BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Chú giải từ câu 001 – 210 (Quyển V Khuyến Thiện)

CHÚ GIẢI QUYỂN NĂM KHUYẾN THIỆN Chú giải từ câu 001 – 210 (Quyển 5 Khuyến Thiện)

Chú giải từ câu 001 – 210 (Quyển V Khuyến Thiện)

CHÚ GIẢI QUYỂN NĂM KHUYẾN THIỆN

XUẤT XỨ – VĂN THỂ :
Đây là quyển thứ Năm, trích từ phần nhứt: “Sấm Giảng Giáo Lý” trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ. Đức Giáo Chủ PGHH sáng tác quyển nầy vào năm Tân Tỵ (1941) lúc Ngài  bị người Pháp an trí tại nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn). (Đức Thầy vừa viết xong quyển Khuyến Thiện thì được trả tự do. Khi về tới Bạc Liêu, Ngài mới cho tín đồ in ra nên có người chép là Ngài viết tại Bạc Liêu, chớ kỳ thật là Ngài viết tại nhà thương Chợ Quán. Vì ông Trần Văn Tâm, người cai quản nhà thương nầy còn giữ nguyên bản chánh và xác nhận là Đức Thầy viết lúc còn ở đây).
Ngài viết bằng vận văn (văn vần ), lối biến thể, đoạn đầu và cuối thể lục bát, nhưng đoạn giữa là thất ngôn trường thiên và có xen vào một ít bài thi. Quyển Khuyến Thiện thuộc loại khuyến tu và tự thuật, dài 776 câu. Khởi đầu bằng câu:
  Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,”
Và chấm dứt bởi câu:
  Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên”.
TIÊU ĐỀ – DANH HIỆU :
Khuyến Thiện: Khuyến là khuyên lơn chỉ bảo. Ý dùng lời nói dung hòa êm dịu khuyên nhủ khiến cho mọi người nghe theo. Thiện là việc lành, việc phải và tốt đẹp, có ích lợi cho mọi người. Nghĩa chung là ý dùng lời pháp giáo khuyên nhắc mọi người trở lại con đường lành, làm việc từ thiện, tránh xa những điều hung ác.
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy:“Tu cả thảy pháp lành tất chứng bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”(Tu nhứt thiết thiện pháp, tức đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Đức Thầy hiện nay cũng nói:
Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ.
Gọi hồn người hành thiện truy kinh”.
 (Nang Thơ Cẩm Tú)
Vô Danh: Không có tên. Đây có ý giấu tên (ẩn danh). Đức Thầy đã nói:“Lánh thế chẳng bày danh Lão Sĩ.”(Cho Ô. Tham Tá Ngà). Trong Trang Tử Tiêu Dao cũng có câu:“Bực Chí nhân thì không vì mình, bực Thần nhân thì không kể công, còn bực Thánh nhân thì không cầu danh.”(Chí nhân vô kỷ, Thần nhân vô công, Thánh nhân vô danh).
Cư Sĩ: Người tu tại gia. Huệ Viễn Duy Ma Kinh có câu:“Cư sĩ hữu nhị: Nhứt quản tích tư tài, cư tài chí sĩ, danh vi cư sĩ; nhị tại gia tu Đạo, cư gia Đạo sĩ danh vi cư sĩ”.(Cư sĩ có hai hạng: Một là người có chứa nhiều tiền của mà không trước nhiễm; hai là những người tại gia tu hành, hoặc xưng là bậc Đạo sĩ, nhưng không xuất gia). Như trường hợp Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ, tuy các Ngài là Cư sĩ, nhưng đã viên thành Đạo quả “Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn”.
Vậy bốn chữ  “Vô Danh Cư Sĩ” là người tu tại gia có ý ẩn danh.
Sở dĩ Đức Thầy đề bút hiệu cho quyển Khuyến Thiện như vậy là có 3 dụng ý:
1- Chính Ngài và hầu hết tín đồ hành đạo và truyền đạo đều mang hình thức cư sĩ, nhưng chủ trương thực thi bồ tát hạnh (bố thí vị tha).
2- Từ ngày 18 tháng Năm năm Kỷ Mão (1939) đến tháng Tư năm Canh Thìn (1940), Ngài còn được tự do sáng tác và in ấn Sấm Giảng. Nhưng hiện tình năm 1941 Ngài bị người Pháp quản thúc tại nhà thương Chợ Quán, sự sáng tác và in ấn không còn được tự do như trước, nên Ngài phải quyền biến thay tên và bút hiệu để dễ bề in ấn và truyền bá.
3- Bởi giữa thời Mạt pháp có nhiều tà đạo ra đời, họ xưng hô toàn là Phật Thánh, gạt người lạc vào tà kiến dị đoan. Thêm có lắm phần tử cũng trong phạm vi Phật giáo, song là kẻ giả tu, hành động sai chơn lý, chỉ khoát bên ngoài cái vỏ đạo mạo, lợi dụng lòng tín ngưỡng của bá tánh.
Tóm lại, bởi các lý do kể trên, nên Đức Giáo Chủ đề tên tác giả cho quyển Khuyến Thiện“Vô Danh Cư Sĩ”.
NỘI DUNG :
Trước hết Đức Thầy xác định hạnh tu của Ngài và cả môn đồ. Kế tiếp, Ngài kể sơ lược lịch sử của Đức Phật Thích Ca; rồi Ngài phân tách tám nỗi khổnăm điều uế trược của mỗi chúng sanh trong cõi Ta-bà với tám điều vui cùng mọi sự thanh khiết ở cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Để rồi Ngài khuyến khích mọi người nên trì hành môn Tịnh Độ, hầu được vãng sanh về đó. Tiếp theo là Ngài dạy hành giả chừa mười điều ác và tu mười điều lành. Sau rốt là một bài Kệ Giảng tổng quát về sự tu đúng theo tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của Ngài đã đề vạch.
BỐ CỤC :
Toàn quyển Khuyến Thiện gồm có 3 phần chánh và nhiều tiểu đoạn:
I- Phần nhứt, cũng là phần khai đề: Đức Thầy cho biết về hình thức hành đạo của Ngài và hầu hết môn đồ rất bình thường giản dị; không xuất gia bằng hình tướng mà chỉ chú trọng về nội tâm. Tuy vừa làm ăn vừa tu, nhưng không nghiêng nặng về vật chất phù hoa, lúc nào cũng giữ lòng thanh tịnh sống theo chánh nghiệp:“Cư trần bất nhiễm, lẩn tục đừng mê, từ câu 1:“Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,” tới câu 8:“Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”.
II- Phần hai, cũng là phần chánh đề: Ngài nói lên chí nguyện cao cả là đem lòng Từ bi Giác ngộ ban rải khắp nơi khuyến hóa chúng sanh sớm thoát ly cảnh tục. Kế tiếp, Ngài lược kể lịch sử Đức Phật Tổ và khai triển pháp tu Tịnh Độ (niệm Phật làm lành). Mỗi hành giả phải có đủ “Tín, Nguyện, Hành” và nhận rõ Tám điều khổ ở cõi Ta Bà và Tám điều vui ở cõi Cực Lạc, để vừa lo niệm Phật, vừa xa tránh mười điều ác và tu mười điều lành, để được trọn lành trọn sáng, vãng sanh Cực Lạc. Từ câu 9:“Chí toan gieo giống Bồ Đề,” tới câu 768:“Rán trau đức hạnh ngày sau sẽ tường”.
III- Phần ba, cũng là phần kết: Đức Thầy khuyến khích tín đồ đã quy Phật tu hành tất phải trau giồi hạnh đức cho tinh minh. Kết quả chẳng những cứu mình mà còn độ được Cửu Huyền Thất Tổ thoát nẻo luân hồi. Cuối cùng là một bài thi khoán thủ đề danh cho bút hiệu và thố lộ sự chứng đạt tâm ấn với pháp môn Thiền Tịnh song tu của Ngài. Từ câu 679:“Ngôn từ Đạo hạnh ý Thầy khuyên,”tới câu:“Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên”.
CHỦ ĐÍCH :
Chủ yếu của quyển Năm (Khuyến Thiện) là Đức Giáo Chủ giải rõ nguyên nhân phát xuất Đạo Phật và khai triển Pháp môn Tịnh Độ (tha lực cứu cánh). Tịnh Độ một pháp tu rất thích hợp với mọi tầng lớp chúng sanh, dễ hành và dễ chứng đắc.

Chú giải từ câu 001 – 210 (Quyển 5 Khuyến Thiện)

CHÁNH VĂN
1.   Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
Theo đòi nghiên-bút luận bàn Tục, Tiên.
   Ta là cư-sĩ canh điền,
4. Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
   Xa nơi tranh-đấu lợi-danh,
Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria.
   Gắng công trì niệm sớm khuya, 
8. Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.
 LƯỢC GIẢI (Từ câu 1 đến câu 8):
-Thời gian Đức Giáo Chủ còn ở Nhà thương Chợ Quán, nhân lúc rảnh rang, tâm thần quang tịnh, bỗng nhiên Ngài cảm kích đến chúng sanh đang lăn lộn trong bể trần thống khổ. Động mối từ tâm nên Ngài mượn bút mực viết ra quyển Giảng nầy. Trong đây Ngài phân tách rõ hai đường tiên, tục và luận giảng các phương pháp tu hành hầu giác tỉnh chúng sanh sớm hồi tâm hướng thiện.
-Ngài cho biết người tu hạnh tại gia vừa sanh sống với nghề ruộng rẫy và vừa lo trau giồi đạo hạnh, giải thoát thân tâm. Cho nên lòng Ngài lúc nào cũng thanh tịnh, thản nhiên trước mọi cảnh vật tài sắc vị danh. Tuy còn phải mang thân phàm tục như bao nhiêu người khác, song đã dày công tu niệm từ lâu, nên nay lòng Ngài đã giác ngộ, dứt hết mê lầm. Đây là Ngài nêu gương hạnh cho tín đồ noi theo.
CHÚ THÍCH :
BĂNG TÂM: Băng là giá , tâm là lòng. Nghĩa chung là lòng trong như giá tuyết, không còn chút bợn nhơ trần cấu…Cổ thi, Vương Linh Xương có câu:“Lương dương thân hữu như tương vấn, Nhứt phiến băng tâm tại tại ngọc hồ.”(Lạc dương bạn hữu như cùng hỏi, Một tấm lòng băng tợ ngọc hồ). Đây là chỉ cho cái tâm của bậc đã rời dứt lợi danh, chẳng còn nhiễm ô thế tục.
NGẪU HỨNG: Thình lình mà cảm kích, bỗng nhiên khởi mối hoài cảm giác tỉnh nhân sanh.
THỪA NHÀN: Nhân lúc rảnh rang. Trong Giảng Xưa, Đức Phật Thầy Tây An có câu:
“Thừa nhàn gẫm sự giác mê,
Phàm trần thoát khỏi mọi bề mới ngoan”.
THEO ĐÒI: Học theo, tập tành theo hoặc cùng làm theo như mọi người:“Theo đòi cùng thể bút nghiên, Thua em, kém chị cũng nên hổ mình.”(Ca dao). Nhưng chữ theo đòi ở đây là tiếng khiêm cung của Đức Thầy.
NGHIÊN BÚT: Xem chú thích chữ “bút nghiên” tại tr. 136 Tập 2/3.
LUẬN BÀN TỤC TIÊN: Ý nói luận giảng việc đời của người thế tục và việc đạo đức của bực siêu thoát, để chỉ rõ đâu là cao khiết chánh chơn và đâu là thấp hèn tội khổ. Đức Thầy từng nói trong  “Viếng Làng Phú An”:
Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh,
  Lánh nơi trần tục học hành đường Tiên”.
CANH ĐIỀN: Người cày ruộng. Nghĩa rộng là người chuyên gieo trồng ruộng phước (canh tác phước điền).
CHUYÊN: Chú ý, chăm chỉ, để hết ý tứ và ngày giờ vào một việc gì. Ví dụ: chuyên cần hay chuyên chú. Ngài Mạnh Tử có nói: Phàm khi làm việc gì mà chẳng chuyên tâm gắng chí thì không thể đắc thành được (Bất chuyên tâm trì chí, tất bất đắc dã). Cho nên, Đức Thầy thường dặn dò như trong bài“Dặn Dò Bổn Đạo”:
Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề”.
TU HÀNH: Xem chú thích tại tr. 47 Tập 1/3.
LỢI DANH: Xem chú thích tại tr. 51 Tập 1/3.
TRAU TRIA: Xem chú thích tại tr. 78 tập 2/3.
TRÌ NIỆM: Gìn giữ và nhớ tưởng mãi, không quên lãng, chẳng lúc nào dừng nghỉ. Ví dụ: Trì niệm chánh pháp hoặc trì niệm Lục tự Di Đà.
   CHÁNH VĂN
9.   Chí toan gieo giống Bồ-Đề,
Kiếm người lương thiện dắt về Tây-Phang.
  Dạy khuyên những kẻ ngỗ-ngang,
12.  Biết câu Lục-tự gìn đàng Tứ-ân.
   Ở trần xử trọn nghĩa-nhân, 
Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên-Đài.
   Cầu cho mối Đạo hoằng-khai, 
16. Cầu cho trăm họ Bồng-Lai được gần.
   Sớm về cõi Phật an-thân,
Kẻo kiếp phong-trần dày gió dạn sương. 
   Phật-đài phưởng-phất mùi hương, 
Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.
   Từ-bi oai-lực nhiệm sâu, 
22. Độ con thoát chốn ưu-sầu trần-ai. 
 LƯỢC GIẢI (Từ câu 9 đến câu 22) :
-Vốn sẵn lòng từ bi, bác ái, nên Đức Giáo Chủ quyết đem Chánh pháp vô vi ban rải khắp nơi, khiến cho những hạt giống giác ngộ có cơ nảy nở. Các người ấy tự sớm quay về nẻo Đạo để kiến diện Phật tâm hoặc được Ngài đưa về Tây Phương Cực Lạc. Còn hạng người ngang tàng ngỗ nghịch, Ngài cũng phương tiện khuyên dạy, để họ biết lo làm lành niệm Phật và đền đáp Tứ đại trọng ân, rồi cũng lần lần tiến lên đường giải thoát như nhau.
-Với Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” mà Ngài đã vạch rõ để mọi tín đồ cùng nương theo. Nghĩa là khi ta phát nguyện qui y và thệ quyết làm tôi con chư Phật cần phải nhắm hướng liên đài Phật quốc mà thẳng tiến, vì đó là mục đích của người :“Học Phật và tu Phật”. Song con đường đi đến đó, trước nhất là phải “Tu Nhân”, tức là thi thiết điều nhân nghĩa:“Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân, Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần.(Thu Đã Cuối). Bởi có lập thân cõi trần, có thiệt thi điều nhân nghĩa, mới vẹn tròn Nhân đạo và trả xong nợ thế; tất nhiên đài sen báu sẽ chực đón chúng ta:“Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen(Sám Giảng, Q.3).
-Đồng thời với giáo điều căn bản nói trên, nhà tu còn phải thương xót đến bá tánh, nên hằng cầu nguyện cho họ được về Tiên cảnh, để cùng chung hưởng sự an nhàn, hoặc được vãng sanh về Phật quốc, chẳng còn luân chuyển trong kiếp sống trần gian đầy gió bụi.
-Đức Thầy còn căn dặn toàn thể tín đồ khi đến trước ngôi Tam Bảo, mỗi người cần phải “Tỉnh tâm đốt nén tâm hương(Phụ Nữ Ca Diêu) mà lễ bái vọng cầu, để nhờ oai đức từ bi mầu nhiệm của mười phương chư Phật, cứu độ cả chúng sanh sớm thoát khỏi cảnh trần ai sầu khổ.
  CHÚ THÍCH :
BỒ ĐỀ: Xem chú thích tr. 71 Tập nầy.
TÂY PHƯƠNG: Xem chú thích chữ “Cực Lạc”tại tr. 15 Tập 2/3.
NGỖ NGANG: Ngang trái, ngạo ngược. Cũng có nghĩa là ngỗ nghịch.
LỤC TỰ: Xem chú thích “Sáu chữ Di Đà” tại tr.175 Tập 2/3.
LIÊN ĐÀI: Đài sen, chỗ chư Phật và các Bồ-tát phu tọa (ngự). Người trì hành pháp môn Niệm Phật, khi vãng sanh về cõi Cực Lạc cũng đồng ngự trên đó. Ngài Huệ Lựu đã bảo:“Ai mà gắng chí trau giồi, Chí công tu niệm đặng ngồi tòa sen”.Đức Thầy nay cũng có câu:
Cầu cho già trẻ gái trai,
   Rủ nhau niệm Phật liên đài ắt lên”.
   (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
HOẰNG KHAI: Mở mang cho được rộng ra. Ví dụ: Hoằng khai Đạo pháp.
BỒNG LAI: Xem chú thích tại tr.138 Tập 1/3.
PHONG TRẦN:Xem chú thích tại tr.134 Tập 2/3.
DÀY GIÓ DẠN SƯƠNG: Dày là nhiều, lâu, Dạn là quen chịu gió sương là lạnh lẽo vất vả. Nghĩa chung là từng chịu đựng nhiều nỗi gian truân thống khổ mà chẳng ngao ngán, e ngại. Ý nói kiếp sống con người phải trải qua nhiều nỗi gian nan vất vả:“Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.”(Truyện Kiều). Đức Thầy hằng nói, trong bài“Để Chơn Đất Bắc”:
Phong trần dày dạn gió sương,
 Chư bang ham báu hùng cường đua tranh”.
PHẬT ĐÀI: Đài Phật ngự hoặc chỗ thờ kính chư Phật. Đây chỉ ngôi Tam Bảo, Đức Giáo Chủ khuyên:
Trót đã qui y giữa Phật đài,
  Nguyện rằng đệ tử dứt trần ai”.
   (Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)
MÙI HƯƠNG: Mùi thơm của nhang, gồm có ba thứ:
a)- Mộc hương: Do các loại cây có chất thơm, như: trầm hương, giáng hương.v.v…Người ta dùng mạt của nó làm thành nhang mà đốt trên các bàn thờ, hoặc chẻ nhỏ đem đốt xông dưới Phật đài, để bán mùi uế trược.
b)- Hoa hương: Do những loại hoa hoặc dầu mỡ (nước hoa) có mùi thơm, dùng để chưng dọn trong các nghi lễ hoặc trang sức.
c)- Tâm hương: Phần tinh thần trong tâm trí của người tu:“Tỉnh tâm đốt nén tâm hương, Nguyện rằng đệ tử một đường lo tu”.
Kinh Pháp Bửu Đàn gọi là “ngũ hương”, đại lược như sau:
1-Giới Hương: là giữ trong tâm mình chẳng còn tham sân si, không lòng tà quấy, sát hại trộm cướp.v.v…
2-Định Hương: Đối với các trần cảnh (lục trần) hoặc các hiện tượng lành dữ, tâm mình vẫn an nhiên không loạn động.
3-Huệ Hương: Tự tâm mình không bị ngoại cảnh ngăn che hay chi phối, hằng lấy trí huệ xem soi tự tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các nghiệp lành mà lòng chẳng chấp trước. Kính người trên, nghĩ kẻ dưới; hay thường giúp những người nghèo đói bệnh tật.
4-Giải thoát Hương: là tự tâm mình không chỗ vịn níu, chẳng chấp lành, chẳng nghĩ dữ, tự tại không ngăn ngại.
5-Giải thoát tri kiến Hương: Tự tâm mình đã không chỗ vịn níu theo đường thiện, đường ác mà cũng chẳng đắm theo cái không và chấp giữ cái yên lặng. Cần phải học rộng nghe nhiều, biết bổn tâm mình, suốt cả lý Phật, hòa sáng tiếp người, không tướng nhơn ngã, tâm không dời đổi, vẫn tiến thẳng đến quả vị Chánh đẳng Chánh giác.
Ở đây, Đức Thầy dạy mỗi khi lễ bái vọng cầu, ngoài nghi thức nhang đèn, còn cần có tâm hương, tức là phải có tâm thành và chánh niệm mới có kết quả:“Thứ bảy chánh niệm vậy thì, Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.(Sám Giảng, Q.3).
ĐẢNH LỄ: Cũng đọc đỉnh lễ. Có nghĩa cúi đầu sát đất để làm lễ. Kinh Viên Giác có dạy:“Dĩ kỷ tối thắng chi đảnh, lễ Phật tối ti chi túc, Kính chi chí giả”.(Dùng cái đầu là chỗ rất cao của mình mà lễ đến chơn là chỗ rất thấp của Phật. Đó là lòng tôn kính tột bực vậy).
ĐỨC MẦU: Do chữ “diệu đức”. Có nghĩa công đức mầu diệu cao thắng hơn hết, khó nghĩ lường được, chỉ cho bậc Bồ Tát và Như Lai. Kinh Tư Ích có giải: Tuy nói các pháp mà chẳng chấp vào pháp tướng, cũng chẳng chấp phi pháp tướng, nên gọi là diệu đức.(Tuy thuyết chư pháp nhi bất khởi pháp tướng, bất khởi phi pháp tướng cố danh diệu đức). Kinh Niết Bàn cũng nói: Phật có ba đức:
1-Pháp thân đức: Pháp thân của Phật là pháp tánh thường trụ bất diệt.
2-Bát nhã đức: Biết rõ chơn như thật tướng của các pháp.
3-Giải thoát đức: Dứt sạch các sự trói buộc, chứng đặng tự tại.
Chữ Đức mầu ở đây chỉ cho oai đức của Đức Thích Ca Như Lai “Công đức Phật từ bi vô lượng”.
OAI LỰC: Oai thần và nghị lực rất linh diệu, mạnh mẽ, do sức thần thông huyền diệu của Phật. Đức Thầy có câu:“Ra oai ra lực cỡi thoàn xa chơi.”(Sấm Giảng, Q.3).
ƯU SẦU: Buồn rầu lo lắng, một trong 8 điều khổ ở cõi Ta bà (Ưu sầu lo ngại).
TRẦN AI: Bụi bặm. Ý chỉ cõi đời đầy sự khổ sở vất vả. Đức Thầy từng kêu gọi trong “Tỉnh Bạn Trần Gian”:
“Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
  Phải toan sắm sửa rứt trần ai”.
   CHÁNH VĂN
23. Nam-mô Thích-Ca Như-Lai, 
Ta-Bà Giáo-Chủ xin Ngài chứng-minh.
   Dưới đây lược tả sách kinh,
Cho trong nam nữ hữu tình thì coi.
  Lời lành của Phật truyền roi,
28.  Đọc qua suy nghiệm xét soi chánh tà.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 23 đến câu 28) :
-Viết đến đây, Đức Thầy cầu nguyện với Đức Thích Ca Như Lai, tức là vị Giáo Chủ Phật Giáo trong cõi Ta Bà, xin Phật chứng minh cho công cuộc biên Kinh giác chúng của Ngài. Vậy những thiện nam tín nữ nào, sẵn có hột giống Phật và hữu duyên cùng Đạo pháp, hãy xem quyển Khuyến Thiện và tu hành theo, ắt sẽ chứng thành Đạo quả.
-Ngài còn cho biết những pháp mầu lý diệu trong đây, là do Đức Phật khi xưa lưu truyền lại, nay Ngài có bổn phận rút tỉa những điểm quan yếu lược giảng ra. Vậy mỗi ai khi đọc đến cần bình tâm nghiệm xét cho chín chắn, để được thấu hiểu những điều tà mê tội ác mà diệt trừ và thực hành theo điều chơn chánh hiền lương.
CHÚ THÍCH
NAM MÔ: Xem chú thích tại tr. 81 Tập 1/3.
THÍCH CA: Xem chú thích tr.113 Tập 2/3.
NHƯ LAI: Xem chú thích tr. 161 tập 2/3.
TA BÀ GIÁO CHỦ: Ta Bà tức thế giới Ta bà (Xem lại chú thích tại tr. 62 Tập 2/3). Giáo chủ là vị sáng lập một nền Đạo hay một Tôn Giáo. Đây chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, bởi Ngài là Giáo chủ Đạo Phật (Phật Giáo) trong cõi Ta bà (Xem phần Lược sử Đức Thích Ca, sẽ giải tới trong Tập nầy).
CHỨNG MINH: Chứng là soi xét, nhận thật; Minh là sáng suốt. Chứng minh là soi xét đến việc gì một cách rất rõ ràng và nhận chứng cho. Đây là Đức Phật chứng minh cho việc cầu nguyện và sáng tác Sấm Kinh của Đức Thầy.
LƯỢC TẢ: Viết ra hoặc bày tỏ một cách sơ lược. Đây có ý nói những cương yếu cần thiết chớ không diễn tả chi tiết dài dòng. Lược tả còn dùng để nói lời khiêm nhường.
SÁCH KINH: Sách là xấp giấy có in chữ và đóng lại thành tập. Đây là quyển sách đã ghi chép những gương hạnh hoặc lời lẽ của các bậc Hiền nhân Thánh triết, hoặc luận giải những lời hay ý phải để dạy đời, nên gọi chung là Kinh sách hay sách sử. Kinh là Kinh điển hay Kinh Kệ. (Xem lại chú thích chữ Kinh Kệ tại tr. 156 Tập 1/3).
HỮU TÌNH:  Phạn ngữ: Satva, phiên âm là Tát đỏa, dịch là Chúng sanh hay Hữu tình, tức các loài có tri giác, có tình thức và mạng sống. Nhưng chữ hữu tình ở đây là chỉ cho những người có duyên lành với Phật pháp. Ý nói tâm của mỗi chúng sanh đều có hột giống Phật (giác ngộ), nay lại hữu duyên gặp được lời giáo pháp của Đức Thầy, nếu ai xem theo đây mà tu hành, ắt sẽ đắc đạo.
Khi xưa, lúc Tổ Già Da Đa Xá truyền phó Chánh pháp cho Ngài Cưu Ma La Đa, Tổ có Kệ rằng:
Hữu chủng hữu tâm địa,
  Nhân duyên đương phát manh.
  Ư duyên bất tương ngại,
  Đương sinh, sinh bất sinh”.
Có nghĩa: đã có hột giống, có đất đai (tâm địa), nhưng phải nhờ gặp mọi duyên lành đầy đủ thì hột giống kia mới phát sinh nảy nở được. Đối với mọi duyên đã không bị ngăn ngại thì quyết định sẽ phát sanh quả vô sanh. Ý nói người tu hành khi được đầy đủ mọi duyên và không bị cái gì làm chướng ngại thì quyết định đời đời chứng quả vô sanh. Đức Thầy hiện nay cũng bảo:“Duyên trước ngày nay mới có phần.”(Cho Ô. Hương bộ Thạnh).
TRUYỀN ROI: Cũng đọc là roi truyền. Có nghĩa trao dạy lại. Chỉ cho việc gì có hệ thống từ trước roi truyền lại và cứ tiếp tục mãi mãi. Như Đức Phật khi xưa truyền tâm ấn và y bát cho Tổ Ca Diếp, rồi Tổ Tổ roi truyền mãi đến đời sau.
CHÁNH VĂN
THI :
29. Tiếng kệ từ-bi quá diệu-trầm, 
Diệt lòng tham vọng diệt thinh-âm. 
Trần-gian say-đắm theo màu-sắc, 
32. Tịnh-độ giác-thuyền trị dục-tâm.
Phải rõ nghiệp-duyên trần cấu tạo, 
Nghe rành chánh-pháp thoát tà-dâm. 
Phù-sanh nhược mộng đời lao khổ,
 36.Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 29 đến câu 36) :
-Bài thi bát cú nói trên, qua cặp đề (1 và 2) Đức Thầy cho biết lời Kệ của Phật truyền dạy mà Ngài khai hóa nhân sanh ở đây rất cao sâu mầu nhiệm. Có đủ diệu năng giúp cho hành giả diệt sạch tâm tham lam vọng chấp và lìa bỏ sắc tướng thinh âm để trở về với Chánh Đạo vô vi.
-Đến cặp trạng /thực (3 và 4) là nhận thấy con người sanh ra trong cõi trần, thường bị đắm đuối theo tướng cảnh màu sắc mà phải chuốc lấy sự đau buồn cay đắng. Vậy chúng sanh nào muốn thoát khỏi thì phải hướng về:“Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã.”(Tỉnh Bạn Trần Gian) và trì hành Pháp môn Niệm Phật. Chỉ có sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, nếu ai quyết tâm trì niệm tất trừ đặng gốc khổ (dục vọng). Cũng như người cỡi được con thuyền vừa to lớn, vừa vững chắc, vượt khỏi sông mê bể khổ:“Cứu khổ Nam mô vô lượng phước, Diệt nàn tu rị hữu thiên Kinh.(Tỉnh Bạn Trần Gian). 
-Trong cặp luận (5 và 6), Ngài dạy người tu phải xét rõ nguyên nhân cấu tạo của hột giống sanh tử, từ đâu phát khởi và những gì trợ duyên cho nó để dẫn đến kết quả sầu khổ đau thương. Song muốn thấu đạt lý ấy, hành giả phải học rành chánh pháp, chính nhờ đó giúp ta phá được vô minh, khai thông trí huệ, bấy giờ ta mới hiểu tận nguồn gốc của sanh tử là lòng ái dục (tà dâm). Như Đức Phật đã nói :“Hải trung sanh tử dâm dục đệ nhứt”, đoạn rồi ta dùng gươm trí tuệ cắt đứt nó, ấy là giải thoát:“Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp, Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.(Hiếu Nghĩa Vi Tiên).
Qua hai câu kết (7 và 8), Ngài nói rằng muốn trợ duyên việc tiêu diệt mầm mống sanh tử, nhà tu cần quán xét kiếp sống của con người, như chiêm bao bóng bọt, dễ rả, dễ tan. Dù ta có gây tạo ruộng vườn nhà cửa, vợ đẹp con đông hay mọi cuộc vinh sang phú quí, một khi tử thần gõ cửa, thì:“Nhắm mắt cũng nắm hai tay.(Khuyến Thiện, Q.5). Nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã diễn tả cái nhân sinh quan đó như sau:
“Ôi ! Nhân sinh là thế,
  Như bóng đèn, như mây nổi,
  Như gió thổi, như chiêm bao,
  Ba mươi năm  hưởng thụ biết chừng nào ?
  Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín”.
Thế mà con người mãi say mê đắm đuối, phí biết bao tâm cơ trí lực đua đòi theo vật chất phù hoa rồi chuốc lấy vô vàn hận khổ:
“Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo,
  Cuộc truy hoan thường giết khách tài hoa”.
   (Cảm Tác)
Khi ta nhận thức được cuộc đời là ảo ảnh, hãy sớm lo bề tu thân sửa tánh để khỏi bị lầm lạc mãi trong vòng chuyển luân sanh tử:
Dương gian mau tỉnh trong tràng mộng,
Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao”.
(Hai Mươi Chín Tháng Chạp)
CHÚ THÍCH :
KỆ: Xem lại chú thích tại tr. 156 Tập 1/3.
DIỆU TRẦM: Diệu là mầu nhiệm, trầm cũng viết là thẩm (thâm), có nghĩa sâu kín. Diệu trầm ở đây là tiếng để ca ngợi lời Kinh pháp rất cao sâu mầu nhiệm. Trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa có câu:“Diệu giả bao mỹ bất khả tư nghị khi pháp dã.”(Diệu ấy là khen các pháp rất hay, tốt không thể nghĩ lường được). Pháp Hoa Du Lý cũng nói: Chữ Diệu gọi là thật cao sâu mầu nhiệm (Diệu thi tinh vi thậm viễn xưng).
Đức Thầy nay cũng bảo:
Xả thân tầm Đạo vô vi,
 Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
THAM VỌNG: Nghĩ tưởng và ham muốn việc xấu xa tà khúc.
THINH ÂM: Những thứ tiếng có năng lực làm kích cảm và ru nhiễm lòng người. Có hai thứ thinh âm:
1-Cảnh trực thinh âm: là các thứ tiếng thuộc về vô tình, như: nước chảy, gió mưa, sấm sét…
2-Khuất khúc thinh âm: là các thứ tiếng thuộc về hữu tình, như: ca hát, đờn sáo (âm nhạc) hoặc tiếng người và các cầm thú…
Nhưng chữ “DIỆT THINH ÂM” ở đây có ý khuyên người tu nên lìa cả âm thinh sắc tướng để trở về với vô vi thật tướng. Như trong Kinh Kim Cang, Đức Phật từng nói:“Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thinh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”.(Nếu lấy màu sắc mà thấy ta, lấy tiếng tăm mà tìm ra; thật là người hành tà đạo, chẳng khi nào thấy được  Như Lai).
Đức Thầy nay cũng hằng khuyên:
Nền Đạo đức sắc thinh chớ mến,
  Có thuyền từ đưa đến non Tiên”.
(Cho Ông Tham Tá Ngà)
MÀU SẮC: Hình tượng bên ngoài của vạn vật. Kể cả sắc: xanh, đỏ, trắng, vàng…và sắc đẹp của người hoặc sắc tướng (hình thức).
TỊNH ĐỘ: Cũng gọi là Tịnh Thổ, là cõi đất thanh tịnh an nhiên, không hề có ngũ trược, bát khổ như cõi uế độ Ta Bà của chúng sanh đang ở. Tịnh Độ còn là một pháp tu, dạy người chuyên tâm niệm Phật, làm lành để nhờ tha lực của Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực Lạc (Tịnh độ).
Tịnh Độ có bốn cõi, tùy theo công năng tu tập của mỗi người mà chứng đắc:
1/-Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ: Cõi Tịnh Độ nầy chúng sanh do tu tịnh hạnh (niệm Phật làm lành) mà cảm chứng đặng. Nhờ thế, được đồng cư (cùng ở) với Tam Thừa Thánh Hiền, tức là cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
2/-Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ: Cõi nầy do bực Nhị thừa, tuy tu đã dứt được kiến hoặc, tư hoặc, ra khỏi tam giới, nhưng còn lại hai phần: vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa trừ hết, nên gọi là “hữu dư”. Do đó, chưa được hoàn thành cứu cánh.
3/-Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ: Cõi nầy do hành giả tu bậc Đại thừa, đã tích lũy công đức phước báo nhiều đời mà chứng đắc trí vô lậu và có vô lượng tướng hảo, trang nghiêm chơn thật. Đây là cõi Tam Hiền Bồ Tát.
4/-Pháp Tánh Tịnh Độ: Cũng gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”. Cõi nầy chỉ an trụ nơi Pháp Thân Phật (bản lai thanh tịnh) nên không có hình sắc. Do bậc tu hành đã giải thoát rốt ráo, cũng gọi là đắc “Viên Giác Tánh” hay “Chơn không diệu hữu”. Gồm đủ các đức: Chơn thường (không sanh diệt) Chơn tịnh (sạch hết vọng nhiễm, phiền não) và Chơn bát nhã (trí quang minh chiếu khắp mười phương).
Trong Kinh Duy Ma có nói:“Dục tắc Tịnh độ, đương tịnh kỳ tâm, tùy kỳ tâm tịnh, tức quốc độ tịnh.”(Muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm mình thanh tịnh, hễ tâm được thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh).
-Vậy chữ Tịnh độ ở đây, vừa chỉ cho cõi Tịnh độ đối lại với hai chữ trần gian của câu thi trên, vừa chỉ cho Pháp Môn Niệm Phật. Đức Thầy từng cho biết:“Cư gia Tịnh độ tâm viên mãn.”(Khuyến thiện, Q.5).
GIÁC THUYỀN: Cũng gọi là Thuyền Giác. Giác là chánh đạo hay chánh pháp, cũng đồng nghĩa với trí huệ. Thuyền là chiếc ghe để chuyên chở mọi vật, do chữ “Diệu Pháp Thuyền”. Ý nói người nương theo Chánh pháp của Đạo mà tu hành, chẳng còn nhiễm ô, vướng mắc việc thế tục, tức được tự tại giải thoát, ví như người cỡi thuyền vượt khỏi sông mê sang bờ giác.
-Đức Thầy đã từng “Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng.”(Khuyến Thiện, Q.5). Và Ngài hằng khuyên tín đồ:
Phật Đạo trau giồi tâm tánh lại,
 Giác thuyền chuyên chở lúc can qua”.
(Ai Người Tri Kỷ)
DỤC TÂM: Lòng ham muốn việc trần tục, vật chất: danh, lợi, tình.v.v…
NGHIỆP DUYÊN: Nghiệp là hột giống, là hành động tạo tác đầu tiên. Duyên là các trợ duyên giúp cho hột giống hay việc làm ấy mau kết quả. Nói chung là “Nhân duyên hạnh nghiệp”. Hễ nghiệp duyên chơn chánh thiện lương thì kết quả tốt lành, cao khiết, bằng nghiệp duyên xấu ác, nhơ đục thì sau sẽ kết quả tối tăm hung dữ:“Sư rằng: song chẳng hề chi, Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều.”(Truyện Kiều).
TRẦN CẤU TẠO: Trần cấu là bụi bặm nhơ nhớp, tức là các dục vọng, tà kiến, phiền não làm cho tâm trí mờ ám quay cuồng; Tạo là làm ra. Cho nên, hễ người tu khi dứt sạch duyên trần cấu đừng tạo ra nữa, tức là trừ xong mọi kiến hoặc, tư hoặc (thấy lầm, nghĩ lầm) mà chứng được thanh tịnh Niết Bàn. Như hoa sen tuy gần bùn mà chẳng ô nhiễm vì bùn. Đức Thầy từng khuyên “Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không” (GMTK,Q. 4).
CHÁNH PHÁP: Đạo pháp chơn chánh, lý nghĩa không sai chạy. Đây chỉ cho lời giáo pháp của Đạo Phật, do diệu dụng của Pháp tánh Phật thuyết ra.
Kinh Cu Xá Luận có nói:“Năng trì tự tánh, vị nhứt thiết pháp các thủ tự tánh, như sắc đẳng tánh thường bất kiến cải.”(Giữ được pháp tánh của mình thì cả thảy pháp đều ở trong tự tánh, cũng như tánh của các sắc thường không thay đổi).
Đức Thầy nay cũng khuyên:
Sớm tối, đi nằm y Chánh Pháp,
 Thầy nguyền dắt đến cảnh Long Hoa.
(Cho Ô. Hạnh).
TÀ DÂM: Một trong 10 điều ác, cũng là một trong năm giới cấm. Có nghĩa thông dâm với vợ con, hoặc chồng của người khác. Người đam mê sắc dục quá độ cũng gọi là tà dâm. Còn có nghĩa rộng là cái gì cong vạy, quái kỳ là ; cái gì không chánh đáng là dâm. Trong “Luật Sa Di” có lời kệ:
“Dâm vi bất tịnh hạnh,  Mê hoặc thất chánh Đạo.
Hình tiêu hồn phách kinh, Thương mạng nhi tảo yểu.
Thọ tội ngoan si hoang,  Tử phục đọa ác đạo.
Ngô dung úy thị cố,  Khí gia nhạo sơn tẩu”.
(Dâm là hạnh bất tịnh, Mê lầm mất Đạo chánh.
 Hình gầy hồn phách sợ, Giảm thọ và chết non.
 Mắc tội ngu, dại, ngốc, Chết đọa trong đường ác.
 Ta vì sợ quá sợ, Bỏ nhà thích núi non).
Do đó, Đức Thầy khuyên môn đồ phải giải thoát tà dâm ái dục:
Nghe chuông linh sớm dứt bể ái hà,
Kẻo vật dục cuốn lôi vào bể khổ.(Cảm Tác).
PHÙ SINH: Kiếp sống nổi trong chốc lát, như chòm mây, bọt nước, mới nổi kế tan. Cổ nhân từng bảo :“Ký sinh phù nhược hề, tử nhược hưu.”(Kiếp sống đã chịu lắm cảnh trôi nổi, dù có tranh danh đoạt lợi, khi chết cũng phủi sạch thôi).
Tuồng huyễn hóa ai bày ra đấy,
  Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
 Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”.
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Đức Thầy nay cũng từng thốt:
“Sầu chung ta cất tiếng than,
  Phù sinh kiếp có đoạn tràng thì thôi!(Tự Thán)
NHƯỢC MỘNG: Giấc chiêm bao quá yếu ớt, ngắn ngủi. Ý nói kiếp sống của con người mau lẹ như giấc mộng. Cổ nhân bảo:“Nhơn sanh bá tuế như xuân mộng, Ly hiệp bi hoan tợ hí văn.”(Người sanh trăm tuổi như đêm mộng, Buồn vui tan hợp tợ trò chơi). Và “Kỳ sinh nhược mộng vi hoan hỷ hà.”(Kiếp sống trôi nổi ví như trong giấc mộng, dầu có vui sướng cũng chẳng bao lâu – Thái Bạch Văn).
Đức Thầy nay cũng cho biết:
“Khuyên người trí-sĩ mau mau tỉnh
   Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần”.
   (Tỉnh Bạn Trần Gian)
Hoặc là:
 Trần thế lợi danh giấc mộng tràng”.
   (Lộ Chút Cơ Huyền)
TU THÂN: Xem lại chú thích tại tr.146 Tập 2/3.
 CHÁNH VĂN
37.    Hào-quang chư Phật rọi mười phương, 
Đạo pháp xem qua chớ gọi thường. 
Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu,
40.    Cố công gìn giữ tánh thuần-lương.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 37 đến câu 40) :
-Đại ý bài thi tứ cú trên đây, Đức Giáo Chủ dạy rằng: Chư Phật có đủ pháp thần thông, huyền diệu, thường phóng ánh từ quang soi suốt khắp mười phương để tiếp độ những người có thiện căn, trở về với cảnh an nhàn tự tại:“Tìm con lành dắt lại Phật đường.”(GMTK, Q.4).
-Được rõ hào quang của Phật là linh diệu khôn lường thì giáo pháp của Ngài cũng sâu mầu khó nghĩ. Vậy người tu mỗi khi đọc đến Sấm Kinh, chẳng nên xem thường lời giáo pháp mà phải chuyên tâm, chú ý nghiệm suy từ nét dấu trong đó; vì có lắm khi: Lời nói gần mà nghĩa lý rất sâu xa (ngôn cận chi viễn).
Đức Thầy từng dạy trong “Giác Mê Tâm Kệ”:
Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
  Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.
  Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
  Chớ chẳng phải của người lãng trí”.
-Khi được rõ nghĩa lý trong Kệ giảng, nhà tu cần phải gắng công gìn giữ giới luật và lo trau tâm luyện tánh cho đặng trọn lành trọn sáng đến khi thành Đạo giải thoát.
CHÚ THÍCH :
HÀO QUANG: Hào là lông mày; Quang là tia sáng, ánh sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông trắng, thường phóng ra ánh sáng chung quanh mình (vầng hào quang). Đây là một trong 32 tướng hảo của Phật.
Trong Quán Phật Tam Muội Kinh có chép:“Thời Phật my gian, tức phóng bạch hào, đại nhơn tướng quang. Kỳ quang phân vi bát vạn tứ thiên chi.”(Khi ấy nơi chơn mày của Phật liền phóng hào quang sắc trắng của đấng đại nhân. Trong đó chia ra làm tám muôn bốn ngàn đạo).
Đức Thầy nay cũng có câu:
Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
  Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
MƯỜI PHƯƠNG: Do chữ thập phương. Có nghĩa: tám hướng chung quanh và hai hướng trên, dưới; tức là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương. Mười phương là tiếng chỉ chung cho khắp thế giới hoặc khắp cả chư Phật và chúng sanh. Ví dụ:“Thập phương Phật hay thập phương bá tánh”.
Đức Thầy thường viết:“Nguyện mười phương chư Phật đáo lai.”(Khuyến Thiện,Q.5).Hoặc:“Mười phương đều rõ máy anh linh.(Những Câu Chú thường niệm).
ĐẠO PHÁP: Phép tắc chân chánh của Đạo Phật. Đạo pháp thường hay dung với hòa.”(Lời Khuyên Bổn Đạo, tr.449-450 SGTVTB 2004).
CHUYÊN CHÚ: Chuyên tâm chú ý vào một việc gì. Đây ý nói dồn hết tâm trí, gom hết tư tưởng vào công việc nghĩ ngợi, suy xét Kệ Kinh, để thấu hiểu lý nghĩa cho tường tận.
THUẦN LƯƠNG: Thuần là ròng rã, không tạp nhạp xen lộn; Lương là hiền lành. Có nghĩa chung là ròng rã việc hiền lành, tức trọn lành, chẳng có một điều quấy ác nào xen lộn. Đức Thầy nói:
Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
  Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.”(Kh/Thiện, Q.5)
CHÁNH VĂN
KỆ :
  41.Lòng quảng ái xót thương nhân chủng, 
Buổi lố-lăng Phật-Giáo suy đồi.
Kẻ tu hành ai nỡ yên ngồi,
  44.Mà sớm kệ chiều kinh thong thả.
Mình đã gặp con thuyền Bát-Nhã,
Có lý nào ích-kỷ tu thân ?
Phật-Tổ xưa còn ở nơi trần,
  48.Ngài gắng sức ra công hoằng-hóa. 
Nền Đại-Đạo lưu thông khắp cả, 
Bực tiên hiền đều trọng Phật-gia.
Rèn dân bằng giáo-thuyết bình-hòa, 
  52.Giống bác-ái gieo sâu vô tận. 
LƯỢC GIẢI (Từ câu 41 đến câu 52) :
-Lòng từ bi của Đức Giáo Chủ bao la như sông biển, xót thương khắp vạn loại chúng sanh, hằng tùy phương cứu độ:“Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh.”(Tình Yêu). Nhứt là giữa thời Hạ ngươn mạt pháp, làn sóng vật chất áp đảo tinh thần, khiến cho nền Đạo Phật phải suy yếu theo đà xuống dốc. Trước trạng huống ấy, những người biết giác ngộ tu hành, không thể an ngồi chốn chùa am, sống cuộc đời nhàn nhã với lời Kinh tiếng Kệ.
-Huống chi, những người đã tỏ đạo mầu đạt thông trí tuệ, hoặc đã được đứng trên con thuyền Đại Đạo, vốn đầy lòng từ ái, vị tha có lý nào chuyên lo tự độ. Thế nên dầu giữa Bể trần sóng cuộn lao xao”, Đức Giáo Chủ cũng cương quyết Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen(Tự Thán, tr.404 SGTVTB 2004), để cứu vớt sanh linh đang chìm đắm trong bể khổ.
-Đức Phật Tổ xưa kia, với lòng từ bi vô lượng vô biên, nên sau khi đắc đạo, Ngài chẳng nỡ nhập Niết bàn sớm, vẫn trụ thế hoằng pháp lợi sanh suốt 49 năm. Ngài đã từng thốt:“Ta vì muốn cứu khổ chúng sanh mà tu thành Phật, chớ không phải vì ngôi Phật cao lớn mà thành”. Rồi từ độ ấy Phật Giáo càng lúc càng lan rộng, khiến cho các bậc Tiên, Hiền, Thánh, Triết đều phải kính trọng tùng qui. Ngài còn đem giáo pháp bình đẳng trung từ chan hòa trong quảng đại quần chúng. Những người có đại căn đã sớm giác ngộ và thành Đạo trước. Còn hạng thiểu căn chậm tiến, Ngài cũng dùng mọi phương tiện làm cho họ kính tin Trời Phật, ấy là đã gieo sâu vào tạng thức họ hột giống Đạo; để rồi thời gian sau chúng sanh đó sẽ hồi tâm hướng thiện, qui y Phật Pháp.
CHÚ THÍCH :
LÒNG QUẢNG ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn đối với tất cả chúng sanh. Sách Luận ngữ nói:“Phiếm ái chúng nhi thân nhân.”(Người tu học phải thương yêu mọi người và gần gũi các bậc hiền đức).
NHÂN CHỦNG: Giống người, chỉ chung cho loài người. Đức Thầy thường thốt:
“Năm canh luống những sụt sùi,
  Cám trong nhân chủng lắm người dở dang
   (Tự  Thán, tr.404 SGTVTB 2004)
LỐ LĂNG: Cũng gọi là nhố nhăng. Có nghĩa quá mực thường, làm chướng tai gai mắt kẻ chung quanh. Ví dụ: ăn mặc lố lăng, nói năng lố lăng.
SUY ĐỒI: Lụn bại, sụp đổ, hư nát.
THUYỀN BÁT NHÃ: Xem “bát nhã thoàn” tại tr.19 Tập 2/3.
ÍCH KỶ: Chỉ biết lợi ích riêng cho mình, không hề giúp đỡ ai. Đức Thầy hằng khuyên:
“Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu,
Thì hãy dẹp tánh tình ích kỷ.(Kệ Dân, Q.2).
HOẰNG HÓA: Khai mở Đạo mầu sâu rộng trong quần chúng và giáo hóa tiếp độ toàn thể chúng sanh.
ĐẠI ĐẠO: Nền Đạo rộng lớn cao sâu. Đây chỉ cho Đạo Phật. Đức Thầy nói:
Đại Đạo giáo dân, dân bất tri,
Khai năng bạch phát đãi hà thi.
(Không Không)
TIÊN HIỀN: Các bậc Tiên gia, Hiền thánh thuở trước.
PHẬT GIA: Nhà Phật, ý chỉ Đạo Phật. Đức Thầy có câu:
 Tới đây cạn lẽ phân minh,
   Quyết đem chơn lý đặng gìn Phật gia”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
BÌNH HÒA: Bình đẳng và hòa hợp. Ý nói lời pháp giáo của Phật chỉ dạy không phân biệt cá nhân đẳng cấp, luôn hòa hợp với các chủng tộc và căn cơ trình độ của mọi giới chúng sanh. Thời xưa, trước sự phân chia bất bình đẳng của bốn giai cấp ở Ấn Độ, Đức Phật đã dạy:“ Không có giai cấp trong giọt nước mắt cùng  mặn, trong dòng máu cùng đỏ.
Ngày nay Đức Thầy cũng bảo:“Lời thuyết pháp chẳng vì nhơn ngã.(GMTK, Q.4) và:
“Tùy phong hóa dân sanh phù hợp,
Chấp bút thần tả ít bổn kinh.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Giáo thuyết bình hòa cũng còn chỉ cho giáo lý “Trung Đạo” (Con đường trung đạo). Kinh Kim Cang, Phật nói:“Thị Pháp bình đẳng, Vô hữu cao hạ.”(Pháp nầy là bình đẳng đối với tất cả, không có chi cao hơn nó, cũng không có chi thấp hơn nó). Đức Thầy  cho biết:
Dạy bổn đạo lấy câu trung đẳng,
Chẳng nói cao vì sắp rốt đời(GMTK, Q.4)
BÁC ÁI: Xem lại chú thích tại tr.58 Tập 1/3.
VÔ TẬN: Không hết, không cùng tột.
CHÁNH VĂN
  53.Sau nhằm buổi phong-trào tân-tấn, 
Đua chen theo vật-chất văn-minh. 
Nên ít người khảo xét kệ-kinh,
  56.Được dắt chúng hữu-tình thoát khổ.
Thêm còn bị lắm phen giông-tố,
Lời tà-sư ngoại-đạo gieo vào. 
Cho nhơn-sanh trong dạ núng-nao, 
  60.Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
Dùng thế-lực dùng nhiều mánh-khoé, 
Cám-dỗ người đặng có khiến sai. 
Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài, 
  64.Để khốn-khổ mặc ai trối kệ. 
LƯỢC GIẢI (Từ câu 53 đến câu 64) :
-Trước kia Đạo Phật rất thạnh hành, sự tin tưởng Tam Bảo của toàn dân vô cùng mạnh mẽ, nhưng vào thời mạt pháp cũng nhằm buổi tân tiến cạnh tranh, phần đông nhân loại chạy theo văn minh vật chất, nên ít người chịu gia tâm nghiên cứu kinh kệ, để tìm ra chơn lý hầu dìu dắt chúng hữu tình, thoát vòng đau khổ.
Bày ttường tân trước sau chung thỉ,
Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
Nghiệp tổ tiên con cháu vày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.
(Trao Lời Cùng Ông Táo)
-Tình thế đã vậy, lại còn tà sư, ngoại đạo thừa cơ quấy nhiễu chánh pháp, bày trò mê tín, làm sai lạc chơn lý. Những kẻ có uy quyền thì dùng thế lực đàn áp tôn giáo (pháp nạn), khiến cho những người nhẹ dạ phải nao núng ngã lòng, không còn mạnh tin những gương hạnh cao cả trong Phật giáo từ xưa.
-Thêm có nhiều chủ thuyết ra đời, không kiêng sợ tội phước, hay nhân quả báo ứng. Họ dùng đủ mưu mô xảo quyệt, thế lực uy quyền để cưỡng bách, cám dỗ dân chúng làm tay sai. Riêng họ chỉ ngồi không thủ lợi, miễn sao được sống cuộc đời sung sướng, vinh thê ấm tử, mặc tình cho kẻ khác chịu nỗi đói lạnh chua cay !
 CHÚ THÍCH :
PHONG TRÀO: Phong là gió; trào là triều nước dâng lên. Ý chỉ cho sự đua nhau làm việc gì ồn ào vang dội trong một thời, như gió thổi sóng dậy hay nói về khuynh hướng nhiệt liệt trong một lúc.
TÂN TẤN: Cũng gọi là tân tiến. Có nghĩa cuộc tiến hóa mới mẻ hiện nay.
VĂN MINH: Xem chú thích tại tr. 209 Tập 1/3..
KHẢO XÉT: Khảo là tra cứu, thí nghiệm; Xét là tìm tòi phân đoán. Nghĩa chung là phương pháp nghiên cứu kỹ lưỡng để tìm hiểu một việc gì cho chính xác. Ví dụ: Khảo xét kinh điển.
CHÚNG HỮU TÌNH: Chúng là số nhiều; hữu là có; tình là tình thức hay hữu duyên. Nghĩa chung là các giống động vật có tri giác và mạng sống.
Trong vũ trụ vạn hữu có hai giới: vô tình hữu tình.   a/- Giới vô tình gồm những loài không cựa quậy và hiểu biết, như: Kim thạch, đất nước, cây cỏ…
b/- Giới hữu tình thì gồm những loài có mạng sống và tri giác, nhưng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi.
GIÔNG TỐ: Mưa to gió lớn. Nghĩa bóng là sự biến đổi hay cuộc đàn áp dữ dội. Đức Thầy có câu:
Cơn dông tố mịt mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ bi.(Sa Đéc)
TÀ SƯ NGOẠI ĐẠO: Xem chú thích chữ “tả đạo” tại tr. 34 Tập 2/3.
NHƠN SANH: Cũng viết là nhân sanh, tức chỉ cho loài người sống chung trong thế giới, không phân biệt màu da, tiếng nói.
DẠ NÚNG NAO: Cũng gọi là tâm nao núng. Có nghĩa lòng bối rối lo lắng trong tâm, hồi họp, bán tín bán nghi, muốn lùi bước.
GƯƠNG XƯA: Những thành tích vẻ vang sáng lạn và hiền đức tốt đẹp của các đấng Thánh Hiền hoặc của ông cha ta đã thi thố từ trước, như tấm gương sáng nêu lại cho hậu thế noi theo. Đức Khổng Tử có dạy:“Minh kính khả dĩ sát hình; vãng cổ khả dĩ tri kim”(Tấm gương sáng để soi được mình, xét việc xưa qua để biết được việc nay).
Đức Thầy thường thống trách hạng người phụ bỏ gương xưa:
Gương Tổ Phụ còn roi lại đó,
  Sao không theo nề nếp gia phong.
(Khuyến Thiện, Q.5)
THẾ LỰC: Sức mạnh của quyền oai hay tiền bạc. Ví dụ: Người ta dùng thế lực áp bức kẻ khác, khiến họ phải phục tùng theo.
CÁM DỖ: Tìm đủ cách quyến rũ làm cho người ta mê theo.
CỦA HOẠNH TÀI: Tiền bạc và đồ vật không do sức mình làm ra một cách hợp pháp, lương thiện mà chỉ tạo ra bằng cách tà vạy không chánh đáng. Của làm ra như thế chẳng những không được giàu lâu mà còn vướng phải nhiều tai nạn:“Của hoạnh tài bất phú hoạnh tai.”(Kim Cổ Kỳ Quan). Cho nên, của hoạnh tài cũng gọi là của phi nghĩa:“Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.(Khuyến Thiện, Q.5).
KHỐN KHỔ: Khốn cùng khổ sở. Chỉ cho người khi gặp lúc nghèo túng khó khăn.
TRỐI KỆ: Trối là không bảo bọc; Kệ là mặc tình. Nghĩa chung là không bảo bọc giúp đỡ được, để mặc tình ai chịu lấy các điều cay đắng.
CHÁNH VĂN
65. Mắt thấy rõ những điều tồi-tệ, 
Tai thường nghe lắm giọng ru người. 
Thêm thời nầy thế kỷ hai mươi, 
68. Cố xô sệp thần (thánh) quyền cho hết.
Người nhẹ dạ nghe qua mê-mết, 
Rằng: nên dùng sức mạnh cạnh-tranh. 
Được lợi-quyền lại được vang danh, 
72. Bài-xích kẻ tu hành tác phước.
Làn sóng ấy nhiều người đón rước, 
Dục dân tâm sôi-nổi tràn-trề.
Cổ tục nhà phỉ-báng khinh-chê,
76. Cho tôn-giáo là mùi thuốc phiện.
Ai nếm vào ắt là phải nghiện, 
Chẳng còn lo trang võ đấu chinh. 
Lấy sắc-thân dẹp nỗi bất-bình, 
80. Bỏ đức-tính của câu nhơn-quả.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 65 đến câu 80) :
-Những hành động điêu xảo của kẻ chuyên dùng bạo lực, những cuộc lợi dụng Tôn giáo để làm lợi khí nuôi thân của tà đạo; toàn là những việc làm xấu xa nhơ nhuốc mà hiện giờ ai ai cũng đều nghe thấy. Lại thêm giữa thế kỷ 20, phái vô thần cố tình chèn ép, đè bẹp lòng tín ngưỡng Phật Trời của các Tôn giáo.
-Họ chủ trương “Ưu thắng liệt bại”(Mạnh được yếu thua), để lừa phỉnh số người nhẹ dạ mê theo và phủ nhận tất cả những gì thuộc về tinh thần cao đẹp. Chỉ biết dùng sức mạnh đấu tranh quyền lợi là trên hết, nên họ tìm đủ cách bài bác những ai lo tu hành tác phước.
-Trước làn sóng vật chất ấy đã có nhiều kẻ đón tiếp và kích động quần chúng hưởng ứng theo. Tạo nên phong trào khinh rẻ, bác bỏ những phong tục của Ông Cha từ trước.
-Họ còn kịch liệt đả kích các Tôn giáo, cho rằng Tôn giáo hay làm mê nhiễm lòng người như mùi thuốc phiện. Ai theo Tôn giáo là sống cuộc đời tiêu cực, mất hết nghị lực đấu tranh, bởi họ quan niệm vật chất hiện tại là trên hết, chỉ có uy lực của xác thân mới đánh tan được những nỗi bất bình trong xã hội, nên chẳng hề tin có luân hồi quả báo. Họ không ngờ với chủ trương ấy càng tiến mạnh chừng nào, càng gây thêm nạn chiến tranh đau khổ cho nhơn loại chừng ấy.
CHÚ THÍCH :
TỒI TỆ: Hư nát, nhơ xấu. Đức Thầy có câu:
“Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,
Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”
(GMTK, Q.4)
GIỌNG RU NGƯỜI: Dùng tiếng xướng ca, hò hát hoặc lời ngọt ngào óng chuốt làm cho người mê mết tin theo.
THẾ KỶ HAI MƯƠI: Tính theo Dương lịch thì một thế kỷ là 100 năm. Hiện nay (1900-1975) tức là trong vòng Thế kỷ thứ 20.
CỐ XÔ SỆP: Gắng sức xô đẩy, đè ép cho xẹp xuống.
THẦN QUYỀN: Những oai lực công nhiên tuyệt đối của Thần Thánh, hay là quyền thống trị sai sử và sắp đặt mọi sự việc ở thế gian của các đấng thiêng liêng. Thần quyền ở đây chỉ cho sự tin tưởng Phật Trời, Thần Thánh của các Tôn Giáo.
NHẸ DẠ: Lòng dễ tin theo người khác, thuyết khác.
MÊ MẾT: Quá mê, say chết, không còn hay biết đến việc gì khác nữa.Ví dụ: Xem, nghe mê mết; ngủ mê mết.
LỢI QUYỀN: Xem chú thích câu 784 Q.4, tr. 170 Tập 3/3 nầy.
BÀI XÍCH: Bài bác, chỉ trích thậm tệ, chê bai kịch liệt.
TÁC PHƯỚC: Làm phước, tức làm những việc có ích lợi cho nhân loại chúng sanh. Đức Thầy có câu:“Thiện duyên tác phước ý như hà.”(Viếng Làng Phú An).
LÀN SÓNG: Lớp sóng ở mặt nước, hết lượn nầy đến lượn khác, từng đợt, từng đợt. Đây chỉ cho phong trào duy vật tiến lên ồ ạt như làn sóng trên mặt nước.
SÔI NỔI: Náo động, hào hứng, được để ý nhiều. Ví dụ: dư luận sôi nổi, khiến thiên hạ sôi nổi. Sôi nổi cũng có nghĩa trong bụng đầy hơi chuyển động ra thành tiếng hứng thú hoặc giận dữ.
CỔ TỤC: Tục lệ lễ nghi xưa do ông cha để lại.  
PHỈ BÁNG: Chê bai, nói xấu; dùng lời lẽ làm mất danh giá người khác, bằng cách vạch chuyện xấu xa của người ấy ra, dù là có thật hay không.
TÔN GIÁO: Tiếng dùng để gọi chung các nền Đạo, có tín ngưỡng và đường hướng dẫn dắt nhân sanh hành thiện tránh ác.
Thời xưa, người ta lấy sự thờ kính một vị thần (Độc Thần Giáo) hay nhiều vị (Đa Thần Giáo) làm chủ đích để tín ngưỡng. Thuở loài người chưa tiến bộ họ lấy cục đá, khúc cây…làm vật thờ cúng, sau mới thờ các vị Thần. Tôn Giáo thời đó cho rằng các vị Thần cũng có linh thể tâm tánh như con người, nhứt là ở Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã…Bấy giờ người ta chỉ chú trọng về phần tín ngưỡng thôi.
Lần lượt nhân loại tiến bộ, các vị Thánh Triết ra đời mở rộng con đường đạo lý. Vào đầu Tây lịch kỷ nguyên Chúa Gia Tô xuất hiện, lập nên Tôn giáo Cơ Đốc truyền bá ở Âu Châu.
Riêng về Á Châu, có Phật Giáo là nền Đạo thuần nhứt, do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập, đem Giáo lý từ bi, bình đẳng giáo hóa chúng sanh, đến nay có trên 2.500 năm mà nhơn loại khắp cả thế giới càng lúc càng phụng hành đông đảo.
Xét cho kỹ, Phật Giáo không thể gọi là Tôn giáo như theo nghĩa chỉ các Đạo nói trên. Vì Phật Giáo có giáo lý thực tế áp dụng vào đời sống thiết thực cho nhân sanh. Nói rõ hơn, Giáo lý Phật Giáo gồm đủ “Tâm Vật Lý”, và lúc nào Phật Giáo cũng đi trước khoa học. (Trước đây 25 Thế kỷ, Phật đã biết trong nước có vi trùng và ngoài địa cầu ta ở còn có vô số địa cầu và hành tinh khác. Còn khoa học mới phát minh và thấy được vào thời gian sau đó rất lâu).
THUỐC PHIỆN: Cũng gọi là a phiến, do một thứ nhựa lấy ở mủ cây thẩu nấu thành, đốt lên có mùi thơm, người ta dùng để hút. Trong thuốc phiện có chất thường làm cho người say nghiện. Ai hút nó lâu ngày thành ghiền, tiều tụy con người từ tinh thần lẫn thể xác. Thế nên cả Tam giáo (Phật Thánh Tiên) đều cho thuốc phiện là một trong “Tứ đổ tường”(Bốn vách tường đổ: tửu, sắc, tài, phiến). Đức Thầy nói:
Nào hút thuốc phiện, hội ve chai,
 Nào trùm đĩ, ma cô nghề hút máu”.
(Trao Lời Cùng Ông Táo)
NGHIỆN: Ghiền, chỉ cho sự ô nhiễm say mê, khó bỏ được. Ví dụ: nghiện rượu, nghiện á phiện.
TRANG VÕ ĐẤU CHINH: Trang là sắp đặt chuẩn bị; là sức mạnh hay chỉ cho khí giới, như nói nghề võ hoặc võ khí. Võ còn đối với Văn. Vậy trang võ là chỉ cho sự sửa soạn, trang bị cho việc võ, việc quân sự.
Đấu là tranh hơn thua, xâu xé giành giựt. Chinh là đánh dẹp, thâu lấy (chinh phục). Nói chung là tranh giành đoạt lấy sự hơn thua với nhau, giữa hai hoặc nhiều quốc gia dân tộc hay phe nhóm..v.v…
SẮC THÂN: Phần xác thể của con người, đối với tinh thần.
BẤT BÌNH: Không bằng lòng, không ngang hàng giai cấp, giá trị như nhau.
ĐỨC TÍNH: Đức tin, tính chất tốt  của con người đã tin tưởng vào một sự việc gì cao cả. Ví dụ: tin Phật pháp hoặc tin nhân quả…Sách Phật Học Thuật Ngữ có viết: “Sở dĩ có công đức là do chỗ tín tâm, lại nữa công đức ấy cũng do tin Phật pháp mà được vậy”(Tín tâm chi công đức dã, hựu tín Phật pháp chi đức giả dã). Đức Thầy từng khuyên:
Dầu cho ai phá rối đức tin,
Ta cũng cứ một đàng đi tới.”(GMTK, Q.4)
NHƠN QUẢ: Cũng gọi là Nhân quả. Nhân là nguyên nhân, là hột giống. Quả là sự kết quả, hay trái bông. Đây là luật quả báo (Xem thêm  chú thích chữ “quả báo” tại tr.271 Tập 1/3).
  CHÁNH VĂN
  81.Dầu ai có bền gan sắt-đá, 
Cũng động lòng trước cảnh ngửa-nghiêng. 
Đạo diệu-mầu gặp lúc truân-chuyên, 
  84.Phận môn đệ phải lo vun quén.
Tằm sức nhỏ còn làm nên kén, 
Người không lo có thẹn hay chăng ?
Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng, 
  88.Với tín-nữ thiện-nam Phật-Giáo. 
Nên cố-gắng trau thân gìn Đạo, 
Hiệp cùng nhau truyền-bá kinh lành. 
Làm cho đời hiểu rõ thinh-danh, 
Công-đức Phật từ-bi vô lượng.
Đồng dẹp bớt âm-thinh sắc-tướng, 
  94.Lo chấn-hưng Phật-Pháp mới là
LƯỢC GIẢI (Từ câu 81 đến câu 94) :
-Trước hoàn cảnh xáo trộn do thuyết duy vật tạo nên, khiến nhiều kẻ nhẹ dạ ồ ạt chạy theo một cách mù quáng. Đến như số người đã từng hấp thụ thuần phong mỹ tục và có kiên nhẫn cũng muốn nao núng ngã lòng. Do đó, con thuyền hướng thượng của các Tôn giáo cũng như Đạo Phật đương nhiên phải gặp nhiều khó khăn trở ngại. Cho nên Đức Giáo Chủ khuyến tấn mỗi môn đồ cần có bổn phận tô bồi, xây đắp nền Đạo, nhứt là về tinh thần giác ngộ được vững chắc, để ngọn đèn chơn lý Phật Giáo càng lúc càng thêm rạng rỡ.
-Xét lại, loại tằm là một giống sâu nhỏ bé, kém trí giác mà chúng còn biết nhả hết cuộn tơ lòng để đền ơn cho chủ. Còn chúng ta là nhân loại, đã tự hào là có linh tri hơn muôn vật, lại được hồng ân Tam Bảo khai hóa, nếu ta chẳng lo tròn bổn phận thì so với loài tằm kia, há chẳng thẹn lắm ư ?
-Thế nên Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp tín đồ Phật Giáo (không phân biệt Tôn phái), từ hàng Tăng sư đến các thiện nam tín nữ, hãy gắng sức vừa lo tu thân sửa tánh, nghiêm trì giới hạnh; vừa hiệp tác trong cuộc phổ truyền chánh pháp, như Ngài từng dạy:“Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.”(Tứ Ân: Ân Tam Bảo, tr. 183 SGTVTB 2004).
-Bởi có quảng truyền chánh pháp thì bá tánh mới hiểu được đức độ từ bi, bình đẳng và lòng vị tha cứu khổ chúng sanh vô bờ bến của Phật. Nếu cả nhân loại đều hấp thụ được tinh thần giáo lý ấy thì khỏi cần phải đấu chinh cũng san bằng được nỗi bất bình, và đem lại sự an vui cho khắp thế giới. (Trước đây 25 thế kỷ, Phật đã dùng thuyết từ bi, bình đẳng phá tan 4 giai cấp chênh lệch ở Ấn Độ thời ấy).
-Song muốn cho việc chấn hưng Phật Pháp được kết quả như ý, thì ngay bây giờ các Tăng Ni Phật tử nên dẹp bớt âm thinh sắc tướng, vì những sự việc ấy không phải là hướng đi đến chơn lý (đạt Đạo) “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành.”(trích Tỉnh Thế Ngộ Chơn).
CHÚ THÍCH :
DIỆU MẦU: Cao sâu mầu nhiệm, khó mà nghĩ lường hay diễn tả cho hết ý.
TRUÂN CHUYÊN: Khó khăn gian khổ, không thuận lợi.
MÔN ĐỆ: Gồm chữ Môn đồĐệ tử. Ý chỉ chung những người cùng qui y một Thầy hay cùng tu học một cửa Đạo.
VUN QUÉN: Xây đắp và chăm nom bảo vệ cho vững chắc.
TẰM: Một loại sâu, người ta nuôi được và cho chúng ăn bằng lá dâu. Khi chúng lớn, tằm nhả tơ kết thành kén, chủ đem ươm lấy tơ, dệt thành hàng lãnh. Ví dụ: Nghề tằm tơ.
CHƯ TĂNG: Do chữ Tăng Già (Samgha), tức là những đệ tử của Đạo Phật, tu hạnh xuất gia, giới hạnh tịnh nghiêm và thường đem Giáo lý của Phật giảng dạy cho Đại chúng nghe. Song, chư tăng có nhiều hạng. Trong Trí Độ Luận, Ngài Long Thọ Bồ Tát đã phân chia như sau:
1)-Á Dương Tăng: Cũng gọi là Ác dương tăng, là hạng người cũng mang hình thức xuất gia, nhưng còn tối tăm chẳng phân rõ điều thiện ác nên dễ phạm tội, khi phạm tội, lại chẳng biết hối trừ.
2)-Vô tu Tăng: hạng Tăng tuy biết đã phạm lỗi mà trong tâm ý không biết hổ thẹn để hối trừ.
3)-Hữu tu Tăng: hạng Tăng đã biết việc lầm lỗi và sốt sắng để thanh trừng, không vi phạm nữa.
4)-Chân thật Tăng: hạng Tăng đã giác ngộ hoàn toàn và liễu thông đạo lý một cách minh bạch, gần bực Thánh Đức vậy.
TÍN NỮ THIỆN NAM: Xem chú thích tại tr. 61 Tập 1/3.
CÔNG ĐỨC: Công là dùng trí năng diệt hết vọng tâm phiền não. Đức là lòng luôn được thanh tịnh, từ bi và bình đẳng; hoặc là người hành đạo đến khi được trọn lành trọn sáng cũng gọi là công đức.
Trong Thắng Mang Kinh có giải:“Ác tận ngôn công, thiện mãn viết đức.”(Tu hành diệt trừ không còn điều ác gọi là “Công”, và tu hành đến chỗ toàn thiện kêu là “Đức”).
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Đức Lục Tổ cũng giảng: “Một niệm không rời chánh Đạo là Công, lòng luôn bình đẳng ngay chánh là Đức. Không lìa tự tánh chơn như diệu minh của mình là Công, đối xúc tất cả mọi việc, mọi cảnh mà không nhiễm ô dính mắc là Đức.”(Niệm niệm vô gián thị Công, tâm hành bình trực thị Đức. Bất ly tự tánh thị Công, ứng dụng vô nhiễm thị Đức).
Bởi tùy theo công năng tâm hạnh của mỗi cấp bực hành đạo mà sự biện giải “Công, Đức” có cao thấp. Chớ thật ra thì công đức từ bi của Phật có vô lượng vô biên, không thể đo lường, tính giải cho hết được (Bất khả tư nghị).
VÔ LƯỢNG: Không thể đo lường. Ý nói những số nhiều quá, lớn quá, không thể nào đo lường nghĩ đếm được. Đây chỉ cho công đức từ bi hỉ xả của Phật thật là vô lượng, vô biên.
Theo Phật học, vô lượng là một trong 10 con số lớn nhứt không đếm được: 1= vô số, 2= vô lượng, 3= vô biên, 4= vô đẳng, 5= Bất khả sổ, 6= Bất khả xưng, 7= Bất khả tư nghị, 8= Bất khả lượng, 9= Bất khả thuyết, 10= Bất khả thuyết bất khả thuyết (Hoa Nghiêm Kinh).
ÂM, THINH, SẮC, TƯỚNG: Xem lại chú thích chữ “Thinh âm” tại tr. 198 Tập 3/3 nầy và “Sắc màu cũng không” tại tr. 202 Tập 2/3.
CHẤN HƯNG: Mở mang cho thịnh vượng. Ý nói làm cho nền Phật pháp được hưng thạnh và lan rộng khắp nơi để mọi giới chúng sanh đều được nương nhờ tu học. Đức Thầy hằng khuyên trong bài “Thu Đã Cuối”:
Chấn hưng Phật giáo học đường,
Dưới trên hòa thuận chọn đường qui nguyên”.
PHẬT PHÁP: Xem chú thích tại tr. 54 tập 1/3.
CHÁNH VĂN
  95.Nói cho đời hiểu Phật Thích-Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
Ta cũng chẳng hoàn-toàn thông-thạo, 
Nhưng phân cùng bổn-đạo xa gần. 
Có một điều già trẻ ân-cần, 
100.    Là phải biết nguyên-nhân Phật-Giáo.
Hồi thế-kỷ khoảng trong thứ sáu, 
Trước kỷ-nguyên tây-lịch thời xưa.
Pháp Giáo chưa biệt-lập tam thừa,
Thuở Trung-Quốc nhà Châu Chiêu-Đế.   
Bên Ấn-Độ thành Ca-Tỳ-La-Vệ,
Có đức vua Tịnh-Phạn nhơn từ.
Khắp thần dân lạc nghiệp an-cư,
 108.   Trên chúa thẳng tôi ngay phò tá.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 95 đến câu 108) :
-Đến đây Đức Giáo Chủ nhắc lại cho mọi người hiểu rõ về lược sử Đức Thích Ca. Xưa, lúc xuân thời Ngài đã giác ngộ kiếp sống con người đầy sự bi thương thống khổ:“Công danh phú quí chung hườn mộng.” (Không Không). Chúng sanh chỉ lo phân biệt xâu xé lẫn nhau, rốt cuộc tất cả đều đi theo con đường sanh, già, bệnh, chết. Cho nên Ngài cương quyết từ bỏ ngôi cao, duyên thắm…để tìm ra chánh Đạo hầu giải khổ cho vạn loại chúng sanh. Ngày nay Đức Thầy cũng khiêm tốn cho rằng tuy chưa hoàn toàn thông suốt, nhưng vì lòng vị tha nên Ngài có bổn phận thuyết minh cho khắp tín đồ được rõ về lịch sử của Đức Phật Thích Ca.
-Điều thứ nhất là mỗi Phật tử cần hiểu rành về nguồn gốc Đức Phật đã phát xuất từ đâu. Có thế, ta mới vững niềm tin nơi gương hạnh và lời giáo huấn của Ngài. Phật đản sanh trước Tây lịch kỷ nguyên khoảng 6 thế kỷ, tức là trước Chúa Jésus giáng sanh 563 năm ( Có nhiều thuyết chép trước 658, 626, 624, 566, 561 năm, v.v.) . Nhưng đến kỳ Đại Hội Phật giáo Thế giới lần thứ 11 ( tháng 11 năm 1952 tại Tokyo) thì Đại hội đã xác định và thừa nhận  năm Phật Đản là 624 trước Tây lịch và năm Phật nhập diệt là 544 trước Tây lịch. Bấy giờ nước Trung Hoa thuộc về nhà Châu vua Chiêu Đế. Còn tại xứ Trung Ấn Độ có Tịnh Phạn Vương đang ngự trị tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Vốn là nhà vua rất minh chánh, đầy lòng nhân ái đối với toàn dân, nên dưới triều được lắm tôi trung giúp đỡ, dân chúng đều vui sống trong cảnh lạc nghiệp an cư. Cũng nhờ đó mà nước của Tịnh Phạn Vương thời ấy rất phong phú cường thịnh.
 CHÚ THÍCH :
TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ, tự mình xét biết những điều hay dở tội phước của mình. Tự giác là một trong ba điều tỉnh giác: Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn. Đức Thầy nói:
Tực giác, giác tha ta phải nói,
Hỡi người dương thế bớt xa hoa.”(Thi Xuân)
XẢ THÂN TẦM ĐẠO: Không nghĩ tiếc gì về bản thân để tìm ra Đạo lý, hoặc là dốc hết tâm chí về việc tầm cầu Đạo pháp, cũng như câu “Xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo”. Đức Giáo Chủ hằng khuyên:“Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần xả thân tu tỉnh.”(Bát Chánh: Chánh Tư Duy, tr. 196 SGTVTB 2004). Và:
Xả thân tầm Đạo vô vi,
 Nhiệm mầu thâm diệu nan tri lão bày”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
HOÀN TOÀN THÔNG THẠO: Hiểu biết rõ ràng mọi lẽ mọi vật không hề thiếu sót.
ÂN CẦN: Xem lại chú thích tại tr. 230 Tập 2/3.
NGUYÊN NHÂN: Nguồn gốc đầu tiên hay là cái duyên cớ sanh ra một kết quả gì. Đây nói cái căn nguyên xuất phát Đạo Phật.
KỶ NGUYÊN TÂY LỊCH: Kỷ là ghi; nguyên là đầu, tức là cái tiêu chuẩn để tính năm. Nước Tàu và nước ta lấy năm mỗi nhà vua lên ngôi làm kỷ nguyên.
Các nước Tây phương thì lấy năm Chúa Jésus giáng sanh làm kỷ nguyên, nên gọi là Tây lịch hay Dương lịch.
TAM THỪA: Cũng gọi là Tam Thặng (Phạn ngữ: Trijana) có nghĩa là 3 cổ xe, tức là ba khoa giáo lý để độ ba hạng người tu Phật.
Sở dĩ Đức Phật phân làm Tam thừa là vì sau khi Phật thành Đạo, Ngài thuyết Kinh Hoa Nghiêm trọn 21 ngày mà các hàng Thinh Văn không lãnh hội được. Phật mới quán xét căn cơ của các giới chúng sanh chẳng đồng nhau, nên dùng phương tiện thuyết ra Tam thừa, gồm có:
1/-Đại Thừa (Đại Thặng): Cũng gọi là Bồ Tát thừa để độ bậc đại căn đại trí đến quả Diệu Giác và hóa độ  chúng sanh vô số mà không biết mỏi. Ví như xe trâu (ngưu xa) có sức mạnh chuyên chở được nhiều người
2/-Trung Thừa (Trung Thặng): Cũng gọi là Duyên Giác thừa để độ bực trung căn trung trí đến quả đẳng giác, nhưng phần giác tha không được rộng lớn. Ví như xe nai (lộc xa), có thể chở được một số ít người.
3/-Hạ Thừa (hạ Thặng): Cũng gọi là Thinh Văn Thừa để độ bực hạ căn hạ trí đến quả Thánh Đạo, chỉ tự độ chớ chưa được phần độ tha. Ví như xe dê (dương xa) có sức chở được một người.
Theo thời nay ta có thể ví ba xe ấy, như: Xe lửa, xe hơi và xe đạp. Trong ba thừa kể trên, tuy có cao thấp khác nhau, nhưng thừa nào cũng đưa hành giả ra khỏi Tam giới (giải thoát sanh tử). Các hành giả cũng lần lượt tiến lên Tối thượng nhứt thừa (Phật thừa) như nhau.
TRUNG QUỐC: Cũng được gọi là Trung Hoa hay nước Tàu, thủ đô là Bắc Kinh. Trung Quốc có biên giới trên đất liền dài 22.800 km, tiếp giáp cả thảy 15 nước lân cận: phía đông là Bắc Hàn ( North Korea ), phía bắc là Cộng Hòa Mông Cổ; đông-bắc là Nga; tây-bắc là Kazakhstan, Kirghizstan và Tajikistan; tây và tây-nam là A-phú-hãn (Afghanistan), Hồi Quốc (Pakistan), Ấn Độ, Nepal, Sikkim và Bhutan; phía nam là Việt Nam, Lào, Miến Điện. Bờ biển Trung quốc dài hơn 14.500 km; cách bởi biển về phía đông và đông-nam Trung Quốc là Nam Hàn (South Korea), Nhựt Bổn, Phi Luật Tân, Brunei, Nam Dương và Mã Lai. Diện tích: 9,6 triệu km vuông, lớn hàng thứ ba sau Nga và Canada, tương đương Hoa Kỳ; dân số: 1.242.612.226 (theo thống kê năm 2000, đông dân nhất thế giới). ( Hiệu đính theo BKTĐ Wikipedia).
NHÀ CHÂU CHIÊU ĐẾ: Tức vua Chiêu Vương, tên là Hà, con vua Khương Vương đời nhà Châu nước Trung Quốc. Theo sách “Châu Thơ Ký” thì Chiêu Vương làm vua nhà Châu đến năm thứ 24 là năm Đức Thích Ca đản sanh tại Ấn Độ. Bấy giờ nước Việt Nam nhằm đời Hùng Vương (Thượng Cổ thời đại).
ẤN ĐỘ: Quốc gia bán đảo, thủ đô là Tân Đề-li (New Delhi). Ấn-độ được bao quanh bởi 6.103 km bờ biển: Biển Á-rập (Arabian Sea) về phía tây-nam, vịnh Bengal về phía đông-nam và Ấn Độ Dương về phía nam. Ấn độ có 15.200 km đường biên giới trên đất liền. Về phía tây Ấn Độ giáp Hồi quốc; phía bắc và đông bắc giáp các nước: Nepal, Bhutan, Bangladesh, Miến Điện  và  phần lớn biên giới phía bắc còn lại xác định bởi dãy núi Hi-mã Lạp-sơn ngăn cách với Trung Quốc. Diện tích: 3.287.263 km vuông (lớn thứ 7 trên thế giới); dân số: 1.028.610.328 (thống kê năm 2001, đông dân thứ 2 sau Trung quốc). ( Hiệu đính theo BKTĐ Wikipedia).
Theo Phật học, thời xưa nước Ấn Độ còn được gọi là Thiên Trúc, Tây Thiên, Tây Vức. Đó là nơi sinh trưởng của Đức Phật Tổ Thích Ca và  là nơi phát xuất Đạo Phật. Thuở ấy, Ấn Độ bao gồm nhiều nước nhỏ, trong đó, có nước Ma-Kiệt-Đà ở Bắc Ấn là lớn hơn hết, có dòng   sông thiêng, Hằng Hà (Ganges), chảy ngang qua, là trung tâm toàn cõi  Ấn Độ. Vùng nầy nay là nước Nepal.
THÀNH CA TỲ LA VỆ: Cũng gọi là Điệu Đức Thành (Phạn ngữ: Kapilavastou), phiên âm có nhiều tên: Ca-Tỳ-La, Ca-Tỳ-La Tô-Đô, Tuy-Vệ-La, Ca-Duy-La. Có nghĩa: Kinh Đô màu vàng. Phật đản sanh tại thành nầy. Thành Ca-Tỳ-La nay không còn nhưng nhiều nhà khảo cổ có đến tìm ra các dấu vết của thành ấy tại nước Népal ngày nay.
VUA TỊNH PHẠN: Phạn ngữ: Souddhodana, phiên âm: Thủ-đồ Đà-na hay Du-đầu-đàn, dịch là Tịnh Phạn Vương. Có nghĩa: Nhà Vua hay làm việc bố thí một cách trong sạch. Ngài thuộc dòng họ Thích Ca, cha của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta (Siddharta), thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ (Kshatriya).
LẠC NGHIỆP AN CƯ: Đời sống rất yên ổn và vui vẻ với công ăn việc làm.
PHÒ TÁ: Giúp đỡ.
 CHÁNH VĂN
 109.   Đức Hoàng-Hậu Ma-Da phong-nhã,
Sắc đẹp dường ngọc thốt hoa cười.
Một hôm kia vẻ mặt vui tươi,
 112.   Đến trước bệ tâu cùng thánh thượng.
Rằng : Thần thiếp nhờ ơn chung hưởng,
Của hoàng-gia cũng được vinh-quang. 
Kể từ nay thiếp muốn an nhàn, 
 116.   Dưỡng tâm-trí lần xa thế trược. 
Chẳng phiền kẻ hầu sau đón trước, 
Chỉ trừ người ý hiệp tâm đầu.
Xin một điều ở chốn long lâu,
 120.   Tập đức tánh khoan-dung đại độ. 
Tránh tất cả những điều thô-lỗ,
Chẳng ưa gần kẻ bạo ngang-tàng. 
Thiếp cúi đầu ngưỡng vọng Thiên-nhan,
124.    Phê cho thiếp những điều xin ấy.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 109 đến câu 124) :
-Hoàng hậu Ma Da là vợ chính của Vua Tịnh Phạn, người có đức hạnh hiền hòa, thông minh tột chúng, phong nghi cốt cách đoan trang thùy mị; miệng tươi như hoa, lời thanh tợ ngọc, thật đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ. Bà gồm đủ sắc tài và đức độ, ai được kiến diện cũng đều khởi tâm vui thích.
-Sáng hôm nọ, bà tắm gội và trang phục sạch sẽ, rồi thân hành đến trước sân chầu của Vua Tịnh Phạn quì tâu: Từ thần thiếp được lịnh Vua ban ân huệ, cùng hưởng mọi sự vinh hạnh, thật chẳng thiếu điều chi. Nhưng từ nay xin Vua cho phép thần thiếp, sống cảnh nhàn thanh để lo tịnh dưỡng thân tâm, xa lần sự thường tình thế trược.
-Thiếp chẳng muốn làm bận các vệ hầu tỳ nữ như trước, chỉ cần một vài kẻ ý hiệp tâm đầu là đủ. Với mục đích được ở nơi thâm cung thanh tịnh là để lo tu tập các đức tánh cao đẹp chớ không chi khác. Đây cũng là phương tiện cho thần thiếp bớt nghe thấy những tiếng tục tằn thô lỗ, những cách ở ăn vô lễ, tàn bạo ngược ngang. Vậy ngưỡng mong lịnh Vua hoan hỉ, chuẩn phê cho thần thiếp những điều cầu xin ấy.
 CHÚ THÍCH :
HOÀNG HẬU: Người vợ chánh của vua.
MA DA: Do Phạn ngữ (Mâyâ), phiên âm là Ma Da hay Ma-ha Ma-da: Có nghĩa đại, đa thắng hay là đại thuật, đại huyễn. Bà Ma-ha Ma-da là vợ chánh của Vua Tịnh Phạn (Ma-Da Phu Nhơn), mẹ của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Người đời thường tôn xưng bà là Thánh Mẫu hay Phật Mẫu (bậc sanh ra vị Đại Thánh).
Sau khi sanh Thái tử bảy ngày thì Ma Da phu nhơn thác sanh lên cõi trời Đao Lỵ làm vị Tiên. Đến khi Đức Thích Ca thành Phật, Ngài có lên Đao Lỵ Thiên, giảng đạo cho Thánh Mẫu và chư Thánh Tiên nghe trọn ba tháng. Chính nơi đây Phật giảng Kinh Địa Tạng.
PHONG NHÃ: Phong lưu tao nhã. Ý chỉ người có đức hạnh văn chương và cốt cách sang trọng. Truyện Kiều có câu:“Phong tư tài mạo tuyệt vời, Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”.
NGỌC THỐT HOA CƯỜI: Ý nói người rất xinh đẹp, miệng cười tươi tắn như hoa nở, và nói ra lời trong trẻo như tiếng ngọc khua.
TRƯỚC BỆ: Trước bực thềm, do chữ bệ rồng. Trước bực chỗ Vua ngự.
THÁNH THƯỢNG: Lời tôn xưng ông Vua, như là bực Thánh cao cả.
THẦN THIẾP: Tiếng khiêm tốn của người vợ đối với Vua.
HOÀNG GIA: Nhà Vua.
VINH QUANG: Vẻ vang rực rỡ.
AN NHÀN: Cũng viết là nhàn an. Có nghĩa bình yên thong thả. Đức Thầy có câu:
Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,
Với bốn ma mới đặng an nhàn.(GMTK, Q.4).   
THẾ TRƯỢC: Cõi đời đầy sự xấu xa nhơ uế.
CHẲNG PHIỀN: Không muốn làm nhọc công bận rộn ai. Ví dụ: Tôi chẳng muốn làm phiền anh.
Ý HIỆP TÂM ĐẦU: Xem chú thích chữ: Tâm đầu ý hiệp, tr. 60 Tập 2/3.
LONG LÂU:Lầu rồng, tức cung điện của nhà Vua.
KHOAN DUNG ĐẠI ĐỘ: Người có đức độ rộng lớn, thường hay tha thứ những kẻ lầm lỗi. Đức Thầy từng dạy:“Hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư xử với mọi người”(Lời Khuyên Bổn Đạo, tr.450 SGTVB 2004).
THÔ LỖ: Thô tục lỗ mãng. Ví dụ: nói năng thô lỗ, cử chỉ thô lỗ. Đức Thầy hằng khuyên:“…Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ, làm cho đời sống được êm dịu thanh bai hơn…”(Luận Về Tam Nghiệp/Ác khẩu).
NGANG TÀNG: Ngang ngược ngông nghênh, không biết lễ nghĩa liêm sỉ. Ví dụ: ăn nói ngang tàng bạo ngược.
NGƯỠNG VỌNG: Trông lên mà cầu mong cho được một sự việc gì. Đức Thầy có câu:
  Đầu ngưỡng vọng Đất Trời minh chứng,
  Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời”.
(Thu Đã Cuối) 
THIÊN NHAN: Theo nghĩa chữ một là mặt trời có sức sáng chói cả thế gian, được ấm áp đượm nhuần vạn vật, không sót chỗ nào, nên khi nói đến Thiên Nhan là để tôn xưng vị Vua có đức hạnh ban ân huệ cho vạn dân được no ấm, như mặt trời chiếu soi vậy. Sách Xuân Thu có câu “Thiên oai bất vi nhan chỉ xích.”(oai đức của Trời dù gang tấc cũng không sai chạy). Nghĩa bóng là chỉ cho nhà Vua (mặt Vua).
PHÊ: Bằng lòng, ký nhận vào văn kiện của người khác được phép thi hành theo lời cầu xin.
CHÁNH VĂN
 125.   Vua nghe xong vội-vàng đứng dậy,
Bèn chuẩn y tỏ ý vừa lòng.
Bà tâu thêm ở trước đền rồng, 
 128.   Xin Thánh-thượng bao-dung kẻ khó.
Lòng yêu dân ví như con đỏ, 
Tội giảm tha, đói giúp cơm tiền.
Cứu dân nghèo trong lúc đảo điên,
 132.   Lấy đức rộng bủa trong bá-tánh.
Vua hứa chịu giúp người đói lạnh, 
Bà lui về cung điện nghỉ-ngơi.
Đêm trăng thanh gió mát thảnh-thơi,
 136.   Tiết hòa-thuận khắp nơi hoa nở.
Đức Hoàng-hậu trong lòng hớn-hở, 
Giấc chiêm-bao Bà thấy lạ-lùng. 
Bạch-tượng từ ở chốn không trung, 
 140.   Bỗng sa xuống mình Bà hối-hả.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 125 đến câu 140) :
-Khi Hoàng Hậu Ma Da tâu xong, Vua Tịnh Phạn liền đứng lên với vẻ mặt hân hoan ngỏ lời chấp nhận. Bà vội tâu thêm: Xin lịnh Hoàng Thượng từ nay nên mở lòng nhân ái rộng lớn, thương giúp, đùm bọc số người lâm cảnh nghèo đói cô quả.
-Với tấm lòng yêu mến, chở che cho toàn dân như tình thương của cha mẹ lo cho đứa con mới sanh. Còn đối với các tội nhân cần cứu xét phân minh, xem kẻ nào tội nặng giảm bớt, bằng nhẹ nên tha bổng. Đồng thời ra lịnh xuất kho, trợ cấp cơm áo cho dân nghèo, phát thuốc cho những người có bịnh. Lúc lê dân gặp tai nạn khó khăn, lịnh Vua nên dùng mọi phương tiện bảo vệ, cứu giúp và lấy đức độ vị tha, rộng bủa khắp nơi để người người được gội nhuần ân huệ.
-Nghe xong, Vua Tịnh Phạn xét lời cầu xin của Hoàng Hậu, toàn là điều đạo đức cao cả và ích nước lợi dân, nên một lần nữa Vua tuyên hứa sẽ thực hiện y theo các khoản ấy. Tâu xong, Hoàng Hậu liền trở về cung an nghỉ.
-Hôm nọ, chính Bà cũng đến ngọ môn để chẩn tế gạo tiền, thuốc vải cho dân nghèo, mãi say sưa công tác từ thiện, đến quá trưa Bà mới lui gót. Tối lại, Hoàng Hậu cùng kẻ tâm phúc dạo xem kiểng vật, nhằm lúc mùa tiết điều hòa, ngàn hoa khoe sắc, dưới cảnh trời trong gió mát, ánh trăng soi sáng cả vườn, nhìn hoa lá lấp lánh như muôn ngàn mảnh gương phản chiếu. Bấy giờ lòng Hoàng Hậu tràn ngập nỗi hân hoan, thơ thới, vài phút sau Bà trở lại phòng an giấc.
-Đêm ấy Bà mộng thấy bốn Thần lực đến khiêng long sàng bà, đem thẳng lên chót núi Hy Mã Lạp Sơn, đặt xuống. Bỗng thấy từ giữa trời một con voi trắng có sáu ngà, miệng ngậm hoa huệ bay xuống đứng bên long sàng. Voi liền dùng ngà vạch hông bên hữu của Bà mà chui vào. Chính giờ phút ấy Hoàng Hậu Ma Da bắt đầu thụ Thánh thai. (Nhân quả Kinh có chép: Bấy giờ Bồ Tát Hộ Minh từ cung Trời Đâu Xuất, quán biết thời kỳ giáng sanh đã đến mà Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da là bậc nhân từ đức hạnh, có túc duyên làm cha mẹ Ngài trong nhiều tiền kiếp, nên Ngài thị hiện giáng trần bằng cách hóa hình bạch tượng 6 ngà là tiêu biểu cho pháp Lục độ vạn hạnh. Bốn chân của tượng là tiêu biểu cho bốn pháp như ý túc. Ngoài ra cũng có thể nhận: Sắc trắng và hoa huệ là tiêu biểu cho sự thanh tịnh, bất nhiễm của bậc Đại trí huệ, còn tượng là tượng trưng năng lực mạnh mẽ của Đại Sĩ Bồ Tát.)
CHÚ THÍCH :
VỘI VÀNG: Mau lẹ.
CHUẨN Y: Chấp nhận y theo lời cầu xin.
ĐỀN RỒNG: Chỗ Vua ngự, chạm phết toàn hình rồng.
BAO DUNG KẺ KHÓ: Tha thứ và trợ giúp, chở che cho những người nghèo đói.
CON ĐỎ: Do chữ “xích tử”. Có nghĩa đứa con mới sanh còn đỏ, rất cần sự đùm bọc chở che của cha mẹ.  Ý nói bậc Vua hiền, lòng hằng thương yêu bảo vệ dân chúng, như cha mẹ thương lo cho đứa con mới sanh (còn đỏ).
GIẢM THA: Giảm là chiết bớt năm bảy phần; tha là tha bổng. Đây là nói luật khoan hồng của quốc gia đối với các tù nhân.
ĐẢO ĐIÊN: Ngửa nghiêng lộn xộn. Ý chỉ gặp cảnh truân chuyên, nghèo đói, tai nạn.v.v…
CUNG ĐIỆN: Đền đài dinh thự của nhà Vua ở.
TIẾT: Theo âm lịch (Á đông) căn cứ vào thời gian và khí hậu mà phân ra mỗi năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông và tám tiết lớn: Lập Xuân, Xuân phân, lập Hạ, Hạ chí, lập Thu, Thu phân, lập Đông, Đông chí. Trong đó còn chia ra nhiều tiết nhỏ…
Chữ “Tiết hòa thuận” là nói thời tiết xây đúng lúc, mưa nắng điều hòa, khiến hoa kiểng, cây trái đều tốt tươi sum mậu.
HỚN HỞ: Vui mừng.
CHIÊM BAO: Trong giấc ngủ thấy các cảnh lành dữ hiện ra. Rất nhiều nguyên nhân sanh ra, đại khái có ba phần:
1/-Do nơi tạng thức (A Lại Da thức) chứa những nghiệp duyên và các tư tưởng xấu hoặc tốt ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), giờ đây nó diễn lại, như cuộn phim chiếu bóng, không thiếu sót.
2/-Do ảnh hưởng xác thể và lục căn hiện tại, như: đau ốm, sợ hãi, vui mừng hoặc nghe tiếng động bên ngoài, hay nằm cấn gân máu chuyển vận không đều mà sanh ra.
3/-Do nơi thần mộng: Khi người tu hành tâm đức gần đồng hòa và cảm ứng với chư Phật, Thánh hoặc lòng quá tha thiết mà được các thần linh báo mộng, cho thấy những điềm tốt lành, hay đặng truyền Đạo pháp.v.v…như trường hợp giấc chiêm bao của Hoàng Hậu Ma Da ở đây và bảy điềm mộng của ông A Nan (Xem Tòng Lâm cổ tích của Như Sanh); được truyền Đạo như Vương Hiếu Liêm đời Tống (Xem Thất Chơn Nhơn quả truyện) ;và ông Trần Văn Nhu, đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An (Xem Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu và Dật Sĩ). Nhưng các trường hợp nầy ít xảy ra.
LẠ LÙNG: Rất kỳ lạ, không thường thấy biết.
BẠCH TƯỢNG: Con voi trắng.
KHÔNG TRUNG: Giữa khoảng không (ngay trên trời).  
BỖNG SA: Thình lình bay rơi xuống.
HỐI HẢ: Gấp rút.
    CHÁNH VĂN
 141.   Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi hương. 
Bà rảo chơn bèn bước ra vườn,
 144.   Truyền thị-vệ thỉnh vua lai đáo.
Vua y lời đến nơi hoa thảo,
Lại gần Bà sao rất quái-kỳ.
Tay chơn bèn run-rẩy một khi, 
 148.   Muốn quì xuống mắt dường tăm-tối.
Tiếng Thần Tiên trên không ca trổi,
Rằng ta mừng vua hữu thiện căn. 
Sắp có con thế giới chẳng bằng, 
 152.   Sau người ấy lập nên Đạo cả.
Vua nghe xong cúi đầu bái tạ, 
Liền phán cùng Hoàng-hậu Ma-Da. 
Có việc chi vội-vã dời ta, 
 156.   Khá nói lại đầu đuôi tường tất.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 141 đến câu 156) :
-Hoàng Hậu vừa tỉnh giấc, cảm thấy trong người khoan khoái lạ thường và khắp phòng đều có mùi hương nồng nặc. Một thứ hương thơm mà từ trước tới giờ Bà chưa lần nào được ngửi. Bà lẹ làng bước đến vườn hoa, ra lịnh cho thị vệ thỉnh vua Tịnh Phạn tới ngay giờ ấy.
-Vua được tin đi thẳng đến huê viên, nhưng có điều kỳ lạ, khi bước đến chỗ Hoàng Hậu, bỗng nhiên tâm nhà vua bắt hồi hộp, đôi mắt hoa lên và tay chơn đều rung chuyển; hình như bị ánh điện quang rọi đến, khiến Vua tự muốn quì xuống.
-Liền theo đó, Vua ngửi được mùi hương thơm, tai nghe tiếng ca nhạc vang dội khắp nơi. Đó là lời nhạc của các Thần Tiên chúc mừng Vua và Hoàng Hậu sắp sanh đặng người con mà cả thế giới chưa một ai sánh kịp. Bởi vị Thánh Nhân ấy, sau nầy sẽ sáng lập nền Đại Đạo và mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho muôn loài.
-Nghe lời chúc tụng xong, Vua Tịnh Phạn vui mừng chi xiết, liền cúi đầu lễ tạ. Đoạn rồi Ngài bước tới phán hỏi Hoàng Hậu, có điều chi hệ trọng, Phu nhơn hãy trình bày hết cho Trẫm nghe.
CHÚ THÍCH :
GIẤC MƠ TIÊN: Cũng gọi là giấc tiên. Có nghĩa giấc ngủ của người đẹp, ý dùng để diễn tả cho đẹp câu văn. Cũng có nghĩa giấc mộng thấy cảnh quí báu. Đây là giấc mơ của Hoàng Hậu thấy điềm sắp được thọ thai, do một vị Bồ Tát giáng trần. Đức Thầy có câu:“Mơ Tiên hồn muốn vụt bay...”(Tự Thán, tr.405 SGTVTB 2004).
PHÒNG HUÊ: Cũng gọi là phòng hoa. Ý chỉ phòng của người đàn bà ở, có trang diện bông hoa cho tăng thêm vẻ đẹp.
THỊ VỆ: Người theo hầu và bảo vệ nhà Vua.
LAI ĐÁO: Lại đến.
HOA THẢO: Cỏ và bông. Nơi vườn hoa của Hoàng Hậu Ma Da, có trồng đủ kiểng vật, hoa thơm cỏ lạ.
QUÁI KỲ: Lạ lùng khác thường.
CA TRỔI: Tiếng ca hát và nhạc sáo vang lên.
THIỆN CĂN: Xem chú thích tại tr. 48 Tập 1/3.
THẾ GIỚI: Xem chú thích tại tr. 50 Tập 1/3.
ĐẠO CẢ: Xem chú thích tại tr.73 Tập 2/3 và  chữ  đại đạo tại tr. 48 Tập 1/3.
ĐẦU ĐUÔI TƯỜNG TẤT: Phân kể hết mọi việc trước sau rành rẽ:“Bày tường tận trước sau chung thỉ
(Trao Lời cùng Ông Táo)
  CHÁNH VĂN
 157.   Bà thuật rõ chiêm bao trong giấc, 
Xin vua vời ít kẻ bàn giùm.
Các thầy bàn được lịnh vào cung, 
 160.   Nghe xong-xả tâu rằng điềm quí.
Ngày thắm-thoát đông qua hạ chí, 
Bà trổ sanh Thái tử đẹp tươi. 
Mặt trang-nghiêm khí-phách hơn người, 
 164.   Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ. 
Họ Thích-Ca từ đây cũng ngỡ,
Sẽ có người nối nghiệp hoàng-gia. 
Liền đặt tên là Sĩ-Đạt-Ta, 
 168.   Cả triều chính treo hoa yến ẩm.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 157 đến câu 168) :
-Bấy giờ Hoàng Hậu tường thuật các hiện cảnh trong chiêm bao cho Vua Tịnh Phạn nghe, và yêu cầu Vua mời các Thầy chuyên đoán điềm mộng vào, để bàn xem hung kiết. Vâng lịnh Vua, các người ấy vào cung bàn đoán một hồi, họ tâu rằng: theo điềm mộng của lịnh Bà vừa thấy rất quí báu; tương lai cả Hoàng tộc và dân chúng sẽ gặp nhiều diễm phúc.
-Ngày tháng trôi qua rất mau lẹ, phút chốc đã đến mùa Khánh Đản, nhằm ngày mùng tám tháng Tư năm Bính Dần trước Tây lịch 563 năm, tính đến nay (1975) là 2.538 năm – gần 26 thế kỷ (có thuyết chép ngày rằm tháng Tư trước Tây lịch 624 năm.). Đức Hoàng Hậu đang ngoạn cảnh trong vườn Lâm Tỳ Ni, khi Bà bước đến cội Vô ưu (Ưu Đàm hoa), bỗng thấy một đóa hoa vừa tươi nở, xinh đẹp khác thường, hương thơm ngào ngạt; Bà vội vói tay hái cành hoa, thoạt đản sanh Thái Tử. (Theo lược truyện kể: Lúc Hoàng Hậu vói tay hái hoa Vô Ưu thì Thái Tử khai hông mẹ mà ra và lúc ấy có nhiều hoa sen lớn đỡ gót Thái Tử. Cũng có chỗ chép Thái Tử vừa sanh ra liền bước tới 7 bước và bước lui 7 bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân, một tay chỉ Trời, một tay chỉ Đất và nói:“Thiên thượng địa hạ duy Ngã độc tôn”(Trên trời dưới đất chỉ có cái Ta – Chơn ngã/Đại ngã – là cao hơn cả). Tuy mới sanh ra, song tướng trạng của Thái Tử lộ đầy vẻ uy nghiêm tốt đẹp, khí phách phi thường.
-Tin Hoàng Hậu hạ sanh Thái Tử được loan đi từ nội cung đến ngoại thành, lẹ như tiếng dội. Riêng cả Hoàng tộc Thích Ca ai cũng vui mừng, và nghĩ rằng: Từ đây chẳng còn bận lo thiếu người kế nghiệp vua nữa. Liền theo đó, Vua và Hoàng Hậu chọn đặt cho Thái Tử một cái tên đầy ý nghĩa là Siddartha (phiên âm là Sĩ Đạt Ta hay Tất Đạt Đa), và cả triều chính từ Vua quan đến thứ dân, cũng đều treo hoa kết tụi, mở tiệc ăn mừng.
   CHÚ THÍCH :
CÁC THẦY BÀN: Những người chuyên bàn đoán về các điềm mộng để hiểu sự hung kiết ở tương lai.
 NGÀY THẮM THOÁT: Ngày là chỉ cho thời gian. Thấm thoát, cũng viết là thấm thoắt, có nghĩa: rất mau lẹ. Ý nói  ngày giờ trôi qua rất mau chóng. Đức Thầy có câu:
Thiều quang thấm thoát dường tên,
Mắc vòng sanh tử có bền được đâu.”(Hoài Cổ).
ĐÔNG QUA HẠ CHÍ: Hết mùa Đông kế sang mùa Xuân rồi đến mùa Hạ, ý nói mùa tiết đi qua rất mau lẹ. Đây chỉ từ ngày bà Ma Da thọ thai đã qua ba mùa (9 tháng), nay sắp đến ngày sanh nở.
THÁI TỬ: Con trưởng của vua, hoặc người con trai của vua, được lập nên để sau nối ngôi, và được ở cung phía Đông nên gọi là Đông Cung Thái Tử. Đức Thầy đã viết trong “Luận Việc Tu Hành”:
Mình vàng Thái Tử ngôi còn bỏ,
Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”.
TRANG NGHIÊM: Đoan trang nghiêm chỉnh, dáng điệu điềm đạm, tươi tắn, oai nghi đàng hoàng.
KHÍ PHÁCH: Chí khí đởm lược và tinh thần nghị lực mạnh mẽ.
THẦN DÂN: Tôi dân. Ý chỉ tất cả quan viên công chức và dân chúng trong nước.
HỌ THÍCH CA: Do chữ Hán: Thích Chủng (dòng họ Thích), tức là họ của Vua Tịnh Phạn. Ở Ấn Độ thời ấy dòng họ Thích đông đảo lớn lao hơn hết.
NGỠ: Tưởng lầm, đoán sai. Ca dao có câu:
Thế gian lắm kẻ mơ màng,
  Thấy hòn son thắm, ngỡ vàng Trời cho”.
SĨ ĐẠT TA: Do Phạn ngữ :Siddartha. Cũng phiên âm là Tất Đạt Đa hoặc Tất Bà Tất Đạt, Tất Đa, Tất Đà…Có nghĩa: bậc đắc đến quả vị hoàn toàn. Tàu dịch là Nhứt thiết, nghĩa là Thành tựu: Thành tựu cho mình và cho vạn loại chúng sanh. Đây là tên của Đức Thích Ca lúc chưa thành Phật, và Ngài có hiệu Thánh riệng trong gia tộc là Cồ Đàm (Gautama).
TREO HOA YẾN ẨM: Chưng diện bông hoa và mở tiệc ăn uống vui mừng.
   CHÁNH VĂN
 169.   Có nhà sư cách thành mấy dặm, 
Thường ở ăn trong sạch hiền-từ. 
Lòng thẳng ngay chẳng có vị tư, 
 172.   Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ, 
Hiểu thiên-cơ thấu mối diệu-huyền. 
Ông là người Bà-la-môn tiên,
 176.   A-Tư-Đà tiên hiền tên lão.
Thời buổi ấy vua ưa người Đạo, 
Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng. 
Xin vua cho ông bước vào trong, 
 180.   Được yết-kiến tử-hoàng luôn thể.
Ông xem xong bỗng liền sa lệ, 
Vẻ mặt buồn chẳng thốt ra lời. 
Thấy lạ-lùng vua bước đến nơi, 
  184.  Liền phán hỏi bảo ông phân rõ.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 169 đến câu 184) :
-Bấy giờ gần thành Ca Tỳ La Vệ có vị Đạo sĩ tên A Tư Đà, tu theo Bà La Môn Giáo, một nền Đạo cổ truyền ở Ấn Độ, do Kriskna sáng lập trước đó 4.000 năm. Nhờ quyết tâm hành đạo, giữ lòng ngay chánh, đúng theo giáo lý, sống trọn cuộc đời thanh tịnh, ông A Tư Đà sớm thấu đạt lẽ cơ huyền và được chứng đắc quả Tiên.
Thuở ấy vua Tịnh Phạn rất kính mến các nhà tu. Cho nên khi nghe tin Hoàng Hậu sanh được Thái Tử, A Tư Đà liền đến chúc mừng trước sân chầu, và xin với Vua cho ông được ra mắt Hoàng Tử.
-Được lịnh Vua chấp nhận, ông tiến thẳng đến nội cung. Khi nhìn qua toàn thân Thái Tử, A Tư Đà lặng yên đăm chiêu suy nghĩ, đôi mắt từ từ rơi lệ. Thấy thế, Vua Tịnh Phạn rất ngạc nhiện, liền phán hỏi Tiên Ông:- Vì sao lại khóc ?
 CHÚ THÍCH :
NHÀ SƯ: Ông thầy tu theo Đạo Phật. Chữ Sư có nhiều chỗ dụng khác nhau, như: Giáo sư là thầy dạy học, Y sư là thầy thuốc…; về phương diện tu hành, Thiền Sư  là các cao Tăng tu Phật, hoặc là ông Thầy dạy tu Thiền, Luật sư là vị tăng lảu thông về Luật tạng, Pháp sư là thầy chuyên dịch và giảng giải các tạng Kinh, Luận sư là thầy thông minh biện bác về Luận tạng.
Tóm lại, nhà sư là danh từ thông dụng để gọi chung trong giới tăng đồ tu hành và thường giảng dạy Đạo pháp.
DẶM: Khoảng đường bề dài do nhà nước ấn định. Tùy theo đường bộ, đường thủy, mỗi xứ, mỗi nước có sự khác nhau. Như ở nước ta thời xưa thì một dặm đường bộ có 1.350 thước mộc, ở nước Tàu thì một dăm bằng 1.800 thước, ở các nước Âu Tây, một dăm (mile) là 1.610 m, còn một dặm biển (hải lý) có 1.852 m, v.v…
VỊ TƯ: Cũng viết là tư vị. Vị có nghĩa là vì, thiên về, ngã về một bên, có nghĩa là riêng, nghịch với công (chung). Vị tư là thiên về một bên nào để xét đoán hay xử sự, chớ không theo lẽ công bằng đoan chánh. Đức Thầy bảo:
“Nền đạo đức vị tư bất nhã,
Ta đừng phân nhân ngã mới hay”.
   (Cho Ô. Tham tá Ngà)
THANH TỊNH: Xem chú thích tại tr. 181 Tập 3/3.
ĐẠO LÝ: Xem chú thích tại tr. 128-130 Tập 1/3.
THẦN TIÊN: Xem chú thích tại tr. 134-135 Tập 2/3.
THIÊN CƠ: Xem chú thích tại tr. 64 Tập 1/3.
DIỆU HUYỀN: Sâu kín mầu nhiệm, ngoài sức hiểu biết của thế gian, chỉ có người nhứt tâm hành đạo mới thấu đạt. Đức Giáo Chủ hằng dạy:
Diệu huyền chơn lý noi đường sáng,
Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
BÀ LA MÔN: Phạn ngữ: Brahmana, là một tôn giáo thờ kính đấng Phạm Thiên, Tàu dịch là Tịnh Hạnh, vì người tu theo Đạo nầy giữ hạnh rất thanh tịnh.
Theo quan niệm của Bà La Môn giáo thì trước khi trời đất và vạn vật chưa sanh, có vị trời Phạm Thiên, sanh ra nhơn loại và vạn vật. Trong lúc sanh, có dòng từ miệng sanh ra, có dòng từ bụng, từ tay, chơn sanh ra; đó là nguyên nhân tạo thành bốn giai cấp ở Ấn Độ:
1/-Bà La Môn (Brahmana) giai cấp Tăng lữ.
2/-Sát Đế Lỵ (Kshatriya) giai cấp Vua Chúa.
3/-Phệ xá hay Tỷ xá (Vaisya) giai cấp Nông, Công, Thương.
4/- Thủ Đà La (Sudra) giai cấp Nô lệ.
A TƯ ĐÀ: Phạn ngữ:Asita, tên vị đạo sĩ tu theo Bà La Môn Giáo, được chứng quả Tiên.
TIÊN HIỀN: Bậc hiền triết thuở trước, tức chỉ vị tiên A Tư Đà.
YẾT KIẾN: Ra mắt, gặp người mình muốn gặp.
SA LỆ: Rơi nước mắt.
PHÁN: Lời của Vua nói với bề tôi ở dưới.
    CHÁNH VĂN
  185.  Trước cung-điện ông liền bày tỏ, 
Rằng tử-hoàng chừng được thành nhơn. 
Lìa đền-đài khổ-cực chẳng sờn, 
  188.  Tìm Đạo-lý dắt-dìu sanh-chúng. 
Ngài sẽ được thế-gian ca tụng, 
Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn.  
Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn, 
  192.  Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết.
Cả hồng-trần đau-thương thống-thiết, 
Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân-hồi. 
Vô phước nên tủi bấy phận tôi, 
  196.  Chớ chẳng có điều chi lo ngại.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 185 đến câu 196) :
-Trước sự ngạc nhiên, chờ đón của Vua và mọi người, Tiên nhơn A Tư Đà trình bày tự sự: Theo Ông nhìn rõ thì toàn thân của Thái Tử có đủ 32 tướng hảo khác thường, xưa nay chỉ có vị Chuyển Luân Thánh Vương và Phật mới được như vậy. Ông đoán rằng: Nếu sau nầy Hoàng Tử nối ngôi sẽ làm đến bậc Chuyển Luân Thánh Vương, bằng đi tu ắt đạt thành quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng phần chắc là tới tuổi trưởng thành Hoàng Tử sẽ lìa bỏ cung vàng ngôi báu, chẳng núng nao  trước sự gian khổ nơi rừng thiêng, nước độc để tìm ra chánh Đạo hầu giải khổ cho chúng sanh.
-Với khí tuợng ấy chắc chắn Ngài sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, khi đó, khắp dương gian đều được gội nhuần Pháp nhũ và cả Tam giới chúng sanh, cũng hết lời ca tụng công đức Ngài.
-Từ đó, Ngài sẽ ban vui cứu khổ cho khắp nhân gian; biết bao người nhờ nương theo pháp nhiệm cùa Ngài mà giải thoát sanh tử. Xét lại, hạ thần quá thiếu phước, kém duyên nên tự tủi lòng rơi lệ, chớ chẳng có điều chi khác lạ, xin Hoàng Thượng an lòng !
CHÚ THÍCH :
THÀNH NHƠN: Nhơn cũng viết là nhân, nghĩa là người. Thành nhơn là nên người. Phàm giới nam từ 18 tuổi, nữ từ 16 tuổi trở lên là đến tuổi thành nhơn.
CHẲNG SỜN: Xem chú thích tr. 252 Tập 1/3.
CA TỤNG: Khen ngợi xưng tụng, tức dùng thi văn hoặc bài ca, bài hát để khen tặng, chúc tụng những bậc có công ích cho đời hoặc Đạo. Ví dụ: ca tụng công đức của Phật. Trong loạt bài “Những câu chú thường niệm”, tr. 465 SGTVTB 2004,  Đức Thầy có dịch:
“Ngài là Vua Pháp tột cao,
Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
Tiên, người đồng kính Đạo Thầy,
Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh.
Nay tôi qui mạng thiệt hành,
Ngỏ mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời.
Tỏ ra khen ngợi những lời,
Dù cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng”.
QUẢ PHẬT VẸN TRÒN: Thành Phật trọn vẹn hay hoàn toàn giác ngộ. Đây là ý nghĩa của chữ “Giác hạnh Viên mãn”, bởi bực có đủ Tam giác: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn (tròn đầy hạnh Phật).
PHẬT THUYẾT: Lời Phật nói ra hay Kinh Pháp mầu diệu của Phật truyền dạy. Đức Thầy từng nói:“Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại.”(Khuyến thiện Q.5), hoặc:
“Lời Phật dạy từ bi bác ái,
    Dạy nhơn từ quảng đại mở mang”.
(Bài Nguyện trước Bàn Thờ Ông Bà)
LUÂN HỒI: Xem lại chú thích tại tr.36 Tập 1/3.
VÔ PHƯỚC: Không có phước. Đây là lời than tiếc của ông A Tư Đà, vì thiếu phước nên ông mắc phải một trong 8 nạn (cảnh) là sanh trước (hoặc sau) một vị Phật ra đời nên không được nghe lời Phật dạy.(Tám nạn: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, Trường thọ Thiên, Bắc cư lư châu, Thế trí biện thông, Sanh trước và sau Phật và đui, điếc, câm ngọng. Ai mắc một trong 8 hoàn cảnh nầy, khó mà nghe pháp và tu được.)
TỦI THÂN: Tự hổ thẹn xót xa và than trách cho phận mình.
    CHÁNH VĂN
  197.  Đức Hoàng-hậu đến ngày thứ bảy, 
Dứt nợ trần nên vội qui tiên. 
Có bà dì thay thế mẹ hiền, 
  200.  Giùm săn-sóc trông-nom Thái-tử.
Khi lớn lên cho người dạy chữ, 
Lúc vào trường chẳng học mà thông. 
Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong, 
  204.  Cho Thái-tử đừng lìa cung-điện.
Hội triều-đình các quan lựa tuyển, 
Nàng Du-Gia được chọn kết hôn. 
Vua nghĩ rằng muốn tâm yên-ổn, 
Chọn cung-phi mỹ-nữ làm trò. 
Cất đền-đài lộng-lẫy đẹp to, 
  210.  Ngày ca múa đêm bày lơi-lả.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 197 đến câu 210) :
-Sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, thì Hoàng hậu Ma Da (Maya) từ trần, thần thức Bà được siêu sanh lên Cung Trời Đao Lợi hưởng quả Tiên. Vua Tịnh Phạn bèn giao Thái tử cho bà Ma-ha Bà-xa Bà-đề, tức là em ruột của Hoàng Hậu lo dưỡng nuôi chăm sóc.
-Càng lớn lên, diện mạo Thái Tử càng khôi ngô, Ngài có sức khỏe hơn người, tài năng xuất chúng. Lịnh Vua cho mời các Giáo sư danh tiếng nhứt trong xứ, về các môn văn tài, võ thuật đến dạy Thái Tử; song Thái Tử sáng suốt dị thường, bất luận môn học nào, hễ nghe qua một lượt Ngài đều thông hiểu hết ý nghĩa, khiến cho các Giáo sư phải ngạc nhiên khiếp phục. Dầu vậy, nhưng Thái tử không bao giờ tỏ ra ngạo mạn, Ngài luôn luôn có  đức độ ôn hòa nhã nhặn, bình đẳng vô tư và đầy lòng thương người mến vật.
-Bởi nhớ lời tiên đoán cùa A Tư Đà, Vua Tịnh Phạn rất lo sợ cho Thái Tử lớn lên đi tu; nhứt là thấy cử chỉ của Ngài không hề vui đùa theo thế sự như bao nhiêu Công tử khác. Ngài lại thường có vẻ trầm tư, nên Vua tìm đủ cách cản ngăn không cho Thái Tử ra khỏi điện đền.
-Đến năm Thái Tử 16 tuổi, Vua hội hết Hoàng tộc và các quan văn võ, để chọn người làm lễ thành hôn cho Thái Tử. Sau khi lựa tuyển thì được con gái của Vua Thiện Giác, tức là Công Chúa Da-du Đà-la, người có sắc đẹp và hạnh đức đầy đủ hơn hết, cho sánh duyên cùng Thái Tử và về sau nàng sanh đặng người con trai là La Hầu La. Đã thế, song Vua cũng chưa an tâm, liền truyền lịnh xây cất cho Thái Tử ba tòa lầu nguy nga tráng lệ: một cái để nghỉ trong  mùa nóng, một cái nghỉ trong mùa lạnh, và một cái nghỉ trong mùa không nóng không lạnh. Ngoài ra Vua còn cấp thêm cho Thái Tử 500 mỹ nữ tuyệt đẹp, để ngày đêm hát múa đờn ca và bày các thứ vui say, khơi gợi lòng Ngài phải đắm đuối theo đó, quên nghĩ đến việc xuất gia.
CHÚ THÍCH :
NỢ TRẦN: Cũng gọi là nợ đời, nợ trần tục, do chữ “túc trái”. Theo thuyết nhân quả luân hồi: con người sanh ra cõi đời là để trả những nghiệp nợ đã tạo ra từ nhiều kiếp trước. Nếu dứt nợ thì không còn trở lại. Song chữ dứt nợ trần ở đây ý nói hết kiếp sống trong cõi trần.
QUI TIÊN: Trở về cảnh Tiên. Do câu “Sanh ký tử qui”(sống ở thác về). Theo quan niệm Tam giáo thì cõi đời nầy là cảnh giả tạm, con người sanh ra như kẻ ở trọ, để rồi một ngày kia mãn nghiệp trở về quê xưa cảnh cũ (Phật, Thánh, Tiên). Đức Giáo Chủ có viết:
Ngày kia được trở gót hài,
 Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
BÀ DÌ: Người dì ruột của Thái Tử, tên là Ma-ha Bà-xa Bà-đề (Maha Pradjapati), tên khác: Maha Kiều-đàm-di (Maha Gotamide), em ruột của Hoàng Hậu Ma Da (Maha Maya). Sau Bà xuất gia tu hành được chứng quả A La Hán, và đứng ra đỡ đầu cho hàng phụ nữ vào Đạo. Bà rất có công trong việc hoằng hóa đạo mầu đối với hàng phụ nữ. Trong Hội Pháp Hoa, Đức Phật có thọ ký cho Bà, sau nầy sẽ thành Phật hiệu là Nhứt thiết chúng sanh Hỷ Kiến Như Lai.
THÔNG: Hiểu suốt, biết rộng. Trường hợp thông suốt của Thái Tử Sĩ Đạt Ta là do khiếu thông minh sẵn có, trong bản tánh từ nhiều tiền kiếp tu hành mà được (sinh nhi tri) chớ chẳng phải nhờ sự học hỏi mà thông như người đời (học nhi tri).
TRIỀU ĐÌNH: Nơi Vua và các quan viên họp nhau để bàn việc nước.
LỰA TUYỂN: Chọn lọc.
GIA DU: Nói cho đủ là Gia-Du Đà-La (Yacôdharâ) con gái Vua Thiện Giác (Souddhodana). Vốn là một Công Chúa có đầy đủ đức hạnh thuần mỹ và sắc đẹp hơn hết, trong các Công Chúa thời ấy.
Theo Lược Truyện, lúc Đức Thích Ca tu khổ hạnh 6 năm nơi Khổ Hạnh Lâm thì Công Chúa Gia Du ở Hoàng Cung cũng nghiêm trì giới hạnh, và sau bà xuất gia tu hành chứng quả Thánh.
Trong Pháp Hoa Hội, Phật có thọ ký cho Bà: Sau khi Bà thờ phụng nhiều Đức Phật, sẽ thành Phật hiệu là: Cụ Túc Thiên Vạn Quang Minh.
KẾT HÔN: Kết có nghĩa là buộc, thắt; do điển tích ông Tơ bà Nguyệt dùng xích thằng (chỉ đỏ) buộc chân của đôi trai gái có duyên nợ với nhau. Hôn có nghĩa là gả cưới, cũng có nghĩa là ban đêm, vì theo tục xưa, cuộc gả cưới thường cử hành ban đêm. Cho nên kết hôn có nghĩa sánh duyên chồng vợ.
CUNG PHI: Những phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh được chọn vào cung, để hầu hạ Vua và Hoàng Hậu.
MỸ NỮ: Người con gái có sắc đẹp.
LÀM TRÒ: Bày tuồng, đóng lớp. Như ca hát, nhảy múa cùng các thú vui.v.v…
LỘNG LẪY: Rực rỡ nguy nga.
LƠI LẢ: Cợt nhả, bỡn hớt, có ý khêu gợi dục tình, trêu ghẹo việc bướm ong.

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget