CÁC BÀI PHÁP-LUẬN CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ PHẬT GIÁO HOÀ HẢO
CHÚ GIẢI : THIỆN TÂM
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
CHÚ GIẢI CÁC BÀI PHÁP LUẬN
(trang 445 – 460 SGTVTB 2004)
XUẤT XỨ VÀ VĂN THỂ
Đây là loạt bài Pháp luận nằm trong Thi Văn
Giáo Lý Toàn Bộ, do Đức Thầy sáng tác năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu
trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết các bài nầy bằng thể văn xuôi
(tản văn), lối thuyết giáo. (Lẽ ra chúng tôi phải soạn bài Thập Nhị Nhân Duyên
trước, nhưng vì theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại là Đức Thầy cho biết bài
Thập Nhị Nhân Duyên và Môn Hoàn Diệt nằm trong Tứ Diệu Đề; nên chúng tôi soạn
bài Đức Phật Đối Với Chúnh Sanh trước. Còn bài Thập nhị Nhân Duyên để sau soạn
chung với bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề”)
Bài 5.- SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐẾ (2)
(Trong
Quyển 4 GIÁC MÊ TÂM KỆ, SGTVTB 2004, tr.138)
Như chúng tôi đã giới thiệu, Đức Thầy giảng
pháp Tứ Diệu Đề hai lần. Chúng ta vừa nghiên cứu qua bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề,
Ngài dạy năm 1942, giờ đây chúng ta cần khảo xét bài Tứ Diệu Đề Ngài viết trong
“Giác Mê Tâm Kệ” năm 1939.
Ôn lại quá trình lịch sử,
Đức Thích Ca khi xưa qua 5 thời kỳ thuyết pháp độ sanh, gồm có 3 tàng Kinh điển
hàm chứa vô lượng pháp môn. Có những pháp, Phật chỉ giảng lược qua một lần,
cũng có những pháp Phật giảng đi giảng lại nhiều lần, như ngay lúc sơ khởi Phật
đã thuyết Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên…Rồi đến thời kỳ Niết
Bàn chót hết, Ngài cũng giảng lại pháp ấy, nhưng Ngài giảng sâu hơn, để phá
chấp cho các hàng La Hán và Bồ Tát. Những Pháp môn Đức Phật áp dụng liên tục
như vậy, quả là những giáo lý căn bản, then chốt trong Đạo Phật.
Thời nay, tới Đức Thầy
cũng thế: Ngài giảng pháp Tứ Diệu Đề 2 lần : Lần 1 trong Quyển 4 (Giác
Mê Tâm Kệ, 1939), lần 2 trong năm 1942; còn Bát Chánh Đạo, Ngài giảng
luôn 3 lần: Lần 1 trong quyển Giác Mê Tâm Kệ (1939), lần 2 trong bài Dặn
Dò Bổn Đạo (1940), lần 3 trong Quyển 6 (1945). Bài pháp Tứ Diệu Đề trong
Giác Mê Tâm Kệ (1939), Ngài lược tả bằng văn vần. Chúng tôi căn cứ vào đây mà
diễn lược ý nghĩa để chúng ta cùng tu học hết hai bài mới thấy chỗ dụng ý của
Ngài. Mở đề cho bàp Pháp luận nầy, Ngài nói:
“Tứ Diệu Đề ai
có mến ưa,
Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.
1-TẬP ĐỀ: Tu
tập sửa đổi.
Ý nói khi mới đặt chân vào
cửa Đạo, nhà tu cần khép mình trong khuôn khổ luật nghi và lo trau sửa thân
tâm, cho đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy. Với công hạnh tu sửa nầy, dù gặp
nhiều khó khăn, cực nhọc ta cũng phải cố gắng trì hành.
“Qui y thì khá làm y,
Giữ lòng thanh
tịnh Từ bi giúp đời”.
Có được như vậy mới chứng
đặng quả vị Phật Thánh, và siêu sanh vào Niết Bàn, Cực Lạc như Ngài đã dạy:
“Chữ Tập Đề
nay đà mở cửa,
Để đem vào khuôn khổ người hiền.
Rán cực lòng một bước đầu tiên,
Sau mới được làm nên Phật Thánh”.
2-DIỆT ĐỀ: Diệt trừ ác nghiệp phiền não.
Ý nói đồng thời với sự
khép mình trong qui điều giới luật, hành giả phải cương quyết diệt trừ tập
nghiệp vô minh phiền não như: Tam nghiệp, tham, sân, si hay thất tình lục dục
hoặc lục căn ô nhiễm lục trần…
Vì những phiền não dục
tình ấy đã kết thành ác nghiệp từ lũy kiếp, làm cho tâm trí ta mê mờ mà phải
chuyển luân trong sáu đường sanh tử, nên nay ta phải cố gắng tiêu trừ tận gốc
của nó mới đặng chứng quả:
“Về thượng
giới cõi Tiên mới bảnh,
Đến Diệt Đề trừ vật dục xưa.
Cõi hồng trần các việc mến ưa,
Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.( ĐT)
3-KHỔ ĐỀ: Chịu đựng sự khó nhọc và kiên nhẫn tu hành:
Ý dạy rằng: Từ lâu chúng
ta đã quen theo việc làm quấy, nói quấy, tưởng quấy (tam nghiệp, thập ác). Giờ
đây ta muốn chuyển hóa nó lại là một điều rất khó. Ngoài ra, còn có bao điều
khổ khó khác, như: pháp nạn, thời gian thử thách, danh, lợi, tình câu nhữ…dễ
làm cho lòng mình thối chuyển. Cho nên nhà tu phải kiên trinh nhẫn nại. “Dù
cho lăn lóc rán kiên trinh”, để vượt qua các trở ngại ấy, hầu tiến tới
mục đích:
“Muốn tâm
tánh ngày kia sáng tỏ,
Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành.
Lòng dục tu thì phải thiệt hành,
Chớ đừng có ham điều sung sướng”.( ĐT)
4-ĐẠO ĐỀ: Tiến
hành Bát Chánh Đạo.
Đại ý Đức Thầy dạy: đồng
thời với sự kiên tâm trì chí, hành giả phải thành tâm thật ý, tiến hành theo
con đường Bát Chánh Đạo sẽ trừ được bát tà (Bát tà: Tà kiến, Tà tư duy, Tà
nghiệp, Tà tinh tấn, Tà ngữ, Tà mạng, Tà niệm và Tà định) và bứng tận gốc vô
minh phiền não, tất được hoát nhiên tỏ ngộ chỗ quang vinh vi diệu vô cùng tận
của Đạo tâm. Ấy gọi là thành quả giải thoát vào Niết Bàn:
“Đức Phật Tổ
nào đâu hẹp lượng,
Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề.
Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
Ôi ! chừng đó mới là mầu nhiệm”.( ĐT)
Sở dĩ pháp Tứ Diệu Đề Đức
Thầy viết năm 1939 có khác bài viết năm 1942, tức là có khác số thứ tự và định
nghĩa không giống nhau là vì thời hạ ngươn mạt pháp, Đạo Phật bị suy yếu “Pháp
môn bế mạt, Thánh Đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy
rối…” Căn cơ chúng sanh cạn hẹp, nghiệp quả dẫy đầy. Lại thêm
nhơn loại đang tiến theo đà văn minh vật chất. Sống trong cảnh khổ mà họ cho là
an vui hạnh phúc, nên khó nhận được sự khổ và gốc sanh ra đau khổ để lo tu hành.
Do đó, Đức Thầy mới tùy
theo cơ duyên và hoàn cảnh hiện tình mà Ngài áp dụng phương thức đối cơ (xứng
hạp với cơ duyên). Khiến họ dễ tỉnh thức quày đầu hướng thiện. Ngài hướng dẫn
người tu từ dễ đến khó, từ hình thức chuyển đến nội tâm (vô vi), tức là từ chỗ
biết kính tin Trời, Phật, qui y Tam Bảo, rồi lễ bái công phu, khép mình vào
luật nghi trai giới, lánh ác hành thiện (Tập đề).Kế tiếp là lo tu sửa tâm ý,
diệt trừ phiền não vô minh và dục vọng: danh, lợi, tình…(Diệt Đề). Để được
thành công kết quả, hành giả phải kiên tâm trì chí và chịu khó nhọc hành trì
mãi cho đến khi thành đạt (Khổ đề). Song muốn tẩy trừ cho sạch tâm trần ô
nhiễm, nhà tu phải tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo (Đạo đề), tất sẽ được
giải thoát sanh tử vào Niết Bàn.
Đến năm 1942, Đạo Phật lần
lần chấn hưng và sau 3 năm tu học Đạo Pháp, trình độ môn đồ Phật tử, cũng được
tiến lên mức độ, Đức Thầy mới viết bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề” theo ý của Đức
Phật, song cũng có đổi số thứ tự là Đạo trước Diệt sau.
Trước nhứt Ngài chỉ cho
mọi người nhận rõ các sự khổ của mỗi chúng sanh đang gánh chịu (Khổ Đề) là do
tập nghiệp vô minh phiền não gây ra (Tập đề). Giờ muốn giải thoát phải trì hành
“Bát Chánh Đạo”( Đạo Đề).
Khi hoàn thành tám điều
chánh thì gốc sanh tử hết, tức được trở về với Bản Lai Thanh Tịnh, Chơn như
Diệu Minh của chính mình. Ấy gọi là Niết Bàn giải thoát (Diệt Đề).
Nhận xét giữa hai bài Tứ
Diệu Đề, Đức Thầy viết năm 1939 và năm 1942, thấy rằng chỉ khác nhau ở phương
tiện sửa đổi cho thích ứng trình độ và căn cơ, hoàn cảnh của mỗi chúng sanh,
chớ chỗ qui túc cũng đồng mục đích giải khổ và thành Đạo như nhau. Nhà tu nếu
nương theo pháp Tứ Diệu Đề nhận rõ sự khổ và nguyên nhân sanh khổ mà tiêu diệt
nó mới đạt Đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Tóm lại, từ xưa chư Phật
ba đời giáo hóa chúng sanh đều dùng pháp Tứ Diệu Đề làm căn bản. Nó vừa mầu
nhiệm vừa thực tế (chân lý), không ai mà chẳng công nhận. Là một môn đồ nhà
Phật, mỗi người trong chúng cần khảo xét tinh tường về bốn chân lý chắc thật
nầy và hăng hái thực hành để độ mình, độ chúng ra khỏi vòng sanh tử mà thành
Đạo giải thoát. Đặng vậy mới chẳng phụ công trình giáo hóa của Đức Phật, Đức
Thầy.
CHÚ
THÍCH :
PHẬT THÁNH: Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ và tỉnh thức. Ở đây chỉ
cho bậc Phật thừa hay tối thượng thừa và hàng Bồ-Tát Đại thừa, hoặc Duyên Giác
Trung thừa. Phật là từ đối lập với từ chúng sanh. Đức Thầy khuyên:
“Rán bắt chước
làm theo Phật Thánh,
Nếu thiệt người thì biết thương người”.
THÁNH ở đây chỉ cho hàng Tứ Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na
Hàm và A La Hán của hàng Thinh Văn Tiểu Thừa. Bởi tùy theo tâm đức và công năng
tu tập pháp Tứ Diệu Đề mà kết quả có rộng hẹp cao thấp khác nhau. Thánh
là từ đối lập với phàm.
TRỪ VẬT DỤC
XƯA: Diệt trừ tận gốc lòng ham muốn các vật chất
danh, lợi, tình hay lục dục. Bởi nó có sẵn trong tâm thức (A Lại Da Thức) của
mỗi người từ vô thỉ tới giờ, nên gọi là xưa. Đây cũng chỉ cho vô minh phiền
não:“Trừ vật dục trì chơn bất hoại”( ĐT).
SỰ GIẢ TẠM: Sự vật không thật có, không bền chắc lâu dài, có được
thời gian rồi tan mất. Ý chỉ cho vạn vật trong thế gian những cái gì thuộc về
hình tướng, như gia tài, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan hay thân xác của ta đều
đi theo định luật: thành, trụ, hoại, không. Chẳng có một vật nào giữ được bền
lâu nên gọi là giả tạm. Cổ nhân từng bảo:
“Thương bấy
người đời không vẫn không,
Ruộng vườn nhà
cửa có như không.
Vợ con cha mẹ
lâu rồi chết,
Danh lợi giàu
sang rốt cuộc không.
Trăm khéo trăm
khôn đều giả tạm,
Ngàn mưu ngàn
kế cũng huờn không.
Suốt đời lo
lắng gầy cơ nghiệp,
Nhắm mắt hai
tay vẫn phủi không”.
Kinh Kim Cang, Phật cũng
bảo:
“Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn
bào ảnh.
Như lộ diệc
như điển,
Ưng tác như
thị quán”.
Tạm dịch:
(Phật rằng: muôn pháp trong đời,
Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
Chiêm bao điện chớp tiếng vang,
Đến như thân xác hơi tàn còn đâu !)
Đức Thầy nay cũng thường
cho biết:“Cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác thân thế lạc luân, của
cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo; những cái sanh, cái
bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác,
rồi đến người khác nữa. Nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai…”
NHỌC NHÀNH: Cũng viết là nhọc nhằn. Có nghĩa vất vả, nhiều việc khó
khăn cực nhọc.
MẦU NHIỆM: Cũng gọi là nhiệm mầu. Có nghĩa sâu kín và huyền diệu vô
cùng, khó diễn tả và nghĩ bàn cho hết được:“ Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng
cạn”.( ĐT) Ý nói người tu Đạo Đề, tức là Bát Chánh Đạo thì tỏ ngộ được
cái chơn lý vô sanh bất diệt (Niết Bàn) thì kết quả mầu nhiệm vô cùng.
Đăng nhận xét