Tôn Chỉ Hành Đạo (Quyển 6)
CHÁNH VĂN : ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
CHÚ GIẢI : THIỆN TÂM
LƯU HÀNH NỘI BỘ
CHÚ GIẢI QUYỂN SÁU CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ĐẠO
(Cũng có tên là “TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO”)
CÁCH THỜ PHƯỢNG, HÀNH LỄ VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT TÍN ĐỒ PGHH
Như đã biết, vừa qua là Phần Một của QUYỂN SÁU mà từ trước
trong Đạo đã ấn định là môn học “GIÁO LÝ CĂN BẢN”. Còn tiếp đây là Phần Hai của
QUYỂN SÁU, thuộc về môn học “NGHI THỨC THỜ CÚNG và GIỚI LUẬT”. Trong đây gồm có
13 đề mục:
1. Thờ phượng
2. Hành lễ
3. Tang lễ
4. Cách cầu nguyện cho người chết
5. Hôn nhơn
6. Những diều phải tránh hoặc được châm chế hoặc
nên làm
7. Họat động hàng ngày: -Thể dục – Ăn ở – Làm ăn
8. Điều kiện vào Đạo
Nội dung có nhiều tiết mục mà người đã vào Đạo, hoặc ai muốn qui y
vào Đạo cũng phải học hỏi nghiên cứu chính xác để thi hành theo. Đức Thầy luôn
giác tỉnh:
“Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta”.
Hay là:
“Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý,
1.- CÁCH THỜ PHƯỢNG
(SGTVTB 2004, tr. 201-202)
CHÁNH VĂN
Từ truớc đến nay, các
chùa chiền đã tạo quá nhiều hình-tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ-Bi mới
làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi-dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta
không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của
các chùa-chiền. Cách thờ-phượng ấy tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta cũng
có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên
thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm-hồn hơn ở vào sự hào nháng bề
ngoài. Từ trước, chúng ta thờ trần điều là di-tích của Đức PHẬT THẦY TÂY-AN để
lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng
ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức PHẬT, nên toàn thể trong Đạo đổi lại
màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát
tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể
tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng tộc và cá-nhân.
Vì vậy, chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần
vô-thượng của nhà Phật.
Nếu trong nhà chật, nội
bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ
trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài. Còn người nào có cốt PHẬT trong
nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi.
Kẻ nào phải ở chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo
với mình hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng
kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.
Về cách cúng PHẬT, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi.
Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết,
còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra, chẳng nên cúng một món gì khác
cả. Bàn thờ Ông Bà cúng món chi cũng đặng.
Ngoài sự thờ PHẬT, tổ
tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh-hùng của đất nước, không nên thờ vị tà
thần nào khác mà mình không rõ căn-tích.
LƯỢC GIẢI :
A. CÁC NGÔI THỜ CÚNG :
Theo nghi thức thờ phượng của PGHH thì trong gia đình của mỗi tín
đồ đều có ba ngôi thờ cúng.
1- BÀN THỜ PHẬT, cũng gọi là Ngôi Tam Bảo, thờ ở giữa nhà, cao hơn
bàn Cửu Huyền Thất Tổ. Theo Đức Thầy cho biết: các chùa trong Đạo Phật từ trước
tới giờ, người ta trang trí quá nhiều hình tượng. Tuy vì sự tôn kính Phật,
Pháp, Tăng, song cũng có người lợi dụng nơi ấy để sanh sống. Bây giờ chúng ta
không nên thờ hình tướng như vậy nữa, đây không có ý hủy báng sự thờ phượng của
các chùa, đó là tùy theo điều kiện của các Tăng Sư, chúng ta cũng có thể sùng
ngưỡng.
Riêng về cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không nên thờ theo
hình thức đó, mà nên thờ đơn giản lại, để cho lòng tín ngưỡng xoay về tâm hơn
là sắc tướng bên ngoài.
Lúc Đức Giáo Chủ PGHH mới khai Đạo (1939), Ngài dạy tín đồ trang
trí ngôi Tam Bảo bằng một bức trần điều (màu đỏ), là vì noi theo truyền
thống của Đức Phật Thầy Tây An. Đến tháng 2 năm Canh Thìn (1940) có người tự
xưng cùng một Tông phái, cũng thờ trần điều như vậy, nhưng họ làm sai
tôn chỉ của Đức Phật, nên Đức Thầy cho toàn thể trong Đạo đổi lại bức trần
màu dà. Ngài cũng cho biết ý nghĩa:
Từ trước tới giờ các nhà tu hay dùng màu dà để biểu hiện cho sự
thoát tục, bởi màu dà do sự kết hợp với các màu khác mà thành, nên dùng nó cũng
để tượng trưng cho sự hòa hợp, bình đẳng nhân loại…Chính bức trần dà ấy cũng
tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật. Là một tín đồ PGHH, chúng ta
không nên thờ phượng cách nào khác.
2- BÀN THÔNG THIÊN: Bàn này dựng trước sân nhà, hoặc dựa mái nhà
cũng được. Theo ý Đức Thầy, nếu trong nhà chật hẹp, chỉ một bàn Thông Thiên cũng
được.
-Cốt Phật đã có từ trước, để y cũng đặng hoặc hiến vào chùa hay
cho người Tông phái khác thỉnh. Còn hình tượng bằng giấy nên đốt đi, không nên
chừa lại. (Có người hỏi sao tượng bằng giấy thì đốt, còn chơn dung Đức Thầy còn
để lại ? – Xin trả lời: Để chơn dung Đức Thầy là kỷ niệm, chớ không phải
thờ như tượng Phật. Như đã thấy chỉ để ở hai bên, chớ chẳng để trong ngôi
Tam Bảo.)
-Trường hợp ở đậu với người không cùng một Đạo, tới thời cúng chỉ
niệm thầm đủ các bài nguyện trong tâm cũng được.
3- BÀN THỜ CỬU HUYỀN THẤT TỔ:
Bàn nầy đặt ngay giữa nhà, thấp hơn ngôi Tam Bảo, hoặc dưới ngôi
Tam Bảo, nhà nhỏ thì làm nhị cấp.
CÁC VẬT DÂNG CÚNG: Phật Trời không hề dùng vật thực thế gian, chỉ
chứng tấm lòng thành mà thôi:
“Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.
Chẳng có cần trà, quả, hương nồng,
Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ”.
Cho nên Đức Giáo Chủ dạy: bàn Phật và bàn Thông Thiên chỉ được
cúng 3 món tiêu biểu mà thôi:
1-“Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch”
2-“Bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết.
3-“Còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược”.
Ngoài ra, không nên cúng một món gì khác cả.
Còn bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ cúng món chi cũng đặng (có chi cúng
nấy).
NÊN THỜ HOẶC KHÔNG NÊN THỜ NHỮNG AI ? – Người tín đồ PGHH chỉ nên
thờ:“Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước,
không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích”.
B.- Ý NGHĨA BA NGÔI THỜ CÚNG :
Theo truyền thống Quốc dân Việt Nam chúng ta đều sùng ngưỡng Tam
Giáo “Phật, Thánh, Tiên”. Vào thời nước nhà tự chủ qua các triểu đại: Đinh, Lê,
Lý, Trần, đều có mở những cuộc thi tổng hợp tam giáo, để tuyển chọn các bậc hiền
tài, ra giúp nước vùa dân.
Do truyền thống đó, PGHH đã hình thành trong lòng dân tộc và cũng
mang màu sắc dân tộc. Tất nhiên là lời giáo huấn của Đức Giáo Chủ cũng dung
thông cả Tam giáo để khế hợp với tinh thần dân tộc. Như Ngài đã cho biết.
“Trong Tam Giáo ân cần mở đạo,
Trường ngoại bang phục đáo như xưa”.
Và những câu:
“Phật, Thánh, Tiên Đông Độ lướt sang,
Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.
Hoặc là:
“Phật, Tiên, Thánh lòng nhơn hà hải,
Những ước ao thế giới hòa bình”.
Vì thế, trong nghi thức thờ cúng, Đức Thầy dạy: nơi tư gia của mỗi
tín đồ có 3 ngôi thờ cúng là tượng trưng cho tam giáo: Phật, Thánh, Tiên.
Vào năm 1968, Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương có họp bàn việc tu
học và soạn thảo chương trình “Đạo Pháp Khai Tâm”. Trong đó, có bài “Ý nghĩa ba
chỗ thờ cúng”. Nay chúng tôi cũng căn cứ vào đó mà lược giải ra đây:
1- BÀN THỜ PHẬT: Cũng gọi là “Ngôi Tam Bảo”. Nơi đây tôn
thờ vị Giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta Bà (Phật Tổ) và mười phương chư Phật,
Pháp, Tăng, cùng Phật Thầy…Nên bàn thờ nầy có ý nghĩa tượng trưng cho Phật
Đạo.
2- BÀN THÔNG THIÊN: Có ý nghĩa: bàn thờ thông lên Trời. Vì
trong câu nguyện thứ nhứt có 3 vị: Thiên hoàng (vua các cõi Trời), Địa hoàng
(vua các cõi địa ngục), Nhơn hoàng (vua các cõi người). Cũng gọi là vị Chuyển
Luân ThánhVương của cõi đời Thượng ngươn Thánh Đức tới đây:“Phật Tiên
Thánh an bang cùng định quốc” và “Tam Hoàng trở lại
là đời Thượng ngươn”.( ĐT). Nói chung các vị ấy đều là các bậc: Phật
Thánh Tiên.
Lúc Đức Thầy mới khai Đạo (1939), Đức Ông (thân sinh của Ngài)
thấy Ngài sửa lại cái bàn Thông Thiên mà Đức Ông đã thờ từ trước có 2 cấp. Đức
Thầy dẹp bỏ cấp dưới và 2 ly gạo muối, chỉ chừa lại 1 cấp, 1 lư hương, 1 chung
bông và 3 chung nước.
Đức Ông liền hỏi:
-Theo truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương thì thờ Bàn Thông Thiên 2 cấp:
Hoàng Thiên và Hậu Thổ, nay Thầy Tư bỏ hết 1 cấp làm sao đủ ?
Đức Thầy vui vẻ hỏi lại:
-Ông Cả nói thờ cấp trên là Hoàng Thiên, tức Thiên Hoàng, cấp dưới
là Hậu Thổ, tức Địa Hoàng, còn Nhơn Hoàng thờ ở đâu ? Đoạn Ngài nói tiếp:
-Thờ thống nhứt lại một cấp là đủ hết 3 vị, còn thờ 2 cấp lại bị
thiếu !
Vả lại, các danh từ: Trời, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, non
Bồng nước Nhược, non Tiên, Tiên bang…mà Đức Thầy có dùng trong Sấm thi của Ngài
đều chỉ cho cảnh Tiên, người Tiên:
“Kể từ Tiên cảnh Ta về,
Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm”.( ĐT)
Xét qua lời chỉ giáo của Đức Thầy và các lý lẽ vừa luận trên,
chúng ta có thể hiểu chung một ý nghĩa: Bàn Thông Thiên là Bàn thờ thông lên
trời, cũng gọi là bàn thờ Cộng đồng Tam Giáo, dùng để tưởng niệm bốn phương
Trời Phật. Nó hàm chứa tinh thần tín ngưỡng Phật Trời muôn thuở, của người dân
Việt Nam chúng ta “Thiên tại ốc thiềm đầu”, ra khỏi mái nhà thân mật,
người lương dân đã tưởng nhớ Phật Trời. Đức Thầy dạy rành mạch:
“Đi xa thì phải dặn rành,
Bàn Thông Thiên cũng thiệt hành như y.
Bốn phương đều đọc vậy thì,
Cúi đầu bái tạ từ bi Phật Trời”.
Hoặc là:
“Cầu Trời Phật độ tiêu tai,
Cứu trong thiên hạ Đạo khai khắp trời”.
(Những chữ “…bái tạ từ bi Phật Trời” và “Cầu
Trời Phật độ…”, thấy rõ Đức Thầy dạy cầu nguyện nơi Bàn Thông Thiên,
chẳng phải Phật không mà luôn cả Trời (Tiên).
Tóm lại, qua các lý do kể trên, chúng ta có một nhận định chung là
bàn Thông Thiên có ý nghĩa tượng trưng cho Tiên Đạo.
3- BÀN THỜ ÔNG BÀ hay CỬU HUYỀN THẤT TỔ, tượng trưng cho
Thánh Đạo. Bàn thờ nầy do truyền thống của Tổ Tiên ta từ thời Hùng Vương lập
quốc tới giờ. Trong đây là tôn thờ Tổ Quốc và Ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp.
Theo Tôn chỉ của PGHH thì hai điều TRUNG và HIẾU là then chốt:
“Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp,
Quân thần nghĩa trọng hữu thiên niên”.( ĐT)
Hoặc là:
“Hiếu trung lòng chớ vội quên,
Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên đài”.( ĐT)
Là một nền Đạo xuất phát trong lòng dân tộc, người tín đồ PGHH với
tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” không thể thiếu bàn thờ ông bà được. Cho nên bàn thờ
“Cửu Huyền Thất Tổ” (ông bà) có ý nghĩa tượng trưng cho Thánh Đạo.
CHÚ THÍCH :
THỜ PHƯỢNG: Cũng
gọi là phượng thờ hay phụng thờ. Có nghĩa thờ kính và vâng chịu làm theo. Đức
Thầy bảo:
“Hiếu trung truyện tích sờ sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha”.
LỢI DỤNG: Thừa
cơ hội mưu lợi cho mình mà có hại cho người khác.
HỦY BÁNG: Phỉ báng, gièm pha nói
xấu người ta.
ĐƠN GIẢN: Đơn sơ, giản dị, không
rườm rà phiền phức.
TRẦN ĐIỀU: Bức
trần đỏ, tức tấm tranh màu đỏ, tượng trưng cho sự tốt đẹp. Khi xưa Đức Phật
Thầy Tây An khai sáng Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài dạy mỗi tín đồ thờ trên
ngôi Tam Bảo một bức trần điều (đỏ) chớ không thờ tượng cốt chi hết, để
tượng trưng cho tinh thần vô vi và tình thương yêu nhân loại muôn thuở của dân
tộc ta, qua câu Ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Thời nay lúc mới khai Đạo, Đức Thầy cũng theo di tích nói trên.
Ngài dạy nơi nhà của mỗi tín đồ:
“Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần Đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình”.
(Nhưng đến tháng 2 năm
1940 thì đổi sang Trần Dà như đã nói trên).
TÔNG PHÁI: Cũng
gọi là Tôn phái, có nghĩa một chi nhánh của Đạo Phật, như: Tịnh Độ Tông, Thiền
Tông, Mật Tông,v.v…
MÀU DÀ: Sắc hơi nâu nâu. Hồi
trước từ tấm vải trắng, người ta lấy vỏ cây dà nấu ra nước rồi nhuộm lại thành
màu dà. Sau nầy người ta dùng các màu: đỏ, trắng, đen…hòa hợp lại thành màu dà
tươi đẹp.
Xưa, lúc Thái Tử Sĩ Đạt Ta mới đi tu, Ngài đem bộ nhung phục, đổi
lấy bộ đồ dà của anh thợ săn mặc vào, để không còn vướng bận chút mùi cao sang
vương giả nào trong người nữa. Bởi thế, từ đó đến giờ các nhà tu thường dùng
màu dà, để biểu hiện cho sự thoát tục của mình. Đức Thầy từng nói:
“Từ mang một tấm áo dà,
Mùi thiền đã thấm ơn nhà lợt phai”.
Thế nên dùng màu dà là vừa biểu hiện cho sự siêu thoát và cũng vừa
tượng trưng cho sự hòa hiệp, thương yêu, đoàn kết và bình đẳng cả nhân loại
không phân biệt chủng tộc hay cá nhân:
“Dứt trần mang bộ sồng nâu,
Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm”.( ĐT)
Cho nên Đức Thầy dạy tín đồ dùng màu dà trong chỗ thờ phượng là để
tiêu biểu cho tinh thần từ bi, bình đẳng và vô thượng của nhà Phật.
BIỂU HIỆN:
Hiện ra, bày ra rõ rệt.
THOÁT TỤC:
Thoát khỏi vòng trần tục, không bị các vật dục: danh, lợi, tình chi phối hay
ràng buộc.
TIÊU BIỂU: Cây
nêu hoặc tấm bảng nêu lên cho người ta trông vào mà thấy được tinh thần bên
trong.
TINH KHIẾT:
Trong sạch cao cả, không chút bợn nhơ, tà quấy. Đức Thầy nói:
“Mài gươm trí cho tinh cho khiết”.
UẾ TRƯỢC: Dơ bẩn, hôi thúi.
ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa; Hùng
là vua các loài thú. Chỉ bực hào kiệt, tài giỏi xuất chúng.
TÀ THẦN: Các vị thần không chơn
chánh hay phá phách dân chúng, đặng ăn đồ cúng tế.
CĂN TÍCH: Gốc
tích rõ ràng, có lịch sử chính xác.
2.- HÀNH LỄ
(SGTVTB 2004, tr. 202-203)
CHÁNH VĂN
Chỉ thờ lạy Đức Phật,
tổ-tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu-quốc. Với những kẻ
khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá
thôi.
Tất cả các hành-động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều
gì phải tính-toán một cách cẩn-thận, đừng làm chuyện ngông-cuồng vô-ý-thức. Một
đừng ỷ-lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ-lại vào sự cứu-vớt của Thần Thánh, ba đừng
ỷ-lại vào sự binh-vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu
Nhơn-Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn
thiện vậy. Kẻ nào hành-động ngông-cuồng không suy-xét cẩn-thận để đến đổi thất
bại đem đến sự khó- khăn, khổ-não rồi trách-cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy
sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm-lạc ấy rất đáng
thương hại.
Mỗi người hãy nên lấy trí thông-minh nhận xét Đạo-lý hay lời nói
của Thầy mình, chớ đừng lấy đức-tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình
chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tấn-hóa trên con đường Đạo-đức.
Những điều sơ-lược giải-thích trên đây, mong rằng toàn-thể trong
Đạo suy-gẫm kỹ-càng và thực-hiện để bài-trừ sự mê-tín ngông-cuồng của thiểu số
người trong Đạo, làm cho tư-tưởng thiện-hòa của Phật-đạo được phát-triển mau
chóng.
LƯỢC GIẢI :
Hành lễ, tức là sự lễ bái (lạy lục) gồm có các phần:
1/- THỜ LẠY NHỮNG AI LÚC CÒN SỐNG:
Theo ý Đức Thầy dạy trong đoạn nầy, chúng ta cũng được lễ bái
những vị như “Đức Phật, Tổ Tiên, Ông bà, Cha mẹ lúc còn sống…”
“Với những kẻ khác nên bỏ hẳn sự lạy người sống, cho đến Thầy mình
cũng vậy, chỉ xá thôi”.
2/- HÀNH ĐỘNG:
Mỗi người trước khi làm việc gì, dầu đối với người trong Đạo hay
ngoài đời, cần phải suy xét, cân nhắc kỹ lưỡng rồi sẽ thi hành không nên làm
việc “ngông cuồng vô ý thức”:
“Một là đừng ỷ lại vào
kẻ mạnh.
Hai là đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh. Ba là đừng ỷ
lại vào sự binh vực của Thầy mình”.
Lúc nào cũng tin sâu vào luật Nhân Quả:
“Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.( ĐT)
Còn những ai trước khi thi hành mà chẳng chịu suy tính cẩn thận,
bàn xét chu đáo, cứ làm càng nói bướng để việc bất thành hay gặp tai nạn khó
khăn, rồi vội trách cứ người thân, Đức Thầy hay Trời Phật, Thần Thánh sao không
cứu giúp mình. Điều sai lầm ấy thật là đáng tiếc và đáng thương hại !
3/- NHẬN XÉT ĐẠO LÝ ĐỂ TRÁNH MÊ TÍN:
Đoạn nầy Đức Thầy dạy chúng ta, mỗi người phải lấy trí huệ mà nhận
xét kỹ càng, những lời chỉ giáo của Ngài, rồi sẽ tin và làm theo. Chớ không nên
“lấy đức tin thọ lãnh những lời nói đó mà trong khi mình chưa hỏi tường
tận. Như thế, mình mới có thể tấn hóa trên con đường Đạo đức.”
Đức Thầy còn nhắc nhở chúng ta, hãy suy gẫm, xét đoán kỹ càng
những lời của Ngài giải thích trong đây để bài trừ sự “mê tín ngông cuồng”
hãy “làm cho tư tưởng thiện hòa của Đạo Phật” được lan rộng khắp bàng
nhân bá tánh.
CHÚ THÍCH :
NGÔNG CUỒNG: Nói
hay làm một cách quá đáng trong lúc bồng bột, nóng nảy quá dại dột.
VÔ Ý THỨC:
Không có ý thức, không chịu suy xét, cân nhắc cẩn thận.
NHÂN QUẢ: (Xem chú thích chữ
“Luật Nhân Quả” , tr. 19-20 )
TOÀN THIỆN:
hoàn toàn tốt lành.
ĐẠO LÝ: Lý lẽ của Đạo hay cái
nghĩa lý đương nhiên hợp với lẽ phải mà ai cũng công nhận.
“Học Đạo lý như đờn trúng điệu,
Hòa bản rồi thì cứ làm theo”.( ĐT)
THỌ LÃNH: Vâng chịu, nhận lấy.
TƯỜNG TẬN:
Rành rẽ, cặn kẽ rõ ràng.
TẤN HÓA: Cũng gọi là tiến hóa.
Có nghĩa bỏ cái cũ, đổi lấy cái mới cao hơn, hay hơn, tốt lành hơn.
BÀI TRỪ: Trừ bỏ đi, dẹp cho tan
hết.
MÊ TÍN: Tin tượng mù quáng,
nhắm mắt tin càn, thiếu xét suy cẩn thận.
THIỆN HÒA: Hoà
hợp tốt lành.
3.- TANG LỄ
(SGTVTB 2004, tr. 204- 205)
CHÁNH VĂN
Lúc ông bà cha mẹ từ
trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau
đây:
Bây giờ chúng ta đã
quy-y đầu Phật, thì phải do sự thành-tâm cầu nguyện, và đem sức khấn vái của
anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong-linh người chết được siêu-sinh nơi cõi
thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá phướn
lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận-định rằng xác thịt
là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi
có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và
do sự tu hành, sự thành-tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác
cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận nhơn-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa
trời cầu nguyện, rồi im lặng đi chôn.
Việc cúng kiếng ông bà
cha mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỷ niệm theo như tục lệ. Còn về việc
đãi đằng hương-đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản-tiện, ít lãng-phí cứ
làm.
LƯỢC GIẢI :
MỤC TANG LỄ gồm có các phần:
1.-TỤC ĐỂ TANG:
Về tang lễ, Đức Thầy dạy: Nếu trong nhà có người từ trần thì tục
để tang được giữ theo cổ lệ. Tức là phong tục từ xưa do Tổ tiên của đất nước ta
truyền lại, như : may y phục tang, khăn tang (vải trắng), lập bàn thờ tang, tổ
chức lễ an táng; ba ngày cũng cúng khai mộ, cầu siêu 7 thất, làm tuần 100 ngày
(bá nhựt), làm tuần giáp năm, làm tuần mãn khó (xả tang sau 24 tháng) và hàng
năm cúng giỗ (kỷ niệm). (Làm tuần 7 thất là tục lệ từ xưa nhưng xét đây là tục
lệ chân chánh nên chúng ta còn giữ.)
2.-NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM:
Theo ý Đức Thầy bảo: bây giờ chúng ta đã qui y đầu Phật thì trong
cuộc an táng nên thi hành lễ cầu siêu trước giờ động quan. Nơi đây gồm có những
bà con, thân bằng quyến thuộc và nhờ đồng đạo xa gần, thành tâm cầu nguyện cho
hương linh người quá vãng được siêu thoát. Rồi mỗi người chấp nhang vào ngực hộ
niệm đưa linh cữu đến nơi an táng.
3.-CÁC ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM:
Căn cứ theo đây thì Đức Thầy không cho rước các ông thầy nhưn
bông, làm đám; không đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, xá phướn lầu kho;
không dùng đờn kèn trống phách, chiêng đẩu…; không cho đạo tỳ hò hét vang rân;
ngày khai mộ không nên bắt gà kéo chung quanh mộ, làm cầu thang giả hay trồng
mía lau; không dùng 5 ống tre gạo muối cắm theo năm hướng. Chỉ dùng nhang đèn,
bông, nước, bánh trái mà cúng thôi. Vì các sự kiện trên đều là dị đoan mê tín.
Đức Thầy đã nhiều lần mách bảo:
“Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.
Giấy quần, giấy áo không nên đốt,
Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”.
4.-NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ CHẾT VÀ HIẾU SỰ:
Xét rằng con người có sanh tất có tử, có hình thành tất có hoại
diệt, nên khi có người chết hãy đem chôn xác thể, đừng để hôi thúi mất vệ sinh
chung.
Còn sự báo hiếu là mình lo nuôi dưỡng ông bà cha mẹ lúc sanh tiền
và lo tu hành, tác phước thiện duyên, để hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ
đặng siêu thoát. Chẳng nên liệm vàng bạc theo, hoặc sát sanh hại vật mà cúng
tế. Đức Thầy hằng cảnh giác:
“Của tiền chớ có bỏ theo,
Chết rồi tế lễ bò heo làm gì ?
Nếu ai biết chữ tu trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung lăng
Chưởi cha mắng mẹ lăng xăng thiếu gì”.
5.-VIỆC TIẾP ĐÃI THÔN XÓM:
Theo cổ lệ dân tộc Việt Nam xưa nay, không phân biệt tôn giáo hay
giai cấp nào, hễ một gia đình có việc “Hôn, quan, tang, tế” thì các gia
đình khác đều đến tiếp giúp qua lại với nhau.“Nhứt gia hữu sự bá gia ưu”.(Tục
ngữ), cho nên trong đám tang tất phải có chòm xóm. Quan khách hoặc chánh quyền,
tôn giáo bạn đến tham dự, kể như là những người ân nghĩa. Muốn đáp lại, Đức
Thầy dạy: không phải đợi mâm cao cỗ đầy, mà nên đáp từ theo lễ nghĩa:“Tiếng
chào cao hơn cỗ”(Tục ngữ). Còn việc tiếp đãi thì “xét ra điều nào
giản tiện, ít lãng phí cứ làm” (ĐT) . Ngài có dặn rõ:
“Bỏ bớt rình rang một khi,
Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
Là lời truyền giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người”.
CHÚ THÍCH :
CỔ LỆ: Lệ xưa, tục lệ từ xưa
lưu truyền lại.
THÀNH TÂM:
Lòng chí thành chí thật. Cổ Đức từng bảo:“Thành tâm sở chí, kim thạch vị
khai”.( Ý nói sức mạnh sự thành tâm khẩn thiết hướng đến đâu có thể chẻ núi
phá vàng đến đó). Cho nên Đức Thầy hằng dạy:
“Thứ bảy Chánh niệm vậy thì,
Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.
CÕI THỌ: Cõi sống lâu. Đây chỉ
cho cõi Cực Lạc.
THẦY DƯNG BÔNG:
Cũng gọi thầy Nhưn bông. Tức là những người ăn mặc như nhà sư, nhưng chỉ
chuyên đi làm đám, cầu siêu và tụng kinh mướn để lấy tiền, làm hoen ố Đạo Phật.
Đức Thầy bảo:
“Kinh với sám tụng nghe thảnh thót,
Lũ nhưn bông tập luyện đã rành.
Đẩu với đờn kèn trống nhịp sanh,
Làm ăn rập đặng đòi cao giá”.
GIẤY TIỀN VÀNG BẠC: Tờ giấy trắng họ in hình đồng tiền kẽm hồi xưa trong đó. Loại
khác thì họ phết một khúc màu vàng, một khúc màu bạc, rồi gọi là giấy tiền vàng
bạc.
Từ lâu, có vô số người còn theo tục lệ dùng giấy tiền vàng bạc,
giấy quần áo và xá phướn lầu kho để đốt cho người chết mang theo hoặc gởi xuống
âm phủ. Họ mê tín rằng làm như vậy người chết xài được. Chớ họ có biết đâu
những sự vật ấy là do bọn Vương Luân đời Đường (Trung Hoa) chế ra để phỉnh gạt
người đời mà trục lợi. Đến bây giờ các thầy nhưn bông cũng còn tiếp tục làm
theo, nên Đức Thầy mới khuyên:
“Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý”.
XÁ PHƯỚN LẦU KHO: Là hình xá hạt, xá ngựa, lầu kho, phướn sớ làm toàn bằng giấy và
cỏ sậy nho nhỏ, do các thầy nhưn bông làm ra, để khi có lễ làm tuần, cầu siêu
thì đem đốt. Họ mị dối với tang chủ rằng đốt đồ đó người chết ở âm phủ xài được
và xá hạt xá ngựa sẽ mang phướn sớ ấy đến Trời Phật. Thật là giả dối lạ lùng.
Đức Thầy thường giác tỉnh mọi người:
“Xá với phướn là trò kỳ quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian.
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.
Thấy lạc lầm đây động lòng son,
Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ”.
HIẾU THUẬN: Tôn
kính, bảo dưỡng và thảo thuận vâng lời cha mẹ để làm tròn bổn phận con người.
KỶ NIỆM: Ghi nhớ, tưởng nhớ.
Đồng nghĩa với ngày cúng giỗ hay ngày kỵ cơm ông bà.
HƯƠNG ĐẢNG:
Thôn xóm, chỉ chung những người ở chung quanh.
LÃNG PHÍ: Xài
hao phí tiền của vô ích.
4.- CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT.
(SGTVTB 2004, tr.204-205)
CHÁNH VĂN
Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm:
“Nam-mô Bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT” (ba lần) và “Nam-mô A-DI-ĐÀ PHẬT” (ba
lần).
Vái: “PHẬT TỔ, PHẬT THẦY, nay mình thành-tâm
cầu nguyện cho tên … (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong-linh
được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-Lạc ! ” Trong lúc ở nhà hay lúc
đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chấp tay niệm:
“Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới tam
thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ
đại-bi tiếp-dẫn vong-linh A-DI-ĐÀ PHẬT” (nếu người chết là nhà sư thì câu chót
đọc: “Tiếp-dẫn đạo-sư A-DI-ĐÀ PHẬT”).
NÊN LƯU Ý: Tang gia đừng nên khóc lóc
làm trở ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.
LƯỢC GIẢI :
Trong mục “Cầu Nguyện Cho Người Chết” gồm có
ba phần:
1-ĐẶT BÀN CẦU NGUYỆN:
Đức Thầy dạy:“Chỉ vọng bàn giữa nhà hay
giữa trời cầu nguyện rồi im lặng đi chôn”. Nghĩa là nếu nhà sân rộng
thì đặt bàn ngoài sân. Còn gặp nhà không có sân thì đặt ngay giữa gần mái nhà
trước cũng được. Trên bàn chỉ để một lư hương, 3 ly nước lạnh, 1 bình bông hoặc
3 chung bông. Tuyệt đối không nên để bánh trái hay món gì nữa hết.
2-CÁCH ĐỌC BÀI NGUYỆN:
Mấy lúc gần đây trong Đạo chúng ta có nhiều
vị đọc bài nguyện cho người chết, hoặc thêm hoặc bớt không đồng nhất, là vì
không chịu nhận xét chính xác ý văn của Đức Thầy. Để tránh sự bất nhất ấy,
chúng ta nên nghiên cứu kỹ lại. Những chữ ngoài bên ngoặc kép (“) thì không nên
đọc, như câu “Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm” hoặc chữ “Vái”
hoặc các chữ trong ngoặc đơn như “(ba lần)” …cũng không nên đọc. Vì
những chữ ấy đều là lời chỉ dẫn và cũng đừng thêm vào tuổi tác hay ngày
giờ người chết. Bởi những ý nầy chủ nhà hoặc người xướng ngôn đã tuyên bố
lý do trong lời nói đầu.
Xin nhắc lại vào khoảng năm 1965, Ban Phổ
Thông Giáo Lý Trung Ương, có soạn thảo chương trình tu học Giáo lý sơ cấp.
Trong môn Nghi thức có bài “Cầu Nguyện Cho Người Chết”, Ban Phổ thông Giáo lý
Trung Ương có mở phiên họp bàn thảo về các chữ trong bài nguyện…Bàn thảo xong
tất cả đều đồng ý bỏ những lời chỉ dẫn ra không đọc.
Trước các chữ “Phật Tổ, Phật Thầy” cần
thêm vào hai chữ “Nam Mô”, bởi hai lý do: – Một là vì đọc chữ Phật Tổ
Phật Thầy trơn, nghe hình như thiếu khiêm cung. Điểm hai là vì bên bài nguyện
Qui y, Đức Thầy có viết “Nam Mô Phật Tổ Phật Thầy”, thì bên nầy
mình dùng chắc không sao, chớ không phải dám nghĩ Đức Thầy viết thiếu.
Còn câu: “Nay mình thành tâm..” thì
đồng ý thay chữ “mình” bằng chữ “con”, bởi lẽ chữ “mình”
là ý chỉ người cầu nguyện. Nếu cầu nguyện cá nhân thì đọc “Nay con thành tâm…”còn
xướng ngôn tập thể, thì đọc “Nay chúng con thành tâm…” Đến chữ “tên”
cũng thay bằng chữ Ông hay Bà ( kèm theo họ tên), nếu người
chết nhỏ tuổi quá thì gọi Cô hoặc Em, Cháu gì cũng được.
Sau khi bàn thảo kỹ lưỡng, Ban Phổ Thông đều
đồng ý đưa ra một bài nguyện mẫu, đã có in trong Tài liệu sơ cấp và toàn thể
trong Đạo đều áp dụng từ đó đến nay. Chúng tôi xin chép lại bài Nguyện đó sau
đây:
“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Nam mô Phật Tổ Phật Thầy, nay con/chúng con
thành tâm cầu nguyện cho (ông/ bà + họ và tên) nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ
vong linh được thoát chốn mê đồ vãng sanh miền Cực Lạc”.
Lưu ý:
– Các chữ trong ngoặc đơn chỉ dùng để chỉ dẫn
nên không đọc) .
– Vừa niệm Phật vừa xá ba xá, kế đó góp hết
nhang cắm lên bàn rồi lạy bốn lạy).
– Đức Thầy không dạy cố định là cầu
nguyện 1 lần hay 3 lần; tùy theo thời gian và chương trình cuộc lễ rộng hẹp,
dài ngắn…mà Ban tổ chức linh động cho cầu nguyện 1 hay 3 lần tùy ý.)
Nghiên cứu qua lời dạy của Đức Thầy thì bài
“Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tam thập lục vạn ức,…” lúc cầu nguyện không nên
đọc, mà chỉ dùng khi người bịnh vừa tắt thở. Lúc đó người hộ niệm hoặc đứng hay
ngồi chung quanh vẫn tiếp tục niệm…Và niệm lúc đi theo bàn Phật ra tới huyệt.
Sở dĩ chúng tôi đưa nhận xét và biên soạn ra
đây là vì muốn khi cầu nguyện cho người chết, trong Đạo chúng ta không còn
chênh lệch nhau quá. Chớ thật ra, cầu nguyện có được kết quả là do chỗ thành
tâm, chớ không phải do hình thức văn tự:“Khi cầu khi nguyện chuyện gì
thành tâm”.( ĐT)
3-CÁCH HỘ NIỆM:
Hộ niệm có 2 giai đoạn:
a) Lúc bệnh nhơn chưa tắt thở: Theo cổ lệ Phật giáo,
người tu Pháp Tịnh Độ, nếu có người bịnh sắp lâm chung đều tổ chức hộ niệm.
Hiện giờ trong PGHH chúng ta vẫn áp dụng, vì đây là chánh lý.
Người sắp chết có những trạng thái không
giống nhau: có người bấn loạn tâm thần, đau nhức rên than, đập mình lăn lộn,
thở không muốn kịp; có người lại nằm mê man, thở dài và nhẹ lần cho đến khi
chấm dứt…Cho nên rất cần có người hộ niệm.
Lúc đó, con cháu và đồng đạo ngồi hoặc đứng
chung quanh, chấp tay vào ngực niệm liên tục 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”,
giúp cho bệnh nhơn nghe và niệm theo, hoặc nhớ tưởng từ tiếng hầu giữ được
chánh niệm, hướng về Đức Phật Đức Thầy. Dầu người bịnh có nằm mê hay cứng hàm
không niệm được, hoặc thần thức chập chờn sắp rời khỏi xác, cũng nghe được
tiếng niệm Phật mà hướng về Đức A Di Đà và Cực Lạc quốc…Nên nhớ tiếng niệm Phật
phải trầm đều, nhưng rõ ràng. Chớ không nên niệm bổng và lớn hay lẹ quá, vì
người bịnh đang mệt, nghe niệm theo không kịp.
b) Khi người bịnh tắt thở: Lúc người bịnh sắp tắt
thở, những người không hộ niệm nên lên nhang đèn các bàn thờ và quì sắp hang
thành tâm cầu nguyện (3 lần), rồi cũng tiếp tục hộ niệm, đến khi người bệnh tắt
thở thì tất cả xoay qua niệm câu “Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới tam
thập lục vạn ức,…” Cứ thay phiên niệm liên tục.
4- CÁCH CẦU NGUYỆN THỐNG NHỨT:
Theo thông lệ, khi tẩn liệm người chết xong,
những người đến dự đám tang đều có thể cầu nguyện và lễ bái cá nhân. Nhưng khi
gần giờ di quan thì có tổ chức cầu nguyện thống nhứt, một lần 3 lượt, hoặc một
lần 1 lượt là tùy theo sự sắp đặt của Ban tổ chức. (Lưu ý: người phát hương
phải dè dặt cẩn thận, không nên trao hết cho mỗi người có tánh cách ép buộc, mà
ai xin nhận mới trao. Nhứt là đối với quan khách, chánh quyền và những người
không có Đạo.) Cầu nguyện thống nhứt xong, nếu có điếu văn, cảm tạ, hoặc cảm
tưởng, nên cho đọc trong giờ nầy, có đầy đủ người dự đám. Khi ra đến phần mộ
nên cầu nguyện thống nhứt 1 lần 1 lượt thôi.
5- HÌNH THỨC ĐƯA LINH CỮU RA HUYỆT:
Tới giờ di quan, Ban tổ chức cho khiêng bàn
Phật đi trước. Kế đó là một số người hộ niệm có mặc áo lễ, rồi các tràng hoa
(nếu có). Tiếp theo là vãng lỵ, bàn vong và linh cữu. Tang gia và thân quyến đi
khít linh cữu. Còn những người dư ra đều đi tiếp theo đó. Mỗi người đưa đám đều
cầm 1 cây hương và đọc bài “Nam Mô Tây Phương Cực lạc Thế giới tam
thập lục vạn ức,…”(hộ niệm).Tuyệt đối là không nên nói chuyện ngoài hoặc
khóc kể, như Đức Thầy đã cho biết vì thế sẽ “…trở ngại sự siêu thoát anh
linh của người chết”.
(Hộ niệm lớn tiếng hay niệm thầm là tùy nơi,
tùy người, nhưng nếu niệm lớn thì phải nương theo cho ăn rập, đừng niệm lỏi
chỏi.)
CHÚ THÍCH :
NAM MÔ: Phiên âm của Phạn ngữ Namah.
Tàu dịch là qui mạng và cứu ngã (tiếng dùng cầu khẩn), tức là mình chịu
qui phục với Đức Phật…và cầu Ngài cứu độ mình. Nam mô cũng có nghĩa qui y:“Hai
chữ Nam mô ấy lẽ hằng”.( ĐT)
BỔN SƯ: Ông thầy căn bản (gốc).
Thầy cả ba giới, bốn loài. Đây chỉ cho Đức Thích Ca là đấng sáng lập Đạo Phật
đầu tiên.
THÍCH CA: Phiên âm của Phạn ngữ Sakya
họ của Phật, dịch là Năng nhơn. Nghĩa là người có năng lực từ bi rộng
lớn, thương xót và cứu độ vạn loại chúng sanh.
MÂU NI: Phiên âm Phạn ngữ Mouni,
dịch là Tịnh mặc, có nghĩa là trong sáng lặng lẽ; tuy làm các hạnh lành,
giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên, trong sạch, không xao động thiên chấp.
PHẬT: Đấng hoàn toàn giác ngộ,
toàn thiện, toàn mỹ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Tóm lại, câu “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật” nghĩa là cả tam giới đều tôn xưng công đức siêu thắng của Đức
Thích Ca Mâu Ni.
A DI ĐÀ PHẬT: (Phiên âm Phạn ngữ Amitabhâ),
dịch là “Vô Lượng Thọ Phật”, tức là Ngài thọ mạng dài dặt vô lượng vô
biên triệu ức kiếp, và “Vô Lượng Quang Phật” tức là hào quang của Ngài
sáng vô cùng chiếu khắp mười phương, không bị sự vật nào ngăn che.
A Di Đà Phật là vị giáo chủ cõi Tây
phương Cực Lạc, có nguyện lực tiếp dẫn chúng sanh 10 phương vãng sanh về cảnh
giới của Ngài, nếu ai biết niệm Phật, làm lành và có đủ Tín, Nguyện, Hạnh. (Xem
thêm chú thích tại Q.Thượng, Tập 1/3, tr. 136-138).
PHẬT TỔ: Tức Đức Phật Thích Ca
(Xem thêm : Sĩ Đạt Ta, Q. Thượng, Tập 3/3, tr.233-234).
PHẬT THẦY: Xem chú thích chữ Đức
Phật Thầy Tây An, tr. 21.
TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI: Thế giới Cực Lạc của Đức
Phật A Di Đà ở về hướng Tây, đối với cõi Ta bà chúng ta. Kinh Di Đà, Đức Thích
Ca bảo:
“Cách đây mười muôn ức cõi Phật về hướng Tây
có cõi Cực Lạc, do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ và Ngài đang thuyết pháp độ
sanh tại đó”.
TAM THẬP LỤC VẠN ỨC: Ba mươi sáu vạn ức.
NHỨT THẬP NHỨT VẠN: Mười một vạn.
CỬU THIÊN NGŨ BÁ: Chín ngàn năm trăm.
Đọc chung lại là Ba mươi sáu vạn ức, mười
một vạn, chín ngàn năm trăm. Theo Phật Học từ điển, có thể tạm viết con số
ấy như vầy 36.000.119.500, nhưng nhà nghiên cứu Kinh điển nên lưu ý
không nên chấp văn tự. Vì con số nầy là số tượng trưng, chỉ cho con số vô
lượng, là vì chư Phật ở cõi Cực Lạc không một ai có thể đếm hết con số bởi
công đức và nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Nếu chúng ta hiểu bằng văn tự là
vẫn thiếu. Do đó, Đức Thầy dạy niệm nguyện câu nầy là có dụng ý: dạy chúng ta nguyện
hết chư Phật ở cõi Cực Lạc, không sót một vị nào.
ĐỒNG DANH ĐỒNG HIỆU ĐẠI TỪ ĐẠI BI: Bởi vị Phật nào cũng
chứng đắc “Tứ vô lượng tâm” (Từ, Bi, Hỉ, Xả) và hoàn toàn giác ngộ nên nói đến
đại từ, đại bi thì Phật nào cũng cảm thông tất cả, mới gọi là “đồng danh
đồng hiệu”.
TIẾP DẪN: Rước đưa về cõi Phật. Đức
Thầy có câu:“Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
Tóm lại bài:“Tây Phương Cực Lạc…” theo
lời ông Nguyễn Chi Diệp kể là Đức Thầy viết cho tín đồ trì niệm là để thay cho
bài chú Vãng sanh trong kinh Phật thời xưa.
Đại ý là chúng ta cầu nguyện Đức Phật A Di Đà
và hầu hết chư Phật ở cõi Cực Lạc tiếp dẫn linh hồn người chết hoặc tất cả
chúng sanh đều được siêu sanh về cõi Tây phương Cực Lạc.
(Theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại: Vào năm
1939, lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình Hòa Hảo, một hôm ông và một số tín đồ có mặt
tại đó, Đức Thầy kêu hỏi:
-Trong các ông có ai thuộc bài chú Vãng
sanh trong kinh Phật từ trước không ?
Có một ông lão đứng lên nói: Bạch Thầy ! Tôi
còn nhớ. – Đức Thầy bảo: Đọc thử nghe ! Ông lão liền đọc: “Nam mô A Di Đa bà
dạ…”. Đọc xong, ông ngồi xuống, bị sai ít chữ.
Đức Thầy nói:
– Bài chú nầy phiên âm của Phạn ngữ, học lâu
thuộc và không biết nghĩa, nên đọc bị sai chữ. Vậy để tôi đọc bài chú Vãng Sanh
khác cho mấy ông nghe. Nói rồi Ngài đọc lên:“Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế
giới…”
Đọc xong, Ngài giải thích:
– Bài nầy dùng vào 3 việc:
1-Dùng niệm trong giờ niệm Phật, hoặc
đi đứng nằm ngồi. Nó có ý nghĩa như câu lục tự Di Đà, nhưng có ý vị tha
(cầu cho tất cả chúng sanh). Còn 6 chữ Di Đà có ý vị kỷ (chỉ niệm cầu
cho mình). Song 2 câu nầy đều niệm hết.
2-Dùng trong lúc hộ niệm cho người chết
từ lúc vừa tắt thở đến đưa đám tang ra tới huyệt.
3-Là khi thấy bất cứ người hay các sanh
vật chết, không cần quen lạ, đều hướng tâm niệm thầm cho họ. Nhứt là trong
mọi sự sinh hoạt và đi đứng của Cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không khỏi
va chạm làm đau đớn hoặc thiệt hại đến sanh mạng của các sanh vật (cả bốn loài:
noãn, thai, thấp, hóa) như: cày ruộng cuốc đất, nấu ăn, uống nước.v.v…Tuy là
nghiệp sát sanh vô tình, song ta cũng phải mắc nghiệp nợ đó. Cho nên giờ phút
nào chúng ta cũng phải niệm bài chú nầy, hoặc niệm Phật liên tục, để vừa biết
ơn và thương xót tất cả:“Tu biết thương vốn thiệt chay
trường” (đó là tâm chay); “Chay được tánh chay tâm mới qúy”
(ĐT). Cũng vừa cầu tất cả chúng sanh được siêu sanh Tịnh Độ và nguyện tu hành
đắc đạo để độ các linh hồn đó. Ấy là chúng ta tự đổi cái nghiệp nợ oán thù ra
cái ân và kết duyên lành với họ. Sau nầy nếu tu đắc Đạo trước sẽ độ được họ,
bằng họ đắc quả trước cũng độ được ta.
Đức Thầy giải thích xong, mọi người lấy giấy
viết, nhờ Ngài đọc lại, đặng ghi chép học. Nhưng mãi đến năm 1945 Ngài mới viết
vào Quyển 6 nầy.
5.- HÔN NHƠN
(SGTVTB 2004, tr. 205)
CHÁNH VĂN
Bổn phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con
một cách xứng-đáng bằng sự quan-sát tường-tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép-uổng con mình quá đáng, vì như thế
làm cho khốn-khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự-do mà sự thiếu
kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng.
Nên bỏ tục-lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ-vật. Thông-gia hai bên
không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh-đình tốn kém
nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khổ.
LƯỢC GIẢI :
Trong Đạo PGHH chúng ta tu với hình thức Tại gia Cư sĩ, tuy cũng
có một số người lập chí tu độc thân, nhưng chỉ một phần ít, còn hầu hết là có
gia đình. Cho nên Đức Thầy mới đề cập đến việc Hôn nhơn cho con cháu.
1- Theo Đức Thầy dạy: trước nhất, là Đạo làm cha mẹ, có bổn phận
định đôi gả bạn cho con mình khi đúng tuổi. Song nếu con bằng lòng mới lo, chớ
không nên ép. Việc nầy có hai trường hợp:
– Một là đứa con muốn ở độc thân để tu hầu sớm ra khỏi vòng sanh
tử mà mình ép nó lập gia đình là tội nghiệp. Tuy nhiên, mình phải nhận xét
trình độ, khả năng và ý chí của con, nó tu cách đó được không ?
– Hai là vì ham chỗ giàu sang, quyền tước mà ép con phải ưng chịu
chỗ đó thì điều nầy lại càng không nên làm.
2- Thứ nhì, không nên để con tự do quá trớn, vì trong lúc nó còn
trẻ, chưa kinh nghiệm việc đời là bao, nên dễ bị lầm lạc. Cũng có nhiều gia
đình học theo thời nay, cho con mình tự do làm quen, tìm hiểu nhau trước. Vấn
đề nầy có lắm đôi trai gái bị lừa đảo nhau, hoặc yêu nhau trước mới cho cha mẹ
hay. Việc lỡ ra, cha mẹ buồn tức không đồng ý, nên con thì đòi tự tử, còn cha
mẹ thì tuyên bố từ con, vì nó “đặt cây cày trước con trâu”.
3- Đức Thầy bảo: Hãy bỏ hẳn “Tục lệ thách giá đòi tiền”,
hoặc đôi bên sui gia gây khó khăn với nhau. Nhứt là không nên bày tiệc lễ linh
đình, sát sanh hại vật…Làm thế, chẳng những tốn kém cả hai bên, mà còn gây thêm
nghiệp tội cho mình và con cháu về sau, đường tu cũng khó tiến mau tới đích.
Là một tín đồ PGHH, chúng ta nên xử thế đúng theo lời chỉ giáo của
Đức Thầy để xứng đáng là một gia đình gương mẫu, ngoan đạo.
CHÚ THÍCH :
ĐỨC TÁNH: Đức
hạnh tài năng và tánh nết con người.
KINH NGHIỆM: Điều
mình đã có thực nghiệm, có từng trải và nghe thấy rõ.
TỤC LỆ: Thói quen từ trước lưu
lại tới giờ.
THÔNG GIA: Sui
gia. Hai nhà làm sui với nhau.
6.- NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM.
(SGTVTB 2004, tr.205-209)
CHÁNH VĂN
UỐNG RƯỢU.- Phải cữ tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và
không phải nhằm ngày chay-lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng
có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa phải tội lỗi.
THUỐC PHIỆN.- Phải cữ tuyệt; không được hút một điếu nào
hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo, phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra
những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc
khác mới có thể châm chế đặng.
CỜ BẠC.- Phải cữ tuyệt; những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo, phải thệ
nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có
thể châm chế đặng.
ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ .- Tất cả bổn-đạo nên cung-kính các
tăng-sư tu hành chân-chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh-lý, phải nghe lời.
Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …)
hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của Đạo Phật. Nếu
các ông vẫn tiếp-tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt-để và giảng giải
cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.
ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN.- Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay
ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu
chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên
mua sắm hình tượng cho nhiều).
Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không
nên hủy báng.
ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SANH .- Đối với những người theo
tôn giáo khác, không nên động chạm đến cách-thức tu hành của họ. Nhứt là không
ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta.
Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì
sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài
làm phải với những kẻ ấy dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn-nhịn
họ.
Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đôi
đàng có thiện-cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần
dùng phải rán hết sức giúp-đỡ họ.
ĐỂ TÓC.- Tất cả bổn-đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để
tóc, vì đó thuộc về phong-tục chớ chẳng phải về tôn-giáo; nhưng sở-dĩ Thầy để
tóc là muốn giữ kỷ-niệm cái phong-tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết
Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn-minh cặn-bã của phương Tây. Thấy vậy,
nhiều người trong bổn-đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người
hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không
phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh
cũng chẳng phải là kẻ tu-hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và
tùy theo phong-trào tiến-hoá của nước nhà, Thầy cho phép bổn-đạo tự-do cải-cách
hầu hòa-hợp với lương dân cùng tôn-giáo khác.
SỰ HỌC.- Sự học hành không làm trở ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ
nó mình được biết rõ-ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình
những sự lạc lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều
huyễn-hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn
…)
Vậy, hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ … ) và hãy cho con cháu
mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng-rãi. Vả lại, sự
hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu-hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu
Phật Đạo một cách rành-rẽ.
LƯỢC GIẢI :
1.- UỐNG RƯỢU VÀ THUỐC PHIỆN:
Trong khoản nầy có 2 vấn đề: Uống rượu và hút á phiện. Đức Thầy
bảo phải cữ tuyệt. Cho đến người đã hút mà muốn vô Đạo, phải tự nguyện bỏ hút
mới được vào và người trong Đạo mới chứng nhận. Chỉ khi nào có bịnh nặng, thầy
thuốc bảo phải để vô chút ít cho hợp với các vị thuốc khác, mới có thể châm
chế.
2.- CỜ BẠC:
Cờ bạc có nhiều dạng: Các loại bài, me, đề, tài xỉu và các loại đổ
hột, đá gà, đánh cờ, đánh cá.v.v…Bất cứ chơi loại nào có ăn thua bằng tiền bạc,
sát phạt lẫn nhau đều gọi là cờ bạc và phải cữ tuyệt. Đến như đánh tiêu khiển,
phạt uống nước, uống rượu cũng không nên chơi:“Phàm hí vô ích chớ chơi”
vì nó sẽ quen tánh đi, và mất thời giờ. Đức Giáo Chủ thường giác tỉnh:
“Cuộc trần ôi quá khổ !
Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ.
Biết bao người vì nó phải bơ vơ,
Sự nghiệp hết gia đình tan nát,
Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát.
Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân,
Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,
Thân trí cực nợ lần khân chẳng dứt.
Chi cho bằng:
Qui y thì khá làm y,
Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
3.- a) ĐỐI VỚI CÁC TĂNG SƯ:
Với các Tăng sư đã có trong Đạo Phật, không luận tông phái nào,
nếu ai tu hành chơn chánh và luận giải Đạo Pháp đúng chơn lý của Đạo Phật,
chúng ta nên cung kính nghe theo. Còn những Sư tu giả dối: làm hay nói điều sai
lạc chơn lý của Đạo thì chẳng những mình không nghe, còn nói lên cho mọi người
hiểu biết để xa lánh.
b) ĐỐI
VỚI CHÙA CHIỀN:
Trong đoạn nầy thì Đức Thầy dạy: những ngày sóc vọng, ngày vía chư
Phật, mình muốn đi chùa lễ Phật dâng hoa cũng tốt. Chùa nào bị hư dột cũng được
ủng hộ trùng tu cho kín đáo, có điều là không nên mua sắm hình tượng thêm cho
nhiều.
Khi thấy cách thờ phượng của các chùa không giống tông phái của
mình thì không nên hủy báng mà phải luôn luôn tôn kính. Khi nào người trong Đạo
mình thờ sai nghi thức, mới có ý kiến xây dựng.
4.- ĐỐI VỚI TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SINH:
Mỗi quốc gia đều có nhiều tôn giáo. Ấy gọi là tôn giáo bạn. Mục
đích của tôn giáo nào cũng giống nhau, là dẫn dắt người đi đến chỗ tốt đẹp.
Nhưng nghi thức thờ phượng và phương cách hành Đạo không giống nhau. Vậy chúng
ta không nên kỳ thị, chê bai lẫn nhau và cũng không được ỷ mạnh thế, ỷ đông lấn
hiếp họ. Nếu người ta có đối xử sai quấy với mình, mình nên nhẫn nhịn và luôn
xử sự hài hòa thuận thảo với họ.
Còn phần đối với các tầng lớp nhân sinh trong xã hội, Đức Thầy chủ
trương “Đời đạo liên quan rạng chói ngời” và “Nhập thế cứu đời”.
Cho nên, người tín đồ PGHH lúc nào cũng sống hòa hợp với mọi người, mọi giới.
Hãy đặt tình thân yêu và tận tâm giúp đỡ:“Nếu thiệt người thì biết
thương người”.( ĐT)
5.- ĐỂ TÓC: Điều nầy Đức Thầy nói tách bạch, nên xin miễn
lược giải.
6.- SỰ HỌC: Từ trước có nhiều người hiểu muốn tu chẳng cần
học, vì tu cho tâm thanh tịnh thì trí huệ sáng. Hoặc cứ niệm 6 chữ Nam Mô A Di
Đà Phật, thì được vãng sanh về Cực Lạc. Thậm chí đến Kinh Giảng giáo lý của Đạo
cũng không cần học, nói gì đến sự học văn hóa, khoa học. Cho nên Đức Thầy mới
quả quyết:
“Sự học hành không làm trở ngại cho Đạo đức. Trái lại, nhờ nó mà
mình được biết rõ ràng giáo lý cao siêu của Tôn giáo, nó tránh cho mình những
sự lạc lầm, bỏ các điều dị đoan mê tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn
hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn)…”
Cho nên, Ngài ra lịnh cho các tín đồ:“Vậy hãy tự mình học
hỏi (học chữ quốc ngữ…) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự
hiểu biết của chúng thêm rộng rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa học không cản
trở sự tu hành và nó giúp cho mình nghiên cứu Phật Đạo một cách rành rẽ”.
CHÚ THÍCH :
RƯỢU: Do nước cốt của gạo
trắng hoặc nếp hay trái cây ủ với men làm ra. Trong men có các vị chua, cay,
đắng, mặn, ngọt…Có thể dùng chút ít làm thuốc nhưng nếu ai uống nhiều sẽ bị say
và ghiền, khó bỏ: tánh tình nóng nảy, mất trí khôn, sanh thêm tội lỗi. Trong
người mang nhiều bệnh tật và chết yểu. Cổ Đức từng bảo:“Người ghiền rượu thường
sanh 10 điều lỗi như sau:
1-Sắc diện ra vẻ khác thường.
2-Cử chỉ chẳng ra gì.
3-Mắt thấy không tỏ.
4-Hiện ra tuồng giận dữ.
5-Phá hoại sản nghiệp không lấy gì nuôi sống.
6-Hay sanh bệnh hoạn.
7-Gây thêm sự kiện cáo.
8-Danh xấu đồn khắp.
9-Trí huệ hao kém.
10-Chết bị đọa vào 3 đường ác.
THUỐC PHIỆN: Cũng
gọi là á-phiện. Do một thứ nhựa, lấy ở mủ cây thẩu nấu thành, đốt lên có mùi
thơm, người ta dùng để hút. Trong thuốc phiện có chất làm cho người say nghiện,
con người tiều tụy từ tinh thần lẫn thể xác, sự nghiệp tiêu tan. Vì thế, tất cả
Tôn giáo đều cho thuốc phiện là một trong tứ đổ tường (bốn bức tường đổ). Đức
Thầy từng bảo:
“Nào hút thuốc phiện hội ve chai,
Nào trùm đĩ ma cô nghề hút máu”.
CHÂM CHẾ: Làm cho bớt tội phần
nào.
CHÁNH LÝ: Lẽ phải, lý lẽ đứng
đắn, ngay thật chân chánh.
TÀ MỊ: Gian dối không chánh
đáng.
NGÀY VÍA: Ngày
kỷ niệm của chư Phật. Ví dụ: Vía Đức Thích Ca thành Đạo hay vía Phật Di Đà.v.v…
TÔN GIÁO: Xem
lại chú thích tại tr. 9.
NHẬN NHỊN: Xem
lại chú thích tại tr. 79.
THIỆN CẢM: Cảm
tình tốt lành.
7.- HỌAT ĐỘNG HÀNG NGÀY:
THỂ DỤC – ĂN Ở – LÀM ĂN
(SGTVTB 2004, tr.208-209)
CHÁNH VĂN
THỂ DỤC.- Người trong bổn-đạo nam nữ bất-luận, phải giữ- gìn
thân-thể cho khoẻ-mạnh. Như thế nên luyện- tập những môn thể-dục nào hợp với
sức khoẻ nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khoẻ mạnh tinh-thần mới sáng suốt,
như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một cách đắc-lực.
ĂN Ở.- Kẻ tu-hành ăn uống phải có điều-độ. Tránh những món ngon,
song nấu toàn đồ độc cho cơ-thể ăn vào sanh bịnh.
Phải giữ-gìn thân-thể sạch-sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ ăn, chỗ
nằm, phải biết trọng vệ-sinh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ bẩn, vì xác-thịt dơ
dáy thì tinh-thần không thể mở-mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những kẻ
trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn
vật-chất.
CÁCH LÀM ĂN.- Cách làm ăn phải y như trong mục Bát Chánh đã dạy.
– Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn
lậu, đầu cơ, bán rượu, bán thuốc phiện,..
– Làm những nghề lương-thiện, không có lường gạt ai,
bỏ những thói gian xảo.
LƯỢC GIẢI :
Ba đề mục:“Thể dục, ăn ở, cách làm ăn”, chúng tôi xin miễn lược
giải, song mỗi người nên nghiên cứu học hiểu cho tường tận để giữ gìn, ăn ở và
sống cho đúng với tinh thần của người có Đạo…
CHÚ THÍCH :
PHONG TỤC:
Thói quen trong cuộc sống hằng ngày từ xưa của ông cha ta truyền lại.
VĂN MINH CẶN BÃ: Riêng chữ Văn minh là văn vẻ sáng sủa, nhưng ở đây có ghép thêm
chữ Cặn bã là Đức Thầy muốn chỉ các nước Âu Tây càng văn minh vật chất để thỏa
mãn dục vọng. Do đó, sự ăn mặc họ càng tiến tới hở hang bày dạng khêu gợi tình
dục, khiến tánh tình trở nên gian dối xấu ác. Đức Thầy đã bảo:
“Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa,
Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.
CẢI CÁCH: Thay đổi cách thức lề
lối cho được tốt đẹp hơn.
DỊ ĐOAN MÊ TÍN: Xem
lại chú thích tại tr. 51,52.
KHOA HỌC: Gồm các môn học: Toán,
lý hoá, vạn vật, …giúp cho ta nhận thức mọi vấn đề có phương pháp thực tiễn, rõ
ràng, chính xác, không còn tin chuyện huyễn hoặc.
NGHIÊN CỨU: Tìm
tòi tra cứu, nghiền mgẫm, so sánh để nhận ra mọi vấn đề đúng lý.
THỂ DỤC: Phương cách luyện tập
thân thể cho nở nang và thêm sức mạnh, cũng giúp cho tinh thần thêm sáng suốt,
siêng năng.
ĐẮC LỰC: Sức làm nổi được việc.
VỆ SINH: Sạch sẽ để giữ gìn sức
khỏe đời sống.
TIẾP ĐỘ: Dẫn dắt và đưa đến nơi
đến chốn.
LƯỜNG CÂN TRÁO ĐẤU: Mua cân già, đổi bán cân non; mua gịa già đổi bán gịa non. Đức
Thầy có câu:
“Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
Chớ tập tánh lận lường tráo đấu”.
8. ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO
(SGTVTB 2004, tr.208-209)
CHÁNH VĂN
ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO.- Người nào muốn quy-y phải có hai người bổn-đạo
cũ, có đức-hạnh tiến-cử và bảo-lãnh, đến Ban Trị-Sự trong làng cho người làm
đầu biết và người làm đầu phải đọc hết thể-lệ về sự tu hành cho người quy-y
nghe, hỏi coi có bằng lòng quy-y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng.
Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn
thờ ông bà, tổ-tiên rằng: Ngày … tháng … con chịu quy-y theo Đạo. Sau đó, người
làm đầu (Hội-Trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có Ban Trị-Sự, hai
người bổn-đạo cũ phải dìu dắt người mới, rồi sau sẽ dẫn lên Ban Trị-Sự gần đó,
không bắt-buộc thề-thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của
mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến-cử hay để
bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại
không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật-lệ trong sự đạo-đức, dầu không xin thôi
Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách- nhiệm việc làm của họ và bị coi như
người ngoại Đạo.
Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu-dắt và ủng-hộ những kẻ nào làm ăn
chơn thật, hiền lành đúng theo giáo-lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại
ủng-hộ những kẻ gian-tà xảo-quyệt, làm các việc hung-ác ngông-cuồng trái những
lời mà Ngài đã chỉ dạy.
LƯỢC GIẢI :
Mục “Điều Kiện Vào Đạo” cho thấy ai muốn tu đều phải có điều kiện,
nhưng điều kiện ở đây rất tự do bình đẳng và giản dị công bằng, thực tiễn.
– TỰ DO ở chỗ tự ý mỗi người muốn tu thì vào Đạo, không muốn thì
thôi, chớ không nài ép một ai.
“Tu không tu cũng không mời thỉnh,
Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê”.( ĐT)
Và:
“Tùy thiện tín hiểu ta giả thiệt,
Làm hay không chẳng dám ép nài”.( ĐT)
-Có điều là bằng lòng giữ theo “Tám điều răn cấm” của Đạo
là được. Cũng chẳng bắt buộc phải thề thốt chi cả. Khi nào không muốn tu nữa
thì chỉ cho Hội Trưởng Ban Trị Sự sở tại hay để bôi tên mình là đủ.
-BÌNH ĐẲNG ở chỗ không phân biệt sang hèn, già trẻ, thông minh hay
dốt nát hoặc tật nguyền hay giàu khó…tất cả đều tu được hết:
“Giàu sang nghèo khó cũng người,
Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.( ĐT)
Hoặc là:
“Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.( ĐT)
-GIẢN DỊ ở chỗ “không bắt buộc thề thốt chi hết”; chỉ cần
thưa với ông bà cha mẹ hay và cần người hướng dẫn đến người lớn trong Đạo ở xã
biết để chứng kiến. Nhứt là không cần có lễ vật rườm rà, như Đức Giáo Chủ đã
cho biết:
“Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.
Chẳng có cần trà quả hương nồng,
Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ.
Kẻ xa xuôi có lòng ái mộ,
Xem Kệ nầy tu tỉnh tại nhà.
Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà,
Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc”.
-Vẫn biết chủ trương của Đạo Phật cũng như PGHH là từ bi và bình
đẳng, song chư Phật bao giờ cũng dìu dắt những người thật tu và làm ăn chân
chất, chớ không bao giờ ủng hộ những kẻ dối tu, hành động ngông cuồng hung ác.
Lẽ công bằng thực tiễn đương nhiên là phải như vậy.
CHÚ THÍCH :
TIẾN CỬ: Giới thiệu, kể rõ thành
phần tài năng đức hạnh của người đó, để được cấp trên hiểu biết hoặc sử dụng.
THỂ LỆ: Cách thức qui định.
QUY Y: Xem lại chú thích tại
tr. 18.
Đăng nhận xét