CÁC BÀI PHÁP-LUẬN CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ PHẬT GIÁO HOÀ HẢO
CHÚ GIẢI : THIỆN TÂM
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
CHÚ GIẢI CÁC BÀI PHÁP LUẬN
(trang 445 – 460 SGTVTB 2004)
XUẤT XỨ VÀ VĂN THỂ
Đây là loạt bài Pháp luận nằm trong Thi Văn
Giáo Lý Toàn Bộ, do Đức Thầy sáng tác năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu
trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết các bài nầy bằng thể văn xuôi
(tản văn), lối thuyết giáo. (Lẽ ra chúng tôi phải soạn bài Thập Nhị Nhân Duyên
trước, nhưng vì theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại là Đức Thầy cho biết bài
Thập Nhị Nhân Duyên và Môn Hoàn Diệt nằm trong Tứ Diệu Đề; nên chúng tôi soạn
bài Đức Phật Đối Với Chúnh Sanh trước. Còn bài Thập nhị Nhân Duyên để sau soạn
chung với bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề”)
Bài 3.- PHẬT LÀ GÌ?
CHÁNH VĂN
Phật giả là Giác giả. Giác giả là Tỉnh giả.
ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT:
1.- Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng
như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì
sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm,
không thể đạt huệ được.
2.- Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái
quá như: phơi nắng, dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì
ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi,
tinh-thần kém cỏi, mệt nhọc, trí-hóa lu lờ, không đủ sức học Đạo đặng.
Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng
chẳng để nó sung-suớng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa sức mình,
gìn-giữ sức khoẻ mới mong học được đạo-pháp.
Vậy, Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và cũng chẳng
biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo
trình-độ và lòng nhơn của mình.
Điều cần yếu là phải:
Làm hết các việc từ-thiện,
Tránh tất cả điều
độc-ác,
Quyết rửa tấm lòng
cho trong sạch.
Bạc Liêu, năm Nhâm-Ngũ.
( SGTVTB
2004, 450-451 )
LƯỢC GIẢI :
Là môn đồ nhà Phật, chắc ai cũng muốn tìm
hiểu Phật là gì ? Và tại sao cả thế gian đều xưng tụng Ngài là Phật ?
Chúng ta không thể hiểu suông bằng văn tự:
Phật là đấng giác ngộ và tỉnh thức, mà phải tìm hiểu xác thực cái “giác
tỉnh” ấy như thế nào ?
Tỉnh thức là từ đối lập với mê
lầm. Từ trước tới nay, đa số chúng sanh còn trong mê lầm tăm tối (vô minh)
nhận ngụy làm chơn:
“Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
Màn vô minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.( ĐT)
Ngược dòng lịch sử, ai cũng biết Thái
tử Sĩ Đạt Ta được sanh ra sống trong cảnh cung vàng điện ngọc, thụ hưởng các
điều dục lạc, chẳng thiếu món chi. Thế mà Ngài nhận thức được cuộc sống ấy là
giả dối, không thật, như phù hoa ảo ảnh, mỗi người sanh ra đều phải đối đầu với
sự sống khổ, rồi tới già bịnh chết. Do đó, Ngài mới lìa bỏ cung vui tìm
đường giải thoát.
“Đức Thích Ca xưa ở lầu đài,
Nghiệm tứ khổ nên Ngài tầm Đạo”.( ĐT)
Đó là Ngài tỉnh thức: “lánh
chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn”.
Còn phần giác ngộ là trong thời gian
tầm thầy học Đạo, Ngài không nhắm mắt tin càng, mà tin qua lý trí. Nghĩa là
giáo thuyết nào không hợp chơn lý, không đưa mình ra khỏi sanh tử thì Ngài
không theo. Cuối cùng Ngài tự mình tìm ra phương cách giải thoát và hành đạt
đến hoàn toàn giác ngộ (Giác ngộ đồng nghĩa trí huệ) :
“Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm đạo”.( ĐT)
Sự hiểu biết của Ngài chẳng phải như nhà bác
học (thế trí biện thông), mà từ mọi hình thức bên ngoài đến cái vô hình bên
trong của tâm ý chúng sanh, xuyên qua vũ trụ vạn hữu và cả ba đời (quá khứ,
hiện tại, vị lai) Ngài đều thấu suốt. Do đó, khắp ba cõi sáu đường (Ba cõi: Dục
giới, sắc giới, vô sắc giới) đều xưng tụng Ngài là bậc tỉnh thức. Và cũng vì
vậy, Đức Thầy mới định nghĩa chữ Phật:“Phật giả là giác giả, giác giả là
tỉnh giả”. Gọi tắt là đấng Tỉnh giác (Tỉnh thức và Giác ngộ hoàn
toàn).
I- CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO:
Lúc Thái tử còn tu khổ hạnh với năm người bạn tại rừng Lộc
giả, một hôm Ngài đang đi bỗng bị té xỉu vì quá kiệt sức. Chừng tỉnh dậy, Ngài
trông thấy một người lạ, ngồi ôm cây đờn lên dây khảy. Khởi đầu, người ấy lên
dây thẳng quá nên dây đờn bị đứt, người liền trả dây dùn lại thì đàn không kêu
đúng tiếng. Lần thứ ba, người ấy lên dây vừa vặn thì khảy tiếng đàn nghe tuyệt
diệu. Thái tử liền ý thức: mình dốc tu cho thành Đạo để độ chúng sanh, nếu tu
ép xác hành khổ thế nầy, trí huệ chưa mở, Đạo quả chưa thành mà đã bỏ thân, rồi
làm sao cứu độ được ai ! Liền đó, Ngài tự phát kiến hai xu hướng sai lầm
và con đường Trung Đạo. Từ đó, Ngài quyết định ăn uống bình thường lại,
đoạn Ngài đến cội cây bồ-đề ngồi tham thiền 49 ngày, thì đắc Đạo “Vô
Thượng Chánh Giác”.
Lần đầu tiên, Ngài trở lại Khổ Hạnh Lâm thuyết pháp “Tứ Diệu Đề” và
chỉ con đường Trung Đạo cho anh em Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm vị nầy
đều chứng quả A La Hán.
Muốn biết thế nào là Trung Đạo, cần phải tìm hiểu “hai xu hướng
sai lầm”. Đó là:
1- Trưởng dưỡng xác thịt:
Sự sai lầm trước hết là lối tu trưởng dưỡng xác thể. Trong đó gồm
có hai phần:
a)-Thứ nhứt, lo bồi bổ vật chất cho cuộc sống cao sang, sung
sướng trong mọi sự ăn, mặc, ở quá với mức bình thường. Cách ăn, uống, ngủ, nghỉ
không biết tiết chế điều độ.
b)-Thứ nhì, nuôi tánh biếng lười, chẳng siêng năng học hỏi và làm
việc. Người xưa từng bảo:“Nhàn cư vi bất thiện” (con người sống nhàn lạc
sung sướng quá thì hay làm việc chẳng lành). Đúng thế, nếu người tu không siêng
năng làm việc, cứ lo ăn uống bồi dưỡng cho xác thể quá sung mãn, thì lòng tham
lam dục vọng càng nhiều, khiến cho tinh thần bạc nhược, trí huệ lu mờ, không
thể nào tu hành mau sáng suốt được.
2- Ép xác hành khổ:
Sự sai lầm thứ hai là lối tu ép xác hành khổ, gồm có hai phần nhỏ:
a)-Một là không ăn, không ngủ hoặc ăn ngủ quá ít.
2)-Hai là làm việc thật nhiều, chẳng kể mưa nắng, quá sức chịu
đựng của xác thể. Bởi xác thân là vật chất, cần phải có ăn uống mới đủ chất
dinh dưỡng nuôi cơ thể. Ví như cái máy, có đủ xăng nhớt mới chạy được. Nếu ta
cung cấp thức ăn cho cơ thể không đủ, hoặc làm việc quá sức, thì xác thân phải
lao tổn, hay nay đau mai ốm. Hễ xác thân bệnh tật rồi thì tinh thần cũng bị yếu
kém theo, không còn đủ sức dõng mãnh, hăng hái để tu học Phật pháp.
II- THẾ NÀO LÀ TRUNG ĐẠO ?
1- Chiết trung tránh sai lầm :
Đã nhận rõ hai xu hướng sai lầm vừa kể trên, Đức Thầy dạy môn đồ
không nên tu theo hai lối cực đoan ấy mà phải chiết trung nó lại. Hành giả
không siêng năng làm việc, học hỏi thì không được; bằng làm việc nhiều quá cũng
không xong. Ăn ngủ ít bị lao tổn thân xác, trí lực yếu kém. Còn ăn
ngủ quá dư thì sanh biếng lười, mê tối. Cho nên, nhà tu nên ăn uống điều
độ, lao động vừa với năng lực của mình, để bảo vệ sức khỏe mới có đủ tâm năng,
trí lực tu học đạo pháp.
2- Thực hiện đúng con đường Trung Đạo:
Để cho sự tu hành đúng theo con đường Trung Đạo, mà xưa kia Đức
Phật đã phát minh và tu đắc Đạo, hôm nay Đức Thầy cũng dạy tín đồ như thế.
Nghĩa là Ngài chẳng hề bắt buộc ai phải tu lối ép xác hành khổ và cũng chẳng
bao giờ bảo môn đồ nào sống cảnh sung sướng, cho đến vấn đề ăn chay, ăn mặn
cũng thế.
Trên đường tiến đạo, nhà tu không nên đi mau quá (thái quá) mà
cũng không bước chậm quá (bất cập). Ví như đoàn người leo núi đi mau quá thì
mệt và hay vấp té nguy hiểm; bằng đi chậm quá thì không kịp đoàn, phải từ từ mà
bước một cách thận trọng, tất sẽ được an toàn.
Đức Thầy cũng không xúi biểu ai phải ăn chay kỳ cố định, hay ép
buộc ai phải ăn chay trường. Ngài để tự nhiên cho trình độ giác ngộ và lòng
nhân của mỗi tín đồ, tiến lên theo khả năng từng người:
“Trong bá gia nhiều ít lòng chay”.
Và:
“Chay được tánh chay tâm mới quí”.( ĐT)
Nhưng có điều quan trọng là mỗi hành giả phải thi hành ba điều cần
yếu sẽ nói sau đây.
III- PHÁP TU CẦN YẾU:
Sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt ít lâu, một hôm Đại Đức Ca
Diếp kêu Tôn giả A Nan hỏi:
-Tôi có nghe trong “Tăng Nhứt A Hàm Kinh” Phật thuyết gồm 37 phẩm
trợ đạo, có chăng ?
Tôn giả A Nan đáp:
-Bạch Đại Đức ! Khỏi cần đến bộ “Tăng Nhứt A Hàm”, chỉ một bài Kệ
bốn câu cũng đủ bao hàm 37 phẩm trợ đạo, bài Kệ ấy như vầy:
“Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý; Thị chư Phật giáo”.
(Điều ác đừng làm, Điều lành gồm làm.
Tự lắng lấy lòng, Phật dạy như vậy !)
Ngày nay Đức Thầy tóm tắt bài Kệ ấy, thành ba câu cần yếu là: Làm
hết các việc từ thiện. Tránh tất cả điều độc ác và Quyết rửa tấm lòng cho trong
sạch.
1- Làm hết các việc từ thiện:
Là làm toàn những việc hiền lành, nhơn đức có ích lợi cho mọi
người và vạn loại chúng sanh; tức là lo tu “mười điều lành” để trả xong
nghiệp nợ và tịnh được Tam nghiệp. Có đáp đền được “Tứ Ân” mới trả xong phần ân
nợ và tạo được vô lượng phước đức:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ
khổ”.
2- Tránh tất cả những điều độc ác:
Là tránh hết những việc làm có thương tổn đến sanh mạng, danh vị
và hạnh phúc của muôn loài, tức là giữ Tám điều răn cấm, đừng cho vi
phạm và tránh “Tam nghiệp”, chừa bỏ mười điều ác. Chính những sự
đó là hột giống của luân hồi sanh tử, là nghiệp nhân sanh ra mưôn ngàn tội lỗi
khác. Người tu có chừa được mười điều ác mới dứt được “duyên trần cấu” và gốc
tội lỗi tiêu tan, thoát khỏi nghiệp báo luân hồi. Cho nên Đức Thầy bảo: “Chúng
sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”. Và:
“Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
3- Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch:
Bởi tâm ý của mỗi chúng sanh thường nghĩ tưởng việc nhơ xấu, tà ác
nên bị vô minh, dục vọng chi phối, như một biển nước đầy cặn cáu. Đức Thầy cho
biết cuộc đời của chúng ta đang sống đây gọi là ác thế ngũ trược (Kiến
trược, kiếp trược, chúng sanh trược, phiền não trược, mạng trược):
“Biển hồng trần lao lý diệu vơi,
Xô đẩy mãi trong vòng ngũ trược”.
Hành giả muốn ra khỏi vòng ngũ trược để về nơi thanh khiết, tất
phải:“Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch”. Cho nên Đức Thầy từng
kêu gọi:“Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ”.
Hễ lòng hết bợn nhơ phiền não thì cảnh thanh khiết và Phật tánh
hiện bày chớ chẳng phải tìm nơi nào khác:
“Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.( ĐT)
Vậy muốn rửa tấm lòng cho trong sạch, ta phải làm sao ?
Theo yếu chỉ PGHH, có hai cách rất đơn giản và quan thiết là hành
Bát Chánh Đạo và Niệm Phật. Vì trong Bát Chánh Đạo, có 6 điều
chánh thuộc về tư tưởng:“Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng,
Chánh Niệm và Chánh Định”. Nếu ai thực hành được sáu điều chánh đó thì lòng sẽ
trong sạch, vào cảnh giới Niết bàn:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm
mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết bàn”.
Còn pháp niệm Phật là để đối trị vọng tâm phiền não;
hễ tưởng nhớ Phật thì không còn tưởng nhớ việc xấu xa tà khúc hay tham sân
si…Nếu niệm Phật được liên tục thì lòng luôn trong sạch thanh tịnh mà vào cõi
“Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
Thêm nữa, hành giả có thi hành được ba điều cần yếu vừa kể trên,
tất được trọn lành, trọn sáng, tức thân tâm thanh tịnh, công đức viên dung. Cho
nên Kinh Phật gọi đó là Tứ Cú Kệ và gồm nhiếp 37 phẩm trợ đạo. Có thể nói ba
điều cần yếu bao gồm cả tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì tu đến đây hành giả diệt
tận gốc phiền não: tham, sân, si nên gọi là pháp tu quan trọng và cấn yếu hơn
hết.
Tổng kết bài “Phật là gì ?”, trước hết Đức Thầy định nghĩa chữ
Phật và vạch ra con đường Trung Đạo, đúng theo chân truyền của Đức Phật Thích
Ca. Chính nó là con đường tắt nhứt và đưa đến “Tối Thượng Nhứt Thừa”, hành giả
không thiên chấp hai bên: hành khổ hay sung sướng, hoặc có không, động tịnh hay
nhân ngã, mặn chay…
“Tu hành nào luận mặn chay,
Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư”.( ĐT)
Sau cùng, Ngài dạy pháp tu quan yếu nói trên, nếu ai kiên trì tu
tập sẽ được thành Đạo giải thoát.
CHÚ THÍCH :
THƯỜNG TỊCH QUANG: Cũng gọi là Pháp tánh Tịnh Độ, là một trong năm điều thanh tịnh
an vui. Có nghĩa người tu khi được vào Tịnh độ thì tâm hồn luôn được an nhiên
trong sáng, không còn bị phiền não trược chi phối. Kinh xưa đã bảo: hành giả
khi vào được Tịnh độ thì năm điều uế trược sẽ đổi lại năm điều thanh tịnh an
vui, như:
1-Kiếp trược chuyển thành “Thanh Tịnh Hải Hội”.
2-Kiến trược chuyển thành “Vô Lượng Quang”.
3-Phiền não trược chuyển thành “Thường Tịch Quang”.
4-Chúng sanh trược chuyển thành “Liên Hoa Hóa Thân”.
5-Mạng trược chuyển thành “Vô Lượng Thọ”.
TỨ ĐẾ: Cũng gọi là Tứ Diệu Đề.
Có nghĩa bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, gồm có: Khổ đề, Tập đề, Diệt
đề, Đạo đề.
“Tứ diệu đề ai có mến ưa,
Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.( ĐT)
TRUNG ĐẠO:
Cũng gọi là Đường Trung Đạo. Có nghĩa con đường chính giữa. Có hai thuyết giải:
1- Theo Khổng Giáo: Trung Đạo là trung dung. Có
nghĩa không thái quá, không bất cập, giữ mực bình thường ở giữa thì mọi việc
đều được thích trung “Thánh Nhơn ghi sách Trung Dung”( ĐT).
2- Theo Phật Giáo: Đạo Trung là con đường Đạo,
là Đạo trung hòa. Có nghĩa không thiên chấp, như: ép xác hành khổ hay sung
sướng hoặc chấp thường, chấp đoạn, chấp đối đãi đôi đầu: có không, động-tịnh,
lành-dữ, tới-lui, ngã-nhân, vui-buồn, thương-ghét,…và không duyên theo thất
tình lục dục. Lìa cả hai bên (là đối đãi) mà phải xem sự lý, dung thông, sắc
không đồng nhứt thể:
“Thắng thất tình giữ vẹn Đạo Trung,
Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.( ĐT)
DỤC VỌNG: Lòng
tham vọng ham muốn vật chất: danh, lợi, tình v.v…Đức Thầy dạy:
“Phải gìn dục vọng lòng tà,
Đừng chìu theo nó vậy mà hư thân”.( ĐT)
MÊ ĐẮM: Say mê đắm đuối theo
lợi danh tài sắc, khó dừng lại được như người bị bịnh ghiền.
TRƯỞNG DƯỠNG:
Nuôi lớn xác thể.
ĂN CHAY: Xem lại chú thích chữ
nầy trong bài Ăn chay, tr. 175-176.
Đăng nhận xét