CHÚ GIẢI QUYỂN BA SÁM GIẢNG
Chú giải từ câu 209 – 408 (Quyền III)
CHÁNH VĂN
209. Vô duyên chưa nói mà cười,
Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên.
Lớn lên phận gái cần-chuyên,
212. Làm ăn thì phải cho siêng mới là.
Phải gìn dục-vọng lòng tà,
Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân !
Nghe lời cha mẹ cân phân,
216. Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi này.
Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
Chớ đừng cải lịnh gió-mây ngoại-tình.
Đi thưa về cũng phải trình,
LƯỢC GIẢI (Từ câu 209 đến câu 220) :
-Đoạn giảng trên Đức Thầy dạy hàng nữ lưu, phải có tư cách đứng
đắn, sự nói cười cần giữ đúng lời, đúng lúc; chẳng nên vừa nói vừa cười, ngả
ngớn. Người con gái mới lớn lên, phải chăm chú siêng năng mọi công việc cho
được thứ tự, vén khéo mới tròn bổn phận.
-Thuở thanh xuân là lứa tuổi dậy thì, dầu dục tình có bộc phát
cũng cố chế ngự, không nên chìu theo nó mà làm việc hư thân mất nết, điếm nhục
tông môn. Lúc còn nương với cha mẹ, nên vâng lời cân nhắc dạy bảo; khi về nhà
chồng phải biết tùy theo ý lịnh của chồng; chẳng may chồng qua đời trước, vợ
phải lo nuôi dạy con cái, để xứng đáng là bậc hiền mẫu và được trọn tiết với
chồng.
-Cuộc tình duyên không sớm thì muộn cũng gặp, chẳng nên cãi lịnh
cha mẹ, tự gây tạo việc trăng hoa bất chánh mà mang tội bất hiếu. Phận dâu con
có lễ giáo, mỗi lúc đi hoặc về đều phải trình thưa cha mẹ; đồng thời lo rèn tập
bốn đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
CHÚ THÍCH:
VÔ DUYÊN: Cũng gọi là vô doan. Có
nghĩa: trơ trẽn, tẻ lạt, không duyên dáng lễ độ…Ví dụ: ăn nói vô duyên. Ca dao
có câu:“Vô duyên chưa nói mà cười, Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên”.
DỤC VỌNG LÒNG TÀ: Lòng ham muốn thèm khát việc tà quấy, do tình dục sai khiến. Kẻ
nào bị dục vọng sai khiến sẽ hư thân mất nết nên Đức Thầy bảo “đừng
chìu theo nó.”
CÂN PHÂN: Cân nhắc phân giải việc hư
nên tốt xu. Ý chỉ lời cha mẹ dạy con.
TAM TÙNG: (Xem lại chú thích tại tr. 74
Tập 1/3).
GIÓ MÂY NGOẠI TÌNH: Do chữ “Sở vũ Tần vân” (mưa Sở mây Tần). Thành ngữ nầy
người ta thường dùng để chỉ cho hạng trai gái tư tình bất chánh (không phải vợ
chồng chính thức của mình). Đồng nghĩa với chữ “mây mưa”. Truyện Hoa Tiên có
câu:“Lời đầu quyến luyến thanh tân, Rủ rê gió Sở mây Tần hỡi ai”.
ĐI THƯA VỀ CŨNG PHẢI TRÌNH:Do câu:“Xuất tắc cáo, phản tắc diện”, là khuôn phép của
hàng con dâu, khi ra đi hay lúc về nhà đều phải thưa trình với cha mẹ.
CÔNG DUNG NGÔN HẠNH: Nghĩa của chữ “Tứ đức”, tức là bốn đức hạnh. Đó là bốn điều dạy
nữ giới phải vẹn gìn theo khuôn thước của Đạo làm người.
“Hãy xem xưa, những bực dâu hiền,
Kiêm tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh”
(HĐ: Không rõ xuất xứ).
CHÁNH VĂN
221. Công là phải sửa làm sao,
Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên.
Mình là gái mới lớn lên,
224. Đừng cho công việc hớ-hênh mới là.
Chữ dung là phận đàn bà,
Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng.
Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn,
228. Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.
Ngôn là lời nói mặc dầu,
Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn-ngoan.
Đừng dùng lời tiếng phang-ngang,
232. Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.
Hạnh là đức tánh phải không ?
Ở cùng chòm-xóm đừng cho mất lòng.
Bốn điều nếu đã làm xong,
236. Cũng gìn chữ hiếu phục tòng song thân.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 221 đến câu 236)
-Đoạn nầy, Đức Thầy dạy bổn phận của hàng phụ nữ cần phải trau
giồi bốn đức tánh: Công, dung, ngôn, hạnh.
-Trước nhứt là chữ “Công”: tức mọi sự nấu nướng vá may cho
sắc sảo, khéo léo, cùng các việc làm lụng đều được thứ lớp và thu xếp gọn gàng,
kỹ lưỡng, không nên để phào phẹt bừa bãi.
-Thứ nhì là chữ “Dung”: nghĩa là phải giữ trang mạo đằm
thắm, cử chỉ hòa hưỡn và mỗi lúc đi, đứng, nằm, ngồi phải dòm ngó trước sau một
cách cẩn thận. Thân thể phải cho sạch sẽ, hình dáng đoan trang, ăn mặc giữ được
chừng mực kín đáo, không được hở hang, cách điệu quá lẽ.
-Thứ ba là chữ “Ngôn”: Mỗi khi thốt lời, người phụ nữ cần
phải giữ lời nói cho được dịu dàng, lễ nghĩa, không nên dùng những tiếng thô lỗ
láo xược, chưởi rủa, tục tằn, tất cha mẹ được vui lòng thỏa mãn.
-Thứ tư là chữ “Hạnh”: tức phải giữ hạnh nết hiền hậu, tánh
ý ôn hòa, hay tha thứ kẻ lầm lỗi, giúp đỡ người thiếu hụt. Chốn khuê phòng
thường trau giồi giá gương trong sạch. Không xem những loại sách bất chánh,
cũng không gần kẻ lả lơi, trây trúa, hỗn ẩu tham gian để ngừa hại đến danh thể.
– Ở với cha mẹ đầy lòng hiếu thuận, với ông bà cô bác, anh chị thân quyến cũng
giữ mực cung kính khiêm từ đáo để.
CHÚ THÍCH :
CÔNG: Khéo léo đứng đắn.
TẦM PHÀO: Cũng gọi là tầm phèo. Có
nghĩa: bừa bãi không gọn gàng cẩn thận.
HỚ HÊNH: Không cẩn thận chu đáo. Công
việc hớ hênh là làm việc không kỹ lưỡng, vén khéo.
DUNG: Hình sắc, dáng điệu.
TƯƠI TẮN: Xinh xắn, đẹp đẽ. Ví dụ:
gương mặt tươi tắn.
DỊU DÀNG: Yểu điệu tha thướt, tướng đi
của giới nữ.
NGÔN: Lời nói. Đây, ý dạy nữ giới
cẩn thận lời nói trong mọi việc đối xử; “Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” (Ca dao). Cổ Đức từng bảo:“Lập
thân chi yếu, Ngôn hạnh thị tiên”(Cốt yếu của sự lập thân, ngôn hạnh là
trước nhứt). Đức Thầy nay cũng dạy:“Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ”.(GMTK,
Q.4)
NGHIÊM CHỈNH:
Nghiêm trang tề chỉnh, không lả lơi cười cợt. Ví dụ: Người ấy ăn nói nghiêm
chỉnh.
PHANG NGANG:
Phang là cầm cây mà vụt mạnh vào ai, ngang là ương ngạnh, bất chấp lề lối.
Tiếng phang ngang là lời nói ngang tàng, thiếu sự dịu dàng mềm mỏng và lễ độ.
HẠNH: Tánh nết, cách cư xử:“Thương
vì hạnh, trọng vì tài”(Truyện Kiều). Kinh Thơ dạy:“Chẳng giữ hạnh nhỏ có
hại cho đức lớn”(Bất năng tế hạnh chung lụy đại đức).
ĐỨC TÁNH: Tâm tánh tốt lành nhân ái.
Đức Thầy có dạy:“Làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả…”(Đáp
lời Ký giả Hồn Quyên).
BỐN ĐIỀU: Chỉ bốn đức tánh: Công, Dung,
Ngôn, Hạnh đã kể qua.
HIẾU: Lòng ân cần tôn kính, bảo
dưỡng và vâng lời khuyên răn của cha mẹ. Kinh Minh Thánh dạy:“Hiếu tử chi sự
thân: Cư tắc chí kỳ kính, dưỡng tắc chí kỳ lạc, bệnh tắc chí kỳ ưu, Tang tắc
chí kỳ ai, tế tắc chí kỳ nghiêm. Cố bất ái kỳ thân, như ái tha nhân giả, vị chi
bội đức”(Người con hiếu thờ cha mẹ: Lúc ở thì tôn kính rất mực, khi nuôi
phải vui hết mực, khi bệnh phải lo lắng hết mực. Khi chịu tang phải buồn hết
mực, khi tế thì nghiêm trang hết mực. Cho nên không yêu cha mẹ mà yêu người
ngoài (khác) gọi là trái đức).
Kinh Đạt Ma có lời khuyên:
“Ngàn kinh muôn điển hiếu vi tiên,
Thảo thuận đời sau nhỏ giọt truyền.
Ở thế Đạo người làm vẹn vẻ,
Tu hành Tiên Phật sẽ nên duyên.
Ba năm nhũ bộ công lao nhọc,
Chín tháng cưu mang mấy đoạn phiền.
Nghĩa mẹ ơn cha hằng tạc nhớ,
Ngày qua bể ngạn mới là yên”.
Đức Thầy nay cũng hằng dạy:“Hiếu hạnh gìn lòng chí ư Thiên”(Hai
Mươi Chín Tháng Chạp). Và:
“Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
Hành thiện tri Kinh thị sĩ hiền”.
(Hiếu Nghĩa Vi Tiên)
PHỤC TÒNG: Tùng
phục, tuân theo. Vui lòng chịu sự dạy bảo của cha mẹ.
SONG THÂN:
Tiếng gọi chung Phụ thân và Mẫu thân, tức là cha mẹ.
CHÁNH VĂN
237. Dạy rồi những chuyện đức ân,
Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào.
Lỗi-lầm chớ có hùng-hào,
240. Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi.
Đem lời hiền-đức tốt tươi,
Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn.
Cũng đừng gây gổ giận-hờn,
244. Cho con bắt chước sạ duơn mới là.
Nam-Mô sáu chữ Di-Đà,
Từ-bi tế-độ vậy mà chúng sanh.
Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh,
248. Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.
Trì tâm thì quá ít-oi,
Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào.
Rạch tim đem để Nó vào,
252. Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi.
LƯỢC GIẢI (từ câu 237 đến câu 252) :
-Sau khi chỉ dạy về bổn phận làm con cháu, từ trong gia đình đối
với ông bà, cha mẹ, đến cô bác láng diềng đều cư xử được vẹn vẻ, đức ân. Đức
Thầy dạy qua trách nhiệm làm cha mẹ về cách phân xử và dạy bảo con cháu.
-Mỗi khi con có vi phạm lỗi lầm, làm cha mẹ không nên ra tuồng
giận dữ, la ó lớn tiếng hoặc đay nghiến chửi rủa, đánh đập tưng bừng, nên dùng
những lời hiền hòa, tốt đẹp ra dạy dỗ chúng, nếu được vậy có chi quí báu cho
bằng. Giữa chồng vợ chẳng nên mặt giận, mày hờn ấu đả lẫn nhau vì đó là duyên
cớ làm cho con mình bắt chước.
-Với Pháp môn Niệm Phật là phương cách tu giản tiện nhứt, chỉ có
trì niệm sáu chữ: Nam Mô A Di Đà Phật mà được Đức Phật A Di Đà cứu độ vượt khỏi
mọi tai nàn, và đặng phúc báo vãng sanh về cõi Cực Lạc:“Cứu khổ Nam mô vô
lượng phước, Diệt nàn tu rị hữu thiên Kinh”(Tỉnh Bạn Trần Gian). Thế mà
xưa nay, không mấy người chịu hành trì cho đúng cách.
-Từ trước tới giờ, người niệm Phật chẳng phải là không có, song
niệm cho được nhứt tâm bất loạn thì ít ai làm đặng, nên không thấy kết quả. Do
đó, Đức Thầy kêu gọi mọi người nay hãy trì tâm niệm Phật cho đúng phương pháp
thử coi. Nghĩa là phải niệm làm sao cho tiếng niệm nghe đều đều và hòa vào nhịp
thở của con tim. Tuy không niệm ra tiếng mà tai vẫn nghe rõ, từng chữ một nơi
tâm, không hề gián đoạn hoặc vọng tưởng xen vào. Nếu niệm Phật được như thế,
tất khỏi cảnh máu đổ thịt rơi trong ngày chiến tranh, tận diệt:“Chữ lục
tự trì tâm bất viễn, Thì lâm nguy có kẻ cứu mình”(Kệ Dân, Q.2).
CHÚ THÍCH :
ĐỨC ÂN: (Xem lại chú thích nơi
câu 81 trên).
XỬ PHÂN: Cũng gọi là phân xử. Có
nghĩa xử trí cho hợp lẽ. Ví dụ: Phân định việc phải quấy mỗi bên rất công bằng
hợp lý.
HÙNG HÀO: Mạnh
mẽ và hào phóng. Đây chỉ cho sự nóng giận, làm dữ. Ví dụ: Ra vẻ hung hào giận dữ.
HIỀN ĐỨC: (Xem
lại chú thích nơi câu 66 trên).
GIÁO HÓA: Dạy
dỗ và mở mang (khai hóa). Dùng sự giáo dục mà cảm hóa mọi người. Ví dụ: Cảm hóa
dân chúng, cảm hóa con cháu.
VÀNG MƯỜI: (Xem
lại chú thích nơi câu 109).
SẠ DƯƠN: (Xem lại chú thích nơi
câu 112).
NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại
tr.81 Tập 1/3).
SÁU CHỮ DI ĐÀ:
Do chữ “Lục Tự Di Đà”, tức sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ý dạy tu Pháp Môn
Tịnh Độ, hành giả luôn trì niệm danh hiệu Đức A Di Đà, sẽ được Ngài cứu độ vãng
sanh Cực Lạc hoặc chứng Di Đà tự tánh. Đức Thầy từng dạy:“Nam Mô A Di Đà
Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc”(Niệm
Phật, tr.212 SGTVTB 2004).
TẾ ĐỘ: Cứu giúp và đưa qua. Chư Phật cùng hàng Bồ
Tát dùng pháp giáo và các phương tiện tế độ chúng sanh rời bờ mê, sang bến
giác, khỏi bể khổ sanh tử, đến Cực Lạc Niết Bàn. Đức Thầy có câu:
“Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
Ra tay tế độ dắt lần về ngôi”(Bóng Hồng).
NIỆM SÀNH: (Xem lại chú thích chữ “niệm Phật cho rành“
tại tr. 113 Tập 1/3).
TRÌ TÂM: (Xem chú thích nơi câu 449 Q.2 Tập nầy).
RẠCH TIM: Vạch tâm. Ý toàn câu dạy người niệm Phật
phải đem tiếng niệm Phật để vào tâm và trì niệm mãi cho đến khi tâm và Phật
tương ưng thì được thoát qua các tai nạn khổ ách. Như Đức Thầy từng dạy:“Rán
tu đem được Phật vào trong tâm”(Sấm Giảng Q.1) và:“Lòng sáu chữ
nhớ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không”(Sa Đéc). .
CHÁNH
VĂN
253. Để sau đến việc tả-tơi,
Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành.
Ngày nay chim đã gặp cành,
256. Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa.
Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa,
Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng.
Gẫm trong thế-sự trần-hoàn,
260. Người hung người ác tà-gian cũng nhiều.
Thương đời ta mới đánh liều,
Mong người tu tỉnh ít nhiều cũng hay.
Muốn tu còn đợi chiều mai,
264. Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư.
Những người có của tiền dư,
Hãy nên bố-thí dành tư làm gì.
Sau đây nhiều chuyện ly-kỳ,
268. Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi !
LƯỢC GIẢI (Từ câu 253 đến câu 268) :
-Đoạn giảng trên Đức Thầy khuyên bá tánh, nếu
không sớm lo làm lành niệm Phật để khi gặp khổ ách, dầu có muốn tu cũng chẳng
kịp, bởi sự tu không phải chỉ một sớm một chiều mà thành công được. Sống giữa
thời mạt pháp may mắn gặp chánh Đạo, nếu chúng sanh chẳng sớm nương theo, không
khác nào loài chim gặp cành cây tốt lành, chẳng chịu đậu, ắt bị mưa bão làm
nguy hại.
-Ở thế gian nhiều kẻ không thích việc tu, còn
dùng đủ tiếng gièm pha nhạo báng, song đối với người đã quyết tâm hành Đạo thì
chẳng màng kể. Xét lại cõi đời không được mấy người hiền đức, phần đông là kẻ
gian tà hung ác.
-Vì lòng quá thương xót sanh linh, nên dù đời
có nhiều bạc đãi, Đức Thầy cũng:“Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi”(Dặn
Dò Bổn Đạo). Ngài mong sao mọi người đều thức tỉnh tu hành, dầu nhiều ít gì
cũng có kết quả. Lại có số người cũng muốn tu, nhưng cứ mãi trù trừ lần lựa,
nên Ngài khuyên họ càng sớm tu càng tốt.
-Đối với những người giàu có, Ngài dạy nên mở
lòng bố thí, giúp đỡ hạng cơ bần để gây phúc duyên về sau. Nếu ai mãi:“Giữ
bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát lọan khó mà yên thân.”(Khuyên Người
Giàu Lòng Phước Thiện). Bởi sau nầy có nhiều biến chuyển lạ lùng, không sao tả
xiết, bao nhiêu của tiền vàng bạc đã dành giụm từ trước phải bị tiêu sạch:
“Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ”(Sấm Giảng Q.1).
CHÚ THÍCH :
TẢ TƠI: Cũng gọi là tơi tả. Có nghĩa rách nát, ten
ben, lòng thòng nhiều miếng. Ý chỉ cảnh chiến tranh, chạy giặc khiến dân chúng
phải đói rách tơi tả.
GIÈM SIỂM: (Xem lại chú thích tại tr.179 Tập 1/3).
TRẦN HOÀN: (Xem lại chú thích tại tr.82 Tập 1/3).
TÀ GIAN: Tà vạy, gian xảo, không ngay thẳng, chánh
đáng.
TU TỈNH: (Xem chú thích nơi câu 342 Q.2 Tập nầy).
BỐ THÍ: Phạn ngữ: Dâna, phiên âm là Đàn-na, dịch là
Bố thí. Vốn là một trong Lục độ (sáu
pháp Ba La Mật của chư Bồ Tát thường hành). Bố là bủa ra, rải ra, thí là cấp
cho. Vậy, Bố thí là đem cái sở hữu của mình giúp cho kẻ khác. Đức Thầy từng kêu
gọi:
“Nếu đã xả thân tầm Đạo đức,
Mở lòng bố thí ngộ thần ca”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
Bố thí có 3 cách:
1/- Tài Thí: Là đem những cái gì thuộc về mình,
như: tiền vải, lúa gạo, thuốc men ban cấp cho kẻ nghèo đói bệnh tật, hoặc góp
công của vào các việc từ thiện khác.v.v…Đức Thầy hằng dạy:
“Khá thương những kẻ bần cùng,
Tâm lành dư của hãy dùng vào đây”.
(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
2/- Pháp Thí: Là dùng lời lẽ, trí huệ giảng dạy
Đạo lý hoặc ấn tống Kinh Giảng để người khác được xem nghe, tỉnh ngộ tu hành.
Đức Thầy dạy:“… đi các nơi giảng giải Đạo Phật cho đại chúng nghe, hoặc
giả mở trường dạy Đạo Phật”(VNPG Liên Hiệp Hội/ Ban HL và TB, tr. 513
SGTVTB 2004). Và về Kinh Giảng, Ngài cũng dạy rõ:“Hiệp cùng nhau truyền
bá Kinh lành”(Kh/Thiện, Q.5) Và:
“Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,
Mà truyền bá đặng nhiều phước đức”.(Kệ Dân, Q.2).
3/- Vô Úy Thí: Là phương tiện giúp cho người khỏi
cơn sợ hãi, bằng cách: dùng lời lẽ an ủi hoặc đem tánh mạng đỡ gạt hay bảo vệ
cho người được an ổn…
Bố thí lại còn chia làm hai
phần:
1)- Sự tướng Bố thí: Cũng gọi là “Trụ tướng bố thí”,
tức là lúc đem tài vật thí ra cho người mà lòng còn phân biệt người là kẻ thọ
thí, ta là kẻ bố thí, khởi tâm mong cầu tiếng khen và được phúc báo. Nhơn đó
làm cho bản ngã càng tăng trưởng, sự tôn ti thêm nảy sanh, khiến cho sự bất
bình đẳng một ngày một chất ngất, để rồi phải hưởng cái quả sai biệt nhỏ nhen.
2)- Lý tánh Bố thí: Cũng gọi là “Vô trụ tướng Bố thí”.
Tức là lúc thi hành công việc bố thí xét vì lòng từ bi, vì bổn phận mà làm,
ngoài cảnh không chấp mắc, trong tâm chẳng nhiễm ô, không hề tham cầu phước
báo; cũng không phân biệt nhơn ngã, tôn ti và chẳng trụ vào: Sắc, thinh, hương,
vị, xúc pháp mà bố thí. Trong Kinh Kim Cang, Phật bảo: Bố thí không trụ tướng
thì được phước đức chẳng thể so sánh, nghĩ lường được (Bất trụ tướng bố
thí, kỳ phước đức bất ngã tư nghị).
Đức Thầy nay cũng dạy:
“Giúp đời đừng đợi trả ơn,
Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng”(Sám
Giảng Q.3).
LY KỲ: Lạ lùng kỳ dị. Chuyện rất ly
kỳ.
CHÁNH VĂN
269. Tại sao chẳng cúng chè xôi,
Bởi vì tận thế Phật thôi ăn chè.
Cũng không có muốn hoa-hoè,
272. Lầu đài sơn phết cũng là chẳng ham.
Ai chê khờ dại cũng cam,
Chớ Tôi cũng chẳng có ham lầu đài.
Chữ tu hãy rán miệt-mài,
276. Đừng kể vắn dài đừng nệ mau lâu.
Giáo khuyên khắp hết đâu đâu,
Bớt điều mị-dối mới hầu thấy Ta.
Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
280. Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen.
Chết rồi cũng bớt cóc keng,
Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì.
Đàn nhu thầy lễ cũng kỳ,
284. Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng ?
Lại thêm đờn địch từng tưng,
Đem con heo sống mà dưng làm gì ?
Chủ gia kẻ lạy người quì,
288. Làm chuyện dị-kỳ giả-dối hay không ?
Nếu không thì trả lời không,
290. Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 269 đến câu 290) :
-Từ trước đến giờ các chùa thường dùng chè xôi, bánh trái cúng
Phật. Nay sắp đến ngày tận diệt, Đức Thầy khuyên bá gia không nên cúng như thế
nữa bởi chư Phật không hề dùng bất cứ một thức ăn nào ở thế gian. Nếu ai quan
niệm rằng chư Phật còn ăn uống và cúng có lễ vật mới được chứng minh thì rất
sai lầm mê tín:“Chẳng ham cúng kiếng chè xôi, Phật Trời chẳng muốn điều
tồi ấy đâu”.(Sấm Giảng Q.1). Ngài cũng dạy chư thiện tín lìa bỏ âm
thinh sắc tướng để:“Làm vô vi Chánh Đạo mới mầu”.(Kệ
Dân, Q.2), chớ Ngài đâu có muốn chùa lầu sơn phết mà bá tánh lo gây tạo rồi đổ
thừa cho Phật.
-Đức Thầy luôn noi gương Đức Phật, không ham nhà cao chùa lớn, tài
sắc vị danh, dù người đời có chê là khờ dại Ngài cũng cam chịu. Trên đường tu
mỗi người phải bền tâm kiên chí, không nên chán nản trước lộ trình xa thẳm hay
công phu khó nhọc. Vì rằng:“Tuy xa mà tới mấy hồi”(Khuyên Người
Giàu Lòng Phước Thiện). Và:“Hết khổ lao thì đến vui cười”(GMTK,
Q.4).
-Ngài khuyên khắp giới tu hành hãy diệt trừ những sự trạng tà mị,
gian dối để thật tâm thành ý tu hành, mới mong gặp Thầy thấy Phật. Bỏ hẳn sự
giết các sanh vật cúng tế quỉ thần, vì các hạng ăn đồ cúng kiếng của thế gian
là tà thần, ma mị. Nếu ta tin tưởng, nó sẽ ăn quen và càng theo phá hại ta mãi.
-Đến như trong gia đình có người từ trần, không nên rước thầy lễ,
thầy cúng, bày ra trống đờn chuông mõ hay nhạc lễ rình rang. Về việc báo
hiếu, Đức Thầy có dạy:“Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành,
sự thành tâm cầu nguyện, chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà
đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện
rồi im lặng đi chôn”(Cách Thờ phượng, hành lễ…/Tang Lễ,
tr.203-204 SGTVTB 2004).
-Còn việc tế thần hoặc làm tuần, làm đám không nên sát sanh hại vật
hay đem thịt sống lên bàn thờ mà cúng. Vì các vật ấy người quá vãng chẳng hề
dùng được, làm thế không những vô ích mà còn gây thêm nghiệp tội cho người
chết. Do đó, Đức Thầy khuyên mọi người nên xét rõ các việc nói trên, nếu thấy
là giả dối và mê tín thì hãy mau cải sửa đi !
CHÚ THÍCH :
TẬN THẾ: (Xem lại chú thích nơi
câu 25 Q.2 cùng Tập nầy).
HOA HÒE: Lòe loẹt, rực rỡ màu săc.
Ý chỉ những cái đẹp đẽ hào nhoáng bên ngoài, nhưng bên trong chẳng thật tốt.
Đây chỉ về sắc tướng.
CŨNG CAM: Cũng đành lòng, nhận chịu.
MIỆT MÀI: Cũng gọi là mài miệt. Miệt là
mải miết, cần cù chăm chú. Mài là cọ xát nhau. Nghĩa bóng là bền chí chuyên cần
không lơ đễnh.
MỊ DỐI: Nịnh hót, gian xảo dối trá.
CÓC KENG: Là chỉ chung cho những thứ
trống kèn, chiêng mõ, dùng để đánh lên trong khi tế lễ.
TẾ XEN: Tế là làm lễ cúng theo nghi
tiết; xen là chen vào giữa. Tế xen là làm cho buổi lễ rình rang thêm lên.
ĐÀN NHU: Đàn nho. Chỉ việc tế lễ tang
ma theo Nho giáo.
PHỦ PHỤC: Lạy
sụp xuống.
BÌNH HƯNG:
Bình là bằng; hưng là đứng dậy. Tiếng của học trò lễ xướng lên trong khi tế lễ.
ĐỜN ĐỊCH: Cây đờn và ống tiêu. Ý chỉ
chung mọi thứ đờn (đàn). Ví dụ: Đờn địch tối ngày.
TỪNG TƯNG:
Âm thanh nhạc điệu do người khảy đàn phát ra.
ĐEM CON HEO SỐNG MÀ DƯNG LÀM GÌ: Theo cổ lệ từ trước, những cuộc tế Thần (Thành Hoàng Bổn Cảnh)
trong các ngôi đình, người ta làm thịt heo rồi để sống nguyên con đem chong
trước bàn thần mà tế, chẳng biết vị thần ấy có ăn được thịt sống hay không mà
họ cứ nhắm mắt làm càn.
Vào năm 1939, Đức Thầy có đến đình thần xã Hòa Hảo, thấy cuộc cúng
tế như vậy, khi về nhà, gặp Đức Ông (thân sinh của Ngài) Ngài cười dài. Đức Ông
liền hỏi:
– Thầy Tư cười chuyện gì vậy ?
Ngài đáp:
– Ông Cả xuống dưới Đình mà coi. Ban Hội Tề đem chong con heo sống
trước bàn thần rồi xúm nhau lạy. Ông thần đâu có đòi ăn thịt sống mà làm như
vậy; còn các ông Hội Tề lạy biết chừng nào cho hết tội giết heo. Làm trò mị dối
như vậy bảo làm sao chẳng cười cho được !
– Vậy không nên cúng Thần sao ? Đức Ông hỏi lại.
Đức Thầy đáp:
– Nên cúng chớ ! Nhưng nên biết, ông thần đình là vị quan cựu thần
trung quân ái quốc, được ghi vào sách sử. Vua mới sắc phong về đây, là chánh
thần, mà chánh thần thì đâu còn ăn thịt sống, thịt chín gì nữa ! Từ nay ông Cả
hãy ra lịnh cúng chay đi.
Nhờ lời giác tỉnh của Đức Thầy mà từ ấy (1939) đến nay, Đình Thần
xã Hòa Hảo và các xã lân cận như: Phú An, Hưng Nhơn.v.v…đều sửa đổi, bỏ hẳn tục
lệ sát sanh và hát chầu, hằng năm chỉ tế thần bằng đồ chay. Nhưng phần đông các
ngôi đình khác người ta còn mê tín, vẫn giữ y lệ cũ.
CHÁNH VĂN
291. Thương đời Ta luống sầu-bi,
Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
Rung đùi ngâm chuyện trên trời,
Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.
Thấy đời Ta cũng héo von,
296. Học nho mà chẳng làm tròn nghĩa-nhơn.
Khoe mình chẳng có ai hơn,
Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.
Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,
300. Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.
Hốt thời cắc bảy cắc ba,
Nó đòi năm cắc người ta hoảng hồn.
Lành bay còn ác lại tồn,
304. Đến chừng lập Hội xác hồn lìa xa.
Mấy anh thầy thuốc Lang-sa,
Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.
Xin trong anh chị đừng phiền,
308. Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 291 đến câu 308) :
-Vì thương đời nên lòng Đức Thầy quá xót xa, thấy nhiều người đã
học đòi Nho Giáo mà chẳng thi hành nhơn nghĩa, chỉ lo viết thơ ngâm vịnh, nhạo
báng thế gian hoặc tình duyên luyến ái.
-Tự khoe mình tài học chẳng ai bằng, bát cơm, manh áo của họ đều
nhờ nghề làm thuốc bắc, chẳng cần thiết đến việc hiền nhơn đạo nghĩa là gì. Hễ
có bịnh nhơn đem tới, bất luận nghèo hay giàu họ đều thẳng tay đập đổ.
-Bấy giờ, giá tiền của mỗi thang thuốc cao lắm là một cắc bảy, thế
mà họ đòi tới năm cắc làm cho dân chúng phải rên xiết. Suốt đời họ chẳng làm
một việc thiện, nên phúc lành đâu có, chỉ tồn lại các nghiệp tham ác mà thôi.
Và những kẻ ấy, đến ngày lập Hội khó mong bảo tồn tánh mạng.
-Đến như ngành Tây y lại còn thâm độc hơn nữa, một số người hành
nghề ấy, chẳng những họ cắt cổ lột da lại còn vơ vét tiền bạc, tận xương tủy
các bệnh nhân. Thói thường, hễ trung ngôn thì nghịch nhĩ, Đức Thầy khuyên các
hạng làm thuốc nói trên, chẳng nên phiền Ngài, mà hãy xét kỹ lại, nên thi thố
nhơn nghĩa hơn là tham chứa tiền tài. Bởi tiền bạc không cứu giúp được ta, khi
nghiệp quả đã mùi:
“Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài.
Không làm cho ta được sống dai,
Lại chẳng bước tiễn đưa một bước”(Kh/Thiện, Q.5)
CHÚ THÍCH :
HÉO VON: Cũng viết là héo don hay
héo hon. Có nghĩa khô héo, âu sầu tiều tụy. Ý nói lòng xót xa vô hạn. “Ruột
tằm ngày một héo don”(Truyện Kiều).
HỌC NHO: Cũng gọi là Nho học. Học
thuật của Nho gia, học về giáo thuyết của Đức Khổng Tử.
NGHĨA NHƠN:
(Xem lại chú thích tại tr.275 Tập 1/3).
THUỐC BẮC: Thuốc
trị bịnh, phần nhiều bằng lá, vỏ, rễ, củ của các loại cây (gốc Trung Hoa) do
các Đông y dùng điều trị bệnh nhơn. Ví dụ: Hốt thuốc bắc, thầy thuốc bắc.
HIỀN NHƠN:
Người có đức độ hiền lành, thuần hậu. Đức Thầy có câu:“Long Hoa có mặt ấy
là hiền nhơn”(Sám Giảng, Q.3)
CẮC BẢY CẮC BA: Tiền bấy giờ (1939) mười xu người ta kêu là một cắc (miền
Bắc gọi là một hào). Giá mỗi thang thuốc bắc thời ấy chừng một cắc ba (13 xu),
cao lắm là một cắc bảy (17 xu). Thế mà các thầy thuốc Đông y đòi ăn tới năm cắc
(50 xu), tiền lời của họ gấp hai tiền vốn.
THẦY THUỐC LANG SA: Chỉ cho các Bác sĩ, y tá trị bịnh bằng Âu dược (thuốc Tây).
PHI ÂN: Chẳng phải, chẳng ân nghĩa gì
hết.
CHÁNH VĂN
309. Muốn sau được dựa Các-Lân,
Hãy nên trau sửa hiền-nhân mới là.
Những người quê dốt thật-thà,
312. Cũng nên tu niệm nhờ mà thân sau.
Lập đời mới biết thấp cao,
Bây giờ chưa biết ai thau ai chì.
Đời xưa có Ngũ-Viên-Kỳ,
316. Đem tài học thuốc hiến thì cho dân.
Người xưa còn chẳng cần thân,
Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ.
Để tâm yên-lặng như tờ,
320. Nghĩ suy lời lẽ tỏ mờ thể nao.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 309 đến câu 320) :
-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên: Nếu ai muốn sau nầy được gần đền
vàng điện ngọc, thời hiện giờ hãy sớm sửa mình để trở thành hiền nhơn quân tử.
Những người chơn chất làm ăn, tuy là quê dốt, song nếu biết niệm tưởng Phật
Trời, tu thân hành đạo thì thời gian sau hoặc hậu kiếp được hưởng điều cao quí.
-Hiện giờ kẻ dữ người lành, thật giả còn đang lẫn lộn, nhưng đến
ngày lập lại Thượng ngươn, nhơn loại phải trải qua cuộc chọn lọc, chừng ấy sẽ
rõ ai cao, ai thấp.
-Xưa, thời Ngũ Đế có quí ông: Ngũ Tử, Hiên Viên và Kỳ Bá, đã dốc
hết tâm trí kê cứu các phương thuốc điều trị bệnh nhân. Các Ngài chẳng màng đến
sự lao tâm mệt xác, hay lợi lộc miễn sao cho toàn thể dân chúng được an lành.
-Nay Đức Thầy khuyên mọi người, nên bình tâm suy nghĩ những lời
chỉ dạy của Ngài cho thấu đạt nghĩa lý, thế nào là sáng tỏ vinh quang và thế
nào là mê mờ u tối.
CHÚ THÍCH :
CÁC LÂN: Các là gác lầu; lân là
thềm bực. Ý chỉ cho đền vàng điện ngọc của vị Thánh Vương Việt Nam sau nầy.
AI THAU AI CHÌ:
Thau là loại đồng pha kẽm. Chì cũng đồ kim loại màu xám, chất dễ chảy hơn. Thau
có giá trị cao hơn chì. Đây chỉ ngày lập đời sẽ có cuộc chọn lọc để biết rõ ai
giả ai thật, hoặc ai cao ai thấp.
NGŨ VIÊN KỲ:
Sách “Nội Kinh Huỳnh Đế” có chép: Vào thời Ngũ Đế có ba ông: Ngũ Tử, Hiên Viên
và Kỳ Bá đem hết trí năng nghiên cứu các thứ bịnh và thí nghiệm những loại thảo
mộc, để tìm ra dược phẩm trị bịnh cứu dân, lòng các Ngài chẳng hề mong cầu lợi
lạc. Đức Thầy nhắc chuyện nầy để chỉ cho sự giúp đời bất vụ lợi, của những bực
đầy lòng vị tha bác ái và cũng khuyên mọi người noi gương từ thiện nói trên.
THỂ NAO: Thế nào, hãy xét rõ công việc
ấy coi ra sao (như thế nào).
CHÁNH VĂN
321. Luận xem thế sự thấp cao,
Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu nhi.
Bớt bỏ rình-rang một khi,
324. Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
Là lời truyền-giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
328. Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.
Gẫm trong thế sự nực cười,
Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay.
Mình làm chữ hiếu mới hay,
332. Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
Mục-Liên cứu mẹ bằng nay,
336. Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ-bi.
LƯỢC GIẢI (từ câu 321 đến câu 336) :
-Sau khi luận việc cao thấp của sự đời, Đức Giáo Chủ khuyên bá
tánh trong việc tang ma không nên bày vẽ linh đình mà hãy làm theo lời khuyên
dạy của Ngài.
-Nếu trong gia đình có ông bà hoặc cha mẹ từ trần, nên vọng bàn
giữa trời cầu Phật, trên bàn chỉ được dùng ba món: bông hoa, nước lã và nhang.
Khi cầu nguyện xong im lặng đi chôn. Còn đối với làng xóm hãy tùy nghi mà dùng
lời lẽ giã ơn với mọi người, bởi “Tiếng chào cao hơn cỗ”. Nếu cần phải đãi đằng
cơm nước thì Ngài dạy:“Những điều nào xét ra thấy giản tiện ít lãng phí cứ
làm”.
-Thẩm xét sự đời, Ngài cũng bắt buồn cười cho bá tánh, sao chẳng
sớm tu sửa lòng mình cho được ngay chánh và hiếu sự phải tự mình thi hành mới
đúng lẽ. Nhược bằng cứ bỏ tiền ra mướn các thầy đám tụng kinh cầu siêu, không
bao giờ được kết quả.
-Vậy muốn cho nghiệp tội của ông bà cha mẹ mau tiêu rỗi, con cháu
cần sớm giác ngộ tu hành, mỗi sáng chiều hằng thành tâm cầu nguyện. Noi gương
Đức Mục Kiền Liên rèn lòng từ bi, hiếu hạnh đi đến chỗ chứng đạo giải thoát.
Đức Thầy từng khuyến tấn:
“Rán tu đắc Đạo cứu Cửu Huyền,
Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.
Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,
Cho ta hình vóc học cơ huyền”.
(Giải Thoát Cửu Huyền)
CHÚ THÍCH :
LÀM MÀU HIẾU NHI: Làm ra vẻ người con hiếu để che miệng thế gian, chớ không
thật tâm lo.
RÌNH RANG:
Ồn ào rộn rịp, chưng diện rực rỡ có tính cách long trọng.
ĐÁP NGÔN: Giã ơn bằng lời nói.
THÀNH TÂM: Lòng
chí thành chí thật. Cổ đức từng bảo:“Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai”.(Ý
nói sức thành tâm khẩn thiết hướng về đâu, có thể chẻ núi phá vàng đến đó). Nên
Đức Thầy hằng dạy:
“Thứ bảy chánh niệm vậy thì,
Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)
MỤC LIÊN CỨU MẸ: Mục Kiền Liên, vốn là một trong “Thập Đại Đệ Tử” của Đức Phật
Thích Ca. Ngài là bậc thần thông đệ nhứt. Khi chứng quả A La Hán, Ngài dùng
thiên nhãn nhìn thấy mẹ là bà Thanh Đề đang bị đọa tại ngục a-tỳ, chịu sự hình
phạt đói khổ thảm thiết. Ngài dùng thần thông đem bát cơm đến dâng cho mẹ dùng.
Nhưng khi vừa bưng lên, bỗng bát cơm hóa ra lửa bốc cháy, bà ăn không được nên
bà rất hối hận tội lỗi của mình. Mục Kiền Liên trở về cầu Phật giúp cho phương
cách cứu mẹ.
Thấy lòng hiếu thảo của Mục Liên, Phật động từ tâm, dạy ông thiết
lễ Vu Lan Bồn, để nhờ sự hồi hướng công đức của các Thánh Tăng cộng với sự hối
hận của bà và oai lực của Đức Phật gia hộ, nên Ngài Mục Liên cứu mẹ ra khỏi
ngục A Tỳ.
CHÁNH VĂN
337. Ai ai hãy rán mà suy,
Thương đời Ta tỏ chuyện ni rõ-ràng.
Làm tuần trà rượu xình-xoàng,
340. Rồi thì chưởi-lộn mà an nỗi gì ?
Dương-trần làm chuyện dị-kỳ,
Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo.
Của tiền chớ có bỏ theo,
344. Chết rồi tế-lễ bò heo làm gì ?
Nếu ai biết chữ tu trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung-lăng,
348. Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.
Đạo là vốn thiệt cái đàng,
352. Ta ra sức dọn cho toàn chúng-sanh.
LƯỢC GIẢI (từ câu 337 đến câu 352) :
-Vì lòng thương đời Đức Thầy mới phân giải rõ ràng: từ trước những
đám làm tuần, người ta thường bày ra tiệc lễ linh đình, say sưa rượu thịt. Đã
say, đâu còn phân biệt phải quấy, nên giữa anh em tộc họ thường xảy ra cuộc chửi
mắng, ấu đả lẫn nhau, như vậy đâu ích lợi và an ổn chút nào.
-Ở đời, khi có việc xảy ra người ta ít chịu nhận xét cho chính xác
để làm theo chân lý. Phần đông là họ cứ bày vẽ nhiều việc lạ lùng, toàn là giả
dối. Cho nên Đức Thầy dạy hãy bỏ tục lệ đem tiền của theo cho người quá vãng,
bởi kẻ chết đã sang qua cảnh giới khác thì tiền bạc và vật thực cõi nầy, chẳng
xài được. Còn việc sát hại gà vịt, bò heo lại là vô lý và tai hại hơn nữa, vì
làm thế người chết không dùng được mà còn mang thêm nghiệp quả.
-Vậy ai là người biết giác ngộ tu hành, muốn báo hiếu cho đúng
cách thì lúc cha mẹ còn sanh tiền, nên cung phụng các thức ăn, mặc, ở cho đầy
đủ. Thường thấy nhiều người không biết bổn phận đối với cha mẹ, lại còn ăn nói
nghinh ngang hỗn ẩu, thật là điều tội lỗi đáng trách !
-Con người khôn ngoan đạo đức, lúc nào cũng vâng lời cha mẹ, việc
cư xử trong gia đình, thân tộc đều biết nhân nhượng thuận hòa, khiến cha mẹ
được hài lòng, Đức Thầy đã vạch rõ con đường đạo hạnh, chúng sanh nào muốn đạt
đến chỗ vinh quang hạnh phúc, cứ nương theo đó tiến hành, ắt được toại nguyện.
CHÚ THÍCH :
CHUYỆN NI:
(Xem lại chú thích tại tr.277 Tập 1/3).
XÌNH XOÀNG:
Cũng gọi là xoàng xoàng. Có nghĩa chếch choáng, cháng váng (say rượu). Ví dụ:
Mới ba ly đã xình xoàng.
LÀM TUẦN: Lễ cầu nguyện (cầu siêu) và
cúng người chết: cúng mỗi tuần (7 ngày hay một thất) một lần suốt trong 7 tuần
đầu tiên, rồi sau đó cúng vào ngày thứ 100 (bá nhựt), cúng giáp năm và giáp hai
năm (gọi là mãn tang hay mãn khó).
DỊ KỲ: (Xem lại chú thích tại
tr. 179 Tập 1/3).
TẾ LỄ BÒ HEO:
Từ trước những gia đình giàu sang, trong nhà có người chết, họ liệm vô quan
tài, hoàn lại đó rồi giết bò heo cúng tế cả tuần mới đem chôn. Điều nầy xét ra
thấy rất sai lầm, bởi làm thế, người chết đâu có ăn được, lại còn mang thêm
nghiệp tội.
Xưa, có một trưởng giả rất giàu có, thâm tín Tam Bảo, thường làm
nhơn bố thí. Sau khi mạng chung, con cháu dùng hỏa táng, thu nhặt tro tàn đựng
vào bình đặt lên bàn hương án. Chúng chuẩn bị gà heo cùng các thứ cao lương quí
giá, cúng kiếng linh đình, rồi xúm nhau khóc kể thảm thiết.
Nhờ nhân bố thí, hồn trưởng giả đó được sanh về cõi Trời làm vị
Thiên đế, ông nhìn xuống thấy con cháu dại dột, vì thương cha mẹ làm việc vô
ích. Muốn thức tỉnh con cháu, ông bèn hóa ra tên mục đồng, tay ôm bó cỏ, tay
dắt trâu đến sân nhà tế lễ ấy. Đến nơi, vừa cột trâu, trâu ngã ra chết, mục
đồng lấy cỏ đút vào mồm trâu bảo ăn, trâu không ăn được, nó giận dữ lấy roi
đánh đập, quát tháo ầm ỹ. Mấy người con vị trưởng giả thấy vậy bảo:
– Nầy chú bé kia ! Sao khờ khạo đến thế ? Trâu đã chết làm sao ăn
được nữa mà phải hoài công la hét !
Đứa bé đáp:
– Trâu mới chết mồm miệng vẫn còn đây, còn có thể hy vọng hơn các
người bày lễ linh đình trước bình tro tàn, rồi khóc kể có khôn gì ?
Cả nhà Trưởng giả nghe trả lời ngạc nhiên tỉnh ngộ, hỏi:
– Ồ thật rất thông minh. Ngươi là con nhà ai và ở đâu đến đây ?
Đứa bé đáp:
– Ta chính là Trưởng giả. Cha các ngươi đây !
Nhờ phụng sự Phật pháp mà nay ta đã sanh Thiên, thấy các ngươi
không nghe theo lời ta, lo tu hành, mãi đeo đắm tình thương quyến thuộc làm
điều vô ích, lại gây thêm nghiệp sát hại, nên ta về đây giác tỉnh các ngươi.
Nếu chẳng sớm cải hối, ta cùng các người đồng vương thêm nghiệp tội không nhỏ.
Nói xong, Thiên Đế biến lên Thiên cung, con cháu đồng ăn năn tỉnh ngộ, bỏ việc
sát sanh.
Lúc Đức Phật còn trụ thế, Ngài thường dạy các môn đồ:“Nếu ai vì
thân nhơn quá vãng mà tu tập các việc phước đức thì trong bảy phần, vong nhơn
hưởng một, sáu phần kia người sống tự huởng. Trái lại, nếu vì người chết mà sát
hại sanh vật cúng tế tạo nhiều nghiệp ác, ắt vong nhơn phải chịu họa lây”.
Ngày nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng giác tỉnh:
“Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,
Ma lớn chay to phí lắm tiền.
Tưởng vậy xác thân đa hạnh phúc,
Nào hay hồn phách lắm oan khiên”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
TU TRÌ: (Xem lại chú thích tại tr.84
Tập 1/3).
THIẾU GÌ: Thiếu
chi, nhiều lắm.
BIẾT NHƯỢNG BIẾT TÙY: Biết nhân nhượng, nhún nhường và vâng lời thuận thảo.
ĐẠO: (Xem chú thích tại
tr.128-130 Tập 1/3 ).
CHÁNH VĂN
353. Thôi thôi bớt miệng hùng-anh,
Ở nơi cửa khẩu thiệt rành tiếng ni.
Chưng bày quân-tử làm chi,
356. Của đồ hổ-bịt vậy thì xưng hô.
Lũ đàng lũ điếm hồ-đồ,
Anh-hùng quân-tử xưng hô rền trời.
Gặp ai mắc nạn cười chơi,
360. Chớ không ra sức giúp đời điều chi.
Hổ mình là bực tu mi,
Chưa tròn bổn-phận mà ti tôn mình.
Kể từ thượng lộ đăng trình,
364. Vào Nam ra Bắc mặc tình bôn-phi.
Khuyên răn trần-thế một khi,
366. Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 353 đến câu 366) :
-Thường thấy số người miệng hay khoe khoang
lớn lối, tự cho mình là tài giỏi, là anh hùng quân tử, nhưng hành động chẳng ra
gì, nên Đức Thầy khuyên họ hãy bỏ bớt tánh xấu ấy đi !
-Cũng có hạng chỉ biết rong chơi trụy lạc, ăn
nói hàm hồ, cống cao tự đại, nhưng khi gặp người lâm nạn thì họ trơ mắt ra
nhìn, chẳng hề có chút lương tâm ra tay giúp đỡ, lại còn thỏa thích nhạo chê là
khác. Là bực râu mày nam tử, với bổn phận không tròn, họ đã chẳng biết tủi
thẹn, lại còn khoe khoang tự đắc.
-Lúc Đức Thầy lên đường độ thế, từ miền Nam
sang ra đất Bắc, Ngài hằng lui tới khai truyền chánh pháp, giáo hóa lê dân:“Chuyển
miền Nam địa lung lay, Nam, Trung cùng Bắc một tay giáo đời”.(ĐểChơn
Đất Bắc). Ngài khuyến cáo cho bá tánh rõ, tuồng đời hiện tại sắp hết, để chuyển
sang cuộc diện mới.
CHÚ THÍCH :
QUÂN TỬ: (Xem lại chú thích nơi câu 471 Q.2 cùng
Tập nầy).
CỦA ĐỒ HỔ BỊT: Chỉ những hạng ăn ở lố lăng phách lối. Ví
dụ: Thứ hổ bôn hổ bịt, chẳng ra gì.
LŨ ĐÀNG LŨ ĐIẾM: Bọn người gian xảo ăn chơi phóng đãng
(trà đình tửu điếm) Đức Thầy khuyên:“Điếm đàng đĩ thõa chớ gần”(Sám
Giảng, Q.3).
HỒ ĐỒ: Hàm hồ, không hợp lý; lờ mờ, không rõ ràng
gãy gọn. Ví dụ: ăn nói hồ đồ vô lý. “Chim khôn tránh bẫy tránh dò,
Người khôn tránh tiếng hồ đồ mới khôn”(Ca dao).
ANH HÙNG: Anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú.
Nghĩa bóng: chỉ người hào kiệt xuất chúng, có tài làm việc to tát. Sách Vương
Thông có nói:“Tự trị giả anh, tự thắng giả hùng”(Tự biết mình là anh,
tự thắng mình là hùng). Nhưng toàn câu giảng trên là chỉ cho kẻ bất
tài mà thường hay xưng hô lớn lối. Đó là anh hùng rơm:“Anh hùng gì, anh hùng
rơm, Cho một bó lửa hết cơn anh hùng”(Ca dao).
TU MI: (Xem lại chú thích nơi câu 111 Q.2
Tập nầy).
BỔN PHẬN: Phận sự, phần việc của mình. Một phần nghĩa
của chữ Đạo. Ví dụ: Bổn phận làm con, bổn phận làm công dân, làm cha mẹ.v.v…
TI TÔN MÌNH: Tự hào, cho mình là tài giỏi, là cao quí
hơn người.
ĐĂNG TRÌNH: Lên đường, khởi hành (ra đi).
BÔN PHI: Bôn là chạy, phi là bay. Nhưng chữ bôn
phi ở đây có nghĩa là bôn ba, lui tới. Đức Thầy có câu:“Bôn phi
lê thứ nhiều bề gian nan”(Để Chơn Đất Bắc).
CHÁNH VĂN
367. Dương-gian làm huyễn nói càn,
Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
Hò reo giục trống nhiều câu,
Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười.
Ta khuyên hết thảy các người,
372. Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
Đừng hò đừng réo làm chi,
Nghinh-ngang kêu múa có khi hại mình.
Nghe không thì cũng mặc tình,
376. Nói cho rõ-rệt dân tin không là.
Quan-Âm Nam-Hải Phổ-Đà,
Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo-truyền.
Thánh Thần không phải thiếu tiền,
380. Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.
LƯỢC GIẢI (từ câu 367 tới câu 380) :
-Trong xã hội Việt Nam bấy giờ (1939), có nhiều phù thủy, đồng
bóng, cô bà. Họ bày lắm điều huyễn hoặc để lừa bịp dân quê. Nếu ai có bịnh,
rước họ đến thì nào: đờn kèn trống phách, bày binh bố trận, nào sai đồng khiển
tướng, tróc quỉ trừ ma toàn là những việc mê tín giả dối, chỉ làm trò cười cho
thiên hạ, nên Đức Thầy khuyên họ hãy bỏ dứt tệ trạng ấy đi.
-Vì họ chữa trị bịnh nhơn khi thì đọc thần chú, kêu gọi danh tánh
các bậc Thần Tiên mà sai khiến làm điều tà mị theo ý muốn, nên phải tội lộng
ngôn, phạm thượng; hoặc cho sát sanh hại vật cúng tế quỉ ma, khiến chúng ăn
quen mà quanh quẩn theo họ, phá hại xóm làng:“Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”(Sám Giảng, Q.3).
-Đức Giáo Chủ kêu gọi bá tánh hãy trở lại con đường chánh tín, dầu
ai có nghe hay không tùy ý; chớ việc Ngài truyền dạy đây là do sắc lịnh của Đức
Quan Âm và Phật Tổ, Phật Thầy. Còn các vị Thần Thánh đâu có thiếu nợ chúng sanh
mà muốn sai khiến lúc nào cũng được.
CHÚ THÍCH :
LÀM HUYỄN:
Giả dối, nói làm không chân thật để đánh lừa thiên hạ.
SAI ĐỒNG KHIỂN QUỈ: Đây là cách trị bệnh của các phù thủy (thầy pháp). Chúng cho
người ngồi trùm khăn kín mặt lại, rồi đọc thần chú, khiến một lát thì đồng lên,
xưng là cố hỉ thượng động hay thần quỉ chi đó. Đồng đòi ăn heo gà đủ thứ, phần
nhiều là họ lên giả; thấy việc huyễn hoặc và mê tín, ai xem cũng nực cuời. Nhà
thơ Trần Tế Xương đã diễn tả cảnh lên Đồng ấy trong một bài thơ:
“Khen ai khéo vẽ cảnh lên đồng,
Một lúc lên luôn sáu bảy ông.
Xác quỉ, ông dùng cây kiếm gỗ,
Ra oai, bà giắt cái khăn hồng.
Cô giương tay ấn tan tành núi,
Cậu chỉ ngọn cờ cạn dốc sông.
Đồng giỏi, sao đồng không giúp nước ?
Hay là đồng sợ súng thần công ?”
NAM HẢI PHỔ ĐÀ:
theo truyền thuyết nơi biển Nam Hải có một hòn núi tên Phổ Đà, do chữ “Phổ Đà
Sơn Thượng”, hay “Phổ Đà Đạt Đạo”. Đức Quan Thế Âm thường ngự tại đó.
CHÁNH VĂN
381. Nam-Mô Quan-Âm Như-Lai,
Cầu xin chư Phật cứu nay dương-trần.
Khuyên đừng chưởi Thánh mắng Thần,
384. Xưa nay thứ lỗi thế-trần chẳng kiêng.
Lưỡng Thần ghi chép liên-miên,
Nào tội nào phước dưới miền trần gian.
Tâu qua Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,
388. Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều.
Chúng-sanh ngang-ngược làm liều,
Ngọc-Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi.
Minh-Vương khó đứng khôn ngồi,
392. Thảm thương lê-thứ mắc hồi gian-truân.
Trước đền mắt ngọc lụy rưng,
Quí yêu bá-tánh biết chừng nào nguôi.
Làm sao cho dạ được vui,
396. Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần.
LƯỢC GIẢI (từ câu 381 đến câu 396) :
-Đoạn nầy Đức Thầy cầu nguyện với Đức Quan Âm Như Lai và chư Phật
mười phương, cứu độ chúng sanh thoát qua khổ hải cùng khuyên bá tánh từ nay hãy
bỏ hẳn sự kêu Thần Thánh mà nguyền rủa hoặc sai khiến. Bởi từ trước các Ngài đã
tha thứ nên chúng dân chẳng kiêng sợ.
-Tất cả hành động tội hay phước của mỗi chúng sanh ở cõi trần đều
được hai vị thần ở hai bên ghi chép đầy đủ, để tấu trình về Thượng Đế. Xét ra,
tội của chúng sanh dẫy đầy, còn điều phước thiện chẳng được bao nhiêu.
-Bởi vì loài người quá ngang tàng, hung bạo, gây nhiều tội trạng,
nên Ngọc Đế muốn xử tiêu cho rồi. Song nhờ Đức Minh Vương đầy lòng thương xót
lê dân, lâm cơ tận diệt, nên Ngài rất lo lắng tìm phương cứu độ.
-Ngài thân hành đến quì trước Linh Khứu để cầu xin Đức Phật Tổ nhủ
lòng từ bi sắc truyền chư Phật lâm phàm khai đạo, cứu độ lê dân. Điều nầy trong
Sấm Giảng Người Đời, Ngài Huệ Lựu nói rõ:
“Ngọc Hoàng cầm sổ nơi tay,
Quyết mà giũ bỏ đời nay hỗn hào.
Nam Tào kinh khủng khấu đầu,
Xin thương trần thế Đạo mầu truyền ban.
Ngọc Hoàng nghe nói rất mừng,
Sai người giá võ qua miền Lôi Âm.
Kế đó Phật Tổ giá lâm,
Tâu cùng Ngọc Đế thấp cao tỏ tường.
Minh Vương có tới Phật Đường,
Giáo khuyên dưới thế trung ương tu trì”.
CHÚ THÍCH :
QUAN ÂM NHƯ LAI: Quan âm. Đọc cho đủ là Quan Thế Âm Bồ Tát, do Phạn ngữ
(scr.): Avalôkitêcvara. Lại cũng có tên là Quán Tự Tại hay Liên Hoa Thủ. Ngài
là một vị Đại Bồ Tát có lòng đại bi hay cứu khổ cứu nạn nên có danh hiệu
Quan Thế Âm Bồ Tát, ở đâu cũng thờ Ngài và cũng niệm đến danh hiệu Ngài.
Kinh chép:
Lúc chưa xuất gia tu hành, Ngài là con đầu lòng của Vua Vô Tránh Niệm, tên là
Bất Huyến Thái Tử. Khi vua cha phát tâm tu hành theo Đức Bảo Tạng Như Lai và
khuyên Ngài hết lòng kính tin, sùng bái Tam Bảo. Ngài vâng theo và phát lời thệ
nguyện:“Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường Tam Bảo và các
món thiện căn, tôi đã từng tu tập pháp mầu, xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ
Đề. Nguyện cứu độ tất cả chúng sanh nào khổ đau họa hoạn, khi niệm đến danh
hiệu tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ thoát khổ và đặng an vui…Nếu chẳng đặng
lời thề đó, tôi không thành Phật”.
Vì vậy, trong thế gian, chỗ nào, lúc nào khi có sự khổ đau, chúng
sanh niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng lòng từ mẫn, dùng pháp mầu cứu
vớt chúng sanh đó. Hiện nay Bồ Tát Quán Thế Âm đứng hầu bên trái Đức Phật A Di
Đà tại cảnh giới Tây phương Cực Lạc và hằng ngày thị hiện tiếp dẫn chúng sanh
khắp mười phương về cõi ấy.
-Nhưng danh từ “Quan Thế Âm Như lai” còn chỉ cho một Đức Phật thời
quá khứ. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Sáu, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát có bạch
với Đức Thích ca: “ Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi còn nhớ vào thời quá khứ,
cách đây hằng hà sa số kiếp, có một Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm
Như Lai. Tôi nhờ Đức Phật đó mà phát tâm Bồ Đề, Ngài dạy tôi nương theo ba
pháp: Nghe, Nghĩ, Tu mà vào chỗ chánh định”(Thế Tôn ! Ức niệm ngã tích vô số
hằng hà sa kiếp, ư thời hữu Phật, xuất hiện ư thế, danh Quán Thế Âm, ngã ư bỉ
Phật, phát Bồ Đề tâm, bỉ Phật giáo ngã tùng văn, tư, tu nhập Tam Ma
Địa…). Và một đoạn khác, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát nói:“Bạch Đức Thế
Tôn ! Bởi tôi cúng dường Thầy tôi là Đức Quán Thế Âm Như Lai, nên tôi nhờ Thầy
truyền cho tôi pháp Như hoạn,Văn huân, Văn tư, Kim cang tam muội.
(1.-Như Hoạn: như tuồng mị, là nói chỗ công phu lúc ban sơ,
phải mượn lấy ảnh hưởng của hai cái nghe: Văn Huân và Văn Tu. 2.-Văn Huân:
xông cái nghe; chữ nghe đây là chỉ cái tánh nghe thuộc
về thể của bản giác, còn xông là xông ướp (huân tập), nghĩa
là trau giồi, ý nói bên trong xông ướp cái thể bản giác. 3.-Văn Tu: Tu
cái nghe, là quay ngược cái nghe trở vào trong thuộc về trí của bản
giác. Còn tu là lấy cái công phu trở lại cái nghe mà tu tới bực viên thông.
4.-Kim Cang Tam Muội: Do nơi cái nghe đã tiến tu mà thành được một tánh
đại định bèn chắc như kim cương.)
Từ lực của tôi đồng với các Phật Như Lai, nên khiến thân
tôi thành đặng 32 ứng thân, để tùy thuộc vào các quốc độ mà cứu khổ chúng sanh.”
(Thế Tôn ! Do ngã cúng dường Quán Thế Âm Như Lai, mông bỉ Như Lai thọ ngã, Như
Hoạn Văn Huân, Văn Tu, Kim Cang Tam Muội, dữ Phật Như Lai, đồng từ lực cố, binh
ngã thân hành, tam thập nhị ứng, nhập như Quốc độ…).
CHẲNG KIÊNG:
(Xem lại chú thích nơi câu 194 trên).
LƯỠNG THẦN: Hai
vị thần ở hai bên vai vác là Tả mạng thần và Hữu mạng thần, có
trách nhiệm ghi chép việc tội phước của mỗi người để tấu trình về Thượng Đế.
Ngài Huệ Lựu đã nói:
“Thường đêm hương đốt đừng không,
Thời là lại có lưỡng Thần chép biên.
Chung niên nạp sổ thượng
Thiên,
Thiên đình tùy đó phước hiền ban cho”.
Đức Thầy cũng bảo:
“Trách lầm mang nghiệp vào thân,
Chỉn e vai vác Thánh Thần chép biên”.(Cảm Tác).
CHÁNH VĂN
397. Lời khuyên xưa cũng một lần,
Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ.
Khôn-ngoan nghe nói ngẩn-ngơ,
400. Ngu-si thì tưởng như thơ biếm đời.
Ở đâu cũng Phật cũng Trời,
Tâm thành chí nguyện xem đời khó chi.
Văn-Thù Bồ-Tát từ-bi,
404. Chèo thuyền Bát-Nhã cứu thì trần-gian.
Gió đưa lướt sóng buồm loan,
Rước người tu niệm xuê-xang phỉ tình.
Ai mà Ta dạy chẳng gìn,
408. Thì sau đừng trách mất tình yêu-đương.
LƯỢC GIẢI (từ câu 397 đến câu 408) :
-Trước kia Đức Giáo Chủ đã có lần khuyên dạy chúng sanh, hôm nay
Ngài cũng chuyển kiếp viết ra cơ giảng, giác tỉnh người đời. Kẻ trí, khi nghe
được Kệ Kinh của Ngài, lòng bắt bồi hồi suy nghĩ, còn người quá mê mờ thì họ
cho đó cũng như các vần thơ nhạo đời mà thôi.
-Ngài còn dạy rõ, ai muốn tu hành khỏi cần tìm đến núi cao, rừng
thẳm hay chùa miễu am cốc mà bất cứ nơi nào, hễ có lòng thành khẩn, nguyện cầu
và chí tâm hành đạo, tất được thấy cảnh:“Phật Tiên Thánh an bang cùng
định quốc”(Bài Không Buồn Ngủ). Bởi Đức Thầy hằng khuyên:“Muốn cho
nên khuya sớm chuyên cần, Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh” (Sa Đéc).
-Giữa lúc thay đổi cõi Hạ ngươn sẽ có Đức Văn Thù Bồ Tát dùng trí
lực siêu mầu tiếp độ những người hiền đức lên bờ giải thoát. Còn kẻ nào chẳng
nghe lời dạy bảo thì sau đừng trách Phật Tiên thiếu lòng từ ái.
CHÚ THÍCH :
Ở ĐÂU CŨNG PHẬT CŨNG TRỜI: Ý nói nơi nào cũng có Phật Trời không luận chùa am hay nhà cửa,
hễ ai có lòng chí thành chí thiết trong việc công phu hành đạo thì Trời Phật
cảm ứng mà cứu độ ngay. Đức Phật Thầy từng bảo:
“Đi đâu cho khó nhiều đàng,
Kìa non Bửu Tự, nọ ngàn Ma ha.
Kiểng nào kiểng chẳng có hoa,
Non nào non chẳng có tòa thiên thai”.
Đức Thầy cũng thường dạy:
“Non nước tuy xa đâu cũng trời,
Cũng Trời, cũng Phật, cũng an
nơi”.
(Cho Ông Đỗ Văn Viễn)
TÂM THÀNH:
(Xem lại chú thích nơi câu 334 trên)
CHÍ NGUYỆN:
Ý muốn đã nuôi trong lòng và chí quyết thực hành cho kỳ được. Đức Thầy có
khuyên:“Trên dưới một lòng chí nguyện tu”(Dụng Kinh Quyền).
VĂN THÙ BỒ TÁT:
Là tiếng gọi tắt chữ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Phạn ngữ: Mânjuri. Có nghĩa: Diệu
Đức (đức sáng mầu nhiệm), Diệu Âm (âm thinh mầu nhiệm). Ngoài ra, các kinh điển
còn chép tên Ngài là Diệu Thủ Bồ Tát, Phổ Thủ Bồ Tát…Tựu trung đều đề cập đến
công hạnh lợi tha, giác chúng của Ngài, với trí tuệ siêu thắng bậc nhất.
Ngài là một vị Cổ Phật, đã thành Phật từ vô số kiếp, song vì lòng
bi mẫn Ngài mới tùy cơ ứng hóa, cứu độ chúng sanh.
Hồi Đức Phật Thích Ca ra đời, Ngài ứng thân làm Tỳ kheo hầu cận
Phật, Ngài đã biểu thị trí tuệ bậc nhứt, trong hàng Đệ tử của Phật, nên Ngài
cũng được tôn danh là Pháp Vương Tử (con đấng Pháp Vương). Cho nên đa số các
hình tượng thờ Ngài bây giờ, đều với thân tướng trang nghiêm, trên đầu có năm
búi tóc biểu thị cho năm trí của Phật. (Năm trí: 1/- Pháp giới thể tánh
trí. 2/- Đại viên cảnh trí. 3/- Bình đẳng tánh trí. 4/- Diệu Quan sát trí. 5/-
Thành Sở tác trí). Tay cầm thanh gươm, thị hiện lợi khí của trí tuệ tròn đầy và
ngồi trên lưng Sư Tử Xanh biểu thị cho sức mạnh của trí tuệ. Chính Ngài đã đem
thần chú (Thủ Lăng Nghiêm do Phật truyền dạy) đến nhà Ma Đăng Già, giải thoát
cho ông A Nan khỏi sa vào hố tội lỗi.
Về lược sử của Đức Văn Thù, Kinh Pháp Hoa có chép: Về
phương Đông có một nơi gọi là rặng núi Thanh Lương, từ xưa đến nay các vị Bồ
Tát đều tập họp nơi đó. Trong số nầy có Văn Thù Bồ Tát và các quyến thuộc tới
một vạn người, nhân đó Ngài Văn Thù thường đến thuyết Pháp hóa độ chúng sanh.
Trong Văn khố Từ Bi Âm lại chép: Đức Văn Thù Bồ Tát lúc chưa thành
đạo, Ngài là con thứ ba của Vua Vô Thánh Niệm tên là Vương Chúng Thái Tử.
Lớn lên, Ngài nhờ Phụ Vương khuyên bảo nên phát tâm cúng dường
Phật Bảo Tạng và tăng chúng trong ba tháng. Và nhờ quan đại thần Bảo Hải (thân
phụ của Bảo Tạng Như Lai) khuyên Thái Tử nên đem công đức ấy mà cầu các món trí
tuệ, đồng thời nên hồi hướng về ngôi Phật quả, để hóa độ chúng sanh. Cõi của
Ngài phải thanh tịnh trang nghiêm, thọ mạng lâu dài…Nếu không được như trên
Ngài nguyện không thành Phật. Nguyện xong, Đức Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho
Vương Chúng Thái Tử là Phật Đại Trượng Phu, trí tuệ sáng suốt nhiệm mầu. Phật
cũng đặt pháp hiệu cho Ngài là Văn Thù Sư Lợi. Trải vô lượng kiếp sẽ thành
Phật, hiệu Phổ Kiến Như Lai, ở thế giới Thanh Tịnh vô cấu bảo chỉ (Có chỗ chép
là Phổ Hiến Như Lai hay Phổ Hiện Như Lai) .
THUYỀN BÁT NHÃ:
(Xem chú thích nơi câu 39 Q.2 Tập nầy).
BUỒM LOAN:
(Xem chú thích chữ “thuyền loan” tại tr.211-212 Tập 1/3).
XUÊ XANG: Sung sướng, tốt đẹp.
PHỈ TÌNH: (Xem lại chú thích nơi câu
172 trên)).
YÊU ĐƯƠNG:
Cũng gọi là yêu đang, có nghĩa: Tình yêu tự nhiên do huyết thống hay ái tình.
Nhưng chữ yêu ở đây chỉ cho sự yêu thương của bậc thầy với đệ tử, của Phật đối
với chúng sanh. Đức Thầy, trong bài Tình Yêu, có câu:
“Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh”.
Đăng nhận xét