CHÚ GIẢI QUYỂN BA SÁM GIẢNG
Chú giải từ câu 409 – 612 (Quyển III)
CHÁNH VĂN
409.Bàn-môn tài phép nào tường,
Kêu Trời giậm Đất cũng thì
dạ rân.
Nói cho trần-thế liệu toan,
412. Chớ theo tả-đạo mà tan xác hồn.
Nó làm nhiều phép nhiều môn,
Bùa mê thuốc lú mê hồn
chúng-sanh.
Thành binh sái đậu cũng rành,
416. Nếu tin thời mắc tan tành về sau.
Bây giờ bất luận người nào,
Không dùng của thế sắc màu
cũng không.
Nói cho bổn-đạo rõ lòng,
LƯỢC GIẢI (từ câu 409 đến câu 420) :
-Đoạn nầy Đức Thầy tiên
tri: Sau đây sẽ có Bàn môn tả đạo ra đời. Nó có nhiều pháp lạ, uy quyền, một
tiếng kêu trời, một cái giậm đất cũng đều ứng theo. Vậy bá tánh nên lo liệu
trước để xa lánh, kẻo lầm lạc theo nó mà hồn xác tiêu tan.
-Chúng dùng đủ phương cách
gạt gẫm người đời, nào sái đậu thành binh, kêu mưa hú gió, nào bùa chú thuốc
mê, tiên đoán thời cơ, thấu tỏ cả tâm lý vận mạng…khiến người dễ mê tín. Nếu ai
theo chúng, chẳng đưa mình đi đến đâu, kết cuộc chỉ rước lấy tai hại.
-Để thấu triệt đâu tà đâu
chánh, Đức Thầy dặn dò: Bất cứ một ai, không ham sắc tài danh vị, lìa bỏ sắc
tướng thinh âm và chẳng lợi dụng của bá tánh thập phương, đó là người hành đạo
chơn chánh, kẻ nào nương theo tất được kết quả cao quý.
CHÚ THÍCH :
BÀN MÔN: Chỉ cho tà đạo (ngoại đạo), thường dùng yêu
thuật lừa gạt hay sát hại sanh linh.
LIỆU TOAN: Liệu lượng, toan tính, sửa soạn. Đức Thầy
có câu;
“Ai biết nghe thì sớm liệu toan,
Để đến việc như người thất nghiệp”.(GMTK, Q.4).
TẢ ĐẠO: (Xem lại chú thích nơi câu 77, Q.2 Tập nầy).
THÀNH BINH SÁI ĐẬU: Phép cầm nắm đậu vãi ra biến hóa
muôn ngàn binh tướng, sát hại sanh linh. Đây là phép thuật của bọn bàn môn tả
đạo. Truyện Tam Quốc chép: Thời mạt Hớn có giặc Huỳnh Cân (mỗi người đều chít
khăn vàng). Cầm đầu là ba anh em Trương Lương, Trương Giác, Trương Bửu. Mỗi khi
ra trận, chúng hay dùng phép sái đậu thành binh để thắng đối phương. Sau bị Lưu
Bị, Quan Công và Trương Phi diệt trừ.
Giữa thời mạt pháp nầy,
cũng có lắm tà đạo ra đời nhiễu hại lê dân. Đức Thầy cùng chư Phật Thánh có
trách nhiệm diệt trừ:
“Thương tưởng người mê Lão xuống trần,
Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh Cân”.
(Đáp Lời Ông Nguyễn Kỳ Trân)
SẮC MÀU CŨNG KHÔNG: Sắc là sự tướng, chỉ cho cái gì
thấy được, cầm nắm sờ mó được kể cả sắc đẹp; màu là các sắc xanh, đỏ, trắng,
vàng. “Cũng không” là chẳng dùng màu sắc và hình tướng. Ở đây ý nói nhà tu nào
không còn dùng âm thinh sắc tướng mới là chân chánh. Tỉnh Thế Ngộ Chơn có câu:“Sắc
tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành”. Đức Thầy
cũng từng khuyên:“Hãy tìm kiếm cái không mới có”(Kệ Dân Q.2).
Toàn câu có ý dạy: Ai hành
theo chánh pháp vô vi mới đúng chơn lý và Chánh Đạo bằng ngược lại là lạc vào
tà thuyết.
VINH VANG:
Tốt tươi thạnh vượng, rực rỡ vẻ vang.
CHÁNH VĂN
421.Địa-Tiên tài phép đa đoan,
Phi đao bửu kiếm mê-man mắt
trần.
Phật truyền thâu hết phép Thần,
424. Cứu an bá-tánh một lần nạn nguy.
Phiên-binh bốn phía tứ vi,
Kể sao
cho xiết chuyện ni sau này.
Lớp thì thú ác dẫy-đầy,
428. Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.
Kẻ hung chừng đó làm mồi,
Cho
bầy ác-thú đền bồi tội xưa.
Bây giờ còn mãi lọc-lừa,
432. Chẳng lo kiếm chỗ đụt mưa sau nầy.
Hiền lành chừng đó sum-vầy,
Quân-thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
Đến đó Ta mới mừng cười,
436. Nhìn xem Ngọc-Đế giữa Trời định
phân.
Thiên-Hoàng mở cửa Các-Lân,
Địa-Hoàng cũng mở mấy từng ngục-môn.
Mười cửa xem thấy ghê hồn,
440. Cho trần coi thử có mà hay không.
Nhơn-Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng
đồng trừng-trị kẻ lòng tà-gian.
Ấy là đến lúc xuê-xang,
444. Tam-Hoàng trở lại là đời
Thượng-nguơn.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 421 đến câu 444) :
-Đoạn
giảng trên cho biết, sau nầy phái Địa Tiên dùng đủ tài hay phép lạ trưng bày để
lòe mắt trần thế, khiến kẻ nhẹ dạ tưởng là Phật Tiên nên tin theo, không ngờ bị
bọn chúng lợi dụng. Song đến ngày kết cuộc nhờ chư Phật dùng thần thông thâu
hết tà thuật để cứu nguy bá tánh.
-Trước
khi ấy còn có tai nạn chiến tranh do quân xâm lược kéo đến bao vây, họ tranh
giành giết chóc lẫn nhau, suốt cả ngày đêm thật là rùng rợn. Lại thêm các loài
hổ lang ác thú, từ miền rừng núi tràn xuống sát hại sanh linh.
-Những
kẻ bấy lâu ăn ở hung bạo, gây nhân độc ác, giờ đây phải chịu cho các loài thú
dữ phân thây để đền tội. Thế mà hiện giờ bá tánh mãi còn nghi ngờ lần lựa,
chẳng sớm tìm Đạo tu hành hầu sau nầy được thoát qua nạn khổ.
-Sau
cuộc chiến loạn hãi hùng ấy, nhiều người hiền đức được sống còn, giữa Chúa tôi
Thầy tớ đồng chung hưởng cảnh thanh bình vui đẹp, lại còn được xem sự định
phân, thưởng phạt của Đức Ngọc Đế.
– Bấy
giờ, Vua Trời sẽ mở cửa đền vàng cho mọi người được thấy:
“Lưu ly hổ-phách mấy tòa đài-cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,
Quân cùng Thần náo- nức vui tươi”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
Còn
Diêm Vương cũng mở rộng mười cửa ngục, tất cả sự trừng phạt tội nhân được phô
diễn rõ ràng trước mặt quần chúng, để khách trần thử xem có thật hay không ?
-Riêng
phần Đức Minh Vương (Nhơn Hoàng) cũng dùng lý công bằng mà “Xử những kẻ
hung hăng tồi tệ, Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”(GMTK, Q.4).
Chính giờ phút ấy là bắt đầu của đời Thượng Ngươn Thánh Đức.
CHÚ THÍCH :
ĐỊA TIÊN: Số người tu theo bàn
môn tả đạo, luyện bùa chú, phép thuật, được một vài thần thông linh thính. Hoặc
chỉ cho những người có bộ óc sáng kiến, chế tạo các vũ khí tàn hại sanh linh.
PHI ĐAO BỬU KIẾM: Dao bay kiếm
báu, một trong nhiều phép của tả đạo thường dùng; họ đọc thần chú rồi phóng đao
hoặc kiếm bay đi giết người trong nháy mắt, dù là ở xa ngàn dặm. Ý chỉ kẻ tà
đạo hay khoe tài để gạt người mê tín.
PHIÊN BINH: Chỉ cho quân xâm
lược, từ các nước khác kéo đến xâm lấn nước ta. Đức Thầy nói (phần trên, Q.3):
“Lao xao bể Bắc non Tần,
Quân phiên tham báu xa gần cũng qua.
Tranh phân cho rõ tài ba,
Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi”
QUÂN THẦN CỘNG LẠC: Vua tôi cùng hiệp mặt vui vầy.
Trong bài Nang Thơ Cẩm Tú, Đức Thầy có câu:
“Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,
Muôn năm cộng lạc Chúa hiền tôi trung”.
THIÊN HOÀNG: Ông Vua cai quản cõi Trời.
CÁC LÂN: (Xem lại chú thích nơi câu 309 trên).
ĐỊA HOÀNG: Diêm La Vương, vị Vua cai quản cõi Địa
ngục.
NGỤC MÔN: Cửa ngục. Chỉ nơi nhốt các tội nhơn hung ác
(Xem chú thích chữ “Địa ngục” tại tr. 94, Tập 1/3).
NHƠN HOÀNG: Vua cõi người, chỉ cho vị Thánh Vương đời
Thượng ngươn sắp tới. Ngài Huệ Lựu (Phật Thầy) đã nói:
“Minh Vương xuất thế ngôi cao,
Lập đời Thượng cổ anh hào hiền lương”.
Đức
Thầy cũng bảo trong “Kệ Dân, Q.2”:
“Đức Minh Vương ngự chốn Nam Thành,
Đặng phân xử những người bội nghĩa”.
XUÊ XANG: (Xem chú thích nơi câu 406 trên).
TAM HOÀNG: Chỉ cho ba vị Vua: Thiên Hoàng, Địa Hoàng
và Nhơn Hoàng vừa giải trên (khác nghĩa với chữ Tam Hoàng trong thời thượng cổ
bên Trung Hoa).
CHÁNH VĂN
445.Khuyên dân lòng chớ có sờn,
Rán tu thì được xem đờn trên mây.
Người hung chết đất chật thây,
448. Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân.
Mấy người còn được xác thân,
Thì là Đài-Ngọc Các-Lân mới
kề.
Bây giờ kẻ nhún người trề,
452. Chê Ta rằng dại rằng khờ cũng cam.
Dương-trần bỏ bớt tánh tham,
Đừng chơi cờ-bạc đừng làm
ác-gian.
Để sau coi Hội coi hàng,
456. Coi Tiên coi Phật mới ngoan bớ trần.
Điếm-đàng đĩ-thõa chớ gần,
Để sau xem thấy non Tần
xôn-xao.
Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
460. Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 445 đến câu 460) :
-Đức Giáo Chủ khuyên trong
dân chúng, chớ nên sờn lòng nao núng trước nghịch cảnh, thử thách, cứ cố gắng
tu hành mãi, hầu sau nầy thấy được cảnh:“Chín từng mây nhạc thổi tiêu
thiều”(Kệ Dân, Q.2).
Lức đó, những kẻ hung ác
phải chịu thảm sát, thây nằm chật đất:“Cảnh sông máu núi xương tha thiết”(GMTK,
Q.4). Trước tình cảnh ấy ai trông vào cũng bắt thương tâm.
-Sau cuộc tuyển chọn đó,
người nào còn sống nguyên xác thể, vào được đền vàng điện ngọc chầu mừng Chúa Thánh.
Còn hiện giờ, dầu người đời có chê Đức Thầy là khờ dại, Ngài cũng cam chịu.
-Ngài hằng khuyên bá tánh
nên diệt trừ lòng tham lam ích kỷ, bỏ hẳn cờ bạc và những hành động gian tà,
bạo ác. Đồng thời lo trau giồi đức hạnh, để sau nầy được dự các Hội lành và
kiến diện Phật Tiên tại miền Bảy Núi.
-Nhứt là hãy tránh xa những
chỗ ăn chơi trụy lạc, hành động hư thân mất nết. Mỗi người an phận với cảnh
nghèo, để gìn tròn đạo hạnh, bền tâm kiên chí niệm Phật làm lành, ắt ngày kia
được hưởng cảnh an nhàn tự tại.
CHÚ THÍCH :
TÁNH THAM: (Xem lại chú thích tại tr.206 Tập 1/3).
ÁC GIAN: (Xem chú thích nơi câu 264 Q.2 Tập
nầy).
COI HỘI COI HÀNG: Xem các hội lớn. Theo cơ giảng thì
sau nầy có nhiều cuộc hội tại miền Thất Sơn như:
-Hội do các nước tranh
giành châu báu:
“Theo ta đến chốn Tiên bang,
Đặng coi các nước hội hàng Năm non”.(Thiên Lý Ca)
-Hội
Tiên Phật tuyển chọn người hiền:
“Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà,
Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.
(Thức
Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)
-Hoặc
là:
“Ai mà sửa đặng vuông tròn,
Long Vân đến hội lầu son dựa kề”(Sám Giảng Q.3)
Và:
“Muốn xem được hội Long Đình,
Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn”(Để Chơn Đất Bắc)ĐIẾM ĐÀNG: Kẻ gian
xảo hay lường gạt người. Những kẻ chơi bời, ăn mặc diêm dúa. Ví dụ: dân cờ bạc
đàng điếm.
ĐĨ THÕA: Gái điếm: chơi
bời đĩ thõa.
NON TẦN: (Xem chú thích tại
tr.241, Tập 1/3).
XÔN XAO: Cũng gọi nhôn nhao. Có
nghĩa ồn ào rộn rịp:“Thiên hạ lao xao giữa cõi trần”(Cổ thi).
BỀN LÒNG NIỆM PHẬT: Ý dạy người
tu môn Tịnh độ (niệm Phật) phải có chí bền, cứ trì niệm mãi cho đến khi diệt
sạch vọng trần. Hoặc:
“Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,
Hưởng công niệm Phật rất yên lành”.
(Cho
Cô Năm Võ Thị Hợi)
Không
vì hoàn cảnh khó khăn hay thời gian dài dặc mà đổi thay, thối chuyển. Ngài Huệ
Lựu (Phật Thầy) có viết:
“Bền lòng niệm Phật ân cần,
Gắng công tu niệm cũng bằng bạc
muôn”.
Đức
Thầy nay cũng dạy:
“Nhớ lời dạy dỗ ca ngâm,
Di Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
THANH NHÀN: Cũng gọi là nhàn
thanh. Có nghĩa: thảnh thơi nhàn nhã. Đức Thầy, trong bài Hoài Cổ, có câu :
“Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”.
CHÁNH VĂN
461.Đừng quen thói cũ làm càn,
Trộm
gà cắp vịt xóm làng ghét vơ.
Khi xưa Ta cũng làm thơ,
464. Mà đời trần-hạ làm ngơ ít nhìn.
Dạy cho trần- thế phỉ tình,
Đàng
Tiên cõi tục phân minh hai đường.
Bây giờ hát-bộ là thường,
468. Để sau Phật hát tỏ tường cho xem.
Cải-lương tuồng ấy cũ mèm,
Tốn tiền buồn ngủ lại thèm đồ ăn.
Nhảy lui nhảy tới lăng-xăng,
472. Làm tuồng mèo mả thêm nhăng cho đời.
Hạ-nguơn lòng dạ đổi dời,
474. Bây giờ khổ-não đến đời là đây.
LƯỢC GIẢI (từ câu 462 đến câu 474) :
-Đoạn nầy Đức Thầy kêu gọi bá tánh hãy dứt bỏ những thói xấu xa từ
trước, như: tham gian, trộm cắp,…làm cho thôn xóm chán ghét. Tiền kiếp Ngài
cũng có lần viết Kệ Giảng, khuyến hóa nhân sanh, nhưng không được mấy người
để ý.
-Ngày
nay Đức Thầy dạy thật nhiều, để cho dân chúng rõ đâu là đường về Tiên cảnh,
siêu thoát an vui và đâu là đọa lạc trần mê sanh tử, hầu chọn một lối đi tốt
lành an tịnh. Ngài cũng khuyên mọi người, không nên bỏ thời giờ xem hát xướng
hãy lo tu hành đi, rồi sau nầy Trời Phật sẽ giúp cho xem cuộc diễn biến của
tuồng đời rất ly kỳ.
-Đến
như các đoàn cải lương hiện giờ, họ cũng diễn đi diễn lại những tuồng tích cũ
mèm, xem chẳng bổ ích chi, lại còn tốn tiền. Phần nhiều họ phô diễn các tuồng
tích, tình tứ lã lơi, khêu gợi lòng ái dục, khiến con người quên hết nền nếp
gia phong, rồi gây thêm nghiệp tội mà giờ đây đành chịu khổ.
CHÚ THÍCH :
PHỈ TÌNH: (Xem chú thích
nơi câu 172 trên.).
ĐÀNG TIÊN CÕI TỤC: Đàng
Tiên là con đường siêu thoát về cõi Tiên; Cõi Tục là cảnh thế gian (phàm tục)
chúng sanh đang ở. Ý nói Đức Thầy dùng lời Kệ Giảng phân giải rõ ràng về đường
lối, cách thức làm thế nào được về cảnh Tiên hưởng sự tiêu diêu khoái lạc, và
hành động ra sao mà phải vào cuộc phàm tục, chịu muôn ngàn khổ não.
PHÂN MINH: (Xem chú thích
nơi câu 208 trên)
HÁT BỘ: Cũng gọi là hát bội. Một
lối hát tuồng có sân khấu và tranh cảnh, màn trướng (thời xưa không có màn
ảnh). Đào kép dùng điệu bộ nhứt định cho từng trường hợp, để diễn tả các cảnh
vui buồn. Cách hóa trang, cũng nhứt định cho mỗi vai: Trung, Nịnh, Hiền, Hung,
lời đặt để theo ba điệu: Nam, Khách và Nói lối.
CẢI LƯƠNG: Là hát cải
lương. Một lối hát trên sân khấu như hát bội, nhưng tuồng tích có cả xưa và nay
cũng được phân màn, phân cảnh như lối hát Âu Châu. Lời hát đặt theo các điệu
ca, lý, Nam Bắc, Tây, Tàu; nhạc đệm phần nhiều là nhạc Âu tây. Ngày xưa, Ngài
Huệ Lựu đã khuyên:
“Đừng ham hát bộ cải lương,
Để sau coi hát của Vương Minh Hoàng.
Cải lương là thói điếm đàng,
Hát bộ giễu xóm, giễu làng xưa nay”.
MÈO MẢ: Do thành ngữ “Mèo mả gà
đồng” ý chỉ cho hạng đàn ông, đàn bà hoặc trai gái tư tình với nhau; hẹn hò gặp
gỡ nhau nơi nầy, nơi nọ, trái với phong tục lễ giáo. Như mèo đực mèo cái nhảy
nhau ngoài gò mả, gà trống đạp gà mái ngoài đồng; gà đồng còn có ý nghĩa loài
ếch: chúng thường bắt cặp nhau ở chỗ có nước lắp xắp. Đức Thầy có câu:
“Xưa nay mèo mả lung lăng,
Làm
cho quên mất Đạo hằng Thánh nhơn”.
(Đáp Lời Ô. Lương Văn Tốt)
CHÁNH VĂN
Rán nghe lời dạy của Thầy,
476. Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.
Tây-Phương Thầy lại quá xa,
Nên Ta
mới nói cạn lời dân nghe.
Đừng ham lên ngựa xuống xe,
480. Ăn xài phí của lụa the làm gì.
Xuống trần Ta dạy cố lỳ,
Cốt
cho trần-thế nghe thì mới thôi .
Ngày nay xe lết xe lôi,
484. Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê,
Chúng-sanh thế-giới ê-hề thây phơi.
Trạng-Trình truyền sấm mấy lời,
488. Ngày nay dân-chúng vậy thời rán tri.
LƯỢC GIẢI (từ câu 475 đến câu 488) :
-Đức Giáo Chủ khuyên mọi nguời hãy sớm tu hành theo lời dạy bảo của
Ngài, kẻo để việc khổ tới nơi rồi tu chẳng kịp và lúc ấy dầu muốn gặp Ngài cũng
không thể được. Vì Ngài đã ở quá xa bên cõi Tây phương, tâm hồn của kẻ hung ác
làm sao giao cảm với Phật được.
-Do
đó, Ngài dùng đủ lời khuyên dạy: bá tánh chẳng nên ham danh lợi, giàu sang, ăn
xài phung phí. Bởi sự sang cả ấy chẳng được bao lâu thì cảnh khổ cũng kề đến.
-Ngài
lâm phàm độ thế, chẳng nệ công lao nhọc, dốc một lòng truyền Đạo mãi mãi cho
đến khi nào chúng sanh hướng thiện, Ngài mới an nghỉ.
-Đức
Thầy còn cho biết về thế cuộc từ đây sắp đến, sẽ diễn biến đúng y theo lời Sấm
của Cụ Trạng Trình thời nhà Lê, vậy bá tánh hãy rán tìm hiểu. Như trường hợp
cuộc Đệ nhị thế chiến vào năm Rồng (Canh Thìn – 1940), chúng sanh phải chịu
cảnh chết chóc thê thảm, dẫn đến năm Ất Dậu (1945) chiến cuộc mới chấm dứt, thế
giới tạm hòa bình:
“Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khởi đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tân,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình”(Giảng Xưa).
Việc nầy hồi năm Kỷ Mão
(1939), Đức Thầy cũng đã tiên tri trong một đoạn giảng:
“Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng”
(Sấm Giảng Q.1)
CHÚ THÍCH :
TÂY PHƯƠNG: (Xem chú thích nơi câu 279 Q.2 Tập nầy).
LÊN NGỰA XUỐNG XE: (Xem chú thích nơi câu 143,Q.2 Tập
nầy).
LỜI TRUYỀN SẤM: Lời sấm ký của cụ Trạng Trình.
TRẠNG TRÌNH: Cụ Trạng họ Nguyễn, húy Bỉnh Khiêm, tự Hạnh
Phủ, hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, đời sau gọi Ngài là Tuyết Giang phu tử.
Cụ sinh năm Tân Hợi (1491),
đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ 22, tại làng Cổ Am (Trung An),
huyện Vĩnh Lạc (nay là Vĩnh Hảo), tỉnh Hải Dương, Bắc phần Việt Nam.
Thân sinh là ông Văn Đình,
sau được nhà Mạc truy tặng chức Thái Bảo Nghiêm Quận Công. Thân mẫu là con gái
quan Hộ Bộ Thượng thư Nhữ văn Lâu; sau Bà được truy phong là Từ Thục Phu nhân.
Thuở nhỏ Ông thông minh
khác thường. Mới bốn tuổi ông được song thân tận tình chỉ dạy truyền khẩu,
những nghĩa lý trong Tứ Thơ, Ngũ Kinh cùng các kinh truyện khác. Lớn lên, Ông
theo học với quan Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Trào, huyện Hoằng
Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Bỉnh Khiêm học rất giỏi và nổi tiếng về văn thơ.
Một hôm Lương Đắc Bằng đau
nặng, biết không thể sống được, bèn trao cho Bỉnh Khiêm một quyển sách tên là
Thái Ất Thần Kinh, quyển sách nầy trước kia do người Tàu tặng cho Ông khi Ông
đi sứ sang Trung Quốc. Nguyễn Bỉnh Khiêm cố công nghiên cứu sách ấy, chẳng bao
lâu Ông thông suốt những huyền vi của Trời Đất. Từ đó, Ông nổi tiếng về khoa Lý
số.
Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi
nhà Lê, trong nước loạn lạc, Ông không chịu xuất chính. Nhưng nhà Mạc buộc các
sĩ phu phải ra ứng thí để triều đình tuyển chọn hiền tài giúp nước. Nhân
có mẹ già cần đủ y thực cung phụng, và nhiều bạn hết sức khuyên giải, Ông mới
miễn cưỡng lai Kinh ứng thí. Lúc 44 tuổi Ông đỗ Giải Nguyên kỳ thi Hương. Năm
sau thi Đình, Ông đỗ Trạng Nguyên, nhằm niên hiệu Đại chính, đời vua Mạc Đăng
Doanh.
Ông được nhà Mạc phong chức
Lại Bộ Tả Thị Lang kiêm Đông Các Đại Học sĩ. Làm quan được 8 năm, Ông có dâng
sớ hạch tội và xin Vua nghiêm trị bọn lộng thần; nhưng thấy không hiệu quả Ông
bèn từ quan (1542, đời Mạc Phúc Hải) về trí sĩ. Khi về làng, Ông lập một cái am
để tu dưỡng, đặt tên là “Bạch Vân Am”, lấy hiệu là Bạch Vân Cư sĩ. Ông cũng có
dựng lên một cái nhà nghỉ mát bên sông Tuyết Giang, đặt tên là Trung Tâm Quán.
Do đó về sau môn đệ của Ông tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử.
Tuy về trí sĩ nhưng nhà Mạc
vẫn tôn trọng Ông vô cùng. Có công việc gì khó giải quyết, họ đều đến hỏi Ông.
Sau hai năm trí sĩ, nhà Mạc lại phong cho Ông chức Trình Nguyên Hầu, rồi lại
thăng chức Lại Bộ Thượng thư, tước Trình Quốc Công, nên người đời mới gọi Ông
là Trạng Trình.
Là một bậc túc nho, thông
kim bác cổ, một sĩ phu tài danh lỗi lạc, cũng là một nghệ sĩ có tâm hồn phóng
khoáng với những cảm hứng chân thành và cũng là một nhà lý số chân chính, Ông
thường dùng thi ca để truyền bá tư tưởng và đạo đức, vừa có tánh cách giáo dục
người đời và vừa tiên tri thời cuộc sắp đến. Về Hán văn, Ông có viết một tác
phẩm nhan đề là “Bạch Vân Am Tập”, gồm có cả ngàn bài thơ vịnh cảnh, tả tình.
Về thơ Nôm có tập “Bạch Vân Quốc Ngữ Thi”. Trong tập nầy, những bài thơ thường
không có đề mục nhất định, có những bài tả cảnh, tả tình, tán thưởng cuộc đời
nhàn hạ, hoặc nói về nhơn tình thế thái. Hiện nay chỉ còn lối 500 bài chữ Hán
và 100 bài chữ Nôm, cùng một ít bài Sấm ký.
Chẳng những toàn nước Việt
Nam mà đến người Trung Hoa cũng phục tài tiên tri của Ông, nên có lời ca
tụng:“An Nam lý học hữu Trình truyền”.(Nước Việt Nam có ông Trạng Trình là bậc
tinh thông về khoa Lý học).
Vì thế, từ vua tôi nhà Mạc
đến Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn đều một lòng tôn kính, và thường tới lui thăm
viếng, để nhờ ông đoán việc mai hậu.
Sử chép: Khi Trạng Trình lâm trọng bịnh, Mạc Mậu Hợp
biết ông là người thông suốt việc quá khứ vị lai, bèn sai con đến thăm và hỏi
hậu vận nhà Mạc. Ông bảo:“Nếu sau nầy có biến, nên rút về mạn Cao Bằng. Chỗ
nầy tuy nhỏ, nhưng cũng dung thân được vài đời”. Nhà Mạc nhớ lời Ông, quả
nhiên về sau, nhà Lê Trung Hưng đánh bại nhà Mạc, con cháu nhà Mạc thất thế
chạy lên chiếm cứ mạn Cao Bằng Lạng Sơn, yên thân ở đây và truyền được hai đời
Vua nữa, trước sau được 70 năm nhà Mạc mới dứt.
Lại có truyện: Nguyễn Kim
chết, người rể là Trịnh Kiểm chiếm giữ binh quyền, giết em vợ là Nguyễn Uông,
Nguyễn Hoàng là em ruột sợ vạ lây, liền cho người đến vấn kế Ông. Ông dắt ra
chỉ đàn kiến đang bò ở hòn non bộ, cười nói:“Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung
thân”(Một dãi Hoành Sơn, có thể yên thân muôn đời). Nguyễn Hoàng hiểu ý,
rồi nhờ chị là Ngọc Bảo Công Chúa năn nỉ với anh rể là Trịnh Kiểm xin cho vào
trấn đất Thuận Hóa. Nhờ đó, mà Nguyễn Hoàng được cơ hội xây dựng sự nghiệp lâu
dài, ứng vào lời tiên tri của Ông.
Trạng Trình còn tiên tri
việc người Pháp (thằng Tây) bị mất quyền tại Việt Nam, từ ngày, tháng, năm
không sai một mảy:
“Đầu xuân gà gáy hăm tư,
Thầy tăng mãn hạn hoa trư tuyệt kỳ”.
Đầu xuân chỉ cho tháng giêng, gà gáy là
năm Ất Dậu (1945), hăm tư là đêm 24 sáng 25, Thầy tăng nói
lái lại là thằng Tây. Vậy hiểu chung là chỉ cho người Pháp bị mất quyền tại
Việt Nam vào đêm 24 rạng 25 tháng Giêng năm Ất Dậu (nhằm ngày 09/03/1945) do
Nhựt đảo chánh Pháp.
Đó là các việc đã qua, còn
những việc đang và sắp đến, cũng xin trích dẫn ra đây một vài đoạn để mọi người
thử nghiệm xét:
“Dục thức Thánh Nhân xứ,
Đa xuất ứng Bảo Giang”
—
“Hoà thôn đa khuyển phệ,
Mục giả giục nhân canh.
Bắc hữu kim thành tráng,
Nam tạc ngọc bích thành.
Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh.
Bảo Giang Thiên Tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành”.
—
“ Phá điền Thiên Tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành”.
—
“Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo Dương Chi đầu Mã Vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.
—
“Canh niên tàn phá
Tuất Hợi phục sinh
Nhị ngũ như bình”.
-Cụ Trạng Trình mất vào
ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585) đời vua Mạc Mậu Hợp, niên hiệu Duyên Hành
năm thứ 5, tức năm thứ 8 niên hiệu Quang Hưng vua Thế Tôn nhà Lê, hưởng thọ 95
tuổi.
CHÁNH VĂN
489. Hiền nhơn bổn phận tu mi.
Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền-cơ.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
492. Chúng-sanh còn đợi còn chờ chuyện chi.
Trên Trời xuất hiện Tử-Vi,
Quang-minh sáng-suốt vậy thì dân
ôi !
Thương dân khó đứng khôn ngồi,
496. Xót-xa dạ Ngọc bồi-hồi tâm Trung.
Gió dông thì cội cây rung,
Phương
xa có giặc thung-dung đặng nào ?
Trời tây chúng nó hùng-hào,
500. Đem lòng gây-gổ máu đào mới tuôn.
Cầu Trời cho chúng qua truông,
502. Thế-gian yên-lặng hát tuồng khải ca.
LƯỢC GIẢI (từ câu 489 đến câu 502) :
-Đoạn
nầy Đức Thầy cho biết, bổn phận nam
nhi, cần tu sửa thân tâm cho được hiền lương nhơn ái và hãy sớm thức tỉnh suy
tầm lẽ huyền cơ Đạo lý. Cuộc thế hiện nay chẳng khác ngọn đèn bị hết dầu, chỉ
còn gượng chớp một vài tia sáng, rồi cũng tắt mất, thế mà chúng sanh cứ mãi
chần chờ, chẳng chịu sớm tìm lối thoát.
Bấy giờ vì sao Tử Vi đã
xuất hiện trên nền Trời và chiếu sáng để báo tin thời đen tối sắp hết, vị Thánh
Quân sẽ trổ mặt, kiến lập cuộc đời mới. Giữa thời gian thay đổi ấy, nhơn loại
phải chung chịu cảnh đau thương tang tóc, nên lòng Đức Thầy thương xót khôn
cùng.
-Trời giông bão, cả cây cối
đều bị vật ngã xác xơ, cũng như chiến tranh thế giới bùng nổ thì sớm muộn gì
nước ta cũng bị vạ lây. Đức Thầy muốn chỉ rõ cuộc đổ máu hiện giờ, là do lòng
tham ác từ dân Âu châu tạo ra rồi lan diễn khắp Á châu. Do đó, Đức Giáo Chủ
hằng cầu nguyện cho vạn dân, sớm vượt qua khổ nạn, hầu toại hưởng cảnh thái
bình an lạc.
CHÚ THÍCH :
TU MI (Xem chú thích nơi câu 111 Q.2 Tập nầy).
HUYỀN CƠ: (Xem chú thích tại tr.40 Tập 1/3)
TỬ VI: Theo khoa tướng số thì Tử Vi là một vì sao
chánh trong việc coi bói. Còn theo sách Thiên văn Tàu thì Tử Vi là vì sao của
bậc Minh Quân (Bắc Cực Tử Vi Đại Đế). Đây chỉ cho vì sao Đức Thánh Vương của
Việt Nam sau nầy.
DẠ NGỌC: Lòng trong trắng quí báu như châu ngọc. Chỉ
cho lòng dạ của bậc cao cả, đã lóng sạch phàm tâm. Đức Thầy có câu:
“Nhắc ra thì dạ ngọc đớn đau,
Không nhắc đến biết đâu dân
sửa”.(GMTK, Q.4)
BỒI HỒI: (Xem chú thích tại tr.126 Tập 1/3)
TÂM TRUNG: Trong lòng.
TRỜI TÂY: Cũng gọi là trời Âu. Chỉ cho vùng trời
Âu châu, bởi dân Âu châu gây nên cuộc Đệ nhị Thế chiến. Đức Thầy đã nói trong
bài “Nang Thơ Cẩm Tú”:
“Cuộc lung tung rối rắm trời Âu,
Nên còn ngại bước đường trở gót”.
QUA TRUÔNG: Truông là vùng đất hoang, cây cỏ rậm rạp
như rừng (truông mây), nghĩa bóng là chỉ cho tai nạn khó khăn; qua truông là
thoát qua tai nạn khổ sở. Đức Thầy có câu:“Núi truông qua đặng rán lần
dò”.(Thiên Lý Ca).
KHẢI CA: (Xem chú thích nơi câu 54 Q.2).
CHÁNH VĂN
Tây-Phương tuy ở cõi xa,
504. Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.
Ước-mong dân khỏi nạn tai,
Dắt-dìu Tiên-cảnh Bồng-Lai
nhiều người.
Xem trần khó nỗi vui cười,
508. Lo giàu lo lợi chẳng rồi bớ dân.
Mẹ cha là kẻ trọng ân,
Dưỡng nuôi báo hiếu lúc
thân yếu già.
Giường linh đơm quảy mới là,
512. Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi !
Ta là thân phận làm tôi,
Phải đền phải đáp cho rồi
mới hay.
Mặc ai tranh luận đấu tài,
516. Khuyên dân nên hãy miệt-mài chữ Tu.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 503 đến câu 516) :
-Tuy chư Phật ngự từ bên
cõi Tây phương xa thẳm, song nếu có một ai biết hối lỗi và thành tâm tưởng nhớ,
tất Phật Ngài sẽ cảm ứng ngay và dùng thần lực đến gia hộ cho hành giả đó. Đức
Thầy cũng hằng mong mỏi cho vạn dân được thoát qua tai nạn cùng dìu nhau đến
cảnh Tiên Phật, hầu chung hưởng cảnh an nhàn siêu thoát. Ngài nhìn khắp cõi
trần thấy trong bá tánh khổ nhiều vui ít, thế mà họ mãi chạy theo vật chất tiền
tài, rốt cuộc đâu chẳng rồi đâu, chỉ thấy nghiệp khổ càng thêm chồng chất.
-Đức Thầy luôn kêu gọi mỗi
người hãy nhớ đến công ơn sâu dầy của cha mẹ, để sớm lo báo đáp. Lúc cha mẹ già
yếu, phận làm con phải hết lòng hiếu dưỡng, chăm sóc từ miếng ăn, thức mặc, chí
đến lúc ngủ nghỉ ốm đau, nhứt nhứt đều làm cho cha mẹ vui lòng. Chẳng may Ông
bà, Cha mẹ từ trần, ta không đợi đến ngày giỗ mới làm mâm cao cổ đầy cúng tế,
mà ngay như mỗi bữa ăn dầu dĩa dưa, hạt muối cũng nên, miễn là biết thành lòng
tưởng nhớ và nguyện vái “Cửu Huyền Thất Tổ” về thọ dụng với mình là được.“Tưởng
sự vong như thể sự tồn”, đó là đúng cách của người con báo hiếu.
-Cho nên sống trong một gia
đình hay một quốc gia, bổn phận làm tôi con, phải lo đền đáp cho tròn câu hiếu
nghĩa. Mặc cho người đời luận tranh cao thấp, phần ta cứ mãi đắp bồi công đức
để được viên thành Đạo quả.
CHÚ THÍCH :
BỒNG LAI: (Xem chú thích tại tr.138 Tập 1/3).
TRỌNG ÂN: Ân nặng, ý nói công ơn của cha mẹ sanh
con và nuôi dưỡng cho đến lúc lớn khôn rất sâu nặng lớn lao. Đây là một trong
“Tứ đại trọng ân”. Ca dao có câu:“Gươm vàng rớt xuống hồ tây, Công cha cũng
trọng, ân Thầy cũng sâu”. Hoặc là:“Công cha nặng lắm ai ơi ! Nghĩa mẹ
bằng Trời chín tháng cưu mang”.
Đức Thầy cũng dạy:
“Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương”(Sa Đéc).
DƯỠNG NUÔI BÁO HIẾU: Phận làm con phải biết tôn kính
và bảo dưỡng cha mẹ, để báo đáp công ơn. Bởi:“Hiếu là cái cực điểm của sự
lành, còn bất hiếu là cái cực điểm của sự ác”(Nhẫn Nhục Kinh).Và trong Kinh
Báo Hiếu, Phật có dạy:“Con nuôi cha mẹ dùng cam lồ đặng làm vừa miệng, tấu
mọi tiếng thiên nhạc để làm vui tai, dâng áo tốt, đồ báu làm đẹp thân thể, một
vai cõng mẹ, một vai cõng cha, đi khắp bốn biển. Đó là hạnh hiếu lớn, không gì
hơn nữa”. Nhưng Phật còn dạy rằng:“ Đó chưa phải là đủ. Nếu cha mẹ
ngang trái tối tăm, chẳng thờ Tam Bảo, hung ngược tàn ác làm các nghiệp dữ; con
phải can gián, khiến cha mẹ phát lòng tin, qui y chánh Đạo, thường hành lục độ,
từ, bi, hỉ, xả, đối diện bậc tri thức, thường hay cung kính, vâng nghe giáo
pháp, niệm Phật tu hành, nguyện thoát luân hồi, vãng sanh lạc thổ. Nếu y theo
đó mà hành hiếu, mới có thể gọi là báo ân”.
Đức Thầy nay cũng khuyên:
“Bần cùng cũng sớm liệu toan,
Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.
Mộ khan thần tỉnh cần triêu,
Khỏi cơn hoạn nạn Lam Kiều được lên”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
GIƯỜNG LINH: Cũng gọi là giường thờ, do chữ “linh
sàng”, tức là bàn thờ Ông Bà. Nghi thức thờ Ông Bà thời xưa, người ta để giữa,
trước mặt một cái bàn cao, có lư hương, chưn đèn, lư…còn phía sau là cái giường
nhỏ, thấp, có trải chiếu gối dựa, trầu thuốc đầy đủ, ý tưởng như Ông Bà có ở
(nghỉ) thiệt trên đó.
ĐƠM QUẢY: Cũng gọi là quảy đơm. Có
nghĩa đem các thức ăn (cổ) lên giường linh cúng Ông Bà cha mẹ. Ví dụ: giỗ quảy
hay đơm quảy. Đức Thầy có dạy:“ Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy” và
“Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy đều nguyện vái Cửu Huyển, Thất
Tổ, ông bà cha mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo”(Sự Cúng
Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia, tr.212 SGTVTB 2004).
CHÁNH VĂN
517.Giảng này ra cuối mùa
thu,
Dạy ăn dạy ở chữ Tu vuông tròn.
Học theo mối đạo làm con,
520. Luận xem học mới mấy đon đời nầy.
Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày rày
ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
524. Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.
Trong tâm nhớ những điều tà,
Lời ăn tiếng nói thiệt là
quá lanh.
Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
528. Chẳng trau hiền-đức học-hành làm chi?
Khôn-ngoan thời những chuyện gì,
Cũng là lừa dối vậy thì dân
quê.
Người xưa nó lại khinh chê,
532. Ông cha hủ-bại u-mê hơn mình.
LƯỢC GIẢI (từ câu 517 đến câu 532) :
-Đức Thầy viết quyển Sấm
Giảng nầy vào khoảng tháng chín (cuối muà Thu) năm Kỷ Mão (1939). Ngài chỉ dạy
bá tánh về cách ăn ở đối xử cho đúng với ý nghĩa chữ tu, nhứt là bổn phận làm
con đối với cha mẹ cần được vẹn toàn câu hiếu nghĩa. Kế đó Ngài bàn đến hạng
người đua đòi theo nếp sống mới của Âu Tây.
-Bởi quá say mê nền văn
minh vật chất nên phần đông các thanh niên nam nữ lo trau hình sửa dạng, ăn mặc
lả lơi, nói năng toàn những việc bướm ong dục lạc.
-Tâm tư của họ chất chứa
điều xằng xiên tà khúc, lo điêu luyện ngôn ngữ khôn lanh xảo quyệt, ỷ vào tài
học thức, tự cho mình là hay giỏi, chẳng màng đến việc hiền đức là gì.
-Thường thấy họ đem mớ học
thức, gian ngoan ấy để lừa bịp dân quê, chớ không giúp ích cho đời được điều
chi, trở lại chê đùa khinh dể Ông cha mình, còn cổ hủ mê tối: “Đời
văn minh vật chất bỏ gương xưa.
Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.
(Trao Lời Cùng Ông Táo)
CHÚ THÍCH :
VUÔNG TRÒN: Trọn vẹn hoàn toàn:“Ai mà sửa đạng
vuông tròn, Long Vân đến hội lầu son dựa kề”.(Sám Giảng Q.3).
ĐẠO LÀM CON: Bổn phận làm con đối với cha mẹ phải vẹn
tròn câu hiếu thảo. Đức Thầy có dạy:“Con thì ăn ở nhu mì, Học theo luân
lý kính vì mẹ cha”. Và “…Lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có
dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm
phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán
hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta còn phải lo nuôi dưỡng báo
đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong
đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho
cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn
được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân”.(Tứ Ân/Ân Tổ
Tiên Cha Mẹ, tr.181 SGTVTB 2004)
MẤY ĐON: Đon là đó (Đại danh từ, tức tiếng để gọi
người trang lứa, với ý là tránh tiếng “anh” và “mầy” do chữ “dis done”?).
Vậy mấy đon là mấy người đó. Ý chỉ cho số người
chạy theo nền văn vật của Âu Tây.
LẢ LƠI: Đùa cợt hở hang, ăn mặc và cách đối xử không
trang nghiêm đứng đắn.
VĂN MINH: (Xem chú thích tại tr.209 Tập 1/3).
NGUYỆT HOA: Cũng gọi là hoa nguyệt. Có ý nghĩa trăng và
hoa. Chỉ cho việc trai gái tư tình với nhau. Cách ăn nói hay đùa mây cợt gió
của hạng người hư thân mất nết.
HIỀN ĐỨC: (Xem chú thích nơi câu
66 trên).
HỦ BẠI: Thối nát, quá xưa (cổ
hủ) kém văn minh.
MÊ: Tối tăm mờ ám.
CHÁNH VĂN
533.Tự-do trai gái kết tình,
Với lo
trau-sửa cho mình đẹp tươi.
Gái trai đến tuổi đôi mươi,
536. Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả-lơi.
So hình sửa sắc chiều mơi,
Đặng làm những chuyện trái
đời vô liêm.
Cớ sao chê cổ trọng kim,
540. Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
Thấy đời trần-hạ thon-von,
Ai nuôi cho lớn mà còn
khinh-khi.
Ông cha thuở trước ngu-si,
544. Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.
Học hay lợi dụng tiền tài,
Lên quan xuống huyện ăn-xài
lả-lê.
Gặp ai đói rách cười chê,
548. Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
Chẳng lo rèn trí lập thân,
550. Để làm xảo-trá khổ thân sau nầy.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 533 đến câu 550) :
-Đoạn nầy cho biết thời
nay, trai gái mới lớn lên đã biết tô điểm son phấn, sửa sắc chuốt mày và tự cấu
kết tình duyên với nhau, chớ chẳng đợi lịnh của cha mẹ. Khi đến tuổi đôi mươi
lại càng không kiêng nể ai nữa, mặc tình nói cười suồng sã.
-Sớm chiều lo chưng diện hở
hang, sửa mình nhắm vóc, để hành động toàn những việc trái ngược với mỹ tục
thuần phong, chê đùa nền luân thường đạo nghĩa cổ truyền, phụ rãy tổ tiên nòi
giống. Đức Thầy thường cảnh tỉnh hạng người ấy trong bài “Gìn Tục Cổ”:
“Cũng dòng dân Việt cũng màu da,
Sao lại chê bai thói tục nhà.
Phong hóa lễ nghi trề nhún bỏ,
Gia nghiêm nghĩa tiết choán Nam gia”.
-Nhận xét cõi trần sắp đến
hồi nguy khổ, thế mà người đời chẳng nghĩ đến công ơn cha mẹ, buông lời khinh
chê vô lễ. Tuy Tổ tiên ta trước kia có kém văn minh tiến bộ, nhưng tánh tình
rất trung thực hiền hòa hơn con người thời nay.
-Bây giờ người ta hay dùng
tài học thức, khôn xảo, xu phụng hạng quan quyền, lợi dụng tiền bạc của dân
quê, để tiêu xài phung phí. Gặp ai nghèo đói tật nguyền, họ lại nhạo chê khinh
rẻ, mở miệng thì xưng hô lớn lối, chửi thề thô tục. Thế nên, Đức Thầy kêu gọi
hạng người nói trên, hãy lo nuôi chí lập thân, tu rèn trí đức :
“Khuyên bổn đạo lập thân nuôi chí,
Đặng chờ ngày yết kiến Phật Trời”.
(GMTK, Q.4)
Đừng hành động gian xảo mà
sau nầy phải vương khổ lụy vào thân.
CHÚ THÍCH :
VÔ LIÊM: Không trong sạch ngay thẳng, mất hết tư
cách, phẩm hạnh. Ví dụ: Kẻ vô liêm bất chánh.
CHÊ CỔ TRỌNG KIM: Chê bỏ cái xưa, cũ, quí trọng yêu
chuộng cái mới (tân thời). Đức Thầy từng than:“ Ôi ! đời yểm cựu nghinh
tân, Rùng rùng xóa bỏ Phật Thần Thánh Tiên (Thu Đã Cuối).
THON VON: Gian nan nguy hiểm, khổ sở cô đơn. “Bơ
vơ đất khách thon von thế nầy”(Cổ thi).
LỢI DỤNG: Thừa cơ mà vớ lấy để kiếm lợi riêng mình.
Làm việc có lợi cho mình mà hại cho người khác. Đây chỉ cho hạng người làm quan
xử kiện ăn tiền hết hai bên, hoặc theo bợ đỡ kẻ có quyền thế để lợi dụng.
ĂN XÀI LÃ LÊ: Ăn xài phung phí, không biết tiết kiệm.
RÈN TRÍ: Trau luyện, giồi mài trí tuệ cho được sáng
suốt. Về phương cách tu rèn trí tuệ, Đức Thầy có dạy:“Người học Đạo muốn
mở mang trí tuệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội).
Muốn diệt cái vô minh trước
phải điêu luyện cái tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy
nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành
kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố,
gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự
phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở
mang vậy”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ,
tr.458-459 SGTVTB 2004).
LẬP THÂN: Tự mình gây dựng tài trí và danh phận cho
mình. Sách Thánh có câu “Lập thân hành Đạo dương danh ư hậu thế…”.Đức
Thầy cũng bảo:“Một hội nầy rán lập thân danh” (Để Chơn Đất
Bắc) và“Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.(Thu Đã Cuối).
XẢO TRÁ: Giả dối, không thật lòng. Ví dụ: Ăn nói xảo
trá, mưu mô xảo trá.
CHÁNH VĂN
Giáo-viên các sở các thầy,
552.Khuyên mau tỉnh ngộ tập rày lòng nhơn.
Giúp đời đừng đợi trả ơn,
Miễn tròn bổn-phận hay hơn
bạc vàng.
Đánh liều Ta cũng nói càn,
556.Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo.
Vinh-hoa như thể bọt-bèo,
Hiền-lương bất luận khó
nghèo cũng xinh.
Nhắc năm Gia-Tĩnh triều Minh,
560.Nàng Kiều vì hiếu bán mình chuộc cha.
Tuy là lưu-lạc bôn-ba,
Đến khi mãn hạn bạn xưa cũng nhìn.
Ghét ưa Ta cũng mặc tình,
564.Nghiệm kim suy cổ biện minh thế nào.
LƯỢC
GIẢI (từ câu 551 đến câu 564) :
-Đoạn Giảng nầy Đức Thầy
khuyên các giới: công viên, giáo chức trong khắp trường sở, hãy sớm thức tỉnh
tu hành, rèn tập lòng nhơn ái, biết thương người mến vật hầu tận tâm giúp đỡ
lẫn nhau. Trong lúc giúp ích cho đời, không nên mong cầu tiếng khen hay phước
báo, cũng chẳng phân biệt ta là người ban phước còn người kia là kẻ thọ ơn, mà
nên xét vì bổn phận phải làm:“Nếu thiệt người thì biết thương người”(GMTK,
Q.4). Ai thi hành được như thế thì dầu cho vàng bạc cũng không sánh kịp.
-Tuy lời khuyên của Đức
Thầy không được bao người để ý, nhưng vì lòng từ bi, Ngài vẫn tiếp tục nói mãi.
Nói với lòng bình đẳng, không phân biệt nghèo giàu hay già trẻ, trí ngu. Bởi
lẽ:“Giàu sang nghèo khó cũng người, Nên ta thương hết dầu cười hay khen”(Khuyên
Người Giàu Lòng Phước Thiện).
-Ngài còn so sánh cho khách
trần được rõ, cảnh vinh hoa phú quý khác nào bóng bọt, bèo trôi, lênh đênh theo
dòng nước, chỉ một lượn sóng nhấp nhô cũng đủ làm tan rã. Còn người tuy nghèo khó,
nhưng nếu biết tu nhơn tích đức, tất được quí báu và vững bền. Ngài nhắc lại
chuyện Nàng Kiều, dù phải mười lăm năm phong trần mệnh bạc, nhụy rữa hoa tàn,
song nhờ lòng hiếu thảo mà chàng Kim vẫn trông đợi kính yêu. Đó là Ngài dụng ý
khuyên mọi người phải nhớ đến công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ và hiếu hạnh
là cao hơn hết.
-Đối với những lời khuyên
dạy trong đây, dầu người đời có ghét hay ưa, Đức Thầy cũng không màng kể, chỉ ý
thức cho mọi người nên nghiệm xét chuyện xưa, để thấu hiểu chuyện nay một cách
tường tận, rồi sẽ nhận định lời giáo huấn của Ngài, xem có đúng lý và ích lợi
cho đời không ?
CHÚ THÍCH :
TỈNH NGỘ: (Xem chú thích nơi câu 93 Q.2 Tập
nầy).
LÒNG NHƠN:(Xem chú thích chữ “nhơn ái” nơi câu 281 Q.2 Tập nầy).
HIỀN LƯƠNG: Hiền lành tốt đẹp, biết thương người mến
vật, không ưa đánh đập gây gổ. Đức Thầy có câu”
“Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhân ái”(Kệ Dân, Q.2).
NÀNG KIỀU: Theo tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh” của
cụ Nguyễn Du: Vào triều nhà Minh, vua Gia Tỉnh, tại Bắc Kinh (Trung Hoa) có nhà
họ Vương, sanh đặng ba người con là: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan.
Nhân tiết Thanh minh chị em
dắt nhau đi tảo mộ, Kiều gặp Kim Trọng (một Nho sinh). Hai người vừa ý, rồi
cùng nhau kết hẹn cuộc trăm năm. Nhưng chẳng may, cha nàng Kiều là Vương Ông
lâm nạn. Vì lòng hiếu đễ, Kiều hy sinh tấm thân ngà ngọc tự bán mình để đổi lấy
số vàng chuộc thân phụ khỏi nơi lao ngục. Trải qua 15 năm lưu lạc, mưa gió phũ
phàng Kiều tủi thân mệnh bạc, bèn nhảy xuống sông Tiền Đường tự sát. Vì căn
phần chưa mãn, nhờ Sư cô Giác Duyên cứu sống đem về chùa lo bề tu tỉnh. Thời
gian sau, Kim Trọng tìm gặp lại, tuy đóa hoa trinh nữ đã phai màu song với lòng
chung thỉ và sự hiếu đễ của Kiều, khiến Kim Trọng càng kính yêu nhìn nhận.
Cụ Nguyễn Du đã nhận xét:
“Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.
Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời”.
Ở đây Đức Giáo Chủ chỉ nhắc
đến sự hiếu thảo của Nàng Kiều,“vì hiếu bỏ tình”, dám hy sinh hạnh phúc riêng
mình để đền ơn cúc dục.
BÔN BA: Vừa đi vừa chạy, gian nan vất vả:“Đi vừa một dặm xa xa, Bỗng đâu Ông Quán bôn ba theo cùng”(Lục Vân Tiên).
NGHIỆM KIM SUY CỔ: Suy xét chuyện xưa, để biết chuyện
nay. Sách Thánh có câu:“Suy cổ nghiệm kim sở dĩ bất hoặc. Dục tri vị lai
tiên sát dĩ vãng”(Suy xưa nghiệm nay là nơi để cho chẳng lầm, cho nên muốn
biết việc chưa tới, trước phải xét việc đã qua). Đức Thầy cũng từng dạy trong
bài “Nang Thơ Cẩm Tú”:
“Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
Thông cơ đồ dựng nghiệp Thánh hiền”.
BIỆN MINH: Vạch ra cho rõ ràng, phân biệt lẽ phải
trái làm cho sáng tỏ câu chuyện. Đức Thầy bảo:“Suy cho tường rồi sẽ biện
minh”(Sa Đéc).
CHÁNH VĂN
565.Bá-gia kẻ thấp người
cao,
Hiền-thần hiếu-nghĩa rán trau cho rồi.
Giảng này chỉ các điều tồi,
568.Khuyên dân hãy rán mà ngồi mà suy.
Thân ta, Ta chẳng tiếc chi,
Miễn cho bá-
tánh nạn gì cũng qua.
Luận xem những việc sâu xa,
572. Chúng-sanh tưởng Phật thì là hãy coi.
Tháng ngày như thể đưa
thoi,
Nguyện cầu thế giới bớt
ngòi chiến-tranh.
Ngồi buồn dân gặp chiếu manh,
576. Ta cho bá-tánh bức tranh vô hình.
Ai ai cũng rán xét mình,
Nếu còn tánh xấu thì rinh
ra ngoài.
Cạn lời mà ý còn dài,
580. Hiến cho trần-hạ một bài ngụ-ngôn.
LƯỢC GIẢI (từ câu 565 đến câu 580) :
-Đức Thầy khuyên cả vạn dân
hãy rán trau giồi tài năng đức hạnh, trung nghĩa vẹn toàn và hành xử “Tứ Đại
Trọng Ân” để xứng đáng là một tôi con của gia đình Tổ quốc. Trong quyển Giảng
nầy, Ngài đã vạch rõ các điều sai lầm tệ hại, vậy mỗi người nên suy tầm cho
thấu hiểu lý mầu trong đó.
-Riêng thân Ngài dù có mòn
hao, gian khổ, cũng không màng tiếc, miễn sao khắp bá tánh được thoát qua các
tai nạn là Ngài thỏa nguyện. Bao lời luận giải sâu xa trong đây, người nào biết
tin tưởng Phật Trời, hãy rán xem coi tìm hiểu, để lo tu thân gìn Đạo.
-Vả lại, ngày tháng trôi
qua, mau chóng tợ thoi đưa. Cuộc Đệ nhị Thế chiến đang lan diễn khắp nơi, khiến
chúng dân luống chịu lầm than, thống khổ. Vì lòng từ bi, Đức Thầy hằng cầu
nguyện cho bá tánh và để cứu vãn tình thế, Ngài hưng truyền chánh pháp vô vi,
kêu gọi toàn dân hướng thiện, diệt lần mầm sát hại để quả chiến tranh được bớt
dần.
-Nếu mỗi chúng sanh biết
qui y đầu Phật thì hãy thực hành theo chánh pháp vô vi mà Ngài đã truyền dạy.
Nghĩa là, mỗi hành giả hãy hướng về nội tâm mà tự kiểm soát lọc lừa, loại bỏ
những tư tưởng tà vạy, những vọng tâm phiền não (tham, sân, si) tức tâm ta được
yên tịnh trong lành, mà vào nơi an lạc, Niết bàn tự tánh.
-Viết quyển Sấm Giảng đến
đây, Đức Thầy sắp dừng bút, nhưng thiện ý giác đời của Ngài chưa mãn, và những
lời giáo huấn trong đây còn có rất nhiều ngụ ý sâu mầu khó tả.
CHÚ THÍCH :
HIỀN THẦN: Tôi hiền, người tôi gồm đủ tài đức và
trung trực đối với quốc gia dân tộc. Ví dụ: Hiền thần ra giúp nước. Đức Thầy có
câu:“Hiền thần Nhơn Quí người đương ẩn mình”.(Từ Giã Bổn Đạo Khắp
Nơi).
HIẾU NGHĨA: (Xem chú thích nơi câu 204 Q.2 Tập nầy).
NGỒI BUỒN DÂN GẶP CHIẾU MANH: Ngồi buồn là tiếng
trong văn chương thường dùng khi mở đầu một câu chuyện có tánh cách tình cảm:“Ngồi
buồn nhớ mẹ ta xưa ! Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”(Ca dao). Nghĩa
toàn câu là chỉ cho cảnh đang buồn lại gặp sự may mắn. Ở đây ý nói dân chúng
đang lâm cảnh khổ (buồn) lại may mắn gặp cơ cứu độ, tức là gặp Đức Thầy khai
nguồn Đạo pháp tế độ quần sanh.
VÔ HÌNH: Không có hình tướng sắc màu. Bức tranh vô
hình là chỉ cho Đạo vô vi hay chánh pháp vô vi mà Đức Thầy đã truyền dạy, trong
“Giác Mê Tâm Kệ”:
“Đạo vô vi của Phật ân cần,
Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.
Hoặc:
“Huyền Pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,
Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”
(Cho Ô. Tham Tá Ngà)
XÉT MÌNH: Tự kiểm xem xét coi mình đã làm gì: quấy
hay phải, tội hay phước. Ý dạy mỗi người nên xem lại thân, khẩu, ý của mình mà
dứt bỏ những gì xấu xa tội lỗi để sớm được trọn lành trọn sáng. Cổ nhân từng
bảo:“Thẩm xét lòng mình, chẳng bày lỗi người, ở khắp chỗ đều tự nhiên thong
thả, không bị ngăn ngại”.
Đức Lục Tổ cũng dạy:“Người
tu theo chánh Đạo, muôn vật chẳng tổn thương, lỗi mình hay xét thấy, mới hiệp
Đạo chơn thường”.
BÀI NGỤ NGÔN: Những bài văn hay bài thơ, ngoài nghĩa
đen còn có nhiều ngụ ý sâu xa khác. Như nói chuyện loài vật mà ngụ ý chỉ cho
việc loài người. Điển hình như bài thơ “Ba con bò ở chung một chuồng”, bài “Cá
thia thia”(Cổ thi) hoặc bài Vịnh “Con Beo Đá” của Đức Thầy, như sau:
“Beo ơi, beo hỡi, là beo !
Gần cọp sao mi lại giống mèo ?
Ngóng cổ chờ ai đem thịt tới ?
Hay chờ gạt chó cướp đàn cheo ?”
Ở đây, ngay trong quyển Sấm
Giảng nầy, Đức Thầy cũng có ngụ ngôn rất nhiều đoạn, nên Ngài nhắc cho bá tánh
hãy tìm hiểu những điều sâu xa ẩn dụ trong đó.
CHÁNH VĂN
581. Tới đây Ta giả làng thôn,
Ngọc-Thanh lui gót phi bôn
Nam-Kỳ.
Hiền thần sách sử nêu ghi,
584.Miễu son tạc để tu-mi trung thần.
Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,
Ta khuyên dân-chúng ân-cần nhìn xem.
Ra đời dạy-dỗ anh em,
588.Xem qua ít bận rán đem vào lòng.
Người tu như thể bá-tòng,
Ai ai cũng quí cũng trông cũng nhìn.
Sửa trau là phận của mình,
592.Xưa nay lời lẽ sử kinh rõ-ràng.
Chừng nào ta gặp Hớn-Hoàng,
Chúng-sanh mới hết phàn nàn số căn.
Mạnh-Tông xưa cũng khóc măng,
596.Đất khô nẩy mụt rõ lòng hiếu nhi.
LƯỢC GIẢI (từ câu 581 đến câu 596) :
-Viết đến đây Đức Thầy có
lời từ giã thôn xóm, đoạn rồi Ngài vân du khắp miền Nam nước Việt để tùy cơ
giác tỉnh bá gia. Xưa nay những bậc“trung quân ái quốc” đều được sách sử ghi
biên, miễu son thờ phượng:“Tử vì nước còn ghi linh miếu, Thác vì đời
thanh sử danh bia”(Diệu Pháp Quang Minh)
-Ngài cũng báo tin cho dân
chúng biết cảnh khổ sẽ kề một bên, nên Ngài khuyên mỗi người hãy lo âu gắng gổ,
tìm phương giải thoát. Khi xem đến lời chỉ dạy của Ngài, mỗi người cần ghi tạc
vào thâm tâm, để sớm hôm lo trau thân gìn Đạo.
-Nếu người nào tu hành thì
sau nầy quí báu vô cùng, như loại tòng bá ai cũng yêu kính trông nhìn. Vậy bổn
phận của mỗi người hãy tự mình lo tu sửa, xưa nay những lẽ Đạo đức trong các
kinh sử, đều có dạy rất rõ ràng.
Đức Thầy còn tiên tri sắp
tới đây đất nước Việt Nam sẽ vô cùng vinh diệu, bởi nhờ có vị Thánh Vương ra
đời đức tài gồm đủ. Ngài sẽ:“Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng”(Phỗng
Đá Trả Lời), và đến đó toàn thể chúng sanh đều chung sống cảnh thanh bình an
lạc, chẳng còn phải than thân trách phận. Vậy ai muốn hưởng hạnh phúc ấy thì
ngay bây giờ, phải trau giồi hạnh hiếu, noi gương Mạnh Tông xưa kia để hành
xong bổn phận.
CHÚ THÍCH :
PHI BÔN: (Xem lại chú thích nơi câu 364 trên).
TRUNG THẦN: Người tôi trung nghĩa ngay thật đối với
đất nước. Khi xưa, Ngài Huệ Lựu (Phật Thầy) đã dạy:“Luật Nam nghĩa lý hẳn
hòi, Ơn cha nghĩa mẹ, sự vua trung thần”. Đức Thầy cũng nói:“Thương
trung thần ghét nịnh mặt lỳ”(Diệu Pháp Quang Minh).
ÂN CẦN: Cần cố, âu lo, gắng gổ. Ví dụ: Làm việc gì có
ân cần gắng gổ mới mong kết quả.
NGƯỜI TU NHƯ THỂ BÁ TÒNG: Bá tòng là cây trắc và cây
tòng (tùng), người ta hay trồng làm kiểng. Sở dĩ Bá tòng được người đời mến
trọng vì nó có bản sắc xanh biếc cả bốn mùa, nhứt là mùa Đông, mọi cây đều tàn
cỗi mà riêng nó vẫn được sởn sơ. Vì thế, sách Ích Trí đem người quân tử ví với
bá tòng như câu:“Bạch ngọc vi ư ô nê bất năng tham chấp kỳ sắc, Quân tử xứ ư
trược địa bất năng nhiễm loạn kỳ tâm. Cố tòng bá khả dĩ nại tuyết sương, minh
trí khả dĩ thiệp gian nguy”(Ngọc trắng vùi nơi bùn lầy mà sắc nó chẳng hề
lem ố, người Quân tử ở nơi ô trược không nhiễm loạn cái tâm. Cho nên loại Tòng
Bá có thể chịu đựng sương tuyết mà kẻ minh trí cũng có thể vượt lên trên chỗ
gian nguy).
Vì cái đặc tính không dời
đổi của Tòng Bá mà Đức Thầy đem người tu để ví với nó, bởi người thật tu thì
lúc nào hay ở đâu, lòng vẫn được liêm khiết trung hậu.
SỬ KINH: Cũng gọi là kinh sử, tiếng gọi
chung về sách sử và kinh điển.
HỚN HOÀNG: Vua nhà Hớn. Theo cơ giảng cho biết thì
Quốc hiệu nước Việt Nam sau nầy gọi là Hớn Bang hay Hớn Đàng và sẽ có vị Thánh
Vương xuất hiện đem lại sự thái bình cực thịnh cho cả nhân loại. Như trong
Giảng “Mười Một Hồi”, Ngài Huệ Lựu đã nói:
“Nói cho già trẻ lo âu,
Minh Vương khôi phục Hớn Châu Phong Thần”.
Hoặc là:
“Đại Nam xưng hiệu tiền Đường,
Nối ngôi nhà Hớn bốn phương phục tùng”.
Và
trong “Kim Cổ Kỳ Quan”, ông Ba Thới đã viết:
“Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang”.
Đức
Huỳnh Giáo Chủ nay cũng bảo:
“Một tay tá quốc an
bang,
Nước nhà vững đặt Hớn- đàng hiển vinh”
(Mượn Cây Đuốc Huệ)
Và:
“Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
Sum vầy một cuộc Hớn- đàng toại thay”.
(Để Chơn Đất Bắc)
SỐ CĂN: (Xem chú thích tại tr.248 Tập 1/3).
MẠNH TÔNG: Ông tên chữ là Cung Võ, người ở đất Giang
Hạ, sống dưới triều Ngô, đời Tam Quốc (Trung Hoa).
Cha mất sớm nên Mạnh Tông
sống với mẹ già. Ông rất hiếu thảo với mẫu thân, sớm hôm phụng dưỡng chuyên
cần, chẳng hề biếng trễ.
Một hôm mẹ Ông mang bịnh
nặng, nhiều danh y diệu dược được Mạnh Tông rước đến, nhưng đều không trị được
căn bịnh hiểm nghèo của mẹ. Lòng Ông rối tợ tơ vò, một mặt lo thuốc thang, một
mặt lo khẩn vái Phật Trời nhỏ phước cho mẹ Ông tai qua nạn khỏi. Trong lúc bịnh
nặng mẹ kêu Ông đến bảo:“Mẹ thèm bát canh măng, nếu ăn được chắc bịnh mẹ
chóng lành”. Nghe vậy, Ông vội vàng đi khắp nơi lùng kiếm măng, nhưng
nhằm mùa đông trời giá lạnh, nên măng không có. Ông buồn bã than thầm:“Canh
măng không có, chắc mẹ ta khó sống !” Lòng Ông vô cùng buồn bã đau đớn.
Cuối cùng, Ông ngồi ôm gốc tre mà khóc !!!
Lòng hiếu thảo cảm đến Trời
đất, bỗng nhiên có mấy mụt măng nẻ đất mọc lên ngay chỗ nước mắt đã rơi. Mạnh
Tông hết sức vui mừng, lạy tạ ơn Trời Phật và bẻ vội măng đem về nấu canh cho
mẹ dùng, tự nhiên bệnh bà thuyên giảm và lần lần khỏi hẳn. Danh tiếng của Ông
được mọi người kính nể và noi theo. Ông được liệt vào “Nhị Thập Tứ Hiếu” bên
Trung Hoa.
Về sau có một loại tre màu
xám, được đặt tên là tre mạnh tông, tre có măng hình dáng trông rất đẹp và ăn
ngon.
Do sự tích nói trên, mới
biết lòng hiếu thảo cảm động đến Trời Đất và trong sách Thánh đã bảo:“Hiếu
từ giả bá hạnh chi tiên. Hiếu chí ư thiên tắc phong vũ thuận thời, hiếu chí ư
địa tắc vạn vật hóa thạnh, hiếu chí ư nhơn tắc chúng phước lai trăn”.(Việc
hiếu từ là trên hết các hạnh. Hiếu tột đến Trời thì gió mưa hòa thuận, hiếu
động đến đất thì muôn vật hóa sanh, còn hiếu cảm đến người thì các phước đều
đến).
Nhà thơ Lý văn Phức cũng đã
tán thán sự hiếu:
“Cho hay hiếu động cao dày,
Tình sâu nên khiến cỏ cây
cũng tình”.
Đây là tấm gương nhắc nhở
mọi người nên có hiếu với cha mẹ.
HIẾU NHI: Người con có hiếu.
CHÁNH VĂN
597. Mặc ai nhạo báng khinh khi,
Phần ta niệm chữ từ-bi độ đời.
Muốn xem được Phật được Trời,
600.Thì là phải rán nghe lời dạy răn.
Bá-gia cùng các chư tăng,
Việc tu không đợi hương đăng làm gì.
Đời cùng tu gấp kịp thì,
604.Đặng xem báu ngọc ly-kỳ Năm Non.
Phật thương bổn-đạo như con,
Muốn cho bổn-đạo lòng son ghi lời.
Nữa sau đến việc biết đời,
608.Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.
Tới đây cũng dứt giảng
kinh,
Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu.
Nam-mô lòng sở nguyện-cầu,
612. Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(tam niệm)
Cầu Phật-Tổ, Phật-Thầy, quan Thượng-Đẳng Đại-Thần, chư
quan Cựu-Thần, chư vị Sơn-Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ-độ bá-tánh vạn dân
tiêu tai tịnh sự giải-thoát mê-ly.
LƯỢC GIẢI (từ câu 597 đến câu 612) :
-Trên con đường khai hóa
nhân sanh dầu cho người đời có nhạo chê phỉ báng, Đức Thầy vẫn không màng kể.
Lúc nào Ngài cũng lấy lòng từ bi đối với vạn loại chúng sanh và hằng lo cứu độ.
Ngài khuyên bá tánh: Ai muốn sau nầy được kiến diện Phật Trời, thì hiện giờ hãy
nghe theo lời răn dạy của Ngài.
-Ngài cũng kêu gọi khắp
thiện tín, từ giới tại gia cư sĩ đến hàng tăng chúng xuất gia: Sự tu không phải
đợi có đủ nghi thức nhang đèn, hay đến giờ ấn định, mới công phu bái sám, mà
bất cứ lúc nào hay ở dâu cũng vẫn tu được cả:“Rán trì tâm tưởng niệm canh
thâu, Nằm, đi, đứng hay ngồi chẳng chấp”(Kệ Dân,
Q.2). Và:“Chẳng có cần trà, quả, hương nồng, Mong sanh chúng từ lòng hối
ngộ”(GMTK, Q.4). Bởi đời Hạ ngươn sắp mãn để lập lại Thượng ngươn,
chúng sanh cần tu gấp mới kịp thời kỳ và được thấy cảnh quí báu ở vùng “Năm Non
Bảy Núi”:“Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi, Miền Bảy Núi mà sau báu quí”(Kệ
Dân, Q.2).
-Tình thương của chư Phật
đối với chúng sanh và môn đồ cũng như tình cha mẹ đối với con (Phật ái chúng
sanh như mẫu ái tử), lúc nào Tổ Thầy cũng muốn tất cả môn đồ ghi nhớ lời
Phật pháp vào thâm tâm để thực hành theo. Còn những lời cơ giảng đã tiên tri,
vì chưa xảy đến nên bá tánh chẳng chịu tin nghe, nhưng sắp tới đây dân chúng sẽ
thấy rõ mọi việc xảy ra không hề sai chạy.
Trước khi chấm dứt Sấm
Giảng Quyển Ba, Đức Giáo Chủ còn khuyên người tu nên xoay về bản tâm của mình
mà trau sửa, diệt hết lòng xấu xa tà niệm, tất được sáng mầu, đạt thông Đạo
pháp. Đây chính là pháp tu căn bản, bởi ngoài tâm không có Phật:“Phật tại
tâm chớ có đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên non núi”. (Kệ Dân, Q.2).
Lòng Ngài cũng không ngớt nguyện cầu cho vạn dân được vượt qua mọi tai nạn sầu
khổ và thoát mê về giác.
CHÚ THÍCH :
NHẠO BÁNG: Kiêu ngạo, nói xấu người khác. Ví dụ: Kẻ
ngang tàng vô Đạo hay nhạo báng Thần Tiên. Đức Thầy có câu:
“Mãi lo chế nhạo chống kình,
Chẳng toan Đạo đức mà gìn thôn hương”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)
TỪ BI: (Xem chú thích tại tr. 40 Tập 1/3).
CHƯ TĂNG: (Xem chú thích chữ tăng chúng nơi
câu 320 Q.2 Tập nầy).
KỊP THÌ: Kịp thời, đúng lúc, đúng với thời gian đó. Ở
đây Đức Thầy khuyên bá tánh hãy sớm lo tu hành cho kịp đến thời kỳ chuyển biến
lập đời.
BÁU NGỌC: Ngọc ngà châu báu, chỉ cho thất bảo (bảy
báu): Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách. Đức Thầy
có câu:“Nam thiên báu ngọc châu trân”( Để Chơn Đất Bắc). Và:
“Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
LY KỲ: (Xem chú thích nơi câu 267 trên).
NĂM NON: (Xem lại chú thích nơi câu 271 Q.2 Tập
nầy).
LÒNG SON: (Xem chú thích tại tr.239 Tập 1/3).
TÂM LINH: Cũng gọi là tâm thần, hay lòng trí lành,
linh mẫn, tự có nơi mỗi người. Trước kia vì vô minh vọng tưởng nên tối tăm mờ
ám, nếu nay biết tu sửa cho hết vô minh, tức tâm trí sẽ sáng suốt trở lại. Kinh
Thiền Môn có nói:“Bậc Thánh tìm lòng chẳng tìm Phật, phàm phu kiếm Phật
chẳng kiếm lòng. Người trí trau tâm chẳng giồi thân, kẻ ngu trau thân chẳng
giồi tâm”. Và những câu:“Ngoài lòng tìm kiếm, trọn chẳng đặng Đạo,
tự lòng xem xét, trong một giây phút, liền chứng quả Phật”.
Đức Thầy cũng từng dạy:
“Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa
mình cho trơn”(K/thiện Q.5) .
Và:
“Tâm linh mắt Thánh xem ba cõi,
Tánh hiển tai thần lóng bốn
phang”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
Đăng nhận xét