấy (tứ
đại). Do đó, thân tứ đại cũng gọi là thân giả tạm không thật thể lâu bền.
Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Phật dạy:“Nên nhớ rằng: thân ta
do bốn chất lớn cấu thành, chất nào cũng có tên riêng, không có chất nào là
chân ngã cả. Cái chân ngã đã không có thì xác thân ta chỉ là trò giả dối đấy
thôi !” Đức Thầy nay cũng bảo:“…Còn cái thân con người của ta đã do tứ
đại (đất nước lửa gió) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày
tan rã.”(Sơ Giải Tứ Diệu Đề).
THỨC TỈNH:
Thức là trái với ngủ; tỉnh là trái với mê. Đây là trạng thái của người giác
ngộ, hết mê mờ, nghi hoặc (lầm lạc).
GIỚI LUẬT:Xem
chú thích chữ “giới cấm”tại tr. 164 Tập 3/3.
THIỆN TÍN: Xem
chú thích chữ “Tin Nữ và Thiện Nam”, tr. 61 tập 1/3.
HẪNG HỜ: Thờ ơ không để ý hay
tưởng nhớ đến.
CỨU CÁNH: Xem
chú thích tại tr. 79 Tập 3/3.
CHẰNG QUẢN:
Không ngại gì, không nệ chi.
Đức Thầy từng nói:
“Thế sự bao la Ta chẳng quản,
Tiên cảnh non bồng sẵn vị ngôi”.
(Để Chơn Đất Bắc)
THUYỀN GIÁC: Xem
chú thích tại tr. 199 Tập 3/3.
NHÂN TÀI:
Người có năng lực giỏi, gồm đủ văn võ, mưu lược và các đức: Nhân, trí, dũng. Ví
dụ: nhân tài có thể an bang tế thế.
ĐA PHƯỚC: Nhiều phước đức, tức chỉ những người đã có lòng
nhân hay thương người mến vật và tận tâm giúp đỡ điều ích lợi.
Đăng nhận xét