CHÚ GIẢI QUYỂN TƯ GIÁC MÊ TÂM KỆ
Chú giải từ câu 209 – 414 (Quyển IV)
CHÁNH
VĂN
209.Kẻ
nhứt dạ thường sanh ba kế,
Để gạt người làm thế cho mình.
Ngày sau nầy lắm nỗi tội tình,
212.Sao
sanh-chúng chẳng lo cải sửa.
Bịnh ôn-dịch thường hay ói mửa,
Mà dương-trần chẳng chịu kiêng-dè.
Qua năm Dê đến lúc mùa hè,
216.Trong
bá-tánh biết ai hữu chí.
Ta chịu lịnh Tây-Phương thọ ký,
Gìn Nghiệt-Long đặng cứu dương-trần.
Nên ra đời dạy-dỗ ân-cần,
220.Khuyên
bá-tánh vạn dân liệu lấy.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 209 đến câu 220):
-Làm người ai cũng có một tấm lòng, song
những kẻ gian ác, thường bày ra trăm mưu ngàn chước, lường gạt công sức của kẻ
khác, để họ ngồi không hưởng lợi. Hành động ấy, đã gây rất nhiều tội lỗi về
sau, thế mà họ chẳng sớm ăn năn cải sửa.
-Nhìn thấy bịnh ôn dịch, đang nhiễu hại khắp
lê dân, sao dương thế chẳng biết lo âu, kiêng nể ? Đức Thầy cũng tiên tri vào
một mùa Hè năm Mùi nào đó, sẽ có cuộc thử thách lớn lao, để xem trong bá tánh,
ai là người bền chí trên con đường đạo đức.
-Lại nữa, do sự ký thác của Đức A Di Đà và
Phật Tổ, Đức Thầy có trọng trách thâu phục con nghiệt long, để cứu an bá tánh.
Cho nên Ngài phải lâm phàm khai Đạo trước khi sự trạng ấy xảy ra, để dân chúng
kịp thời lo cải dữ về lành, tu bồi công đức hầu thoát qua các tai nạn của cơ
tận diệt.
CHÚ THÍCH:
NHỨT DẠ: Một lòng.
BÁ KẾ: Cũng viết là bách kế. Có
nghĩa nhiều kế hoạch. Ý chỉ người có nhiều mưu mẹo để lường gạt kẻ khác.
BỊNH ÔN DỊCH: Xem chú thích tại
tr. 50 Tập 2/3.
NĂM DÊ: Năm Mùi, một trong 12 chi
(Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi).
MÙA HÈ: Mùa hạ, một trong bốn mùa
của mỗi năm. Kể từ đầu tháng tư tới hết tháng 6 âl là mùa Hè.
HỮU CHÍ: Có chí, bền chí, có ý
định và quyết đeo đuổi tới cùng. Do thành ngữ “Hữu chí sự cánh thành”
(có chí thì sự nghiệp được thành).
Xưa, Tôn Tẩn theo học Đạo với Thầy Quỉ
Cốc, thời gian thấy mình kém hơn Bàng Quyên, bèn thối chí trở về. Dọc
đường gặp Bà Lão ngồi bên triền núi, cầm một thanh sắt lớn mài vô đá. Tôn Tẩn
bước lại gần hỏi:
– Bà Lão mài thanh sắt, ý định làm vật chi
vậy ?
Bà Lão đáp:
– Mài cho thành cây kim để xài !
– Mài như vậy có thể thành được sao ?
– Nếu có chí bền thì vật chi lại không thành
!
Tôn Tẩn ngẫm nghĩ hồi lâu hiểu ý, bèn trở lên
núi, tạ lỗi Thầy xin ở lại, từ ấy ông kiên chí tu học, quả sau được thành Đại
La Thiên Tiên.
Ngạn ngữ thường nói:“Làm người có chí thì
nên, Có công mài sắt chầy ngày nên kim”. Và Cổ Đức cũng từng bảo:
“Thế thượng vô nan sự, Nhân tâm sự bất
kiên.
Tạc sơn thông đại hải, Phi vụ đổ thanh thiên”
Tạm dịch: Trên đời mọi việc dễ như chơi,
Người chẳng bền lòng
mới khó thôi.
Xẻ núi kiên tâm
thông bể cả,
Vén mù thông suốt
bốn phương trời.
Đây có ý dạy người tu có chí bền mới mong kết
quả.
TÂY PHƯƠNG: Xem chú thích tại tr. 82
Tập 2/3.
THỌ KÝ: Vyakarana (Phạn ngữ,
Scr.): Thọ: nhận, Ký: ghi nhớ, ghi chứng.Viết đủ là: A-nậu-đa-la
tam-miệu tam-bồ-đề, có nghĩa: trao cho sự ký chứng, hoặc là truyền dạy và ủy
thác cho một sự việc gì. Chữ “Tây phương thọ ký” ở đây chỉ Đức
Thầy được Đức A Di Đà và Đức Thích Ca truyền bảo và phó thác cho nhiệm vụ hàng
phục con nghiệt long để cứu an bá tánh.
NGHIỆT LONG: Con
rồng hung dữ. Luận về nội tâm thì lòng độc hại là con rồng dữ. Còn luận
theo cơ sấm, thì gần đến ngày tận diệt thế gian, sẽ có con thú (từ sấu tu sắp
thành rồng) xuất hiện giết hại người hung dữ:“Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt thú nuốt mà người hung”(Sấm Giảng Q.1).(Xem thêm chú
thích chữ “nghiệt thú” tại tr. 198 Tập 1/3).
Khi xưa, trên đường độ thế, Đức Thích Ca có hàng phục con nghiệt
long tại hang đá gần chỗ Ngài Ca Diếp ở. Lúc đó, Đức Phật vừa đi tới hang
đá, độc long liền phun lửa làm hại Phật. Ngài liền dùng lửa tam muội đốt cháy
hang đá và thâu độc long vào bình bát.
Đến thời Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng có bắt một con rồng dữ.
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh chép rõ truyện đó như sau:
Thuở ấy, trước điện chùa Bửu Lâm có cái ao lớn, trong ao có một
con rồng thường xuất hiện, làm diêu động cả cây rừng. Một ngày kia, rồng hóa
hình rất lớn, làm cho sóng dậy nước trào, mây mù tối mịt, các môn đồ đều kinh
hãi. Đại sư nghe, bước ra nạt rằng:
– Ngươi có thể hiện hình lớn, mà không thể hiện hình nhỏ được. Nếu
ngươi quả là Thần Long thì biến hóa được: nhỏ biến ra lớn, lớn biến ra nhỏ thử
coi.
Rồng ấy thoạt nhiên hụp xuống, giây lâu hóa hình nhỏ, nhảy lên bờ.
Tổ sư đưa bình bát ra nói thách:“Chắc ngươi không dám chung vô bình bát của Lão
Tăng ?” Rồng hăm hở nhảy tới trước mặt Tổ, Tổ sư thâu vào bình bát đem về chùa
thuyết pháp cho rồng nghe. Nghe xong, rồng thoát xác đi mất. Bộ xương rồng ấy
dài tới 7 tấc; đầu, đuôi, sừng, cẳng nguyên hiện, để lưu truyền tại chùa.
Ngày nay Đức Giáo Chủ ra đời, cũng có trách nhiệm bắt con nghiệt
long, đó là thường sự của Chư Tổ, chư sư, khi lâm phàm độ thế.
CHÁNH VĂN
221.Khổ với thảm ngày
nay có mấy,
Sợ mai sau dòm
thấy bay hồn.
Trừ tà-gian còn
thiện chỉ tồn,
224.Cảnh sông máu núi
xương tha-thiết.
Trần với thế bây
giờ nào biết,
Chừng nhìn xem hư
thiệt mới tường.
Ta bây giờ tu niệm tầm
thường,
228.Sau
danh thể xạ hương khắp chốn.
Nhà giàu có xài không sợ tốn,
Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn.
Lo ăn xài trà rượu xình-xoàng,
232.Chừng khổ não phàn-nàn căn số.
Lời truyền sấm như bài toán đố,
Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ.
Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,
236.Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 221 đến câu 236):
-Đoạn giảng trên Đức Thầy cho biết: sự khổ
não hiện giờ chưa có là bao, nhưng đến sau nầy, ai trông thấy cũng phải bay hồn
khiếp vía ! Đó là do cuộc chọn lọc: hiền còn dữ mất của cơ tận diệt, diễn nên
cảnh núi xương sông máu, sự thảm khổ ấy không sao kể xiết.
-Thế mà, dân chúng hiện giờ, đâu có hay biết
để tìm phương giải thoát. Đợi đến chừng cảnh khổ ấy xảy ra, mới rõ là việc có
thật thì sự quá muộn. Tuy bấy giờ, thấy sự tu hành đạo đức quá đơn giản, thông
thường, nhưng ngày sau kết quả rất cao quý và danh thơm sẽ bủa khắp thế gian.
-Ở đời thường thấy nhiều người ỷ mình giàu
có, tiêu xài không tiếc của, nên Đức Giáo chủ giác tỉnh họ: hãy tiết kiệm số
tiền ấy mà trợ giúp kẻ nghèo khó để gây phúc hạnh sau nầy. Nếu ai mãi lo ăn xài
xa xí thì một ngày kia, cảnh khổ đưa đến, dầu có than thân tủi phận, cũng không
sao tránh khỏi.
-Ngài còn cho biết: những Sấm kinh của Ngài
truyền dạy, ví như bài toán đố, nếu ai biết suy tầm tra cứu, cho thấu đạt lẽ cơ
huyền và tiến hành y theo đó, tất được kết quả an nhàn:“Tìm hiểu nghĩa
làm theo đắc đạo”(GMTK, Q.4). Tất cả lời khuyến tu của Ngài, là
sự thật muốn cứu đời, chớ chẳng phải muốn lừa gạt một ai, mà trong dân chúng cứ
mãi e dè ngờ vực.
CHÚ THÍCH:
THA THIẾT: Xem chú thích chữ “thiết
tha” tại tr. 179 Tập 1/3).
XẠ HƯƠNG: Xem lại chú thích tại tr.
32 Tập nầy.
PHÀN NÀN: Than thở cho phận mình
hay trách móc cách gián tiếp: Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai (Cổ
thi). Đức Thầy cho biết:
“Chừng nào ta gặp Hớn Hoàng,
Chúng sanh mới hết
phàn nàn số căn”.
(Sấm Giảng, Q.3)
CĂN SỐ: Căn phần số kiếp đã định
sẵn theo nghiệp báo luân hồi.
LỜI TRUYỀN SẤM: Xem chú thích tr.211 Tập
2/3.
BÀI TOÁN ĐỐ: Một pháp toán do thầy
giáo ra đề cho học trò làm. Người làm toán phải hiểu ý đúng theo phương pháp đã
giảng dạy mới đáp số đúng được. Có khi dùng mẹo mà đố, nếu ai chưa hiểu lý ắt
khó mà đáp đúng.
Lúc Đức Thầy lưu trú tại Sai Gòn, ông
Xã Bộ và ba nhà học thức miền Bắc đến viếng. Trong câu chuyện bàn luận Sấm
Kinh, Ngài có đố các ông ấy:
– Tôi đố các ông, “hai lần hai là mấy” ?
Ông Xã Bộ lẹ miệng, trả lời:
– Bạch Thầy, hai lần hai là bốn !
Đức Thầy nói:
– Toán đố mà các ông ! Nếu tính theo cửu
chương thì em học trò tính cũng được.
Các ông khách suy nghĩ một hồi không ra, đành
chịu thua và nhờ Đức Thầy giải thích.
Đức Thầy liền cầm miếng giấy đưa lên, nói:
– Các ông coi đây: Một lần hai, rồi Ngài xé
miếng giấy ra làm hai, để xuống bàn nửa miếng, còn nửa miếng cầm lại, nói tiếp:
– Đây, hai lần hai ! Ngài liền xé miếng giấy
còn lại và để hết hai mảnh giấy xuống bàn, nói:
– Đó, hai lần hai là chỉ có ba, chớ đâu phải
là bốn. Toán đố mà các ông !
Ở đây ý Đức Thầy muốn dạy, mỗi ai khi xem đến
lời Sấm Giảng của Ngài thì phải:“Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu.”(Khuyến
Thiện, Q.5). Hoặc là:“Coi rồi phải nhận cho hiểu lý” (GMTK, Q.4), rồi y
cứ theo đó mà thực hành mới được kết quả.
CHÁNH VĂN
237.Bị
ngoại quốc bán hàng quá gắt,
Nên dân ta chịu chữ cơ-hàn.
Ta Khùng Điên của cải chẳng màng,
240.Miễn
lê-thứ được câu hạnh-phúc.
Cờ thế-giới ngày nay gần thúc,
Nên Phật Tiên phải xuống hồng-trần.
Chừng lao-xao ác thú non Tần,
244.Thì
Nam-Quốc lương dân mới biết.
Nay dạy thế cậy cùng ngòi viết,
Với xác trần du-thuyết ít hàng.
Ai nói chi Ta cũng chẳng màng,
248.Sau
biết đặng dân đừng có tiếc.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 237 đến câu 248):
-Bởi hàng hóa của các nước ngoài, bán cho ta
càng lúc càng tăng giá, khiến dân ta chịu cảnh lầm than đói rách. Thế nên Đức
Giáo Chủ muốn đem lại cho đời cái chân hạnh phúc sau nầy, bằng cách là khai hóa
Đạo mầu, nếu ai chịu thực hành theo ắt được toại hưởng.
-Ngài còn cho biết cả thế giới, rồi đây sẽ
xảy ra những tai vạ: chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật.v.v…nên Phật Tiên phải
lâm phàm, tùy phương cứu độ. Và đến khi nào tại miền Bảy Núi (Châu Đốc) diễn ra
cảnh các loài thú dữ, nhiễu hại sanh linh thì dân chúng Việt Nam mới nhận rõ, lời
tiên tri của Ngài là đúng.
-Hiện nay trong công cuộc dạy đời, Đức Thầy
dùng giấy mực viết ra Kinh Giảng, truyền bá Đạo lành để bá tánh tiện bề tu học;
dầu cho người đời có khinh chê, Ngài cũng không màng kể. Chỉ e cho dân chúng
sau nầy, khi biết được sự đạo đức là cao quý rồi mới hối tiếc thì việc quá muộn
!
CHÚ THÍCH:
NGOẠI QUỐC: Nước ngoài, chỉ cho các
nước khác.
HẠNH PHÚC: Được vận may phúc tốt.
Mọi việc đưa đến đều như ý. Chính hạnh phúc là cái tốt lành trong luân lý, và
lý tưởng trong Đạo đức. Cổ thi có câu:“Tìm chân hạnh phúc thoát đường trái
oan”. Đức Thầy từng nói trong bài “Không Buồn Ngủ”:
“Biết làm sao gieo Đạo khắp đại
đồng,
Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc”.
LAO XAO: Xem chú thích tại tr. 123
Tập 1/3.
LƯƠNG DÂN: Người dân hiền lành.
Nghĩa rộng chỉ chung tất cả dân chúng.
DU THUYẾT: Đi khắp nơi đem học thuyết
hay một đề án gì, biện luận cho mọi người nghe. Đây ý nói Đức Thầy đem giáo
pháp truyền dạy khắp nơi để bá tánh biết tỉnh ngộ tu hành.
CHÁNH VĂN
249.Con
phù-du hẫng-hờ nào biết,
Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.
Thảm thương thay chết héo chết khô,
252.Nhìn
đèn nọ thấy mồ phù-dũ.
Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,
Đeo danh-lợi như con vật ấy.
Giống xe cát biển Đông thường thấy,
256.Tên
dã-tràng rất uổng công-trình.
Khi nước ròng nhờ lúc bình-minh,
Lúc nước lớn cát kia tan rã.
Trần phú-quí thì trần thong-thả,
260.Chớ
còn Ta cứ khổ lao hoài.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 249 đến câu 260):
-Đức Giáo Chủ sáng tác quyển Giác Mê Tâm Kệ
nầy, vào cuối mùa Thu năm Kỷ Mão (1939). Ngài cảnh tỉnh người đời, bằng cách đề
cập đến loại phù du, vì ham ánh sáng của bóng đèn mà phải chết thiêu, để ám chỉ
hạng người đam mê danh lợi, gây tạo lắm điều tội ác, rồi phải chịu đau khổ chết
chóc vì nó:“Phú quí tạo đời thêm mệt xác, Tham danh phế Đạo
chí đâu yên”(Luận Việc Tu Hành).
Ngài lại nhắc đến tên Dã Tràng đã hoài công
xe cát, ý mong lấp biển tìm châu, để thỏa lòng luyến tiếc, nhưng bị dòng nước
lớn cuốn cát trôi đi. Đây cũng chỉ cho những người suốt đời lo chạy theo tiền
tài danh vọng, song chẳng hề hưởng được lâu dài, bởi:“Lợi danh chớp nháng
như luồng gió, Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền”(Luận Việc Tu Hành).
-Lời giác tỉnh trên đây, mặc cho khách trần
biết hồi tâm hay mãi đua tranh theo sự giàu sang, sung sướng. Riêng phần Đức
Thầy, vì lòng từ bi độ chúng nên Ngài chẳng nài sự gian khổ:
“Thân ta dầu lắm đoạn trường,
Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài.”
(Cảm Tác)
CHÚ THÍCH
PHÙ DU: Một thứ côn trùng rất nhỏ,
đầu giống con chuồn chuồn, nhưng nhỏ hơn. Sanh từ dưới nước, có cánh bay được,
lúc ban đêm hễ thấy người ta đốt lửa, hoặc ánh sáng của ngọn đèn thì tự bay
vào, rồi chết. Ý nói kiếp sống của con người quá ngắn ngủi, thấy đó rồi mất đi.
Nhà thơ Cao Bá Quát có câu:“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Kiếp phù du trông
thấy cũng nực cười”.
Loại phù du cũng gọi là con thiêu thân, bởi
nó thấy ánh sáng thì cứ lao đầu vào đó, nên bị chết đốt. Ở đây ám chỉ cho những
người mãi tham đắm danh lợi, rồi phải chết vì lợi danh.
HẪNG HỜ: Cũng đọc là hững hờ hay là
hờ hững. Có nghĩa thờ ơ, lạnh nhạt, không quan tâm đến, không để ý đến. Đức
Thầy từng bảo trong “Khuyến Thiện, Q.5”:
“Việc tu thân thiện tín hẫng hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh”.
PHÙ DŨ: Chỉ cho loại phù du vừa
giải trên.
TÊN DÃ TRÀNG:
Cũng gọi là Công Dã Tràng tức là một loại còng nhỏ, trên lưng lõm xuống, thường
ở theo bờ biển. Hễ nuớc ròng thì chúng dùng càng vít cát, rồi chở xuống mé nước
đổ, để lấp biển, nhưng đến khi nước lớn bị sóng đánh vào, cát liền tan rã.
Thành ngữ nầy dùng chỉ cho việc làm nào dày công cực nhọc mà không đem lại kết quả
gì:“Dã tràng xe cát biển Đông, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”(Cổ
thi). Ở đây ám chỉ cho những người, suốt đời chỉ biết đeo đắm danh lợi ảo
huyền, nhưng khi gặp tai nạn đưa đến thì tất cả đều thả trôi theo dòng nước:“Từ
rày trần hạ lợi danh trôi.”(Lộ Chút Cơ Huyền). Và ngày rốt cuộc
:“Nhắm mắt cũng nắm hai tay.”(Khuyến Thiện Q.5).
Sau đây là sơ lược sự tích Dã Tràng:
Ngày xưa, tại tỉnh Sơn Tây (Trung Hoa), có anh thợ săn tên là Dã
Tràng, chuyên sống nghề săn bắn. Hôm nọ Dã Tràng đi ngang qua một hang đá, bỗng
gặp đôi vợ chồng nhà rắn. Anh chẳng hề đá động đến, nhưng từ độ ấy anh luôn
theo dõi cặp rắn, thấy chúng thường sống bên nhau, chừng như hạnh phúc lắm !
Một hôm, rắn cái tới kỳ lột vỏ, rắn đực đi kiếm mồi về nuôi nấng,
chăm sóc. Chẳng bao lâu, tới kỳ lột vỏ của rắn đực, rắn cái chẳng những không
làm bổn phận, lại còn đi tư tình với con rắn đực khác, và dắt tình nhân về
miệng hang toan hại chồng. Thấy thế, Dã Tràng động lòng nghĩa hiệp, quyết giết
con rắn lang chạ ấy. Anh liền rút tên, bắn rắn cái chết tốt, tình nhân của nó
kinh sợ chạy mất.
Mấy hôm sau, rắn đực cứng mạnh bò ra miệng hang, gặp vợ bị tên nằm
chết, xem lại mũi tên có đề danh Dã Tràng, bèn tìm tới nhà báo thù. Rắn lẻn vô
nằm núp dưới giường, bỗng nghe Dã Tràng thuật rõ câu chuyện xảy ra của cặp rắn
cho vợ nghe. Bấy giờ rắn đực mới vở lẽ, vợ mình chết là đáng tội. Còn anh thợ
săn nầy là ân nhân của ta, nó liền bò ra gật đầu trước mặt Dã Tràng mấy cái và
nhả ra một hột ngọc sáng, rồi bò đi mất.
Từ ngày Dã Tràng được rắn tặng cho viên ngọc, mỗi khi anh để ngọc
vào miệng ngậm lại, nghe được tiếng của các loài thú. Hôm nọ, Dã Tràng nghe đàn
quạ nói với nhau:“Phía đông, cách đây một dặm đường, có con nai tơ bị thương
gần chết”. Dã Tràng đến đó gặp đúng như vậy, anh xẻ nai lấy thịt. Đàn quạ bay
theo kịp, kêu nói:“Lấy thịt nai cho chúng tôi bộ đồ lòng, vì công ấy của chúng
tôi”. Dã Tràng làm y theo lời quạ. Lần sau cũng thế, nhưng quạ chưa đến kịp, bị
chó sói cướp mất bộ đồ lòng. Quạ bay theo trách móc Dã Tràng là kẻ bội ngôn…Dã
Tràng biện minh thế nào, chúng cũng không thôi. Thấy quạ hỗn xược, mắng nhiếc
đủ điều, Dã Tràng tức giận rút tên bắn quạ. Quạ né khỏi và cắn mũi tên bay đi,
nói:“Ta sẽ báo thù, ta sẽ báo thù”, đoạn rồi nó đem mũi tên ấy cắm vào tử thi
đang trôi.
Thế là mấy ngày sau, Dã Tràng bị lính bắt về tội bắn người
chết…Anh bị tống giam, chờ ngày lãnh án. Ngồi trong ngục, Dã Tràng nghe bầy
chim sẻ nói:“Có nhiều kho lương của Vua để hở, đã bị loài chim ta ăn no nê”,
anh bèn cho viên chủ ngục hay điều đó. Lúc đầu họ không tin, nhưng sự việc đúng
y như vậy !
Sau đó, Dã Tràng thấy đàn kiến kéo nhau di chuyển và nói:“Sắp có
bão lụt lớn, chúng ta phải lánh nạn”, anh liền báo tin nữa. Lần nầy quan sở tại
báo cáo về triều đình để ra lịnh ngừa lụt. Quả nhiên mấy ngày sau lụt lội tơi
bời, nhưng nhờ ngừa trước, nên không bị thiệt hại cho lắm.
Qua cơn lụt, vua ra lịnh tha cho Dã Tràng và vời anh về trào hỏi
nguyên do ? Dã Tràng tâu rõ tự sự. Vua liền phong tước và cho ở bên Hoàng Cung.
Từ đó, Vua thường mượn viên ngọc của Dã Tràng ngậm vào miệng, để được nghe
tiếng của các loài chim nơi vườn thượng uyển.
Ngày kia, Vua tổ chức du ngoạn vùng biển, cũng để được nghe các
động vật dưới nước trò chuyện. Ngồi trên mạn thuyền, vua nghe các bầy cá tâm sự
đủ điều, lòng thỏa thích vô hạn nên cười lên ha hả, bỗng viên ngọc rơi tõm
xuống nước. Vua rất hối hận, nhưng không kịp, bèn huy động cả thợ lặn, chài,
lưới để tìm lại viên ngọc, song vô hiệu.
Riêng Dã Tràng thì sầu não, biếng ăn, biếng ngủ và sau cùng nảy ra
ý “lấp bể tìm châu”, nên hằng ngày anh ra mé biển, xe cát đổ xuống cho đến khi
thân cùng lực tận mà vẫn không tìm được ngọc.
Sau khi Dã Tràng chết, người ta thấy trên bãi biển xuất hiện giống
cua nhỏ (còng), cứ mỗi khi thủy triều xuống (nước ròng) thì chúng xe cát đổ
thành đống sát mé nước; nhưng khi dòng thủy trỉều ùa lên (nước lớn) thì cát ấy
bị tan đi. Cứ thế mà chúng mãi làm không chán. Thấy vậy, người ta bảo nhau
rằng: Có lẽ Dã Tràng chết đi, vì lòng luyến tiếc chưa vẹn nên hóa kiếp làm loại
còng nầy, với hoài bão lấp biển để tìm lại viên ngọc quí.
Điển tích Dã Tràng, xưa nay văn chương thường dùng, để chỉ cho sự
lấp biển vá trời, là việc sức người không thể làm được, chỉ hoài công vô ích.
Còn về Phật học thì ám chỉ cho vạn vật trong thế gian, cái gì có
hình sắc hay quyền tước, lợi danh, tình ái đều phải đi theo định luật: thành,
trụ, hoại, không, nên dù ta có nhọc công gầy tạo và tham luyến cũng chẳng được
bền lâu.
BÌNH MINH: Bình
là yên lành phẳng lặng; Minh là biển. Đây chỉ cho mặt biển êm tịnh, không sóng
gió.
CHÁNH VĂN
261.Viết kệ-cơ giảng
dạy ít bài,
Mặc lê-thứ làm
không tự ý.
Coi rồi phải nhận
cho hiểu lý,
264.Câu huyền sâu của
kẻ Khùng nầy.
Bởi chữ Khùng của
Phật của Thầy,
Chớ chẳng phải
của người lãng-trí.
Mê với tỉnh nhận
ra là lý,
268.Thấy dương-trần
ngủ mãi ngủ hoài.
Thức dậy mà tầm
Đạo kiếm bài,
Để thi-cử khỏi
mang tiếng rớt.
Sách khuyến-thiện
miệng kêu không ngớt,
272.Mà nào ai có thức
dậy tầm.
Ta nghĩ suy cũng
bắt hổ thầm,
Nên than-thở cùng
trần ít tiếng.
Tâm sáng suốt như
đài nguyệt-kiến,
276.Tánh trong như
nước bích mùa xuân.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 261 đến câu 276):
-Đoạn nầy ý cho biết lời kệ cơ khuyên dạy của Đức Thầy, mặc bá
tánh có thi hành hay không, tùy ý. Nhưng nếu ai muốn làm theo thì khi xem đến
Sấm giảng, cần suy tầm cho thấu hiểu lý thâm sâu trong đó mà thực hành, mới
mong kết quả.
-Tuy nói lời lẽ trong đây là của kẻ Khùng, nhưng toàn lời của bậc
Phật, bậc Thầy, chớ chẳng phải như lời của bao nhiêu người lãng trí khác. Vậy
hành giả nào có nhận xét và phân tách được, đâu là mê lầm và đâu là giác ngộ,
mới rõ được chơn lý nhiệm mầu của Đạo.
-Bởi thấy chúng sanh mãi ngủ vùi trong cảnh trần thống khổ, nên
Đức Thầy kêu gọi họ sớm thức tỉnh tu hành, tìm hiểu cho rõ ràng: Tôn chỉ, mục
đích và pháp môn, luật giới của Đạo, rồi cố gắng hành y theo đó, tất được kết
quả. Ấy gọi là thi đậu, bằng không đặng vậy là thi rớt. Từ trước tới giờ Ngài
đã truyền dạy rất nhiều Kệ Giảng, khuyên bá tánh bỏ dữ về lành, thế mà chưa
được mấy người thức tỉnh suy tầm.
-Do đó, Ngài cũng bắt thẹn thầm, nên không ngớt khuyến tấn người
đời sớm tỉnh tâm tu niệm. Ngài còn dạy: Khi người tu hết vọng trần, tâm trí trở
nên sáng tỏ như “Đài Nguyệt Kiếng” không một vật nào ngăn che được. Và
tánh mình cũng tịch tịnh an nhiên, chẳng còn chút bợn nhơ trần trược.
CHÚ THÍCH:
HUYỀN SÂU: Xem
chú thích chữ “huyền thâm” tại tr. 37 Tập 1/3.
LÃNG TRÍ: Cũng gọi là nhãng trí
hay đãng trí. Có nghĩa: không định trí, hay quên, nghĩ sai.
MÊ VỚI TỈNH NHẬN RA LÀ LÝ: Câu nầy ý nói: người tu hành cần phân tách và thấu hiểu được thế
nào là mê, thế nào là tỉnh, tức là cần nhận rõ được chân lý của Đạo. Và từ chỗ
đó hành giả nương về với tâm tỉnh giác để tiến đến quả Bồ Đề. Tỉnh Thế Ngộ Chơn
có câu:
“Nhơn nhơn tỉnh ngộ, nhơn nhơn Thánh,
Tại tại hôn mê, tại tại luân”.
(Người biết tỉnh ngộ, ấy là người Thánh,
Kẻ tạo hôn mê, tất phải luân trầm).
Đức Thầy từng kêu gọi:
“Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
Phải toan sắm sửa rứt trần
ai.”
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
TẦM ĐẠO KIẾM BÀI: Tìm cho hiểu đường lối, mục đích và tôn chỉ, giáo pháp của Đạo
để tu tiến.
SÁCH KHUYẾN THIỆN: Kinh sách khuyên người làm lành, lánh dữ. Đức Thầy có khuyên:
“Ai mà muốn đặng phước duyên,
Nghe lời khuyến thiện lòng liền phát tâm”.
(Khuyến Thiện, Q.5)
HỔ THẦM: Tủi thẹn trong lòng.
Đây ý nói vì chúng sanh quá mê mờ ít người hồi tâm, làm cho công cuộc giác đời
của Đức Thầy chưa mấy kết quả, nên Ngài cũng âm thầm tủi phận.
ĐÀI NGUYỆT KIẾNG: Nơi cõi U Minh, tại điện thứ nhứt của Tần Quản Vương, có cái đài
treo một tấm kiếng, hình mặt nguyệt, gọi là Đài Nguyệt Kiếng, để dành soi ứng việc
làm tội lỗi của các linh hồn không chịu cung khai. Nó có công năng diễn lại mọi
hành động tội ác của tội nhân như cuồn phim chiếu bóng trên màn ảnh. Ở đây ý
nói, tâm của người tu khi được tròn sáng thì thấu suốt vạn vật. Đức Thầy từng
cho biết:
“Ta chí dốc tầm Đài Nguyệt Kiếng,
Cho dương trần rọi chuyện sai lầm”.
NƯỚC BÍCH: Do
chữ bích thủy. Có nghĩa: nước biếc, nước trong xanh. Nước bích mùa xuân
là nói nước sông vào mùa Xuân rất trong lặng, một màu xanh biếc.
CHÁNH VĂN
277.Nếu không tu
chừng khổ cũng ưng,
Đừng có trách sao
không chỉ bảo.
Từ nhỏ tuổi đến
người trưởng lão,
280.Mắc trong vòng
sanh tử luân hồi.
Xuống Diêm-Đình
thấy tội hỡi ôi !
Đó mới biết có
nơi địa-ngục.
Kỳ xá tội nay còn
một lúc,
284. Sao
chẳng tu đặng có hưởng nhờ.
Gặp giảng kinh
trần cứ làm ngơ,
Trồng bông kiểng
giống chi hưởng nấy.
Địa-ngục cũng tại
Tâm làm quấy,
288.Về thiên-đàng Tâm
ấy tạo ra.
Cái chữ Tâm mà
Quỉ hay Ma,
Tiên hay Phật
cũng là tại nó.
Tu với tỉnh biết
làm chẳng khó,
292.Nếu lặng Tâm
tỏ-ngộ Đạo mầu.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 277 đến câu 292):
-Theo ý đoạn giảng trên, nếu ai chịu thi hành y lời khuyên dạy của
Đức Thầy, thì được chứng Đạo; bằng chẳng tu, đợi khi gặp cảnh khổ đưa đến, phải
đành chịu, chớ đừng trách Phật Tiên “sao không chỉ bảo”. Ngài cũng cho
biết, khắp chúng sanh trong cõi trần, dầu già, trẻ, trí, ngu, ai cũng phải chịu
cảnh chết đi rồi sanh trở lại, và cứ thế mà lên xuống mãi trong sáu đường luân
hồi thống khổ:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra.”(Cho Ô. Cò Tàu Hảo).
-Lại nữa, có nhiều người trong kiếp sống, không tin Phật pháp và
luân hồi, nhân quả, nên họ mãi gây tội ác. Kịp khi tử thần gõ cửa, bị đọa vào
cảnh giới Địa ngục, phải chịu sự hình phạt đau đớn muôn phần; chừng ấy dầu muốn
hối lỗi cũng không sao tránh khỏi. Đức Thầy từng khuyến cáo: thời kỳ “Thiên
đình ân xá bớt tội căn…”, chẳng còn bao lâu nữa là hết hạn, sao chúng sanh
không sớm thức tỉnh tu hành để được hưởng mọi điều cao quí.
-Bởi có lắm người không để ý đến lời Kinh, tiếng Kệ, Đức Thầy mới
nói rõ lý nhân quả: hễ gieo giống chi tất hưởng trái nấy, để cho mọi người trọn
tin nơi việc làm lành hưởng phúc, tạo ác mang tai. Và Ngài cũng cho biết: muôn
vật trong thế gian, từ san hà đại địa, đến vạn loại chúng sanh và mọi sự thăng
trầm vui khổ, Địc ngục hay Thiên đường, thành Tiên Phật hay làm ma quỉ…cũng đều
do tâm mình ra cả. Nghĩa là tùy theo tâm thức của mỗi người, mà có thể tiến lên
cảnh siêu thoát an vui, hay bị đọa vào chỗ thấp hèn tội khổ.
-Vậy ai muốn được cao cả, phải sớm thức tỉnh tu hành, và nếu biết
rõ phương cách cũng chẳng khó lắm. Hễ giữ lòng mình được thanh tịnh trừ hết
phiền não ngã chấp, tất nhiên được “tỏ ngộ Đạo mầu”.
CHÚ THÍCH:
LUÂN HỒI: Xem
lại chú thích tại tr.36 Tập 1/3.
DIÊM ĐÌNH: Xem
lại chú thích tại tr. 97 Tập 2/3.
ĐỊA NGỤC: Xem lạic hú thích tại
tr.94 Tập 1/3.
XẢ TỘI: Cũng đọc là xá tội. Có
nghĩa: tha tội, miễn tội, cũng như cuộc ân xá, ân giảm cho các tội nhân. Trong
Giảng “Mười Một Hồi”, ông Sư Vãi Bán Khoai (Huệ Lựu) nói:
“Phật đà cảm động lòng thương,
Nói cho ai nấy muốn còn tu thân.
May mà Trời Phật bố ân,
Xả bớt tội đó thanh nhàn tấm thân”.
THIÊN ĐÀNG: Cũng
đọc là Thiên đường, tức là cõi Trời. Đây chỉ cho cảnh siêu thoát, thường an
nhiên tự tại, đối với cảnh Địa ngục, là nơi bị buộc ràng đầy lao khổ. Đức Thầy
có câu:
“Thiên đường siêu thoát thời thong thả,
Địa ngục trầm luân ắt đảo điên”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
CÁI CHỮ TÂM MÀ QUỈ HAY MA, TIÊN HAY PHẬT CŨNG LÀ TẠI NÓ: Hai câu giảng nầy là nói lên cái lý “Nhứt
thiết duy tâm tạo”. Tất cả muôn pháp, muôn cảnh, từ tốt xấu, cao thấp, trí
ngu… đến Phật, Tiên, Thần, Thánh hay ma quỉ, cũng đều do tâm tạo ra cả. Trong “Tâm
Địa Quán Kinh”, Phật bảo:“Tâm như họa sư, năng họa chủng chủng sắc cố.
Tâm như đồng bộc vi chư phiền não sở sách dịch cố. Tâm như Quốc vương khởi
chủng chủng tự đắc tại cố. Tâm như oán tặc, năng linh tự thân thọ đại khổ cố.”(Tâm
như thợ vẽ, vẽ được tất cả các thứ hình sắc. Tâm như đứa tớ bé, bị các phiền
não thúc hối và sai khiến. Tâm như vị Quốc vương, phát khởi được các việc an
vui tự tại. Tâm như cừu thù, khiến tự thân phải chịu các điều thống khổ).
Và trong “Pháp Bửu Đàn Kinh”, Đức Lục Tổ cũng nói:“Lòng từ bi,
tức là Quan Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (trong sạch) tức là
Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng và chánh trực) tức là Di Đà”.
Ngược lại, “lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước
biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối trá là quỉ
thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là Địa ngục, lòng ngu si là súc
sanh”. Đức Thầy hiện nay cũng cho biết:
“Làm gian ác là quỉ là ma,
Làm chơn chánh là Tiên là Phật.”(Kệ Dân, Q.2).
TỎ NGỘ ĐẠO MẦU: Thấu đạt cái chơn lý diệu mầu của Đạo, gọi tắt là ngộ đạo,
tức là cái tri kiến chơn thật bừng mở ra, liền chứng ngộ Đạo Bồ Đề mà kinh Pháp
Hoa thường gọi “Ngộ Phật Tri Kiến”.
Xưa, Ngài Huy Sơn đến Giang Tây tham học với Tổ Bá Trượng.
Tổ vừa thấy liền biết Ngài là bậc đã học đến chỗ sâu kín, bèn cho làm đầu trong
đại chúng.
Hôm nọ, Huy Sơn đang đứng hầu, Tổ kêu Ngài, bảo:
-Vào trong nhà lấy lửa !
Ngài vào trong khươi tro hồi lâu trở ra nói:
-Bạch Thầy ! Trong lò không có lửa.
Tổ tiên rời chỗ ngồi, bước đến lò lửa bươi sâu xuống, gắp được cục
lửa đỏ, đưa lên cho Huy Sơn xem và thốt:
-Ngươi nói không có lửa, chớ cái gì đây ?
Ngài Huy Sơn nhơn đó mà tỏ ngộ chơn tánh.
Câu chuyện trên cho ta thấy: Huy Sơn bươi lò tìm không ra lửa, ý
nói chưa rõ tâm mình có Đạo (chơn tánh), và cũng chưa biết phương pháp, nên
chưa tỏ ngộ. Còn Tổ sư bươi lò được lửa đưa lên, khiến cho Huy Sơn tỏ ngộ. Ý
nói nhờ có Thầy chỉ cho phương cách, Ngài mới hoát nhiên trực nhận bản tâm,
liễu ngộ chân tánh.
Xưa, Ngài Thanh Lương Quốc Sư bảo:“Cái chí lý của Đạo
vốn nơi tâm, pháp của tâm vốn nơi vô trụ, tâm vô trụ rất mầu sáng, không tối
tăm. Tánh và tướng đều yên lặng, trùm khắp muôn đức, muôn dụng, gồm nhiếp trong
ngoài rất sâu rộng, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt,
không trước không sau, tìm nó không ra, bỏ nó không mất. Mê đắm hiện cảnh thì
khổ não rối ren. Bằng tỏ ngộ được chơn tánh thì rỗng thông sáng suốt”.
Hiện nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng nói rõ:“Biết tỏ ngộ ấy là
gặp Đạo”, mà ai muốn được tỏ ngộ, tức phải lặng tâm:“Nếu lặng tâm
tỏ ngộ Đạo mầu”.
CHÁNH
VĂN
293.Cảnh dương-gian
muôn thảm ngàn sầu,
Ngó vạn vật đài
lầu chẳng có.
Sông với núi
trước kia mắt ngó,
296.Khi chết rồi thấy
nó đặng nào.
Ai biết đường hãy
sớm tẩu-đào,
Kiếm Đạo-lý mà
nhờ mà nhõi.
Chịu cay-đắng tu
hành mới giỏi,
300.Ta thương đời
len-lỏi xuống trần.
Đạo vô-vi của
Phật ân-cần,
Nối theo chí
Thích-Ca ngày trước.
Câu phú-quí Ngài
không màng-ước,
304.Chữ bồ-đề như cội
bá-tòng.
Rán dưỡng-nuôi
chữ đó trong lòng,
306 Thì là được định
chừng diệu-quả.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 293 đến câu 306):
-Đoạn kệ trên Đức Thầy diễn tả lý vô thường, khổ não, vô ngã. Ý
chỉ con người sống trong cảnh trần, phải gánh chịu muôn ngàn đau khổ, nào sự
sanh, già, bịnh, chết, nào mưu cầu chẳng thành, thương yêu ly biệt, oán ghét
gặp nhau, và ưu sầu lo ngại. Tất cả đều dồn vào một chữ khổ. Hơn nữa, trong lúc
sống còn, dẫu ta có tạo bao nhiêu của tiền đài các…Cho đến mọi cảnh vật sơn hà
đại địa…Nhưng đến ngày giã biệt cõi đời, ta chẳng mang theo được một sự vật nào
cả. Đúng là “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ.”(Khuyến Thiện,
Q.5).
-Vậy ai rõ được lý trên, hãy sớm tìm con đường Đạo lý hầu thoát ly
cảnh khổ. Song trên bước hành đạo, nhà tu cần rèn luyện đức kiên nhẫn: nhịn tất
cả lời cay tiếng đắng và vượt qua mọi khó khăn thử thách, để đạt thành mục
đích.
-Bởi lòng quá thương xót sanh linh, Đức Thầy đã nhiều lần nhập
thế, đem chánh pháp vô vi hưng truyền trong đại chúng. Ngài nêu tấm gương hy
sinh tầm Đạo của Đức Thích Ca:“Mình vàng Thái tử ngôi còn bỏ, Vóc ngọc Đông
Cung tước phế liền”(Luận việc tu hành) để khuyên nhủ tín đồ nên phát tâm Bồ
đề. Bởi có lòng Bồ đề nhà tu mới đủ nghị lực lướt qua mọi gian khổ, cũng như
loại tòng bá, chẳng hề bị tuyết sương làm tàn cỗi. Và nếu ai biết nuôi dưỡng
hột giống giác ngộ ấy nơi tâm mãi, thì quả vị Chánh giác lo gì chẳng đạt thành.
CHÚ THÍCH:
DƯƠNG GIAN:
Cũng gọi là nhân gian hay dương thế, dương trần. Đây chỉ cõi đời, nơi
loài người sanh sống.
TẨU ĐÀO: Chạy trốn cho khỏi.
Đức Thầy có câu:“Tầm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan.”(Thiên
Lý Ca).
ĐẠO LÝ: Xem chú thích tại
tr.128 Tập 1/3.
LEN LỎI: Chen mình vào, cố chen
cho vào được. Ví dụ: Dầu gặp cản trở vẫn len lỏi vào. Đây ý nói mặc dù đời có
nhiều bạc đãi, đầy khó khăn cản trở, nhưng Đức Thầy cũng đã nhiều lần nhập thế
độ dân.
VÔ VI: Xem chú thích tại tr.
87 Tập 2/3.
THÍCH CA: Xem lại chú thích tại
tr. 113 Tập 2/3.
BỒ ĐỀ: Phiên âm của Phạn ngữ Bodhi.
Tàu dịch là Chánh Giác, có nghĩa: lòng giác ngộ chơn chánh. Đức Thầy đã
nói:“Lòng Bồ đề sắt đá dám kình.”(Diệu Pháp Quang Minh).
DIỆU QUẢ: Quả
vị thù diệu của Bồ đề và Niết bàn, do các thắng nhân tu hành mà được.(Thắng
nhân là người có năm sức lực siêu thắng, ngũ lực).
CHÁNH VĂN
307.Lời thuyết-pháp
chẳng vì nhơn-ngã,
Người nào đâu có
Phật-tánh là.
Xem kệ này như
ngọc như ngà,
310.Phải nảy nở như
cơn mưa thuận.
Hạp mùa tiết
giống kia bất luận,
Thảy mọc mầm trổ
lá mới mầu.
Trông chúng-sanh
nghĩ tận đuôi đầu,
314.Về Cực-Lạc mới là
hết khổ.
Đạo với lý từ đây
nhiều chỗ,
Phải lọc-lừa cho
kỹ mà nhờ.
Chọn nơi nào đạo
chánh phượng thờ,
318.Thì mới được thân
sau cao-quí.
Nhìn Phật-Giáo mà
tìm cái lý,
320.Coi tại sao ta
phải tu hành.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 307 tới câu 320):
-Đức Giáo Chủ cho biết, lời luận giải đạo đức của Ngài, chẳng hề
để tâm phân biệt một cá nhân nào, mà vì lòng từ bi của người đã tìm ra chân lý
giải thoát, nay có bổn phận giác tỉnh kẻ trần gian:“Cứu dân bất luận giàu
sang khó nghèo.”(Sấm Giảng, Q.3). Cũng như trời mưa không dành
riêng cho loại hoa cỏ nào mà bất cứ nơi đâu, hễ có sẵn hột giống và hạp thời
tiết thì tự nhiên nức mầm nẩy tược. Vậy ai là người đã có hạt giống Phật, và
hữu duyên cùng Đạo pháp, khi nghe đến lời Kệ nầy, hãy sớm tỉnh ngộ tu hành; bởi
hiện tình là hợp thời và đúng lúc, cho các căn lành chớm nở.
-Đức Thầy rất mong đợi mọi người, khi xem Kệ Giảng của Ngài, hãy
sớm nghĩ suy cạn lẽ để thấy rằng: đối với cõi Ta bà thống khổ, chỉ có cõi Cực
lạc là nơi an vui trường cửu:
“Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,
Có bao người xét cho tột chỗ.
Tịnh độ vui, Tịnh độ nhàn vui,
Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi,
Nào ai rõ cái vui triệt đáo.”
(Khuyến
Thiện ,Q.5)
Nhân đó, Ngài khuyên chư thiện tín, nên nhứt tâm niệm Phật làm
lành, để được vãng sanh về Lạc Quốc.
-Ngài cũng nói rõ, giữa thời nầy có rất nhiều mối Đạo ra đời, tà
chánh lẫn lộn:“Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.”(Thiên Lý
Ca). Vậy ai muốn tu hành, hãy dùng trí sáng suốt của mình mà chọn lọc cho kỹ,
xem nền Đạo nào thật sự là giải khổ cho chúng sanh. Và có đủ giới luật, tôn
chỉ, cũng như phương pháp tu hành, để đưa chúng sanh đến mục đích giải thoát mà
nương theo, tất tương lai được kết quả cao quí. Bằng ngược lại, sẽ lạc vào tà
thuyết, mê tín, rất nguy hại cho đời mạng ta:“Lầm tà đạo nhơn hư bất dụng.”(Kim
Cổ Kỳ Quan của Ô. Ba Thới).
-Song muốn cho sự tu hành được kết quả chắc chắn, hành giả phải
nghiên cứu sâu vào giáo lý Đạo Phật, coi tại sao ta phải tu, tu với phương pháp
nào và được kết quả ra sao ? Có thế ta mới vững đức tin và gắng sức tu tiến đến
ngày viên mãn.
CHÚ THÍCH:
LỜI THUYẾT PHÁP CHẲNG VÌ NHƠN NGÃ: Câu giảng nầy ý nói lời thuyết pháp của Đức
Thầy, chẳng hề có lòng phân biệt, người và ta trong chỗ cao thấp,
trí ngu mà chỉ vì lòng từ mẫn. Ngài có bổn phận đánh thức kẻ còn mê để sớm được
tỉnh giác. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói;“Ví như mặt trời mọc, trước tiên
chiếu các dãy núi chúa, kế đến chiếu tất cả núi lớn, rồi chiếu núi Kim Cang
Bảo, sau rốt chiếu khắp đại địa. Ánh sáng mặt nhựt chẳng nghĩ rằng: trước tiên
ta nên chiếu các núi chúa lớn, lần lượt mới chiếu đến đại địa. Nhưng vì núi non
đất liền có cao thấp, nên ánh sáng chiếu có trước sau. Tâm của Đức Như Lai cũng
y như vậy, Ngài thành tựu vô lượng vô biên pháp giới trí huệ, nhựt luân thường
phóng vô lượng trí huệ quang minh vô ngại, trước hết chiếu các vị Bồ Tát,…Kế
đến chiếu các bậc Duyên Giác, Thinh Văn, kế nữa chiếu những chúng sanh có thiện
căn, quyết định tùy theo chỗ đáng hóa độ. Sau cùng chiếu đến cả thảy chúng
sanh, nhẫn đến kẻ tà định, vì họ mà làm nhơn duyên lợi ích cho đời vị lai…”
Đức Thầy hiện nay cũng từng nói:
“Giàu sang nghèo khó cũng người,
Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
CỰC LẠC: Xem lại chú thích tại
tr.15 Tập 2/3.
ĐẠO CHÁNH: Xem
lại chú thích tại tr.58 Tập 2/3.
NHÌN PHẬT GIÁO MÀ TÌM CÁI LÝ, COI TẠI SAO TA PHẢI TU HÀNH: Hai câu giảng trên có ý khuyên mỗi người hãy
nhìn sâu vào Giáo lý của nhà Phật để tìm hiểu coi do đâu mà ta phải tu .
Thấy rằng, xưa nay số người tu hành rất đông, nhưng trường hợp
phát tâm thì ít ai giống ai, xét bởi cơ duyên và trình độ chẳng đồng nhau. Song
căn cứ vào giáo lý của Đức Phật, Đức Thầy có thể đại lược một ít lý do chánh
như sau:
1/- Vì muốn cứu khổ vạn loại chúng sanh: Bởi lòng từ bi,
thấy chúng sanh mãi luân chuyển trong bể trần thống khổ, nên các bậc đại căn
đại trí, phát tâm tìm Đạo để giải khổ cho muôn loài. Như trường hợp Đức Thích
Ca cùng chư Bồ tát trước kia. Cũng như Đức Thầy hiện nay cho biết:“Tu
hành tầm Đạo một mai cứu đời.”(Sám Giảng Q.3).
2/- Vì có duyên lành gặp được Phật pháp: Bởi có gieo sâu
duyên lành với Đạo pháp, trong nhiều tiền kiếp, nên kiếp nầy vừa nghe được lời
sấm kinh là chúng ta phát tâm tu niệm. Ví như có hột giống sẵn, hễ gặp mưa thì
nứt mầm đâm tược:
“Duyên lành rõ được Khùng Điên,
Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
3/- Vì tin nơi luật Nhân quả: Bởi nhận xét sự trả vay của
luật nhân quả rất nghiêm minh, hễ gieo giống chi tất hưởng trái nấy; mọi cuộc
sống sang hèn vui khổ trên đời, đều do nghiệp nhân của mỗi người đào tạo vừa
qua mà bây giờ nó trả lại:“Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”(GMTK,
Q.4). Và:
“Luật nhân quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một
ai”.
(Khuyến Thiện, Q.5)
Do đó chúng ta cải ác tùng thiện.
4/- Vì nghĩ đến nỗi khổ của xác thân: Xét thấy xác thân là
nguyên nhân của sự khổ, hễ có sanh ra tất có già, bịnh, chết và mọi sự ái ân
phiền não ràng buộc không ngừng. Khi chết đi chưa phải là hết khổ, thần thức
phải tùy theo nghiệp lực, mà tạo thành thân chúng sanh khác, để rồi tiếp tục
chịu khổ. Đối với cảnh giả tạm đau khổ nầy là có Niết Bàn, Cực lạc. Thân người
ở cõi ấy:“Không già không bịnh chẳng ngày nào lo”(Từ Giã
Làng Nhơn Nghĩa) và an lạc trường miên, vì thế chúng ta mới phát tâm tu hành để
thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử.
5/- Vì tin sự chuyển biến của lý Tam ngươn: Bởi nhận xét
quả Địa cầu sắp đến ngày biến hoại, nhân sanh phải trải qua cuộc tang thương
biến đổi, để lập lại Thượng ngươn, mà bấy giờ chỉ có những phần tử ưu tú, thiện
lương mới được tồn tại:
“Khắp lê thứ biến vi thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thượng ngươn”.
Và:
“Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời thượng cổ.”
(Kệ
Dân, Q.2)
Đại khái 5 lý do vừa kể trên, tùy theo căn duyên của mỗi người mà
lý do nào cũng là nguyên nhân khiến chúng ta phát tâm hành đạo.
CHÁNH VĂN
321.Vì yêu dân Ta kể
ngọn-ngành,
Khuyên lê-thứ làm
lành mà tránh.
Cảnh Niết-Bàn là
nơi cứu cánh,
324.Về chốn ni xa
lánh hồng-trần.
Dầu không siêu
cũng đặng về Thần,
Nhờ hai chữ
trung-quân ái-quốc.
Chừng lập Hội
biết ai còn mất,
328.Giờ chưa phân
chưa biết chánh tà.
Ta vì vưng sắc
lịnh Ngọc-Tòa,
Đền Linh-Khứu sơn
trung chịu mạng.
Nền đạo-đức Ta
bày quá cạn,
332.Mà dương-gian còn
gạn danh từ.
Làm cho Ta lỡ
khóc lỡ cười,
Khóc là khóc
thương người ngu muội.
Thấy Điên Khùng
làm như sắt nguội,
336.Chẳng tranh đương
nó lại khinh-khi.
Ngó về Tây niệm
chữ từ-bi,
338.Cười trần-thế
mê-si thái quá.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 321 đến câu 338):
-Bởi lòng quá thương xót dân sanh, nên Đức Thầy đem nguồn Đạo lý
giải bày cặn kẽ, khuyên mọi người sớm hồi tâm hướng thiện, để được tránh khỏi
cảnh khổ đau giả tạm. Nếu ai y pháp tu hành, đúng theo đường lối mà Ngài đã
vạch, tất được siêu sanh về cõi Tịch tịnh (Niết Bàn). Chính nơi ấy là mức giải
thoát cuối cùng của nhà tu. Bằng ai chưa trừ dứt hoặc nghiệp phiền não, chỉ lo
tu tròn nhân Đạo, bảo vệ Quốc dân, cũng đặng liệt vào bậc Thần Thánh.
-Hiện giờ chánh tà còn đang lẫn lộn, nhưng đến ngày Phật Tiên lập
hội Long Hoa, sẽ có cuộc chọn lọc, khi ấy sự chơn giả, tà chánh rất phân minh:“Long
Hoa Tiên Phật đáo Ta bà, Lừa lọc con lành diệt quỉ ma.”(Thức Tỉnh Một
Nữ Tín Đồ). Đức Thầy còn cho biết: Ngài lâm phàm độ chúng, là vì vâng sứ mạng
của Đức Phật Tổ tại Linh Khứu Sơn.
-Ngài giảng dạy giáo pháp rất đầy đủ, rành mạch cho bá tánh nghe,
thế mà có nhiều người mãi còn nghi nan gạn hỏi, làm cho lòng Ngài bắt buồn
cười, rất thương xót cho những kẻ quá si mê, mờ ám.
-Cũng có lắm người thấy Đức Thầy ra đời dạy Đạo, đầy lòng nhu hoà
nhẫn nhịn, chẳng hề tranh luận, hơn thua với ai, họ lại khinh chê nhạo báng.
Nhưng Ngài lúc nào cũng yên tâm hướng về Đức Phật và nhủ lòng thương xót các
chúng sanh đó, vì quá tối tăm nên phải lầm lỗi đáng tiếc !
CHÚ THÍCH:
NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ
(Nirvara) Tàu dịch có nhiều nghĩa như sau:
a)- Diệt độ: một cõi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không
còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.
b)- Viên tịch: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần, gọi là viên;
trí huệ cụ túc dứt sạch nghiệp chướng, khổ lụy gọi là tịch. Cũng chỉ trở
lại bản tâm viên tịch, để thoát trầm nịch khổ hải.
c)- Tịch diệt: lặng lẽ, trống không và dứt hết các họa hại
của sanh tử.
d)- Bất sanh bất diệt: Chẳng còn một niệm sanh nên chẳng
còn sự chết khổ.
e)- Vô vi: không có nhơn duyên tạo tác, không có bốn tướng:
sanh, trụ, dị, diệt.
g)- Giải thoát: Chẳng còn các vi tế phiền não ràng buộc.
h)- An lạc: Yên ổn khoái lạc, dứt hết nghiệp nhân khổ não.
Lại nữa cảnh trí Niết Bàn có bốn đức, gọi là “tứ đức Ba La Mật”
(Giải thoát cõi mê, sang qua bờ giác), tức là: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã
và chơn tịnh:
–Chơn thường: Là đạt được cái tánh thể Niết Bàn (Pháp thân
thường trụ) chẳng biến đổi, không sanh không diệt; nhưng lại thường tùy duyên
ứng dụng không dứt.
–Chơn lạc: Thường thường an vui, dứt hết khổ lụy, lại vận
dụng các pháp, hợp với chơn tâm một cách tự tại.
–Chơn ngã: Vào tới cái thể chơn thật (đại ngã) và ứng dụng
độ chúng không chi ngằn ngại.
–Chơn tịnh: Được vào cái thể an nhiên trong sạch lại tùy
duyên khai hóa chẳng hề bị ô nhiễm trần trược. Trong Pháp Bửu Đàn Kinh, Đức Lục
Tổ nói :
“Ấy tịch diệt chơn thường lạc hiện,
Thế mới là thật diệu Niết Bàn…”
Đức Thầy hiện nay cũng khuyên:
“Tầm vô vi kiếm cảnh Niết Bàn”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Hoặc là: “Niết bàn tịch tịnh là đường vô sanh.”(Bài
Nguyện trước bàn thờ Ông Bà).
Sự chứng đắc Niết bàn lại chia làm hai thời kỳ:
1/- Nhà tu nhờ nương theo “Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo”, diệt
trừ hết tập nghiệp vô minh phiền não nên được chứng quả A La Hán, tức đắc Niết
Bàn; nhưng vẫn tiếp tục hành hóa Đạo mầu, rộng độ chúng sanh, đây gọi là “Hữu
dư Niết Bàn”, như trường hợp các Đại đệ tử của Đức Phật.
2/- Những bậc đã qua thời kỳ tu hạnh “Lục Độ Ba La Mật”(Bố
thí, Nhẫn nhục, Trì giới, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ) tiến tới thi hành “Tứ
vô lượng tâm”( Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả) dẫn đến khi hoàn toàn thanh
tịnh: tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn, tức đạt quả vị Bồ Tát và Như
Lai, và đến ngày nhập diệt gọi là đắc “Đại Niết Bàn”. Ấy cũng gọi là “Vô
dư Niết Bàn”, như trường hợp Đức Bổn Sư Thích Ca.
Kinh Đại Niết Bàn, Phật bảo:“Tất cả phàm phu vì nghiệp chẳng
thanh tịnh nên chẳng có Niết Bàn. Như Lai vì nghiệp thanh tịnh nên gọi là đại
định, do đại định nên gọi là Đại Niết Bàn”.
CỨU CÁNH: Phạn ngữ Uttara,
có nghĩa cái kết quả cuối cùng, giải thoát rốt ráo. Đại Thừa Khởi Tín Luận có
câu:“Lìa tất cả khổ não, Tất được an lạc cứu cánh”. Và trong “Bát Nhã
tâm Kinh” cũng nói:“Bực Bồ Tát nương theo trí huệ rốt ráo nên
tâm không quái ngại; vì không quái ngại nên không sợ hãi, lìa xa điên đảo mộng
tưởng đạt được cứu cánh Niết bàn.”
Vậy cứu cánh là chỗ giải thoát rốt ráo của nhà tu Phật.
CHỐN NI: Chốn nầy, chỉ cảnh cứu
cánh Niết Bàn vừa kể trên.
HỒNG TRẦN: Xem
chú thích tại tr. 43 Tập 1/3.
THẦN: Xem chú thích chữ “thần
tiên” tại tr. 134 Tập 2/3.
TRUNG QUÂN ÁI QUỐC: Lòng ngay thật thương yêu quốc dân (Xem thêm chú thích chữ “trung
thần” tại tr. 230 Tập 2/3 và chữ “ ngay cha thảo chúa” tại tr. 166 Tập
1/3).
NGỌC TÒA: Chỗ an tọa (ngồi) bằng
ngọc, chỗ ngai vị cao quí. Đây chỉ nơi Đức Phật Tổ ngự. Đức Thầy thường nói:“Ngọc
tòa Phật Tổ nấy sai ta.”(Tối Mùng Một)
LINH KHỨU:
Gradhakuta (Phạn ngữ, Scr.), phiên âm là Kỳ Xà Quật, dịch nghĩa có nhiều danh
xưng: Linh Khứu Sơn, Linh Thứu Sơn, cũng gọi là Kê Túc Sơn. Một ngọn núi ở gần
thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, thuộc Trung bộ xứ Ấn Độ. Đứng xa nhìn nó như
con chim khứu (Kên kên) nên gọi là Khứu Lĩnh. Lúc Đức Phật Thích Ca còn trụ thế
Ngài thường cu hội đại chúng thuyết pháp. Có lần Ngài thuyết Kinh Đại thừa Diệu
Pháp Liên Hoa tại đây. Kinh Sách xưa nay thường dùng Linh Thứu Sơn để chỉ cho
xứ Phật hay chỗ Phật ngự. Đức Thầy nay cũng từng bảo:
“Quyết đưa chúng về nơi Non Thứu,
Tạo lư bồng ngỏ hội quần Tiên”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
TỪ BI: Xem lại chú thích tại
tr. 40 Tập 1/3.
THÁI QUÁ: Quá chừng mực, quá
lắm, vượt hơn mức bình thường.
CHÁNH VĂN
339.Tranh với luận
đặng giành cơm cá,
Khuyến-dụ người
đặng kiếm bạc tiền.
Thấy chúng-sanh
ghét ngỏ ganh hiền,
342.Theo chế-nhạo
những người tu tỉnh.
Tu không tu cũng
không mời thỉnh,
Mặc tình ai
trọng-kỉnh hay chê.
Thương lê-dân còn
mảng say mê,
346.Chẳng tu tỉnh cho
rành sương nắng.
Thấy Ta lại nói
cay nói đắng,
Đắng với cay Ta
cũng chẳng màng.
Chừng trần-gian
kiến thấy phụng-hoàng,
350.Sè cánh múa chào
mừng Phật Thánh.
Thấy đạo-lý chớ
nào thấy tánh,
Còn ẩn nơi tim óc
xác phàm.
Ai biết tri việc
phải cứ làm,
354.Sau mới biết ai
Phàm ai Thánh.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 339 đến câu 354):
-Người sống trong thế gian, phần đông mãi lo tranh giành lợi lộc,
họ dùng đủ mưu mô xảo quyệt dụ dỗ dân chúng để lợi dụng tiền bạc. Hễ thấy ai có
tài năng, đức hạnh hơn mình thì ghét ghen, đố kỵ, khinh chê gièm siểm.
-Do đó, Đức Thầy cho biết đối với lời khuyến tu của Ngài, mặc tình
ai kính mộ tu hành hay chê bai khinh rẻ, lòng Ngài lúc nào cũng thương hết
chúng sanh, mãi còn đắm say trong cảnh đời ảo mộng. Nên Ngài dùng đủ phương
tiện đánh thức họ sớm tỉnh ngộ tu hành, hầu vượt qua mọi khổ nạn tới dây.
-Lại có hạng người thấy sự độ dân của Đức Thầy, chẳng những không
nhận ra được mà còn dùng đủ lời cay đắng. Nhưng dù họ đối xử bất nhã như thế
nào, Ngài cũng chẳng màng kể. Ngài còn tiên tri đến chừng nào dân chúng được
nghe:“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng”, tất được thấy:“Phật
Tiên Thánh an bang cùng định quốc.”(Không Buồn Ngủ).
Thêm nữa, trên con đường học Phật và tu Phật để tiến tới mục đích
giải thoát, đa số người tu chỉ thấy đạo lý qua mặt văn tự và lời luận giải, chớ
ít ai thấy được chân tánh của mình; bởi nó còn lẫn lộn trong tâm hồn của mỗi
chúng sanh, ví như chất vàng còn lộn quặng. Do đó, Đức Giáo Chủ dạy tín đồ
hãy:“…tìm kiếm chân tánh của mình”. Muốn thế, hành giả cần xoay vào nội
tâm, theo dõi tư tưởng từng giây, từng phút, rồi dùng trí huệ thanh lọc hết
vọng trần phiền não, tất màn vô minh tan mất, Phật tánh hiện bày:“Trí
hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.”(Sấm Giảng
Q.3).
Vậy ai là người đã suy tầm thấu rõ chơn lý của Đạo, thì cứ hành y
theo Tôn chỉ của Đức Thầy đã vạch cho đến ngày kết cuộc, tất sẽ thấy rõ ai phàm
ai Thánh.
CHÚ THÍCH:
GHÉT NGỎ GANH HIỀN: Cũng gọi là ganh hiền ghét ngỏ. Là một thành ngữ để chỉ cho
những kẻ thấy ai có tài đức, được nhiều người mến chuộng thì hay ghét ganh đố
kỵ. Đức Thầy từng nói:
“Thấy Đạo lý còn lu chưa tỏ,
Dân ganh hiền ghét ngỏ làm chi.”
(Thiên Lý Ca)
TRỌNG KỈNH:
Cũng gọi là kính trọng. Có nghĩa tôn kính và quí trọng. Ví dụ: Kính trọng Trời
Phật hoặc bậc già cả. Đức Thầy có câu:
“Rán nghe lời của kẻ Khùng Điên,
Phật Tiên Thánh hãy nên trọng kỉnh.”
(Kệ Dân, Q.2)
PHỤNG HOÀNG: Cũng
gọi là Phượng hoàng, tên của một loài chim quí thời xưa, được liệt vào một
trong bốn con thú linh: Long, Lân, Qui, Phụng. Con trống gọi là phụng hay
phượng, con mái gọi là hoàng. Phụng hoàng linh điểu là chúa các
loài chim (đứng đầu 360 giống). Khi nào và nơi đâu có chim phụng hoàng
xuất hiện, đó là điềm báo trước sẽ có Thánh Nhân hoặc Thánh Vương ra đời. Như
thời Nghiêu, Thuấn chim phụng có mặt khắp đồng nội, còn đời Châu Võ
Vương thì nghe tiếng chim phụng gáy trên núi Kỳ Châu. Sự trạng nầy Đức
Giáo Chủ đã nói:
“Xưa mạt Thương, Phụng gáy non Kỳ,
Bởi Võ Vương đáng bậc tu mi
Nay trở lại khác nào đời trước”.
(Kệ Dân, Q.2)
Và Ngài cũng cho biết về tương lai:
“Phải ngóng chờ cho Phụng gặp Kê,
Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.”
(Nang Thơ Cẩm Tú)
Phụng hoàng còn
được ám chỉ cho các bậc tài đức.
PHẬT THÁNH: Xem
lại chú thích tại tr. 42 trên.
THẤY ĐẠO LÝ CHỚ NÀO THẤY TÁNH, CÒN ẨN NƠI TIM ÓC XÁC PHÀM: Hai câu nầy có nghĩa phần đông người tu chỉ
thấy giáo lý của Đạo, chớ ít kẻ được thấy tự tánh của mình. Bởi nó tiềm ẩn nơi
tim óc của mỗi người, đây là chỉ cái bản tánh chơn như sẵn có từ vô thỉ,
nhưng bị lấp vùi bởi vô minh vọng niệm. Ví như trong ly nước đục vẫn có sẵn thể
nước trong, nhưng vì ta chưa lọc được bùn cặn ra, nên không thấy được
nước trong.
Kinh Di Đà Sớ Sao, có chép:“Linh minh đổng triệt, trạm tịch
thường hằng, phi trược, phi thanh, vô bối vô hướng, đại tai chân thể bất khả
đắc như tư nghị giả” (Người đời hễ có huyễn thân, tất nhiên có tự tánh. Bản
thể của tự tánh là linh thiêng sáng suốt, rổng rang thông thấu, trong trẻo vắng
lặng, còn hoài chẳng mất, chẳng phải trược, chẳng phải thanh, không lui, không
tới; rất lớn thay cái chơn thể của nó, không thể nghĩ bàn được).
Vậy hành giả muốn thấy được tự tánh cần phải phản chiếu nơi tâm
một cách rõ ràng vi tế, không để một nhân duyên tập khí nào ám ảnh, và lòng cứ
luôn như thế, mới hoát nhiên trực kiến được bản tánh. Lúc ấy ta sẽ tự thấy viên
minh, tự tại vô ngại, không còn bị trói trăn câu thúc, trong lẽ hư vọng vô
minh. Đúc Thầy có dạy:
“Tu rèn tâm trí cho minh,
Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau”.
(Sấm Giảng, Q.3)
VIỆC PHẢI: Việc
đúng lẽ phải. Ý nói cả hành động, ngôn ngữ và ý nghĩ đều đúng theo đạo nghĩa và
chơn lý.
CHÁNH VĂN
355.Đức Lục-Tổ ít ai
dám sánh,
Người dốt mà nói
pháp quá rành.
Lựa làm chi cao
chữ học hành,
358.Biết tỏ ngộ ấy là
gặp Đạo.
Việc cổ tích cần
chi phải thạo,
Chuyện qua rồi kể
lại làm gì.
Nếu ai mà biết chữ
tu trì,
362.Tâm bình tịnh
được thì phát huệ.
Ta yêu chúng viết
ra Giảng Kệ,
Khuyên tăng-đồ
cùng các tín-đồ.
Nghe cạn lời chớ
có mờ-hồ,
366.Tìm hiểu nghĩa
làm theo đắc Đạo.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 355 đến câu 366):
Đoạn giảng trên Đức Thầy nhắc đến cuộc hành hóa đạo mầu của Đức
Lục Tổ khi đến thọ giáo với Đức Ngũ Tổ. Ngài Lục Tổ đã rõ tâm mình có đủ Phật
tánh, Pháp mầu. Thời gian ở đây Ngài bị đồ chúng đưa xuống nhà bếp giã gạo,
chẳng được lên giảng đường tham học Kinh văn, song Ngài vẫn chuyên hành pháp
kiến tánh. Thế mà khi nghe Ngũ Tổ thuyết kinh Kim Cang đến câu:“ Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm.”(Không nên trụ vào chỗ nào mà sanh tâm) thì Ngài hoát
nhiên tỏ ngộ.
Nay Đức Thầy nhắc chuyện trên, ý để dạy môn đồ, việc tu chẳng đợi
phải học giỏi hay thông suốt kinh văn, nếu ai biết xoay về bản tâm của mình,
lọc hết các vọng niệm tà quấy, tức được tỏ ngộ chơn tánh:“Lòng ngộ rồi
chẳng đợi nhiều kinh, thì cũng thấy bổn lai diện mục.”(Sa Đéc).
-Còn những chuyện tích từ xưa để lại, với dụng ý của tác giả làm
cho người sau biết được những cái: tốt, xấu, hay, dở để rút ta bài học kinh
nghiệm, rồi đem áp dụng vào đời sống của mình cho hợp với Đạo lý; bằng như ai
xem chuyện cổ mà chỉ hiểu biết suông thì sự thông thạo ấy chẳng bổ ích vào
đâu:“Nhiều người kinh sử lảu thông, Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê.”(Viếng
Làng Phú An). Vậy ai biết lo tu hành, điều cốt yếu là phải hành trì cho lòng
được bình tịnh. Muốn vậy ta cần hành theo các pháp như: diệt trừ vô minh phiền
não hay niệm Lục tự Di Đà để đánh chết vọng niệm, hoặc:“Diệt lục căn đừng
nhiễm lục trần.”(GMTK, Q.4) hay ngăn chận các luồng gió tục,
đừng để nó len vào tâm thức của mình :“Ngày đêm phải tự mình suy gẫm, Ngăn
gió trần cho lặng sóng tâm.”(Thần Cơ Thật Luận của Ô. Thanh Sĩ), tức nhiên
cõi lòng thanh tịnh và trí huệ phát khai.
-Bởi lòng từ bi thương khắp chúng sanh, Đức Thầy mới viết ra Kệ
Giảng, khuyên các giới tu hành, từ hàng Tăng Ni đến cả thiện nam, tín nữ. Khi
xem đến Sấm Kinh của Ngài, nên nghĩ suy cạn lẽ để tìm hiểu nghĩa lý, cho được
rõ ràng chính xác, rồi cố gắng thực hành y theo, chắc chắn sẽ được đắc đạo.
CHÚ THÍCH:
ĐỨC LỤC TỔ: Xem
chú thích tại tr. 90-92 Tập 2/3.
CAO CHỮ HỌC HÀNH: Kẻ có học nhiều, văn hay chữ giỏi. Đây chỉ cho hạng thế trí
biện thông: nhờ sự học mà hiểu rộng về việc đời nhưng thường hay ỷ tài chê
bai Phật pháp.
TU TRÌ: Xem lại chú thích tại
tr. 84 Tập 1/3.
TÂM BÌNH TỊNH: Lòng
yên lặng trong sạch, không xao động bởi vọng niệm. Trong “Chánh Tư Duy” Đức
Thầy có dạy:“Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư tưởng cho
thanh cao, trí rán tìm cái chân lý…”
Sở dĩ tâm ta chưa được bình tịnh là vì còn vọng niệm phiền não,
những tư tưởng xấu xa chưa thanh lọc ra hết. Nay hành giả muốn tâm được bình
tịnh, đừng để lục căn ô nhiễm lục trần, đoạn dứt vọng tâm phiền não (tham, sân,
si) hoặc đổi hết tư tưởng xấu xa ra tốt lành tức lòng được thanh tịnh và trí
huệ sáng tỏ.
Ông Bàn Công Cư Sĩ có nói:
“Người đời trọng châu báu, Ta quí một mảy tịnh.
Tiền lắm lụy lòng người,
Tịnh được thấy chơn tánh”.
TĂNG ĐỒ: Tăng chúng, gồm các nhà
sư và những ni cô tu hạnh xuất gia.
TÍN ĐỒ: Gồm tất cả thiện nam,
tín nữ tu tại gia (Xem thêm chú thích tại tr.61 Tập 1/3).
CHÁNH VĂN
367.Trần với thế nó
hay kiêu-ngạo,
Các nhà sư hãy
rán sửa mình.
Nếu xuất gia
ngũ-giái rán gìn –
370.Tu chơn chánh mới
không hổ tiếng.
Cả ngàn năm nhơn
tâm xao-xuyến,
Sao tu hoài chẳng
thấy ai thành.
Bởi chữ tu liền
với chữ hành,
374.Hành bất chánh
người đời mới nói.
Bị tăng chúng quá
ham chùa ngói,
Nên tởi khuyên
khắp chốn cùng làng.
Phật nào ham
tượng cốt phết vàng,
378.Mà tăng tạo hao
tiền bá-tánh.
Việc giả dối từ
đây nên lánh,
Bổn-đạo ôi
! hãy rán sửa mình.
Cuộc dạy đời Ta
lắm công-trình,
382.Làm chẳng trọn
uổng thay một kiếp.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 367 đến câu 382):
Thói đời, hễ thấy ai không thật tu thì người ta hay chê bai cười
ngạo, cho nên Đức Giáo Chủ khuyên các Tăng Ni: từ đây nên sửa mình cho đứng
đắn. Đã vào hàng xuất gia thì những qui điều Pháp giới của Phật dạy, nhất là
năm điều cấm giới, nhà tu cần phải chấp hành nghiêm chỉnh. Xưa Đức Phật dạy:“A
Nan ơi ! Sau khi Ta tịch diệt rồi các ngươi đừng lo không Thầy, Ta có để lại
cái Pháp giới, nó là Thầy của các ngươi, nó ủng hộ và nâng đỡ các ngươi. Một
thầy tu chân chánh, phải tôn trọng Pháp giới như trọng Phật vậy”. Và trong
Kinh Tâm Địa Quán cũng có chép:“Sự xuất gia khó nhứt là giữ giới; giữ giới
được mới thật là người xuất gia”.
Vì vậy trong hàng tu xuất gia có nghiêm trì giới luật, hành đạo
chân chánh mới khỏi bị tiếng đời gièm pha, chế nhạo.
-Đức Thầy còn cho biết khoảng trên ngàn năm trở lại đây (sau thời
Lục Tổ bặt truyền y bát) lòng người rất băn khoăn tự hỏi: Tại sao trong giới
xuất gia hành đạo cũng khá đông, nhưng chẳng thấy bao người chứng đắc ? Ấy
chẳng qua là kẻ hành đạo không đúng qui điều pháp hạnh của Thầy Tổ đã dạy, hoặc
tu hành giả trá, nói làm chẳng hiệp nhứt.
-Lại có số tăng chúng quá chú trọng về hình tướng bên ngoài, quên
phần nội tâm pháp hạnh, chỉ lo khuyên tởi khắp nơi để xây chùa, tạo tượng cốt,
hoặc sơn vẽ hoa hòe lộng lẫy. Xét ra, chư Phật chẳng bao giờ ham muốn các điều
đó, thế mà chúng tăng mãi gây tạo làm chi, cho hao tiền tốn bạc của bá tánh ?
-Do đó, Đức Thầy cảnh tỉnh các giới tu hành, nên bỏ hẳn những điều
mị dối để lo tu thân lập hạnh đúng theo chánh pháp vô vi của Đạo. Đặng vậy,
chúng ta mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Tổ, Thầy đã dày công khai hóa, và
cũng chẳng uổng cho một kiếp sanh được làm người.
CHÚ THÍCH:
KIÊU NGẠO: Cười
chê, nhạo báng, hay khoe khoang ngạo mạn. Ví dụ: Không nên kiêu ngạo người tàn
tật.
XUẤT GIA:
Người ra khỏi nhà, vào Đạo tu hành. Xuất gia có hai cách :
1- Sự xuất gia: Ra khỏi nhà thế tục, tức hạng người lìa cả
gia đình thân tộc, ăn mặc theo hình thức Tăng Ni, nương tựa vào chùa chiền hoặc
núi non am cốc; mọi phương tiện sống đều nhờ nơi bá tánh chu cấp.
2- Lý xuất gia: Ra khỏi nhà lửa tam giới (Ba giới hay 3
cột: Dục gới, sắc giới và vô sắc giới) bất luận ở đâu: chùa am hay nơi nhà,
hành giả lúc nào cũng quyết tâm tu các pháp giải thoát sanh tử, để vượt ra khỏi
ba cõi sáu đường ( tức sáu nẻo luân hồi: Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ
quỉ, Địa ngục.). Thân tuy ở gần kẻ thế, nhưng lòng không nhiễm ô trần trược, và
cũng chẳng còn vướng bận một cảnh vật nào trong thế gian:“Thân tuy còn tục
tâm lìa cõi mê.”(Khuyến Thiện, Q.5).
Trong kinh “Bốn Mươi Hai Chương”, Đức Phật có dạy:“Bực
xuất gia làm Sa môn thì cắt đứt tình dục ái ân, thấu hiểu nguồn tâm, đạt tới lý
thâm diệu của Phật pháp, ngộ được các pháp vô vi, trong chẳng thấy đắc cái gì,
ngoài chẳng mong cầu cái chi: lòng cũng chẳng buộc ràng vì Đạo. Chẳng kết thành
nghiệp, không động niệm, không tạo tác, tu như không tu, chứng như không chứng,
không trải qua các quả mà tự nhiên được cao tột”.
NGŨ GIỚI: Cũng gọi là Ngũ giái
(Phạn ngữ: Panca Pila) tức là năm điều cấm giới:
-Nhất, bất Sát sanh: Một là không được giết hại các mạng
sống của loài hữu tình (người và các sanh vật).
-Nhị, bất đạo tặc: Hai là không trộm cướp gian lừa.
-Tam, bất tà dâm: Ba là không tình tứ với vợ con hay chồng
của người khác.
-Tứ, bất vọng ngữ: Bốn là chẳng nói láo, nói huyễn hoặc.
-Ngũ, bất ẩm tửu; Năm là không uống rượu.
HỔ TIẾNG: Mắc cỡ vì bị mang
tiếng xấu.
NHƠN TÂM: Lòng người.
XAO XUYẾN: Náo
động. Nghĩa bóng là băn khoăn tự hỏi.
TỞI KHUYÊN:
Cũng viết là quyên tải hay quyên tởi. Có nghĩa đi quyên góp tiền bạc vật thực
các nơi, để chở về làm đám hoặc cất chùa.
CÔNG TRÌNH:
Việc làm có tổ chức to rộng, phải tốn công rất nhiều. Ví dụ: Công trình xây cất
cầu, đường…
CHÁNH VĂN
383.Lời chơn-chánh
trần hay bỏ liếp,
Mãi lo làm
húng-hiếp người hiền.
Mà làm cho
Ngọc-Đế thảm-phiền,
386.Muốn trừng-trị
trần-gian thảm-thiết.
Đức Phật-Tổ tâm
Ngài nhứt quyết,
388.Tâu Ngọc-Hoàng để
Phật dạy trần.
Nên ra Kinh,
Cơ-Giảng nhiều lần,
390.Mà dương-thế
chẳng cần xét đến.
Xác trần-tục như
cây cạnh khến,
Làm hiền hoài ắt
phải tiêu mòn.
Đẽo với bào riết
nó cũng tròn,
394.Đến chừng đó
trông vào rất tốt.
Lũ giả-dối thường
hay thề-thốt,
Nó chẳng kiêng
Thần Thánh là gì.
Tâm kẻ hung làm
chuyện cố-lỳ,
398.Chẳng có sợ mang
điều tội phước.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 383 đến câu 398):
-Kệ giảng của Đức Thầy, toàn là lời khuyên dạy chơn chánh, đúng
với lẽ thật (chơn lý). Thế mà nhiều người chẳng để ý nghe theo, mãi tìm đủ uy
thế đe dọa, hiếp đáp kẻ hiền lương. Điều đó khiến cho Đức Ngọc Đế phải xót xa
buồn thảm, nên Ngài muốn ra lịnh răn phạt nhân gian một cách thảm khổ:“Chúng
sanh ngang ngược làm liều, Ngọc Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi.”(Sấm
Giảng, Q.3).
-Do đó Đức Phật Tổ động lòng từ bi, quyết tâu với Đức Ngọc Hoàng
cho đình sự trừng phạt một thời gian, để Ngài sắc lịnh cho chư Phật Thánh lâm
phàm, khai Đạo thức tỉnh nhân sanh. Thế nên từ độ ấy đến nay, các Ngài truyền
bá rất nhiều Kinh Sấm, song chẳng được bao người chịu xem coi cứu xét.
Vả lại, việc tu sửa thân tâm của mỗi hành giả, ví như một khúc cây
mới cưa xuống, còn đầy u nần cạnh khến, người thợ phải dày công đẽo bào, chạm
trổ, mới trở thành món đồ khéo đẹp và hữu dụng. Nhà tu có kiên chí miệt mài
trong cuộc làm lành, lánh dữ mới mong đạt thành đạo quả.
-Còn những kẻ hung ác, gian xảo, thường hay thề thốt một cách dối
trá, chẳng kiêng nể Thánh, Thần, Trời, Phật, mãi nói bạ làm càn, không sợ nhân
quả báo ứng, rồi đây họ sẽ vương mang tội khổ.
CHÚ THÍCH:
BỎ LIẾP: Bỏ lấp, không để ý
đến, làm như không nghe, hoặc quên đi cho qua việc.
HÚNG HIẾP: Dọa
nạt, hiếp đáp, thường làm ra mặt kẻ cả để bắt nạt, đe dọa người.
THẢM PHIỀN: Xem
chú thích tải tr. 115 Tập 1/3.
TRỪNG TRỊ: Răn
phạt kẻ phạm lỗi cho xứng tội.
THẢM THIẾT: Đau
đớn quá mức. Ví dụ: cảnh đau khổ rất thảm thiết.
ĐỨC PHẬT TỔ: Xem
chú thích tại tr.145,151 Tập 1/3.
NHỨT QUYẾT: Cũng
gọi là nhất quyết. Có nghĩa quyết hẳn, định chắc chắn, quyết định làm một việc
gì đó. Ví dụ: Nhứt quyết độ đời. Đức Thầy có câu:“Nhứt quyết làm cho
chúng thoát sầu.” Nhức Đầu).
GIẢ DỐI: Cũng gọi là dối trá
hay dối giả. Giả vờ như thật để gạt người.
CHẲNG KIÊNG:
Không kiêng nể, không nể sợ ai cả.
CỐ LỲ: (Tiếng lóng) Có nghĩa:
ai khuyên dạy gì cũng không nghe, không sửa đổi; hoặc chịu trận không chối cãi,
trốn tránh, vì hết biết xấu hổ.
CHÁNH VĂN
399.Ghét những kẻ tu
hành bốc-xước,
Miệng kêu gào
chuyện phước bề ngoài.
Bước vào chùa
thấy Phật lạy dài,
402.Lui
khỏi cửa ra tay cấu-xé.
Thấy quyền-quý nó hay dựa mé,
Đặng bợ-bưng những kẻ hung-sùng.
Ta thương đời nói những chuyện cùng,
406.Chẳng
có vị có dung kẻ quấy.
Cuộc sám-hối vô chùa thường thấy,
Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.
Thấy dương-gian lường gạt Thánh Thần,
410.Mà
chua xót cho đời Nguơn-Hạ.
Chữ tự hối nào ai có lạ,
Là ăn-năn cải sửa tâm lành.
Phật chẳng qua dụng chữ tín-thành,
414.Chớ
nào dụng Hương, Đăng, Trà, Quả.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 399 đến câu 414):
-Hiện thời có nhiều kẻ tu hành giả dối, không
thật tâm hành đạo, chỉ rêu rao ngoài cửa miệng, để cho người đời thấy mình có
làm việc phước thiện. Khi có dịp đến chùa am thì vái lạy, xem ra vẻ kính tin
lắm. Nhưng lúc ra khỏi cửa, không hề nhường nhịn một ai, có khi vì quyền lợi mà
tranh đua cấu xé với mọi người.
-Chẳng thế, họ còn dua bợ theo những kẻ cường
quyền, để bắt nạt, đàn áp dân chúng. Bởi lòng từ bi nên Đức Thầy tỏ bày tận gốc
của các việc làm sai trái, để cho những ai còn phạm lỗi, sớm biết ăn năn cải
sửa.
-Lại còn thấy các cuộc “sám hối” được tổ chức
trong những ngôi chùa, ai trông vào cũng đều rõ, phần nhiều là giả dối. Họ cũng
lễ lộc nhang đèn, cũng cầu khẩn bái lạy; nhưng đến khi trở về thì tiếp tục phạm
lỗi như trước; hoặc ỷ có nhiều tiền rồi mang đến chùa, mướn các thầy nhưn bông
tụng kinh sám hối thế cho họ, làm như vậy mong gì kết quả ? Bởi nhận thấy những
cuộc lừa dối Thánh Thần như thế mà Đức Thầy rất đau xót cho thời Hạ ngươn mạt
pháp.
-Thế nên, Ngài khuyên dạy mọi người, nếu muốn
cho cuộc sám hối có hiệu quả, cần phải thật dạ tín thành. Hoặc dùng “Sự sám
hối”, thành kính trước ngôi Tam Bảo, nguyện ăn năn những nghiệp cũ và cải
sửa các tội ác sắp tới, quyết định không để cho tái phạm; hoặc dùng “Lý sám
hối”, tức là tự tâm thức trở về với lý vô sanh bất diệt nơi tánh mình, từ
đó sẽ dứt hết nghiệp hoặc vi tế, và những tội trạng không do đâu mà nảy sanh ra
nữa.
-Vả lại, chư Phật chỉ chấp nhận cho kẻ tín đồ
nào biết thành tín sám hối, chớ không bao giờ chấp nhận cho những ai không thật
lòng, dù kẻ đó dùng đủ món: nhang đèn, bánh trái cúng tế.
CHÚ THÍCH:
BỐC XƯỚC: Giả dối, không kỹ lưỡng,
không thật tình.
CẤU XÉ: Vừa cấu vào, vừa xé ra.
Nghĩa rộng là vì quyền lợi mà giành giựt xâu xé lẫn nhau.
QUYỀN QÚY: Có quyền thế và sang
trọng
DỰA MÉ: Cũng gọi là dựa hàm mé.
Chỉ cho hạng chầu rìa, nương tựa với kẻ có thế lực giàu sang để nhờ nhõi.
BỢ BƯNG: Cũng gọi là bưng bợ. Có
nghĩa bợ đỡ, nịnh hót. Đức Thầy đã viết:“Nghèo a dua bợ đỡ nịnh tà.”(Khuyến
Thiện Q.5).
SÁM HỐI: Phạn ngữ Ksamayati, phiên
âm là Sám ma, dịch là hối quá:“Sám giả, sám kỳ tiền khiên; hối giả,
hối kỳ hậu quá”(Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau). Vậy, sám
hối là ăn năn cải sửa, những tội lỗi vừa qua và sắp tới, cố giữ đừng cho
tái phạm.
Theo Kinh Phật thì có ba cách Sám Hối:
1- Tác pháp sám: là đến trước ngôi Tam
Bảo tố trần mọi tội lỗi của mình, rồi từ đó về sau những sinh hoạt của thân,
khẩu, ý đều y theo qui luật chơn chánh mà thi hành. Sám hối như thế là diệt trừ
những hình tướng tội phạm.
2- Thủ tướng sám: là từ chỗ định tâm
khởi ra tư tưởng sám hối những tội lỗi vô lượng kiếp: quá khứ, hiện tại, vị lai
của mình một cách chí thành, chí thật. Sám như thế là diệt trừ được tánh tội
phiền não.
3- Vô sanh sám: là cứ ngồi ngay thẳng
nhứt tâm chánh niệm, để quan sát cái lý vô sanh bất diệt của tự tánh. Sám như
vậy gọi là diệt trừ vô minh chướng ngại.
Trong Pháp Bửu Đàn kinh, Đức Lục Tổ có dạy:
“Ngó trong tâm gốc lỗi trừ thanh,
Tự tánh phải chân thành sám hối.
Phép sám hối đại thừa lãnh hội,
Cải tà qui chánh tội không sanh,
Học Đạo thường xem tánh tịnh thanh
Tức cùng Phật cũng đồng nhứt loại”.
Ba phương pháp vừa kể trên, tùy theo cơ duyên
trình độ của mỗi hành giả mà sám hối theo phép nào cũng được kết quả. Ngược
lại, nếu người đã phạm lỗi mà không biết tự hối ăn năn, thì các tội trạng ấy
dầu trải muôn kiếp, cũng không do đâu tiêu rỗi. Ngài Liên Trì Đại Sư, có làm
bài Kệ phân tách điều lợi hại của người biết sám hối và không sám hối như sau:
“Có lỗi như người đau, tỏ lỗi như gặp
thuốc.
Sợ bịnh mà kỵ thầy, thiệt người quá mê
muội”.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật cũng dạy:“Người
phạm các điều lỗi mà chẳng tự hối, mau dứt lòng quấy, thì tội lại vấn vào thân,
như nước chảy ra biển, dần thành sâu rộng. Bằng người có lỗi, tự nhận biết lỗi,
cải ác làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bịnh được xuất hạn, lần lần thuyên
giảm”.
Lúc Đức Giáo Chủ cư trú tại Sài Gòn, có kêu
gọi một tín nữ đã lỡ phạm lỗi:
“…Chẳng sớm về nhà lo sám hối,
Cầu trên Phật Tổ giải mê căn.
Ắt là hồn trẻ còn chi nữa,
Địa ngục trầm luân cách thượng tằng”,
(Cho Cô Võ Thị Hợi ở Bạc
Liêu)
SÁM HỐI GIAN LỪA: Là chỉ cho hạng người khi có lầm lỗi điều chi, họ cũng đến trước
bàn Phật, để âm thầm tỏ bày việc quấy của mình, đọc tụng một vài thời Kinh và
lạy lục. Sau khi đó họ tự cho rằng lỗi trước đã hết và vẫn tiếp tục gây thêm
tội khác nữa.
Hoặc có hạng người đã biết mình sai phạm, tội ác, bèn đem tiền bạc
lễ vật đến chùa am, để mướn người tụng kinh sám hối thế cho mình. Đó gọi là Sám
hối gian lừa.
TỰ HỐI: Tự mình ăn năn cải sửa
các tội lỗi đã vi phạm.
Xưa, có gia đình anh Quyền Binh Vệ, chuyên sống nghề gài bẫy chim.
Một hôm, phụ thân sắp từ trần bèn kêu Quyền đến bên giường, di chúc:
“Nếu con thấy không thể tìm được nghề khác sanh nhai, thì từ đây
mỗi đêm, con chỉ gài bắt một con vạt, đủ sống trong ngày mà thôi, nếu bắt dư sẽ
mang nhiều nghiệp tội !”
Quyền làm theo y lời cha dặn…nhưng chỉ được thời gian rồi anh tự
nghĩ: phải thức hằng đêm mà chỉ bắt một con chim như thế nầy, tốn công nhiều
quá ! Chi bằng ta dùng 100 cái bẫy đem gài một lượt, sẽ bắt được 100 chim, tức
ta được ở không trên ba tháng. Thế rồi anh thực hành ngay ý định.
Đêm đó, một bầy chim vạt đáp ngay xuống vùng bẫy anh đã gài, song
chỉ mắc được chín mươi chín (99) con. Trong tay Quyền nắm chặt các mối dây,
nhưng còn chờ cho đủ số một trăm con mới bắt. Bỗng chốc trời rạng đông, bầy vạt
đồng bay một lượt. Quyền nắm dây cố trì lại, nhưng không được nữa, bởi sức mạnh
của bầy vạt xách Quyền bay bổng lên hư không. Quyền kêu cứu ầm lên, nhưng chẳng
ai nghe, Quyền đành đánh liều cho bầy vạt lôi đi…
Phút chốc, Quyền thấy tự dưng bị rơi xuống đất, nhưng chẳng nghe
đau đớn gì, lòng sanh nghi, anh bèn nhìn kỹ lại thì ra mình đã hóa thành chim
vạt. Kế nghe bụng đói Quyền liền rảo bước chung quanh, để tìm cá ăn đỡ lòng.
Trong khi bước lang thang, bỗng chân Quyền vướng vào cái bẫy, mà Quyền đã gài
còn sót lại hôm qua. Quyền dùng đủ cách gỡ ra, nhưng không tài nào tháo được.
Lòng buồn rầu vô hạn, Quyền liền tự hối:
“Số chim của mình đã bắt từ mấy lúc qua, chúng cũng đã đau đớn,
khổ sấu ! Thế mà bấy lâu mình nỡ sống an vui trên sự đau khổ của chúng, chẳng
để chút tình thương xót !”
Càng nghĩ, Quyền càng hối hận, tự khiển trách mình, khiến đôi dòng
lệ tuôn trào ! Nhưng sao rất lạ lùng ? Khi nước mắt anh chảy xuống khắp mình,
làm lông cánh đều rụng hết. Bấy giờ thân thể của Quyền được hoàn nguyên như cũ…
Nhiệm mầu thay ! Cho dòng lệ tự hối ! Quyền vừa tán thán, vừa
thành tâm sám hối. Từ ấy anh tự nguyện bỏ dứt nghiệp sát hại, quyết tâm tu
hành, chẳng bao lâu anh được chứng quả.
Câu chuyện trên, giúp ta thấy rằng: hễ ai gieo gió tức gặt bão,
sanh nghề thì tử nghiệp; nhưng Phật pháp rất nhiệm mầu, đã dạy cho các giới tu
hành một pháp sám hối, nếu ta thật lòng ăn năn cải sửa, tất giải tan được các
tội khổ ba đời.
ĂN NĂN: Xem lại chú thích tại
tr.65 Tập 1/3.
TÍN THÀNH:
Cũng gọi là thành tín. Có nghĩa là tin tưởng thành thật và giữ đúng theo lời
nguyện hứa. Ví dụ: hết dạ tín thành Trời Phật. Đức Phật dạy:“Người ta dùng
niệm tưởng của một tấm lòng thành tín, mà qua khỏi nguồn sanh tử”. Đức Thầy
cũng bảo:“Hữu thành Phật độ ắt qua truông.”( Đức Thầy Đáp thi của
Ô. Nguyễn Kỳ Trân) .
Đăng nhận xét