BỬU Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên,

寶玉君明天越元

SƠN Trung Sứ Mạng Đạo Nam Tiền.

山中師道地南前

KỲ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc,

奇年狀再新復國

HƯƠNG Xuất Trình Sinh Tạo Nghiệp Yên.

香出程生造業安

Tổ Đình Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH
Các Bài Viết Liên Quan
Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…
XIN THƯỜNG NIỆM PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Chú giải từ câu 409 – 606 (Quyển V Khuyến Thiện)

CHÚ GIẢI QUYỂN NĂM KHUYẾN THIỆN Chú giải từ câu 409 – 606 (Quyển 5 Khuyến Thiện)


Chú giải từ câu 409 – 606 (Quyển V Khuyến Thiện)

CHÚ GIẢI QUYỂN NĂM KHUYẾN THIỆN

Chú giải từ câu 409 – 606 (Quyển 5 Khuyến Thiện)

CHÁNH VĂN
409.   Quyết trau thân tánh-hạnh cho bền, 
    Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.
    Ao sen báu Tây-phương đua nở,
412.   Chờ chúng-sanh niệm Phật chí tâm. 
    Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm, 
    Được tâm phát Bồ-Đề vững chắc.
    Giữ đừng cho Ma-Vương dẫn dắt, 
416.   Thường nhớ câu Đại-Lực, Đại-Hùng. 
    Thắng Thất-Tình giữ vẹn Đạo-Trung, 
    Trừ Lục-Dục chớ cho ô nhiễm. 
    Thập-tam Ma diệt bằng trí-kiếm, 
420.   Rứt xong rồi vô sự thảnh-thơi.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 409 đến câu 420) :
-Như đoạn trước, đã nhận Pháp môn Tịnh độ là tối thắng và kẻ tu hành có nhiều phước đức mới thành công thì ngay bây giờ chúng ta nên cố chí tu sửa thân tâm và hạnh nết cho được tốt lành. Đồng thời lo đền đáp “Tứ Đại Trọng Ân”, bởi đáp Tứ Ân cùng sự niệm Phật không thể tách rời nhau:“Lục tự Di Đà giữ Tứ Ân.”(Nhẫn đợi Thời cơ). Hoặc là:“Biết câu lục tự gìn đàng tứ ân.”(Khuyến Thiện, Q.5). Và, vì có đáp Tứ Ân mới được vô lượng phước đức và trả xong nợ thế, mà có trả xong nợ thế (dứt nghiệp), tâm hành giả mới đồng hòa với Tâm của Phật Thánh:“Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.”(Sấm Giảng, Q.3).
-Còn về sự niệm Phật thì hành giả phải kiên tâm trì niệm một cách chí thành chí thiết mới mau kết quả. Theo các Kinh xưa cũng đồng cho biết: Khi có người phát tâm tu môn Tịnh Độ thì nơi ao thất bảo bên cõi Cực Lạc, trổ sẵn một hoa sen; chờ khi nào người ấy niệm Phật được chí tâm, thuần thục và đền xong nợ thế, thần thức vãng sanh về gá vào hoa sen đó mà nở ra thân liên hoa:“Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc Quốc, Hưởng công niệm Phật rất yên lành.”(Cho cô Năm Võ thị Hợi, Bạc liêu).
-Song song với pháp tu tha cứu tha độ (Tịnh), Đức Giáo Chủ còn dạy tín đồ kiêm tu pháp tự tu, tự độ (Thiền). Bởi có tự tu thân tâm được thuần chánh ma quỉ mới khiếp oai và Thần Thánh nể vì. Đồng thời khởi lòng giác ngộ vững chắc, để đạt đến ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác (Phật). Điều kiện tất yếu là nhà tu cần giữ gìn cẩn trọng, đừng để bọn Ma vương khuấy nhiễu, bởi chúng có đủ trăm mưu ngàn chước, nếu chẳng đột nhập vào nội tâm để xúi giục thì chúng cũng bầy vẻ đủ màn đủ cảnh bên ngoài để quyến rủ người ta. Cho nên để hàng phục được chúng ma, Đức Thầy dạy mỗi tín đồ rèn luyện cho mình có một ý chí đại hùng đại lực.
-Có được vậy, ta mới điều chỉnh đặng thất tình lục dục và trì hành đúng theo con đường Trung Đạo. Song muốn hàng phục chúng ma một cách dễ dàng hơn, hành giả có thêm kiếm huệ, tức là trí sáng, mà muốn có được trí sáng, ta cần phải phá vô minh hoặc tu Tam học (Giới Định Huệ). Khi trí huệ được sáng mầu và dẹp xong thất tình lục dục, nhà tu sẽ tự do giải thoát. Bấy giờ ta muốn tới cõi Cực lạc hay bất cứ cảnh giới nào cũng đều tự tại vô ngại:

Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.”
  (Hiếu Nghĩa Vi Tiên)

CHÚ THÍCH :
TÁNH HẠNH: Tánh là bản chất trong lành, cái không thể thay đổi bên trong của con người. Hạnh là nết na ăn ở tốt đẹp bên ngoài. Nói chung là cái tánh đức và nết hạnh của mỗi người. Đức Thầy có câu:
    Hạnh là đức tánh phải không ?
    Ở cùng chòm xóm đừng cho mất lòng”.
(Sấm Giảng,Q.3)
ƠN NGHĨA: Cũng viết là ân nghĩa. Ân là ơn; Nghĩa là việc làm theo lẽ phải, đường ngay. Ý nói việc đối xử có cảm tình nồng hậu giữa nhau. Ví dụ: Ân đền nghĩa trả. Đây chỉ cho “Tứ Ân”, dù ai cũng phải thọ và cũng có bổn phận phải đền đáp:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn.”(Cho Ông Cò Tàu Hảo).
CHÍ TÂM: Lòng rất thành khẩn thiết tha. Niệm Phật chí tâm là niệm một cách thiết tha thành tín, gom hết tâm tư, trí não vào chỗ niệm để nhớ Phật thiết tha như kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu, và có chuyên tâm được như vậy, mới kết quả chắc chắn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy:“Chí tâm niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật diệt được tội nặng tám mươi kiếp sanh tử trọng tội”    .
Ông Thanh Sĩ (một tín đồ PGHH) có luận lòng chí thành niệm Phật sẽ được lợi ích:
     “Tất cả tấm lòng thành,
     Gồm vào một niệm Phật.
    Khi niệm ấy phát lên,
     Vang rền trong trời đất.
     Rừng mê cháy sạch không,
     Biển khổ lấp bằng mặt.
     Chỉ trong cái hoát nhiên,
     Thấy rõ Tam thế Phật”.
Nếu người niệm Phật được như thế đã kiến diện được Phật Tâm thì lo gì cảnh Tây phương chẳng tới.
QUỈ KHIẾP THẦN KHÂM: Quỉ ma sợ hải không dám phá khuấy và Thần Thánh khâm phục kính nể.
Truyện xưa kể có vị Quốc Vương thống lãnh một quốc độ. Bấy giờ trong nước mắc phải  nạn, có năm con quỉ ban đêm thường bắt người hút máu nên số dân bị chết dần. Nhà Vua ra lịnh cho các phù thủy dùng bùa phép ếm đối, cúng đưa, nhưng cũng không kết quả. Hôm nọ, Vua tự xét: tại mình thiếu tu, kém đức nên trong nước mới gặp nạn như thế. Vua liền lo trai giới tu thân và truyền dạy toàn dân đều biết niệm Phật làm lành, răn chừa mười điều ác…
Sau một thời gian, Vua thấy năm con quỉ hiện đến quì khóc trước sân chầu và tâu rằng: “Từ ngày sắc lịnh của Ngài truyền ra, dân chúng đều biết tu hành, khử tà tránh ác, nên chúng tôi chẳng dám hút máu ai nữa mà phải chịu đói khổ. Nay mong nhờ lịnh Vua mở lòng từ ái cứu khổ chúng tôi”. Vua nghe chúng quỉ tâu, động lòng thương liền phán: “Từ đây cứ mỗi ngày các ngươi hãy tới đây ta sẽ cắt máu ta cho các ngươi dùng một lần”. Nhưng trước khi cắt máu, Vua thuyết Pháp cho chúng quỉ nghe. Nghe pháp xong, chúng cải hối và thoát được kiếp quỉ, sanh lên cõi người. Từ đó trong nước không còn nạn quỉ hút máu người.(Nhà vua là tiền thân của Phật Thích Ca, còn 5 con quỉ kia là tiền thân của 5 anh em Kiều Trần Như.)
-Còn việc Thần Thánh khâm phục, trong Luật Sa Di có chép:
Trong ngôi chùa nọ, có ba thầy trò nhà sư ở tu. Sư hành đạo rất chín chắn, mỗi khi thiền định đều biết rõ mọi việc xa gần. Một buổi sáng, Sư còn đang tịnh tọa trong liêu, hai đệ tử trò chuyện trước sân chùa. Sư chợt thấy các vị thần hội chung quanh hai người để tử rất đông. Kẻ quì, người ngồi nghe hai người nói chuyện với vẻ nghiêm trang cung kính. Mấy phút sau, thấy các vị ấy phun nước bọt tỏ thái độ khi dể rồi bỏ đi. Khi nhà Sư xuất định, kêu hai tiểu tăng hỏi:
– Lúc nãy hai ngươi nói chuyện gì trước sân chùa ?
Hai đệ tử biết không thể dấu thầy được nên bạch:
– Lúc đầu chúng con bàn luận bài pháp mà Thầy đã giảng dạy hôm qua, nhưng sau đó chúng con bàn đến việc thế tục…
Sư liền kể việc ông vừa thấy cho hai đệ tử nghe và khuyên nên hành đạo tinh tấn, giới hạnh trang nghiêm, để ba nghiệp sớm thanh tịnh.
Xét theo đây, đủ biết người tu khi thân, khẩu, ý được thuần chánh thì quỉ thần khâm phục, kính nhường. Đức Thầy hằng khuyên nhắc:
    “Định thần dẹp hết tà tâm,
     Hườn lai bổn tánh thần khâm quỉ nhường”.
(Thu Đã Cuối)
TÂM PHÁT BỒ ĐỀ: Cũng gọi là “Phát Bồ Đề Tâm”. Có nghĩa: phát tâm hành đạo giác ngộ (Phật đạo) để đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Song muốn có được tâm Bồ Đề thì phải có lòng Đại bi mà duyên khởi từ hột giống lòng nhơn (tình thương).
Thuở xưa, Phật có kể lại lần đầu tiên Ngài khởi lòng nhơn:
Từ vô lượng kiếp về trước, tiền thân Ngài có lần mang thân quỉ sứ ở cảnh giới Địa ngục. Một hôm Quỉ sứ tiền thân Ngài và một quỉ sứ bạn đẩy xe cho quỉ sứ chúa đi, quỉ bạn vấp chân làm cho xe nghiêng, khiến Quỉ Chúa muốn té, nó liền nổi giận nghiềm xà mâu đâm quỉ bạn. Quỉ tiền thân Phật trông thấy động lòng thương (lòng nhơn) khuyên cản. Quỉ Chúa liền trở xà mâu đâm quỉ tiền thân Phật chết.
Nhờ khởi lòng nhơn ấy, quỉ tiền thân Phật thoát kiếp địa Ngục và được sanh làm người. Từ độ đó, Ngài tu tiến lần lần, trải qua nhiều kiếp vẫn phát huy lòng Từ Bi giác ngộ ấy mãi mãi. Đến kiếp chót là Thái tử Sĩ Đạt Ta, rồi cũng một lần, Ngài theo Vua cha (Tịnh Phạn Vương) ra đồng dự lễ Hạ Điền. Ngài nhìn theo các đường cày, thấy chim chóc đua nhau mổ cắn các loại côn trùng; đàng kia là anh thợ săn đang rình bắn những con chim ấy…Ngài cất tiếng buồn thương: Như vậy thì tất cả chúng sanh trong cõi trần chỉ biết mạnh hiếp yếu, giết hại lẫn nhau mà ăn! Ngài quá xúc động từ tâm nên quyết chí tìm ra Chánh Đạo hầu giải khổ cho vạn loại chúng sanh.
Xét theo đây, đủ thấy người đã phát tâm Bồ Đề, nhứt định sẽ đưa đến thành công. Đức Thầy cũng đã xác nhận:“Lòng Bồ Đề sắt đá dám kình.”(Diệu Pháp Quang Minh).
MA VƯƠNG:Xem chú thích tr. 56 Tập 1/3.
ĐẠI LỰC ĐẠI HÙNG: Xem chú thích chữ “đại hùng” tại tr. 248-249 Tập 3/3.
THẤT TÌNH: Bảy mối tình sẵn có trong mỗi người: Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ai (thương), Lạc (vui), Ái (yêu), Ố (ghét), Dục (muốn). Thắng thất tình là chế ngự, điều phục hay thống trị được bảy mối mê tình nói trên. Người xưa từng bảo bảy cái tình ấy như bảy con yêu ở núi Mai Sơn, thường hay xúi giục người làm điều sai quấy.(Thất tình bổn thị Mai Sơn quái).
ĐẠO TRUNG: Con đường chính giữa. Có hai thuyết giải:
1-Theo Khổng Giáo, Đạo Trung nói cho đủ là Đạo Trung Dung. Có nghĩa: Không thái quá, không bất cập, giữ mực thường ở giữa thì mọi việc đều được thích trung.
2-Theo Phật Giáo, Đạo Trung có nghĩa là con đường Trung Đạo: Không trưởng dưỡng xác thịt quá sung sướng, và cũng không ép xác hành khổ thái quá; không thiên chấp hai bên, tức không chấp có, chấp không, không chấp lành, chấp dữ, không vui, buồn, thương, ghét và chẳng duyên theo thất tình lục dục.
LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn mê nhiễm. Theo Nho Giáo giải là: Sắc trang, Tài lợi, Danh vị, Tư vị, Hư vọng và Tật đố.
Theo Phật học giải là:
1)-Sắc dục: Thấy những màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng hoặc thấy sắc đẹp của kẻ nam, người nữ mà khởi lòng ham muốn say đắm.
2)-Hình mạo dục: Thấy hình tướng tốt đẹp, mặt mày xinh lịch mà đem lòng say mê đắm đuối.
3)-Oai nghi tư thái dục: Thấy dáng điệu đi, đứng ngồi nằm cùng nụ cười của kẻ khác mà khởi lòng ham muốn say đắm.
4)-Ngữ ngôn âm thinh dục: Nghe người nói lời khéo léo êm ngọt rồi thích ý, hoặc nghe ca hát bổng trầm thanh nhã mà khởi lòng ham muốn say đắm.
5)-Tế ngượt dục: Thấy da thịt mịn màng trơn láng của người mà khởi lòng ham muốn say đắm.
6)-Nhơn tướng dục: Thấy tướng trạng đáng yêu của kẻ nam người nữ mà khởi lòng ham muốn say đắm.
Lục dục lại còn giải là sáu sự ham muốn của lục căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý khi va chạm với sáu trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh lòng ham muốn ô nhiễm.
Ô NHIỄM: Cũng viết là nhiễm ô. Có nghĩa: nhuộm đen, như đem một vật gì trắng sạch bôi lọ hoặc nhuộm cho đen xấu lại. Đức Thầy từng khuyên:
    Chớ nhiễm trần hoàn đượm phấn son,
     Chiêm bao cuộc thế chẳng thường còn”.
(Cho Cô Năm Võ thị Hợi)
THẬP TAM MA: Mười ba con ma, gồm có 7 tình và 6 dục, đã giải trên. Vì nó là những mê tình ẩn náu trong tâm tánh từ lâu, thường xúi giục Thân Khẩu Ý gây tạo các điều nhơ xấu tội lỗi.
TRÍ KIẾM: Cũng gọi là Trí huệ hay Gươm huệ. Vì trí huệ rất sáng suốt và có tánh cách sắc bén, đoạn trừ được vọng tâm phiền não và thất tình lục dục, nên ví nó như lưỡi kiếm. Truyện Quan Âm Thị Kính có câu:“Nầy gươm trí huệ mài đây, Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rời”.
Đức Thầy cũng từng dạy :
    “Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
 Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.
(Hiếu Nghĩa Vi Tiên)

  CHÁNH VĂN
421.   Biển hồng-trần lao-lý diệu vơi, 
     Xô đẩy mãi trong vòng Ngũ-Trược. 
    Thân hôi tanh muỗi, ruồi đón rước, 
424.   Thêm nhọt-u, ghẻ lác, phung cùi. 
     Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui, 
     Là Kiếp Trược, Ta xin kể trước.
     Dòm việc quấy ngắm điều bạo-ngược, 
428.   Mắt trông vào những chỗ đê-hèn. 
    Nào được xem cảnh báu đài sen, 
     Nghĩa Kiến Trược giải ra như vậy.
     Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây, 
432.   Thiết mưu-kế toan bề thắng-thối.
     Ghi thù oán chưởng điều đáp đối,
     Nên ma Phiền-Não Trược đắm say.
     Chuyển-luân trong nhân-vật các loài, 
436.   Căn mờ-ám làm điều dại-dột. 
     Chúng-Sanh Trược, Ta đà kể nốt,
     Còn thứ năm là Mạng Trược trung. 
     Số giàu-sang, họa-phước, bần-cùng, 
440.   Giàu hoa-nguyệt thung-dung cẩu-thả. 
     Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ, 
     Sang oai-quyền, hối-lộ gần xa. 
    Nghèo a-dua, bợ-đỡ nịnh tà,
444.   Khó trộm-cướp cũng là nhơ xấu.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 421 đến câu 444) :
-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ cho biết: cõi đời chúng sanh đang sống dẫy đầy sự nhơ nhớp gian khổ, không sao kể xiết. Thế mà chúng sanh cứ cùng nhau chen lấn, tạo nghiệp trần mê để rồi phải luân chuyển mãi trong ác thế ngũ trược.
-Cái trược thứ nhứtkiếp sống không trong sạch: Đã tạo ra xác thân tứ đại giả hợp, chứa đầy sự dơ bẩn thúi hôi, do cửu khiếu tiết ra; lại còn những chất máu mủ bởi ghẻ lác gây nên khiến lũ ruồi muỗi chực cơ bu nút. Trọn một cuộc đời con người, luôn thấy bực mình khó chịu, chẳng lúc nào được an vui thư thái.
– Đến cái trược thứ nhìsự thấy dơ bẩn. Bởi trong xã hội loài người, biết bao cảnh trạng tà quấy, ác hung, xấu xa đê tiện thường diễn ra trước mắt mỗi ngày. Do sự thấy trược loạn đó, tâm con người trở nên điên đảo, nhận ngụy làm chơn, gặp tà tưởng chánh, nên không hề kiến nhận được sự quí mầu của sen báu nơi Cực lạc.
-Cái trược thứ batư tưởng mê lầm không sạch: Con người vì quá say đắm cõi trần nên mang lấy năm cái ngu muội (Ngũ độn sử) vào thân; tức là lòng tham lam, sân hận, mê si, kiêu mạn và nghi lầm. Chính nó xúi giục con người mãi tạo nghiệp khổ đau trong sự lo toan thắng thối, gây thù kết oán, cứ thế rồi vay trả, trả vay chưa bao giờ dứt.
-Tới cái trược thứ tưgây tạo xác thân không sạch: Bởi gốc từ mê si vọng hoặc, chúng sanh phải luân hồi trong sáu nẻo, mang lấy xác thân không sạch và tiếp tục ăn uống, chung sống những nơi nhơ bẩn.
-Đến cái trược thứ nămmạng sống chẳng trong sạch: Đời sống của mỗi chúng sanh ở cõi Ta Bà không một ai được trường cửu và thanh tịnh an vui. Kẻ giàu thường kiêu xa dâm dật, tánh tình tham lam bất chánh, đua đòi theo vật chất phù hoa, uy quyền danh vọng. Còn hạng nghèo thì nịnh tà gian xảo, trộm cướp lận lường, làm những điều xấu xa để tiện.
-Nhận xét như trên, giúp ta thấy được cõi đời chẳng qua là một cái biển đầy khổ đau, dơ bẩn. Chỉ có cõi Tịnh Độ mới là trong sạch an lành, nên Đức Thầy khuyên mọi người tu Pháp môn niệm Phật để được vãng sanh về cõi ấy. Khi về đến đó thì năm điều trược khổ nói trên sẽ được đổi lại thành năm điều thanh tịnh an vui:
1/-Kiếp trược chuyển thành thanh tịnh hải hội.
2/-Kiến trược chuyển thành vô lượng quang.
3/-Phiền não trược chuyển thành thường tịnh quang.
4/-Chúng sanh trược chuyển thành liên hoa hóa thân.
5/-Mạng trược chuyển thành vô lượng thọ.

CHÚ THÍCH :
HỒNG TRẦN: Xem lại chú thích tại tr. 43 tập 1/3.
LAO LÝ: Xem chú thích tại tr. 34 và tr. 76 Tập 2/3.
DIỆU VƠI: Cũng viết là diệu vợi. Có nghĩa xa thẳm mênh mông.
NGŨ TRƯỢC: Năm điều dơ bẩn ở cõi trần, mà con người chẳng một ai tránh khỏi, gồm có: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược và Mạng trược. Xưa, Đức Phật từng nói:“Ta bà là một cõi ác lụy, choán đầy năm thứ trược. Song vì nguyện lực và lòng từ bi nên Ta  thị hiện, để giáo hóa chúng sanh được biết cõi Tịnh Độ của Đức A Di Đà hầu nguyện sanh về đó”.
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy:“Chư Bồ Tát tu mãi đến khi thành Phật không sa vào các lối ác (Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh), thần thông tự tại, thường nhớ những đời trước của mình. Trừ ra khi nào vì bổn nguyện sanh vào cõi ngũ trược ác thế thì thị hiện như chúng sanh ở cõi ấy, tức là chẳng giữ phép thần thông túc mệnh, cũng đồng chịu luật sanh, lão, bịnh, tử như chúng sanh.”
KIẾP TRƯỢC: Đời sống dơ bẩn không sạch. Bởi thời gian trong kiếp trụ, con người bị giảm lần tới hai vạn tuổi trở xuống thì đời sống trở nên dơ bẩn. Mỗi thân con người đều chịu bốn cái trược: Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược và Mạng trược.
ĐÊ HÈN: Thấp thỏi xấu xa.
KIẾN TRƯỢC: Sự thấy biết dơ bẩn. Thời mạt thế, tà kiến của chúng sanh thạnh khởi, làm hoặc-loạn thế gian khiến cho sự thấy phải điên đảo, như: thấy tà nhận chánh, thấy dơ nhận sạch. Có năm cái thấy điên đảo, gọi là Ngũ Lợi Sử:
1-Thân kiến: chấp cái thân nầy có thật.
2-Biên kiến: Cái thấy chấp một bên, như chấp thân nầy còn hoài hay chấp thân nầy một khi chết là hết.
3-Tà kiến: Cái thấy tà vạy, không nhận ra chơn lý, không tin nhân quả luân hồi.
4-Kiến thủ kiến: Chấp chỗ tà vạy và sự thua kém của mình là hơn người.
5-Giới cấm thủ kiến: Cái thấy chấp những giới cấm phi lý như cho rằng lấy tro bôi mình hay ép xác hành khổ là được đắc đạo.
THIẾT MƯU KẾ: Bày chước nầy kế nọ.
THẮNG THỐI: Hơn thua cao thấp.
CHƯỞNG: Gieo trồng.
ĐÁP ĐỐI: Đáp qua đối lại bằng lời nói hoặc hành động, không ai chịu thua ai, lòng luôn tính toán, sắp đặt những gì để đối trả giữa nhau.
PHIỀN NÃO TRƯỢC: Các thứ “hoặc” dơ bẩn, như: Tham, Sân, Si; nó thường làm cho thân tâm phiền muộn não loạn. Các thứ “hoặc” dơ bẩn ấy làm cho con người ngu độn tức là “Ngũ độn sử: 1-Tham lam 2- Sân nộ 3- Mê si 4- Mạn (tánh cống cao ngã mạn) 5- Nghi (lòng nghi ngờ đối với các thiện pháp)”.
CHUYỂN LUÂN: Luân hồi chuyển tiếp (xem thêm phần chú thích chữ “Luân hồi” tại tr. 36 Tập 1/3).
CĂN MỜ ÁM: Căn gốc tối tăm. Bởi mỗi chúng sanh từ vô minh (mê si) mà sanh ra và càng luân chuyển trong các loài sự mê tối ấy càng dày thêm.
Đức Thầy có câu:
    Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
    Màn vô minh che mờ căn t”.
(Khuyến Thiện, Q.5)    
CHÚNG SANH TRƯỢC: Chúng sanh sống trong thời kiếp trược, do quả báo của phiền não và kiến trược mà thành ra sống cuộc đời dơ bẩn, phước ít, khổ nhiều.
MẠNG TRƯỢC: Mạng sống dơ bẩn, ngắn ngủi. Cũng do kết quả của phiền não trược và kiến trược mà tuổi thọ con người sống thời kiếp trược một ngày một giảm bớt đi và không lúc nào được trong sạch an vui.
HOA NGUYỆT: Bông và trăng. Ý nói sự tư tình giữa trai gái, thường ngắm trăng xem hoa. Đây chỉ người có tánh dâm đảng.
THUNG DUNG: Thảnh thơi, thong thả.
CẨU THẢ: Dối, bừa bãi, lôi thôi, chẳng kỹ lưỡng cẩn thận. Ví dụ: tính cẩu thả, làm ăn cẩu thả.
HỐI LỘ: Lo lót, đút nhét, dâng tiền của một cách kín đáo cho kẻ có quyền để nhờ cậy che chở hoặc ban ân huệ. Ví dụ: hối lộ cho cơ quan, hoặc quan ăn hối lộ.
A DUA: Cũng gọi là a dua. Có nghĩa hùa theo, nịnh bợ theo kẻ mạnh để nhờ nhõi hay lấy lòng.
BỢ ĐỠ: Nịnh hót, tâng bốc người để lấy lòng hay nhờ nhõi.
NỊNH TÀ: Hùa theo một cách tà vạy, không ngay chánh; dùng lời lẽ tâng bốc người để gièm siểm ám hại kẻ khác.

CHÁNH VĂN
445.    Nguyện cùng Phật dứt duyên trần-cấu, 
    Phải trừ thêm Thập-Ác huyễn thân.
     Khuyên nữ nam suy-nghiệm ân-cần, 
448.   Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng-Thiệt. 
    Với người này dùng lời tha-thiết, 
     Đến kẻ kia đâm-thọc cho gây. 
    Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy, 
452.   Dùng sự thiệt giải-bày tâm trí.
     Người choảng nhau tại mình gia vị,
    Mà cũng không hưởng được lợi-danh.
    Sau rõ ra chúng lại ghét-ganh, 
456.   Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 445 đến câu 456) :
-Trong các đoạn trước Đức Giáo Chủ đã luận giải những nỗi nhớp nhơ đau khổ trong cõi Ta bà và các điều an vui trong sạch ở cõi Cực lạc để khuyên mọi người sớm trì hành Pháp môn niệm Phật. Song muốn cho sự vãng sanh được kết quả chắc chắn, mỗi người nên phát nguyện trước chư Phật để quyết tâm rứt bỏ những nghiệp duyên ràng buộc trong cõi Ta Bà, tức là diệt trừ mười điều ác. Bởi chính nó là nguyên nhân tạo ra xác thân giả tạm, cũng là mối dây trói buộc chúng sanh dẫn từ kiếp nầy qua kiếp khác, luân chuyển mãi trong vòng sanh tử. Thế nên, Ngài giác tỉnh thiện tín hãy suy xét lo âu, ngăn chừa thập ác cho kỳ được.
-Trong 10 điều ác nói trên, phát xuất từ Tam nghiệp: Thân, Khẩu, Ý. Ở đây Đức Giáo Chủ luận giải điều ác thứ nhứt trong khẩu nghiệp trước hết. Ngài cho biết về hành trạng của ác lưỡng thiệt là đến người nầy nói xấu người kia, rồi đến người kia nói xấu lại người nầy, đâm thọc thêm bớt khiến cho đôi đàng hiểu lầm nhau.
-Làm như thế sẽ đưa đến thảm cảnh: chia rẽ hơn thua, đôi chối và ấu đả lẫn nhau “…phá tan sự đoàn kết và tình thân yêu giữa nhân loại”. Rồi đôi đàng ôm mối hận thù, hiềm khích mãi mãi. Hậu quả có thể dẫn đến đời con cháu và qua đời sau và đời sau nữa.
-Người vi phạm tội ác nầy sẽ tự rước lấy tai hại: Khi họ đã hiểu lời nói hai chiều của mình, chẳng những bị mọi người nhờm ghét mà còn gánh chịu hậu quả vô cùng thảm khổ, như trường hợp Thân Công Báo trong truyện Phong Thần. Vì muốn ngăn chận cuộc hưng Châu phạt Trụ của Khương Thượng, Báo lặn lội non nầy động nọ, dùng lời đâm thọc thêm bớt gây phẫn uất  cho các Tiên gia phải bỏ ngôi xuống núi rồi phạm giới sát mà chết, hồn vào bảng Phong Thần. Riêng Thân Công Báo đến ngày tàn, hồn xác đều bị đánh đọa một cách thảm thiết để đền trả tội lưỡng thiệt.
-Nếu nhà tu biết dùng lời thành thật chánh đáng đối xử với mọi người tất trừ xong ác luỡng thiệt và được lợi ích là trong xóm ấp không còn xảy ra cuộc cãi vã, hơn thua; ngoài xã hội chẳng hề có sự đối chọi hay gây thù kết oán. Kinh Chánh Niệm Xứ có chép:“Người nào chẳng nói hai lưỡi, tất được hưởng quả báo tốt, bè bạn, thân quyến, anh em, vợ con và tôi tớ thường được gần gũi thuận hòa, vững vàng chắc chắn chẳng kẻ nào phá hoại được”. Ngoài ra, còn không ai dám khinh rẻ và được giải thoát vòng nghiệp báo luân hồi,

CHÚ THÍCH :
DUYÊN TRẦN CẤU: Duyên là duyên do, là mối dây liên lạc từ thời quá khứ, chuyền qua thời hiện tại giữa hai người hoặc nhiều người. Trần cấu là bụi đất đóng dơ, nghĩa bóng là chỉ cho các phiền não.
Dứt duyên trần cấu là dứt hết duyên trần không còn cấu tạo, tức là dứt được các phiền não: thấy lầm, nghĩ lầm (kiến hoặc, tư hoặc). Có như thế mới gọi là rửa sạch tâm trần ô nhiễm để đạt đến thanh tịnh giải thoát hay vãng sanh Cực lạc.
THẬP ÁC: Mười điều ác, do ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý sanh ra, gồm có: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm, Lưỡng thiệt, Ỷ ngôn, Ác khẩu, Vọng ngữ, Tham lam, Sân nộ, Mê si.
HUYỄN THÂN: Xem lại tr.271-272 Tập 3/3 nầy.
SUY NGHIỆM: Xem lại tr.47 Tập 3/3 nầy.
ÂN CẦN: Xem lại tr. 230 Tập 2/3.
LƯỠNG THIỆT: Phạn ngữ: Pisunâvâcâ, có nghĩa hai lưỡi (hai chiều) chỉ lời nói đâm thọc, tức là lại người nầy nói thế nầy, lại người kia nói thế khác, thêm bớt đủ cách, cốt làm sao cho hai bên xích mích, thù oán nhau. Lưỡng thiệt là một trong bốn điều ác của Khẩu nghiệp, nó cũng gọi là “ly gián ngữ” đối với “hòa hiệp ngữ”.
Truyện Thiết Đường có chép: thời Thập Bát phản vương, trong nhóm anh hùng thích huyết thề nguyền kết bạn với nhau, có Đơn Hùng Tính, Giảo Kim và La Thành…Bấy giờ Giảo Kim không vừa ý Hùng Tính và La Thành, ý muốn cho hai người đánh lộn nhau chơi cho bỏ ghét. Nên nhân buổi tiệc có đủ mặt các anh hùng, Giảo Kim đến to nhỏ với Hùng Tính: La Thành nói anh ỷ lớn hiếp nó, hôm nào nó sẽ bứt râu anh hết cho coi. Rồi vài phút sau Giảo Kim đãi rượu đến gần La Thành kề tai bảo nhỏ: Anh Tính nói em là thằng con nít hỉ mũi chưa sạch, đừng ỷ tài cao phách lối, bữa nào ảnh bóp mũi em nghẹt thở.
Do đó, Hùng Tính và La Thành bắt đầu lườm nhau, khi mãn tiệc hai người gây chuyện rồi ấu đả với nhau quyết liệt, anh em can lắm mới thôi, nhưng từ ấy hai người xem nhau như cừu địch.
Thời gian sau, nhóm anh hùng kéo về đầu nhà Đường, riêng mình Hùng Tính còn ở với Vương Thế Sung. Vì đánh không lại nhà Đường, nên Tính mạo hiểm đến thích khách Đường Thế Dân. Bọn anh hùng nghĩ tình bạn hữu nên lờ đi, chỉ mình La Thành bắt được Tính và vâng lịnh Vua Đường đem Tính ra xử trảm.
-Xem đây đủ biết một lời nói đâm thọc gây ra thảm trạng biết bao, cho nên người tu phải chừa hẳn ác lưỡng thiệt. Trong “Luận Thành Thật” có nói:“Lòng lành dạy bảo, tuy họ có biệt ly nhưng mình không mắc tội. Còn đem lòng ác dùng lời hai lưỡi xúi người đánh lộn thì mắc tội rất nặng, đọa trong ba đường ác và đời đời bị quả báo”.
HƯƠNG ĐẢNG: Làng xóm. Ý chỉ mọi người chung quanh trong thôn ấp.
CHOẢNG: Đánh lộn, đối chọi nhau.
GIA VỊ: Thêm mùi vị, như người làm bếp nấu canh phải để thêm đường, muối, tiêu, hành cho canh được ngọt. Đây ý chỉ dùng lời thổi phồng lên, chuyện ít nói ra nhiều, chuyện một nói thành mười, thành trăm.
CHIÊU CẢM: Tự rước lấy, tự vời đến. Ý nói người làm ác thì rước lấy quả dữ.
   CHÁNH VĂN
457.   Ác thứ nhì Ỷ-Ngôn chất-chứa,
    Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày. 
    Của tiền nhiều tự phụ rằng hay, 
460.   Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
    Lắc-léo chi có ba tấc lưỡi, 
    Quan ỷ khôn mạt-sát dân ngu. 
    Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù,
464.   Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt.
    Khuyên bá-tánh giữ-gìn cho chặt, 
    Đừng để cho quỉ dắt đường cong. 
    Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng, 
468.   Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
    Chúng vô phước đời này dốt-nát, 
    Người khôn-ngoan chỉ-dẫn mới là.
    Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra, 
472.   Đừng bao-biếm mới là nhơn-thiện.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 457 đến câu 472)
-Đến tội ác thứ nhì   là những lời ỷ thị khinh chê và xài xể kẻ thấp kém hơn mình. Về hành trạng của ác nầy, mỗi khi có ai lầm lỗi thì dùng lời mắng nhiếc thậm tệ, như: hạng giàu sang thường ỷ vào tiền của, khinh khi, trách mắng kẻ nghèo hèn; hạng làm chủ hay ỷ vào quyền thế, xài xể, giày bừa tôi tớ.
-Xét ra chỉ có ba tấc lưỡi mà người ta dùng đủ lời lẽ gian ngoa, xảo quyệt để hạ nhục số người thua kém hơn mình. Hạng quan lại thường ỷ mình trên thế và có học thức, chà đạp lê dân. Trái lại, cũng có số bần hèn ỷ mình khôn lanh nói những điều xảo trá, không đúng sự thật. Nhìn trạng huống nói trên Đức Giáo Chủ rất đau lòng xót dạ !
-Vậy để diệt trừ ác Ỷ ngôn, Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp mọi người nên gìn giữ lời nói của mình cho chính đính, đừng để kẻ tà quấy dẩn dắt ta vào con đường bất chánh. Mỗi khi đối đáp với bất cứ một ai cần nói những lời hiền lành đạo đức và lời lẽ ấy phải thành thật, phát xuất tự đáy lòng. Nhứt là hãy xem mọi người, dầu kẻ sang, hèn hay cao thấp, trí, ngu đều bình đẳng; bởi ai ai cũng có đủ tâm hồn, thể xác và suy biết như nhau.
-Sở dĩ có số người nghèo hèn, tối dốt là vì trong nhiều tiền kiếp họ ít tạo phước duyên nên kiếp nầy phải thiếu kém vậy thôi. Là người cao sang, trí thức ta nên thương hại họ và chỉ dạy cho các điều hay lẽ phải. Đối xử với họ, cần nói lời dịu hòa nghiêm chỉnh, không nên chê đùa khinh ngạo. Đặng vậy, ta mới xứng đáng là bậc hiền nhân quân tử và cũng diệt trừ được ác Ỷ ngôn.

CHÚ THÍCH :
Ỷ NGÔN: Cũng gọi là Ỷ ngữ, Phạn ngữ: Sambhâppalâpo, có nghĩa: Ỷ thị và thêu dệt. Ý nói người cậy vào sự học thức, khôn lanh, tước quyền, giàu có mà nhiếc xài kẻ dưới tay, kém thế hoặc là dệt thêu, xảo quyệt khiến người hiểu sai sự thật, hay trau chuốc lời hát ca tình tứ làm mờ đục tâm trí kẻ khác. Kinh Đại Thừa Nghĩa Chương nói:“Dùng lời tà vạy bất chánh mà thêu dệt để nâng nhắc mình lên, ấy là tội Ỷ ngữ”.
Ỷ ngôn là một trong 4 tội ác của Khẩu nghiệp. Kinh Báo Ân có chép:
Thời quá khứ, lúc Phật Ca Diếp ra đời, có một sa di trẻ tuổi, nghe một tỳ kheo già tụng kinh tiếng ồ ề, sa di ỷ mình có tiếng thanh tao nên chê ông tỳ kheo:“Tụng kinh gì mà tiếng ồ ề, nghe như tiếng chó sủa”.
Nguyên vị sư già ấy đã chứng quả A La Hán, biết rõ mọi việc nên kêu sa di, nói:“Ngươi cười chê như vậy, không hề gì đến Ta, nhưng ngươi đã phạm tội Ỷ ngôn, rồi đây sẽ bị đọa vào Địa ngục và sau phải làm thân chó lâu đời”. Sa Di kinh sợ liền cầu sám hối. Vị sư già hoan hỉ cầu nguyện tiếp, nhưng sa di chỉ khỏi sa Địa ngục, chớ cũng phải luân hồi làm chó 500 kiếp, mới được trở lại thân người.
Xét theo đây đủ biết tội Ỷ ngôn tai hại vô ngần !
XÉO VÀY: Cũng viết là giày xéo. Xéo là giẫm lên, chà đạp. Vày là vày vò hay vày bừa. Nghĩa chung là chà đạp, miệt thị, đay nghiến. Đây ý nói cư xử tệ đối với kẻ dưới tay.
TỰ PHỤ: Ỷ mình, cậy mình tài giỏi, cao sang mà không cần đến ai nữa và khinh khi kẻ khác.
Ỷ THẾ: Cậy vào thế lực.
LẮC LÉO: Cũng viết là lắt léo. Có nghĩa tráo chác, trớ trêu, cắc cớ.
BA TẤC LƯỠI: Có hai cách hiểu
1)-Tính theo thước thân của Khoa Châm cứu thì một lóng tay giữa của ngón áp út là một tấc, nên đo thử thì cái lưỡi của mỗi người khoảng ba tấc. Nghĩa bóng là chỉ cho một số lời lẽ, không cần đến là bao nhiêu.
2)-Là một thành ngữ chỉ cho hiệu lực của lời nói, tuy thấy thông thường, song kết quả to tát. Như thời Đông Châu có Trương Nghi và Tô Tần, họ chỉ dùng 3 tấc lưỡi mà thuyết phục được các nước và làm nên danh phận. Lại như Khổng Minh đời Tam Quốc cũng chỉ dùng 3 tấc lưỡi khiêu khích, làm cho cả trào thần Đông Ngô phải theo kế hoạch ông ta, phá tan 80 vạn binh của Tào Tháo tại Xích Bích và đem lại kết quả cho Lưu Bị, lấy được nhiều châu quận…Còn Đông Ngô tốn hao quân lương rất nhiều nhưng chẳng được lợi ích gì.
Đó là việc lợi của ba tấc lưỡi, còn việc hại của nó như trường hợp Sa Di trẻ tuổi vừa kể. Ba tấc lưỡi ở đây có ý chỉ một lời nói ỷ thị, dệt thêu, gây biết bao hành trạng tội lỗi. Tục ngữ có câu:
Cái lưỡi không xương nhiều điều lắc léo,
 Cái miệng không vành nó méo tứ tung.”    
Cho nên Đức Thầy từng nói:
    Thuận với hòa hay ghét với rầy,
Cũng cái lưỡi làm thầy các việc.”(GMTK, Q.4)
MẠT SÁT: Xài xể, mắng nhiếc một cách thậm tệ.
BÁ TÁNH: Xem chú thích tại tr.65 Tập 2/3..
TỪ NGÔN: Lời nói hiền hòa, nhân ái và êm đẹp. Đức Thầy từng nói: “Ngôn từ Đạo hạnh ý thầy khuyên.”(Khuyến Thiện, Q.5).
LỜI TRANG NGHIÊM: Lời lẽ đoan chánh, đúng dắn thích hợp với đạo đức.
BAO BIẾM: Bao là khen, biếm là chê. Ý nói lời nhạo chê khinh rẻ người khác.

CHÁNH VĂN
473.    Tới Ác-Khẩu thứ ba bày-biện,Tiếng tục-tằn thô-lỗ hung-hăng. 
    Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng-xăng, 
476.    Chẳng kể đến luân-thường thảo hiếu.
    Hăm đánh giết những người hèn yếu, 
    Hiếp xóm-chòm cô bác chẳng kiêng. 
  Trong gia-đình chưởi rủa liên miên, 
480.    Hết Dương-thế kêu sang Thần-Thánh.
    Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh, 
    Cõi Long-cung mời thỉnh tối ngày. 
    Đời ám-u tội trạng thảm thay, 
484.    Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.
    Gương tổ-phụ còn roi lại đó,
    Sao không theo nề-nếp gia-phong. 
    Chư Thánh-Thần đâu có mất lòng, 
488.    Mà kêu réo Đông,Tây, Nam, Bắc ?
     Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
     Những đàn-bà khe-khắt cháu con.
     Kể từ nay phải giữ cho tròn,
     492.     Không chừa dứt ắt mang tai-ách.
     Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch, 
     Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
     Tích thiện thì thường có phước dư,
     496.     Bằng tích ác họa-ương đeo đắm.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 473 đến câu 496) :
-Đến tội thứ ba của khẩu nghiệp là những lời nói ác, Đức Thầy cũng luận giải rõ ràng, để mọi người được hiểu biết mà xa tránh. Hành trạng của ác khẩu là các lời thô tục, dâm ô, những tiếng ngang tàng lỗ mãng, hễ mở miệng ra toàn là lời hung hăng bạo tợn. Đến như Cha Mẹ là đấng sanh thành cao cả, lẽ ra phải biết tôn thờ bảo dưỡng, họ lại nỡ nhiếc xài, hờn trách, chẳng hề nghĩ đến luân thường đạo nghĩa là gì:“Phụ mẹ cha khinh dể Phật Trời, Chẳng có kể công sanh dưỡng dục.”(Kệ Dân, Q.2).
-Đối với xã hội, họ thưòng dùng lời hăm he đánh giết, hà hiếp kẻ khác, dù là người thân hay lạ, chẳng nể vì một ai. Còn việc cư xừ trong gia đình lại càng tệ hơn, suốt ngày chỉ nghe những tiếng chửi mắng, nguyền rủa; hết người thế gian họ lại kêu đến Thần Thánh.
-Đối với bậc cao cả ở các cõi trên, như: Trời Phật Thánh Thần hay Long Vương thủy tộc, họ cũng chẳng hề kiêng cữ. Trong những cuộc giận tức tầm thường vẫn kêu đến mà khiến sai, nguyền rủa hoặc chứng minh. Họ đâu có ngờ những lời ấy là gây nên tội trạng để rồi chuốc lấy hậu quả đau thương. Đức Thầy nhận thấy đời quá tối tăm mê muội, tạo nhiều tội khổ, nên Ngài nhủ lòng kêu gọi khắp vạn gia, từ đây hãy mau chừa bỏ ác khẩu.
-Ngài hằng ý thức mọi người: bao nhiêu tấm gương Đạo đức hiền từ và phong tục tốt đẹp của ông cha ta truyền lại nay còn sáng chói, tại sao ta chẳng học đòi mà ăn ở gìn giữ ? Đến như các bậc Thánh Thần Trời Phật, đâu có làm điều chi không vừa ý mà chúng dân cứ kêu réo liên miên, hoặc sai Đông rủa Tây như thế ? “Thánh Thần không phải thiếu tiền, Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.”(Sấm Giảng, Q.3).
-Tình trạng nói trên thường thấy diễn ra trong gia đình, do các bà các cô ăn ở khó khăn với con dâu hay các cháu. Họ dùng toàn những lời trù rủa, mắng nhiếc khiến bầu không khí trong gia tộc càng thêm nặng nề khó chịu, chớ không đem lại lợi ích gì. Cho nên Đức Thầy kêu gọi hàng nữ lưu, từ đây nên gìn giữ cho tròn đạo nghĩa, nếu ai mãi dùng lời lẽ như trên ắt phải vương mang họa hại.
-Đề bài trừ ác khẩu, Đức Giáo Chủ khuyên tín đồ trong việc đối xử dù ở gia đình hay xã hội, cần nói lời thanh bai tao nhã, hòa dịu ngọt ngào. Bỏ những tiếng vạy tà hung ác, rủa mắng tục tằn mà nên dùng lời ngay thẳng hiền lương, kính nhường lễ độ:“Trọng Mẹ Cha kính nể Phật Trời, Đừng nhiều tiếng nghinh ngang mang lỗi.(GMTK, Q.4). Nhứt là phải mạnh tin nơi luật nhân quả, hễ ai chứa điều hiền lương đạo đức thì gặp nhiều phúc lành đưa đến, bằng chứa tiếng ác hung, ắt các họa hại đeo đẳng bên thân và kéo mãi đến đời sau, bởi:“Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.”(GMTK, Q.4). Đây là điều tất yếu giúp cho cuộc ngăn ác hành thiện của nhà tu mau thành quả và sớm thoát ly nghiệp báo luân hồi.

CHÚ THÍCH :
ÁC KHẨU: Cũng gọi là ác ngôn hay ác ngữ, Phạn ngữ: Pharusavâcâ, có nghĩa miệng nói hung dữ, tức những tiếng thề thốt, chửi rủa thô tục hoặc kêu Thần Thánh khiến sai. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật bảo:“Như ai phạm ác khẩu, mắng nhiếc, phỉ báng người sẽ bị tội báo rất lớn”.
Về tội báo nầy Phật có kể câu chuyện:
Xưa, trào vua Dật Độ, con là Thái Tử Pháp Thí, người tài đức song toàn, nên được vua cha và quần thần yêu mến. Vua lại có một thứ phi tên là Hãnh Thiếp, tánh tình chẳng tốt, tư thông với quan Tướng quốc, ngầm mưu cướp ngôi, họ đang tìm cách hại Thái Tử trước.
Hôm nọ, Thái Tử dạo huê viên một mình. Hãnh Thiếp bấy lâu đã say mê tài mạo Thái Tử nên bước đến kiếm lời trêu ghẹo, nhưng Thái tử khước từ và trực dạ khuyên can. Hãnh Thiếp lỡ cơ toan bắt ép Thái tử, Ngài vội xô ra, bỏ chạy, rủi bị cành cây gạt rớt cái mão. Hãnh Thiếp lượm mão đem khóc lóc với Vua: Thái Tử vào huê viên giở trò không tốt với thiếp. Thiếp la lên, Thái Tử bỏ chạy còn rớt cái mão lại đây, xin Bệ Hạ định xét.
Vua vẫn biết con mình là người đoan chánh, nhưng bằng chứng sờ sờ chẳng biết nói sao. Hãnh Thiếp giả bộ nhào khóc thảm thiết. Vua túng thế đành hạ lịnh xử trảm Thái Tử. Triều thần hay tin hết lời can gián, Vua mới đổi lịnh, cho đày Thái Tử ra biên giới 3 năm. Thái Tử cùng vợ con lên đường, dân chúng mến đức kéo theo Ngài rất đông.
Ít lâu Hãnh Thiếp và Tướng quốc mạo một tờ lịnh: Thái tử và dân chúng ở biên giới đang mưu đồ phản Vua, phải móc đôi mắt gởi về mới hết tội. Được lịnh Vua, Thái Tử đưa vợ con về nước (cha vợ) chia tiền cho mỗi binh dân…rồi móc cặp mắt gởi về trào. Hãnh Thiếp đón lấy, đem tẩm thuốc không cho sình rã rồi cất vào tủ, dấu nhẹm chuyện ấy.
Bấy giờ Thái tử chỉ còn một mình, với cây đờn, vừa đờn vừa xin ăn lần lần đến nước của Vua nhạc phụ. Thời may Vua nước nầy đang chọn nhạc sĩ…Thế là Thái tử được tuyển vào đờn cho Vua nghe thử. Người vợ nghe tiếng đờn biết là chồng liền ra nhìn…Khi rõ hết sự tình, Vua (cha vợ) cho Quan lính đưa vợ chồng Thái tử về nước minh oan.
Lúc ấy Vua Dật Độ mới rõ sự thật liền ra lịnh bắt Tướng quốc và Hãnh Thiếp đem trị tội bằng cách: dùng roi có gai đánh cho rách da, chảy máu rồi lấy mũ nấu sôi thoa vào và đem chôn sống tại ngả ba đường.
Khi đó các Đệ tử bạch hỏi Phật: nhân duyên gì mà có cảnh trạng như thế ?
Phật kể tiếp: Thời quá khứ, có anh thanh niên chuyên bán ngọc ngà châu báu. Một hôm anh vừa đi vừa rao bán ngọc, bỗng có một tiểu thơ kêu lại mua, nhưng khi lựa được viên ngọc quí, tiểu thơ cười duyên và liếc anh một cái rồi bảo tên đánh xe đẩy đi, chớ không trả tiền bạc gì hết. Anh bán ngọc tức quá bèn mắng:
-Ta không đắm sắc ngươi đâu, nếu ngươi không trả tiền viên ngọc, ta thề theo móc cho được cặp mắt của ngươi mới vừa bụng. Tiểu thơ liền bảo tên đánh xe hăm lại:
-Nếu anh không bằng lòng để cô ta lấy viên ngọc làm đồ chơi, cô ta sẽ cho người dùng roi gai đánh cho rách da, rồi lấy mũ nấu sôi thoa vào và đem chôn sống cho ngươi tởn. Anh bán ngọc quá giận tức, nhưng xét mình cô thế đành ôm hận ra đi !…
Do ác khẩu, hai đàng đều kết dây oan trái với nhau, nên kiếp nầy ba người cùng sanh gặp nhau trong một trào để trả quả: Anh bán ngọc đầu thai làm Thái Tử Pháp Thí. Tiểu thơ thuở nọ nay là Hãnh Thiếp, còn tên đánh xe là quan Tướng quốc. Thái tử trước vì thề móc mắt Tiểu thơ nên nay bị Hãnh Thiếp ra lịnh móc mắt lại. Tiểu Thơ liếc mắt cười duyên với anh bán ngọc, nên nay thầm yêu Thái Tử, nhưng không được. Còn tên đánh xe a tòng với Tiểu thơ, hăm dọa anh bán ngọc nên nay tư thông với Hãnh Thiếp và hai người cùng bị tội đánh rách da, thoa mũ nấu sôi vào thân và chôn sống tại ngả ba đường, nay kết quả y theo lời hăm dọa thuở trước.
Kết luận câu chuyện. Phật khuyên các môn đồ nên chừa dứt “ác khẩu”. Kinh Pháp Cú, Ngài từng nói: “Luận kẻ ở đời như búa ở trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác”. (Phù Sĩ xử thế, phủ tại khầu trung, sở dĩ trảm thân, do kỳ ác ngôn).
BÀY BIỆN: Tỏ bày và luận giải ra.(Chữ bày biện nầy khác nghĩa với chữ bày biện  câu 141 Q.4: bày đặt cho có chuyện, tr. 39).
TỤC TẰN: Bẩn thỉu, nhơ nhớp. Tiếng tục tằn là lời lẽ có tánh cách thô tục, dâm ô.
THÔ LỖ: Cộc cằn, lỗ mãng.
LUÂN THƯỜNG: Luân là giềng mối; Thường là phép tắc chính của người đời nên noi theo. Luân thường gồm có Ngũ luân (bổn phận giữa Vua tôi, Cha con, Chồng vợ, Anh em và Bè bạn) và Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín). Đức Thầy dạy:
    Luân thường nặng nợ phải vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật đàng”.
(Đến Làng Nhơn Nghĩa)
THẢO HIẾU: Cũng gọi là hiếu thảo. Thảo có nghĩa là bảo dưỡng; hiếu là tôn kính. Nói chung là hết lòng tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ. Đây là đức tánh quan trọng mà bổn phận làm con ai cũng phải có, không thể thiếu được.
Trong Kinh Đại Tập, Phật có dạy:“Nếu đời không có Phật xuất thế mà biết thờ kính cha mẹ một cách hoàn thiện thì cũng như thờ Phật vậy”.
Đức Thầy nay cũng bảo:
Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương.”(Sa Đéc)
LIÊN MIÊN: Liền liền, kéo dài không bao giờ dứt.
THÁNH THẦN: Xem chú thích tại tr.30 Tập 3/3..
THƯỢNG CẢNH: Cõi trên, tức các cõi trời từ Tứ Thiên Vương trở lên.
CÕI LONG CUNG: Cảnh và cung điện của Long Vương ở sâu nơi đáy biển. Đó là đền đài do thần lực của Long Vương tạo hiện ra.
ÁM U: Tối tăm mê muội
TỔ PHỤ: Ông bà Cha mẹ từ trước.
NỀ NẾP: Xem chú thích tại tr. 111 Tập 3/3.
GIA PHONG: Phong tục, tập quán của mỗi gia đình, dân tộc.
RÒNG RẶC: Cũng viết là rặc ròng. Có nghĩa thường như vậy, suốt ngày đều như vậy.
KHE KHẮT: Cũng gọi là khắt khe. Có nghĩa gắt gao, bắt chặt bắt lỏng, khó khăn đủ cách. Ví dụ: Bà ấy hay khe khắt con dâu.
MANG TAI ÁCH: Vương phải tai nạn thống khổ.
DỊU DÀNG: Êm đẹp, hiền từ. Tiếng dịu dàng là lời nói ra rất hòa nhã, dịu ngọt, đầy sự nhân ái. Người đời từng nói:“Chim khôn hót tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.”(Tục ngữ).
ĐOAN CHÁNH: Cũng viết là đoan chính. Có nghĩa ngay thẳng, đứng đắn.“Thấy lời đoan chánh dễ nghe”.(Tr. Kiều)
TÍCH THIỆN: Chứa điều lành. Kinh Dịch có câu:“Tích Thiện chi gia tất hữu dư khánh.”(Nhà chứa điều lành ắt có phước dư).
TÍCH ÁC: Chứa điều hung dữ. Do câu:“Tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương.”(Những nhà chứa điều dữ ắt có họa dữ).

   CHÁNH VĂN
 497.  Ác Vọng-Ngữ thứ tư cũng cấm, 
    Nói thêm thừa huyễn-hoặc đủ điều. 
    Ghét người thời kiếm chuyện dệt-thêu, 
 500. Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.
    Đời bất công mấy ai xem sửa, 
    Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tòng.
   Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công, 
504.   Mà ăn ở nói năng chơn-chất.
    Phật từ-bi độ trong nhơn vật, 
    Là luật kinh dạy rất tinh-tường. 
    Nếu chẳng nghe hồn vướng tai-ương, 
 508.  Chừng ấy mới kêu mời khó rước.
    Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước, 
    Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn. 
    Đã tu hành đừng có bôn-chôn, 
 512.  Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài cán.
    Người hiểu rành mới càng thêm chán, 
    Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu. 
    Nói với ai cũng phải lựa điều, 
 516.  Đừng tráo-chác cho người khinh dể.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 497 đến câu 516) :
-Đến ác thứ tư của Khẩu nghiệp là những lời nói dối trá, thêm bớt không đúng sự thật. Đó là tội ác rất lớn mà xưa nay các Kinh luật đều có răn dạy.
Về hành trạng của nó là chuyện có nói ra không, chuyện không nói thành có, làm đảo ngược sự thật. Hễ ghét người nào thì bịa chuyện nói xấu và che đậy các điều phải của họ, thương ai thời tìm cách biện hộ, bao che các việc sái quấy và tô vẽ thêm các điều tốt lành.
-Do đó, những cảnh bất công thường diễn ra trong xã hội, thế mà chẳng thấy bao người tìm phương cải sửa. Phàm kẻ bề trên có quyền thế mà đối xử dối gian xảo quyệt thì người dưới tay, không bao giờ chịu thuận ý vâng theo. Vì muốn chặn ngăn trạng huống ấy, Đức Thầy khuyên khắp nhân loại nên lấy lẽ công bằng mà đối xử lẫn nhau, mọi sự ở ăn, nói làm hay giao tiếp, cần giữ lẽ chân thật hiền hòa.
-Bởi lòng Từ bi của chư Phật đối với chúng sanh như tình mẹ thương con, không phân biết là loài người hay loài khác, nên các Ngài đã thuyết ra Kinh luật và biện giải rất tinh minh, để khuyên dạy khắp bá gia. Nếu chúng sanh nào biết nghe theo, lo răn chừa vọng ngữ, tất được phúc lợi lớn. Bằng ai chẳng chịu vâng lời, cứ tiếp tục con đường tội ác thì chẳng những bị khổ nạn trong kiếp hiện tiền, mà khi chết linh hồn cũng phải vương mang nghiệp báo, bấy giờ dầu có ăn năn cầu Phật, ắt cũng khó mà cảm ứng đến Ngài.
-Vả lại, người đời còn chẳng vừa ý kẻ ăn nói không chơn thật, có lý nào Thánh Thần Trời Phật lại gần gũi kẻ láo xược dối gian. Là người biết tu hành, không nên quá vội vàng hấp tấp, ỷ sức khoe tài hoặc lừa, bịp bá tánh, rằng mình đã được Đạo cao, đức lớn như Đức Phật từng bảo:“Thà ăn tro than, nhai nuốt bụi đất, dao bén mổ bụng chớ đừng đem lời vọng, nói rằng tu đã chứng quả Thánh, để cho kẻ khác mê tín mà cúng dường, đó là kẻ Đạo tặc, vì đã trộm đồ ăn uống và tiền bạc của người vậy”.
-Thêm nữa, nếu người tu hành còn vọng ngữ, một khi kẻ khác hiểu rõ lời huyễn hoặc của mình, họ rất chán chê phỉ nhổ. Vậy ngay bây giờ, ta hãy chừa bỏ lời xảo ngôn ấy đi, và mỗi lúc giao tiếp với ai cần chọn những lời chơn thật, ngay chánh mà nói; không nên dùng tiếng dối gian để khỏi bị người đời khinh rẻ, tức chừa được ác vọng ngữ.

CHÚ THÍCH :
VỌNG NGỮ: Cũng gọi là Vọng ngôn, Phạn ngữ: Musâvâdo, có nghĩa: Nói láo, nói dối, nói huyễn hoặc, có nói không, không nói có. Tội ác thứ tư trong Khẩu nghiệp, và thập ác hay một trong “Ngũ Giới Cấm”.
Sách Thánh bảo:“Khẩu thân bất vọng trá, hô hành vạn sự thảy hanh thông.”(Miệng và thân không dối trá, thì nói hay làm muôn việc đều đặng suốt thông). Và trong “Trí Độ Luận” có viết:“Theo lời Phật thuyết, kẻ phạm tội vọng ngữ có 10 tội quả báo như sau:
1- Miệng thường có mùi hôi.
2- Các Thiên Thần đều lánh xa.
3- Người không tin dùng.
4- Người bàn việc thường chẳng cho tham dự.
5- Hay bị người phỉ báng.
6- Người chẳng kính vì.
7- Thường đa mang rầu buồn.
8- Gây lấy nghiệp nhân bị chế nhạo.
9- Lúc chết bị đọa Địa ngục.
    10-Nếu được sanh làm người, thường bị chê cười”.
Đức Thầy nay cũng hằng dạy:
    “Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,
    Nói với ai chớ có sai lời.”(GMTK, Q.4)
HUYỄN HOẶC: Cũng viết là huyền hoặc. Có nghĩa: dối trá, không thật, làm cho kẻ khác hiểu lầm. Đức Thầy có câu:
Miệng dương thế hay bày nói huyễn,
Sách Thánh hiền ghét kẻ nhiều lời.”(Kệ Dân, Q.2)
DỆT THÊU: Xem chú thích tại tr.52 Tập 2/3.
VIỆN: Cũng gọi là vịn. Có nghĩa dẫn chứng, dựa vào một lý gì để bênh vực. Ví dụ: Viện lý lẽ để bao che.
BÀO CHỮA: Biện hộ, tìm cách binh vực, che chở cho ta hoặc người thân của ta.
ĐIÊU NGOA: Điêu là xảo trá, ngoa là giả dối, lừa đảo. Nghĩa chung là già miệng hay đặt điều nói dối làm sai hẳn sự thật.
PHỤC TÒNG: Cũng gọi là phục tùng hay tùng phục. Có nghĩa: chịu xuôi thuận theo, vâng làm theo. Đức Thầy có câu:“Làm cho chúng phục tùng chơn lý.”( Cho Ô. Cò Tàu Hảo ).
CHÍ CÔNG: Rất mực công bình. Ví dụ: Chí công vô tư.
TỪ BI: Xem chú thích tại tr. 40 và tr. 198 Tập 1/3.
LUẬT: Nói cho đủ là Luật Tạng, Phạn ngữ: Vinaya- Pitaka, phiên âm là Tì Ni tạng hay Tì Nại Da tạng. Tàu dịch là điều phục. Ý chỉ những giới luật của Phật nói ra để cấm chỉ, ngăn ngừa tín đồ chẳng cho sai phạm mọi điều tội lỗi.
Kinh luật thường chép:“Giới luật còn thì Phật pháp còn…Bản chất của giới luật là đình chỉ tất cả hành động lầm lỗi. Năng lực của giới luật là đem lại cho người, giữ gìn từ sự an lạc của chư thiên, cho đến sự giác ngộ của Phật Đà”. Thế nên lúc sắp nhập Niết Bàn, Đức Phật có dặn dò các thầy Tỳ Kheo và đại chúng:“Sau khi Ta diệt độ rồi các ngươi đều tôn kính Giới luật làm Thầy. Và phải giữ gìn cho nghiêm chỉnh, mới đặng trí huệ và các món Thánh tài. Trên đường tu hành mà có giới luật thì quí báu như ở chỗ tối tăm mà có đèn đuốc, như người nghèo khổ mà có bạc vàng. Thế nên các ngươi cần phải phụng hành giới luật, như khi ta còn trụ thế vậy”.
KINH: Xem chú thích tại tr. 156 Tập 1/3.
TINH TƯỜNG: Rõ ràng minh bạch, rất tường tận tinh tế, không chỗ nào chẳng thông suốt.
BỐC XƯỚC: Giả dối, không kỹ lưỡng, không thật tình.
XẢO NGÔN: Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 3/3.
BÔN CHÔN: Vội vã, lật đật, thiếu đắn đo, suy tính và dè dặt. Ví dụ: Đừng bôn chôn hư việc.
TÀI CÁN: Có tài. Ý chỉ người có đủ năng lực đảm đương mọi công việc.
TRỚ TRÊU: Né tránh, lếu láo, ranh mãnh. Ở đây chỉ cho sự tráo trở tránh né.
TRÁO CHÁC: Tráo là ngầm đem vật xấu thay tốt, hoặc tốt thay xấu. Chác là gạt người cho mắc mưu . Tráo chác là lời nói tráo trở, lừa phỉnh người, gạt gẫm người cho mắc mưu lầm kế.

   CHÁNH VĂN
517.   Ác Tà-Dâm thứ năm càng tệ,
   Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần. 
   Làm đảo-huyền tất cả quốc-dân, 
520.  Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
  Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng, 
  Từ xưa nay Trời đất đâu dung. 
  Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng, 
524.  Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
  Trai liều-lĩnh điều này nên bỏ, 
  Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
  Gái lẳng-lơ tiếng huyễn lời đờn,
528.  Hoa có chủ đèo-bồng tình mới.
  Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,
  Bỏ những điều điếm nhục tông môn. 
  Đứng nam-nhi học lấy điều khôn, 
532. Lòng trung-hiếu gìn theo đạo-lý.
  Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí, 
  Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền. 
 Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên, 
  Cho đẹp mặt Tổ-tiên nòi giống.
  Thờ Phật-Đạo tỉnh cơn ác mộng, 
538. Thoát mê-đồ thường phóng quang-minh. 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 517 đến câu 538) :
-Các đoạn trước giải về bốn điều ác của Khẩu nghiệp, tiếp đây đến phần ác Tà dâm. Đức Thầy liệt nó vào thứ năm của Thập ác, tức là tội thông dâm với vợ con hoặc chồng của người khác, chớ không phải vợ hay chồng chánh thức, do luật nước hay cha mẹ chấp nhận.
Hành trạng của tội ác nầy lan diễn khắp hạng người. Cũng vì quá đắm mê sắc dục mà Vua chúa hôn quân, nỡ cướp vợ của bầy tôi; cung phi dâm loàn với hàng quan tướng, như trường hợp “Vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quí Phi…”Ác Tà dâm làm đảo lộn nền luân thường đạo lý. Những sự ấy đã gây biết bao cảnh huống đau thương, nào sự nghiệp tiêu tan, thân chết một cách thảm thiết, linh hồn phải bị cuốn theo nghiệp báo, nào bị tiếng đời chán chê, phỉ nhổ, lại còn làm cho dân chúng chịu vạ lây mà xưa nay luật báo ứng trong Trời đất không thể nào tha thứ được. Người giàu sang thường dùng của tiền lừa gạt dâm hiếp kẻ nghèo. Còn hạng quan trường thì dùng uy lực cưỡng bức dân quê, gây sự tủi nhục cho hàng nữ lưu không ít.
-Lại còn số thanh niên trong lứa tuổi dục tình còn nồng nhiệt, hành động những điều càn dỡ, làm cho các cô gái phải thất trinh mất tiết. Giới nữ cũng lắm người lả lơi cười cợt, khêu gợi dục tình, hoặc dùng lời đường mật đẩy đưa, quyến rũ, để làm việc hư thân mất nết. Thậm chí kẻ đã có chồng, còn mong thêm mối tình mới lạ…Tất cả sự trạng kể qua là nguyên nhân sanh họa hoạn và tội khổ, dẫn đến sanh tử luân hồi.
-Thế nên, Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp giới nữ nam, từ đây hãy dứt bỏ tệ trạng nói trên, vì cuộc dâm loạn như thế, chẳng những bị mất hết danh giá của gia đình thân tộc, còn làm cho xấu hổ đến Tổ tiên nòi giống. Vậy bổn phận làm trai, nên học đòi những tấm gương tốt đẹp mà ăn ở đúng theo đạo lý, để vẹn tròn trung hiếu và xứng đáng là bực râu mày quân tử:“Vậy mới trang quân tử nam nhi, Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.”(Diệu Pháp Quang Minh). Còn hàng phụ nữ nên noi theo gương mẹ hiền dâu thảo của Bà Mạnh Mẫu và Thoại Khanh xưa kia, lo trau giồi đức hạnh, giữ vẹn tiết trinh:Hàng phụ nữ giồi câu trinh liệt.”(Diêu Pháp Quang Minh). Có thể ta vừa tránh được các tệ hại nhớp nhơ, vừa làm cho Tổ tiên đẹp mày thỏa dạ:
“Thỏa tình được sống dưới trời Đông,
Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng”.
(Tết Ở Chiến Khu)
-Để ngăn ngừa tội ác tà dâm, Đức Thầy khuyên dạy tín đồ nên nhận rõ kiếp sống của con người, chẳng khác giấc chiêm bao đầy sự ác hung, đau khổ để sớm lo thức tỉnh tu thân, phụng hành theo Phật pháp và vun trồng giống thiện. Nhứt là phải chuyên tâm niệm Phật cho đến khi “nhứt tâm bất loạn”, để tiêu trừ tận gốc lòng tham muốn dục tình (tà dâm). Khi trừ diệt đặng nó nhà tu sẽ đạt kết quả: Không còn luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi và trí quang minh tự tánh phát khai, đắc thành Đạo quả.
 ` CHÚ THÍCH :
TÀ DÂM: Xem lại chú thích tại tr. 201 Tập 3/3.
CHIẾM ĐOẠT: Dùng võ lực hay mưu mẹo cưỡng lấy vật sở hữu của người làm của mình.
THÊ THẦN: Vợ của bầy tôi.
ĐẢO HUYỀN: Treo lộn ngược. Ý nói trật tự đều đảo lộn, cái ở trên đem xuống dưới, ở dưới lại đem lên trên. Tình thế xáo trộn mất hết tôn ti trật tự.
HOÀNG CUNG: Trong cung vua.
DÂM LOẠN: Sự dâm dục hỗn loạn, ngoài vòng luân thường đạo lý. Kinh Thơ có chép:“Thiên Đạo phước thiện họa dâm.”( Đạo Trời ban phước cho người thiện, gieo họa cho kẻ dâm loan).
THẢM TRẠNG: Cảnh huống đau đớn, khổ sầu.
DÂM HIẾP: Cũng gọi là hiếp dâm. Có nghĩa dùng oai lực hãm hiếp vợ con người khác, cho thỏa thích tánh khát dục.
DÂM Ô: Trai gái lấy nhau lén lút, rất xấu xa. Đây chỉ việc làm cho nhơ nhớp danh giá, tiết hạnh của người con gái.
LIỀU LĨNH: Hành động càn bướng, ẩu tả, chẳng cần phân phải trái, chẳng kể xấu xa nguy hiểm.
TRINH TIẾT: Sự trong sạch. Chỉ người phụ nữ chẳng bị thất trinh mất tiết, chưa ăn nằm với một người đàn ông nào. Đức Thầy từng nói:
“Trai trung liệt đáng trai hiền thảo,
Gái tiết trinh mới gái Nam Trào.”(Kê Dân, Q.2).
LẲNG LƠ: Tánh cợt nhả, lả lơi trây trúa. Chỉ người đàn bà không có hạnh nết:“Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa, Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.”(Ca dao).
TIẾNG QUYỂN LỜI ĐỜN: Quyển là một thứ nhạc khí bằng tre như ống sáo, nhưng thổi ngang hông chớ không thổi trên đầu như sáo, tiếng nghe trầm bổng mê ly. Đờn là loại nhạc khí có dây để khảy (gảy) hoặc đánh hay kéo tiêu khiển. Tiếng quyển lời đờn là ý nói lời ngọt ngào óng chuốt của người đàn bà nghe rất êm tai, dễ mê luyến cũng như tiếng đờn tiếng quyển vậy.
ĐÈO BỒNG: Bận bịu, mắc míu, đã đeo mang lại muốn bồng ẵm thêm. Ý chỉ người đàn bà đã có chồng còn muốn kiếm thêm người tình nữa.
    “Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
Chồng con hay được đem lòng nghi nan.”(Ca dao).
ĐIẾM NHỤC: Điếm là tỳ vết; nhục là xấu xa hèn kém. Ví như viên ngọc có tỳ vết, bị giảm giá trị. Đây chỉ cho việc làm xấu xa có tổn thương đến danh dự.
TÔNG MÔN: Tông là dòng họ; môn là cửa. Nghĩa chung là những người cùng một nhà, một tộc họ hay một Tông phái.
TRUNG HIẾU: Xem lại chú thích tại tr. 76 Tập 1/3.
ĐẠO LÝ: Xem lại chú thích tại tr. 128 Tập 1/3..
MẸ HIỀN: Do chữ hiền mẫu. Có nghĩa: Bà mẹ hiền đức, gồm đủ tiết hạnh và thông minh.
Người được xem Mẹ hiền là bà Cừu Thị, được người tôn xưng là “Mạnh Mẫu”, tức mẹ của vị Á thánh Mạnh Tử bên Nho Giáo. Bà sanh Mạnh Tử được ba tuổi thì chồng chết, bà thủ tiết nuôi con, cho ăn học, phải ba lần dời nhà con mới làm nên:
Lần đầu tiên nhà bà ở gần đất nhị tỳ. Hôm nọ trong xóm có người chết, Mạnh Tử tuy còn nhỏ, nhưng cũng theo đưa đám tang. Khi về ông bắt chước đóng hòm rồi đem chôn cất, than khóc như có người chết thật. Thấy vậy, mẹ ông lấy làm lo, nên dời nhà đi nơi khác.
Lần thứ nhì ở gần lò heo. Mạnh Tử thấy người đồ tể sáng sớm bắt heo làm thịt, heo kêu eng éc. Ông cũng bắt chước: lấy đất nắn hình con heo, rồi lấy dao đâm họng, miệng ông khẽ kêu eng éc…Mạnh Mẫu trông thấy sợ con ô nhiễm việc ác đó nên dời nhà đi nơi khác nữa.
Lần thứ ba ở gần trường học, hằng ngày thấy học trò cắp sách đến trường, ông liền xin Mạnh Mẫu cho đi học. Bà chấp nhận và nghĩ thầm:“ Ở đây con ta có thể làm nên sự nghiệp”.
Hôm nọ, Mạnh Tử bỏ học về nhà chơi, bà muốn cảnh tỉnh con, liền cắt ngang mảnh vải đang dệt. Ông kinh hải, quì xuống hỏi:
-Thưa mẹ ! Vì cớ gì mẹ lại làm thế ?
Bà đáp:
-Nghề dệt là chấp nối từ mối tơ mới làm nên tấm lụa. Sự học của con cũng thế, hôm nay con bỏ học trở về khác nào khổ lụa mẹ đã cắt lìa, thành ra vô dụng. Nghe qua Ông rất hối hận, từ ấy quyết một bề lo học.
Nhờ sự khéo léo dạy con của bà mà sau Mạnh Tử làm nên sự nghiệp, muôn đời còn ca ngợi và nương theo. Kinh Tam Tự có nói:
    “Tích Mạnh Mẫu, trạch lân xử,
Tử bất học, đoạn cơ trử”.
Và phần yếu giải có chép:
    “Tích xưa mẹ Thánh huấn nhi,
    Dọn lầm chỗ ở dời đi ba lần.
Có khi trẻ chẳng ân cần,
    Mình ngồi khung dệt cắt chân mà thề.
Từ sau cứ học một bề,
   Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”.
DÂU THẢO: Xem chú thích “rể thảo dâu hiền” tại tr. 115-116 Tập 3/3.
THIỆN DUYÊN: Xem  chú thích tại tr. 62 Tập 1/3.
TỔ TIÊN: Ông cha ta từ trước. Người xưa từng hát:“Khen ai khéo tiện ngù cớ, Khéo xây bàn án khéo thờ Tổ Tiên.”(Tục ngữ).
ÁC MỘNG: Điềm chiêm bao hung dữ, xấu xa.  Ý nói kiếp sống con người trong cõi đời đã ngắn ngủi, lại còn dẫy đầy sự ác khổ, đê hèn. Cổ nhân từng bảo:
     “Một mai vô thường đến, Mới biết người trong mơ.
     Muôn việc không đem được, Duy có nghiệp đùm đeo”.
MÊ ĐỒ: Xem chú thích tại tr. 260 Tập 3/3.
QUANG MINH: Ánh sáng. Tự mình có ánh sáng gọi là Quang, soi chiếu được sự vật gọi là Minh. Quang Minh là cái tướng của trí tuệ, vì nó năng soi chỗ tối và hiện ra các pháp. Cho nên quang minh có hai tên:
1- Trí quang minh: Ánh sáng của trí tuệ chiếu khắp 10 phương thế giới và suốt ngang các vật: đất, nước, lửa, gió hoặc các đồi núi, cho đến chỗ tối tăm như Thiết vi, Địa ngục…
2- Thân quang minh: Cũng kêu là trường quang tức là ánh sáng của thân thể, dù đi, đứng, nằm, ngồi hay nhập định, xuất định, lúc nào ánh sáng nầy cũng bao bọc chung quanh nhà tu hành đắc đạo, ai bước lại gần cũng cảm thấy thân tâm khoan khoái nhẹ nhàng.

CHÁNH VĂN
 539.  Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh,
    Ác thứ sáu ấy là Đạo-Tặc. 
    Lấy của người sắm ăn sắm mặc, 
    Chẳng kể công nước mắt mồ-hôi. 
    Phá lương dân dạ luống bồi-hồi, 
 544.  Ngày làm-lụng đêm lo gìn-giữ.
    Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
    Nào đào tường, khoét vách khuân đồ.
    Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
 548.  Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
    Nay đuốc huệ Từ-Bi đã rọi, 
    Vào thâm-tâm những kẻ gian phi. 
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
 552.  Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
     Luật nhơn-quả thật là cao viễn, 
     Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. 
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay, 
 556.  Cứ bền chí có ngày thong-thả.

LƯỌC GIẢI (Từ câu 539 đến câu 556) :
-Đoạn nầy Đức Thầy khuyên nhắc tín đồ hãy gắng sức tìm hiểu cho rành nghĩa lý trong Kinh giảng mà Ngài đã viết ra thì cuộc ngăn ác hành thiện mới được kết quả chắc chắn. Còn tội ác thứ sáu tới đây là các việc làm trộm cướp gian lừa ( Đạo tặc).
-Về hành trạng của ác nầy là những kẻ chuyên lấy của tiền người khác, đem về cung cấp cho sự ăn, mặc, ở trong gia đình. Kẻ đạo tặc không  xét nghĩ người ta tạo được tiền của là phải tốn bao nhiêu công lao vất vả, dãi nắng dầm sương, đổ mồ hôi nước mắt; họ nhẫn tâm tìm cách cướp đoạt làm cho dân chúng ngày đêm xao xuyến không yên, nào lo tảo tần công tác, nào phải nhọc tâm gìn giữ của tiền.
-Những kẻ hành nghể trộm cướp bất kể pháp luật là gì, quanh năm suốt tháng chỉ biết tập tành đủ mưu gian, kế độc; nào đục tường, cạy vách, mở tủ khiêng rương; nào chận đường đón ngõ, lường gạt đủ điều. Chẳng có phương tiện gian ác nào mà họ không dùng đến, miễn sao lấy được của tiền của người khác mới nghe. Suốt đời tội ác cứ chồng chất lên mãi, thế mà họ có hay biết gì đâu. Các tội lỗi đó họ có thể qua mặt luật pháp của người đời, chớ không bao giờ vượt khỏi lưới Trời (luật nhân quả).
-Do đó Đức Giáo Chủ dùng ánh sáng siêu mầu (trí huệ) soi tận đáy lòng của kẻ trộm cướp, gian lừa để kêu gọi họ sớm thức tỉnh tu thân sống nghề ngay chánh; vì của tiền có ra không đúng Đạo nghĩa, dù ta được thật nhiều cũng không bền chắc và làm nên việc gì. Sách Thánh thường răn đời: Người chẳng phải, chẳng nên giao thiệp; của chẳng phải, chẳng nên lấy (Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ).
-Đề ngăn chừa ác Đạo tặc, Đức Thầy khuyên mọi người nên mạnh tin nơi luật nhân quả:“Luân hồi quả báo rất công bằng.”(Khuyên Sư Vãi). Và:“Cơ thâm thì họa diệc thâm, Nào trong sách sử có lầm ở đâu.”.(Sấm Giảng, Q.1). Định luật ấy dầu cho bực Vua quan cũng không tránh khỏi và cách xa bao thời gian cũng không mất. Mọi việc làm: lành, dữ đều có trả lại, song chỉ đến sớm hay muộn vậy thôi (Họa phước đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì). Vậy kẻ tu hành nên giữ lòng ngay thẳng, thi hành theo chánh nghiệp:
Tánh ngay thẳng ta không dời đổi,
 Dầu tan xương nát thịt chẳng màng”.
(Sấm Giảng, Q.1)
Và cứ bền tâm kiên chí mãi như thế tất trừ được ác Đạo tặc, cùng cắt đứt mối dây luân hồi quả báo mà tự do giải thoát.

CHÚ THÍCH :
ĐẠO TẶC: Theo Phật học gọi là Du đạo,  Phạn ngữ: Adinnâdânam. Đạo là trộm cắp, Tặc là cướp đoạt. Nói chung là lấy tiền của người khác một cách phi pháp là mắc tội Đạo tặc. Đây là một tội ác trong Thập ác và một trong Ngũ giới cấm. Người đời hay kẻ đạo cũng phải tránh hẳn, nếu còn vi phạm dù việc rất nhỏ cũng có tội báo. Như trong Kinh A Hàm có chép:
“Hôm nọ Đức Mục Kiền Liên đang đi, bỗng gặp ba con quỉ: Một con bị hòn sắt nóng đốt thân, vừa bay vừa khóc thảm thiết. Một con thì lưỡi le ra dài, có con dao cháy đỏ bay theo chặt đứt cuốn lưỡi, cũng vừa bay vừa khóc. Còn quỉ thứ ba bị hai bánh xe sắt kẹp hai bên hông đốt cháy giáp vòng, cũng vừa chạy vừa khóc.
Ngài Mục Kiền Liên thuật cho Tỳ Kheo Lặc Xoa nghe, ông liền đến trước Phật bạch hỏi lý do ?
-Phật dạy: Ta cũng thấy, nhưng chưa tiện nói ra vì sợ kẻ mê chẳng tin lời của Như Lai mà chịu khổ nhiều đời !
Nguyên  tiền kiếp của ba con quỉ ấy là ba vị Sa Di. Một Sa Di lấy trộm của thường trụ bảy trái cây. Một vị lấy trộm của chúng Tăng hai cái bánh cặp nách xuống ăn. Một vị cầm dao chặt đường phèn làm cho dính rồi kê lưỡi liếm. Cả ba sau khi chết bị đọa Địa ngục chịu muôn ngàn sự khổ, nay lên kiếp ngạ quỉ cũng còn tiếp tục chịu khổ nữa, chưa hết”.
Do đó, Đức Phật thường dạy tín đồ:“Ninh tựu đoạn thủ, bất thủ phi tài.”(Thà chịu chặt tay chớ quyết định không lấy của bất chánh).
LƯƠNG DÂN: Dân lành. Chỉ số người làm ăn chân thật hiền lành.
PHÁP LUẬT: Cũng gọi là luật pháp. Có nghĩa phép tắc luật lệ của quốc gia lập ra để dân chúng trong nước tuân theo. Ví dụ: Pháp luật đã qui định.
Ở MÔ: Ở đâu ? ( tiếng người Huế thường dùng).
TRỐN NGƯỜI KHỎI TRỐN TRỜI SAO KHỎI: Câu nầy ý nói những kẻ trộm cướp, dầu họ có trốn khỏi luật pháp ở thế gian, chớ không thể nào tránh khỏi luật Trời (nhân quả). Như trong Kinh Phổ Môn có chép câu chuyện:
Hôm nọ có anh học trò đi thi rớt trở về, nghe tiếng ông Bàn Công Cư Sĩ là người hay bố thí, giúp đời, tiền bạc cho mượn ra dù ai không trả ông cũng không đòi. Anh học trò liền ghé lại hỏi mượn 50 lượng bạc, với ý định xài luôn, không trả.
Khi vào nhà anh trình qua ý kiến, ông Bàn Công vui vẻ cho anh mượn y số bạc. Đồng thời ông còn tặng thêm một số gạo, vải và cho mượn con lừa để chở tiền gạo về nhà.
Anh học trò cảm ơn và từ giã, chở đồ dắt lừa ra đi, nhưng đi được một khoảng đường, lừa không chịu đi nữa, anh bực mình vừa giở roi vừa nói với lừa:
-Chủ ngươi cho ta mượn chở đồ rồi trả lại, tại sao ngươi không chịu đi nữa ?
Lừa phát nói tiếng người.
-Anh học trò ơi ! Anh học biết chữ mà không biết nghĩa “Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt”. Anh nên biết, tiền kiếp tôi đội trộm của ông Bàn Công chỉ có ba thúng lúa, không ai hay hết mà khi chết rồi phải đi đầu thai làm lừa ba kiếp để kéo xe trả nợ cho ông đây nè. Còn anh nay muốn giựt của ông 50 lượng bạc nầy thì phải luân hồi làm thú biết mấy kiếp mới đền nợ cho xong.
Anh học trò nghe lừa nói kinh hãi liền dắt lừa trở lại trả hết đồ cho ông Bàn Công và xin lỗi.
Thay vì nhận xét câu chuyện nói trên, ta hãy đọc bài thi răn đời của Vua Trần Thái Tôn:
    “Tạc bít xuyên tường ý bất hưu,
Thiên ban bách kế khổ vinh cầu.
Kim sanh khẩu đắc tha nhơn vật,
Bất giác chung thiên thọ mã ngưu”.
     (Khoét vách đào tường chí những đâu,
Ngàn muôn mưu kế luống tham cầu.
Của người dù có đời nay được,
Đời khác luôn làm kiếp ngựa trâu).
Đức Thầy nay cũng từng bảo:
    Tuy lưới trời thưa rộng thinh thinh,
Chớ chẳng lọt những người hung ác”.
     (Cho Bà Năm Cò)
ĐUỐC HUỆ: Ánh sáng của trí huệ. Bởi trí huệ có công năng chiếu phá vô minh, ví như ánh đuốc soi chỗ tối tăm.
Kinh Niết Bàn Phật nói:“Nhữ ư Phật tánh do vị minh liễu. Ngã hựu huệ cụ năng vị chiếu minh.”(Các ngươi đối với Phật Tánh còn chưa hiểu rõ. Ta có đuốc huệ, có thể vì các ngươi chiếu sáng).
THÂN TÂM: Lòng sâu kín.
GIAN PHI: Xem chú thích tại tr. 280 Tập 3/3.
VÔ NGHÌ: Không có nghĩa, không đúng lẽ phải.
PHI NGHĨA: Chẳng phải nghĩa, trái với đạo lý, luật pháp. Của phi nghĩa là tiền của chẳng phải nghĩa, tức là lấy của người đem về làm của mình, chớ không phải chính mình làm ra:“Của phi nghĩa có giàu đâu, Ở cho ngay thật giàu sang mới bền.”(Ca dao).
LUẬT NHƠN QUẢ THẬT LÀ CAO VIỄN: Ý nói sự báo ứng của luật nhân quả rất nghiêm minh và cao xa. Nghĩa là, dầu cho đến bậc Vua quan như Lương Võ Đế, cũng không thoát khỏi. Và xa bao thời gian kiếp số cũng vẫn báo đền.
Thuở xưa, có một nhà Vua vào rừng săn bắn, bỗng gặp một Đạo nhân đang tụng kinh, tiếng nghe thâm trầm thảnh thót. Vua sai lính bắt Đạo nhơn đem về bảo làm ca sĩ. Đạo nhơn không biết ca, chỉ biết tụng kinh tiếng Phạn rất hay. Vua nghe thích lắm, mỗi khi có yến tiệc hay tân khách đến, Vua thường kêu Đạo nhơn ấy ra giúp vui.
Hôm nọ có người thương buôn vốn là Cư sĩ ở nơi phương xa đến, đem bảo ngọc hiến Vua để xin mang hàng hóa vào nước bán. Vua mừng rỡ tiếp đãi khách và kêu Đạo nhơn ra ca. Thương khách nghe ca sĩ tụng kinh Đại thừa thâm nghĩa lấy làm lạ, liền hỏi Vua về căn tích của người ca sĩ.
Sau khi mãn tiệc, thương khách đem một ngàn lượng vàng dâng Vua xin chuộc Đạo nhơn. Vua không bằng lòng, đôi bên mặc cả đến ba ngàn lượng, Vua mới ưng thuận giao Đạo nhơn cho thương khách.
Thương khách mừng rỡ lễ bái Đạo nhơn và bạch:
-Tôi đã chuộc Ngài ba ngàn lượng vàng nơi Vua, từ đây Ngài khỏi phải làm ca sĩ trong Hoàng cung nữa.
Đạo nhơn dùng thần thông bay lên đứng giữa hư không đáp:
-Chính nhà ngươi đã tự chuộc cho mình, chẳng phải chuộc cho ta đâu. Giữa sự ngạc nhiên của Vua quan và dân chúng, Đạo nhơn nói tiếp:
Thuở xưa, cách đây vô số kiếp, nhà vua là người bán rau hành, lúc ấy ngươi đến mua còn thiếu ba tiền, chủ không chịu bán, ta đứng ra lãnh nợ cho ngươi. Về sau ngươi không trả, mãi đến nay ba tiền đó vốn lời cốn lên tới ba ngàn lượng vàng đấy. Còn ta vì lãnh nợ cho ngươi, nên mới bị nhà Vua bắt giữ bấy lâu nay.
Vua, Quan và thương khách nghe xong, thảy đều kinh hãi. Vua hối quá làm lễ thọ giới qui y. (Phỏng theo Tòng Lâm Cổ Tích của Như Sanh).
Đọc câu truyện trên chắc ai cũng thấy tiền thân của nhà thương buôn chỉ giựt có ba tiền từ nhiều tiền kiếp trước mà nay phải trả lại số vàng gấp ba ngàn lần nhiều hơn. Cổ Đức từng bảo:
Xuân một hạt giống, Thu gặt ngàn thóc mễ,
 Người đời tạo giữ lành, Quả báo y như thế”.
Kinh Phật cũng từng chép:
“Giả sử bách thiên kiếp, Sở tác nghiệp bất vong
 Nhơn duyên hội ngộ thời, Quả báo hoàn tự thọ”.
(Cái nghiệp tạo ra dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng chẳng mất. Khi nhân duyên đến rồi thì nhân nào dẫn theo quả nấy).
BỀN CHÍ: Cũng gọi là chí bền. Có nghĩa ý chí vững chắc, cứ mãi hoài như vậy dầu gặp việc khó khăn hay thời gian dày đặc cũng chẳng hề thay đổi lập trường, ý chí của mình.
Kinh Bốn Mươi Hai Chương có chép: Một vị Sa môn hỏi Phật: -“Pháp nào là hay nhứt và lớn nhứt ?” Phật dạy: Giữ bền chơn tánh, thực hành Đạo giác ngộ là hay nhứt, chí hướng bền vững cùng hợp với Đạo là lớn nhứt”.
Đức Lục Tổ cũng bảo:
    “Nếu bền lòng như lấy lửa cọ cây
Nơi bùn lấm nở đầy sen đỏ”.
Và ông Thanh Sĩ, một đệ tử của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nói:
    “Nuôi trong lòng một chữ bền,
Mọi điều chi cũng làm nên dễ dàng”.
  
  CHÁNH VĂN
557.   Ác thứ bảy Sát-Nhơn gây vạ,
    Tánh hung-hăng đâm chém chặt bầm. 
    Chất-chứa điều hung dữ trong tâm, 
560.   Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
    Viết đến đây động lòng rào-rạt, 
    Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân. 
    Nào kể chi là đạo Quân-Thần,  
564.   Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
    Lúc nguy-cơ tớ mong hại chủ,
    Trò giết thầy tội ấy đáng không. 
    Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng, 
568.   Niềm huynh-đệ cùng nhau xâu-xé.
    Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ, 
    Giành của tiền cốt-nhục giết nhau. 
    Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào, 
572.   Tình nhơn-loại phân chia yểm-bách.
    Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách, 
    Tưởng rằng mình như thế là ngoan. 
    Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn, 
576.   Chớ sát hại mạng người như thế.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 557 đến câu 576) :
-Đến tội ác thứ bảy là những hành động giết hại mạng sống của chúng hữu tình (sát sanh). Đây thuộc về phần Thân nghiệp và là ác thứ bảy trong Thập ác.
Trước nhứt, Đức Thầy luận giải về hành trạng của người đối với người. Là nhân loại, lúc sơ khởi ai cũng có tánh lành cả, song vì nghiệp mê ràng buộc, cộng với sự ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh mà lòng người trở nên hung dữ. Hột giống ác hung ấy đã huân tập trong tiềm thức đã lâu đời, nên nay vừa sanh ra và lớn lên là họ muốn sát hại. Tâm hiếu sát nầy đối với bất cứ là ai, khi được thế là họ thi hành ngay, không hề nghĩ đến tội phước hay nhân quả báo ứng, miễn đem lại danh lợi cho cá nhân hay gia đình, dân tộc họ là được.
Vì thế khi viết đến đoạn nầy Đức Thầy động mối từ tâm, xót thương cho những kẻ tạo ra cảnh huống giết hại đau thương rồi sẽ vương mang tội khổ. Họ đành quên ơn bội nghĩa, chẳng gìn Đạo lý luân thường, tình trạng tôi giết chúa, con giết cha thường xảy ra nơi trào nội để tranh đoạt tước quyền tài sắc giữa nhau.
-Lại còn hạng tôi tớ thừa cơ giết chủ, học trò phản phúc nỡ hại Thầy, vợ chồng tiêu diệt lẫn nhau; anh em cốt nhục lại gây cuộc tương tàn tương sát, tất cả chỉ vì muốn chiếm đoạt danh, lợi, tình mà diễn ra thảm trạng ê chề tội lỗi.
-Thế cũng chưa hết, mẹ với con là mối tình thiêng liêng cao cả nhứt mà cũng lắm kẻ không nghĩ đến, nỡ đang tay hại mẹ. Ngoài ra còn đối với đồng bào, chủng loại cũng rất tương quan mật thiết, bởi họ đã từng đùm bọc, giúp đỡ để bảo vệ sự sống còn cho nhau, song vì lòng ngã chấp và tư lợi mà người ta cũng bức hiếp, giết hại lẫn nhau.
-Trong khi hành động tội ác, lòng họ luôn kiêu căng tự đắc, cho rằng mình lấn lướt giết hại  như vậy thì có tài trí hơn người ? Họ không ngờ hành trạng hung ác ấy là nghiệp nhân oan trái, rồi phải bị luân chuyển trả vay mãi trong cõi Ta bà thống khổ. Kinh Sa Di Thập Giới có nói: Nghiệp báo oan gia đã kết buộc trong đời nầy, sự trả vay, vay trả biết bao giờ cho hết được.(Oan nghiệp kỳ kết ư kim sanh, tắc thù báo thế thế bất dĩ).
 CHÚ THÍCH :
SÁT NHƠN: Cũng viết là sát nhân. Có nghĩa giết hại mạng sống của loài người. Đây là một phần nghĩa của ác sát sanh (một trong Thập ác và Ngũ giới cấm). Bởi sát sanh là giết hại mạng sống của cả loài người và các loài vật. Ai vi phạm ác nầy có tai hại rất lớn, như trong “Đại luật”, Phật có nói:“Người phạm tội sát sanh có mười điều họa hại:
1- Thường chứa độc trong tâm, đời đời không dứt.
2- Người đời chán ghét, mắt chẳng muốn ngó.
3- Tâm thường niệm ác và nghĩ những việc tà.
4- Người đời thấy sợ như sợ rắn hổ.
5- Khi ngủ hay giựt mình, lúc thức tâm chẳng yên.
6- Thường thấy chiêm bao hung dữ.
7- Khi mạng chung, chết một cách ghê gớm.
8- Gây nghiệp nhơn chết yểu về đời sau.
9- Mạng chung bị đọa vào Địa ngục.
    10-Khi hết khổ ở Địa ngục, sanh lên kiếp người còn phải bị chết oan. Thế há chẳng răn dè ư !”
HUNG HĂNG: Nghĩa của chữ lung lăng, tức tánh ngang tàng dữ tợn.
ĐẮC THẾ: Được thế, lúc gặp thế.
HẠ SÁT: Xuống tay sát hại. Ví dụ: Nỡ lòng sát hại.
RÀO RẠT: Xao xuyến thương cảm. Bởi bực siêu nhân khi cảm xúc những nỗi thương xót, mối từ tâm phát động, sôi nổi rất mạnh, dường như gió thổi sóng xao, thế gọi là rào rạt. Tuy động tâm, nhưng phát động đều đúng tiết thì gọi là “Hòa” chớ không phải động. Do câu:“Hỷ nộ ai lạc chi vị phất vị chi trung, phát nhi giai trúng tiết vị chi hòa.”(Trung Dung) .
BỘI BẠC: Bạc bẽo, không nhớ ơn. Ở quấy với những người mình đã thọ ơn.
THÂM ÂN: Ân nghĩa đã thọ rất sâu thẳm lớn lao, khó mà đền đáp cho hết được. Do câu:“Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực.”(Muốn báo ơn sâu trời cao không cùng). Những ân sâu nầy chỉ cho Ân Tổ tiên Cha mẹ, Đất nước, Tam bảo và Đồng bào nhân loại…Đức Thầy từng dạy:
Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương.”(Sa Đéc).
QUÂN THẦN: Vua tôi. Đây là Đạo “Vua Tôi”, một trong ngũ luân. Đức Thầy hằng khuyên:“ Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ.”(Không Buồn Ngủ).
CON ĐÀNH SÁT PHỤ: Con nỡ giết cha. Ý nói cha mẹ là đấng sanh dưỡng, công lớn như trời biển, thế mà kẻ làm con lại đành giết hại để giành giựt lợi danh quyền tước.
XÂU XÉ: Tranh giành, xung đột với nhau. Ý chỉ tình cảnh giữa anh em, thân tộc, quốc gia giành giựt chém giết lẫn nhau. Đức Thầy thường bảo:“Xâu nhau đặng có tranh ăn.”(Bóng Hồng).
Hoặc:“Gió Á mưa Âu bùng sấm dậy,
Hãi hùng tranh chiến xé xâu nhau.”(Xé Xâu Nhau).   
CỐT NHỤC: Xương và thịt. Ý nói tình cha mẹ, anh em rất chí thân như xương với thịt.
ĐỒNG BÀO: Cùng một bọc, một bào thai sanh ra. Chữ Đồng bào có hai nghĩa:
-Những người cùng sống chung một vòm trời một dòng đất hay một giống dân. Ấy gọi là Trời cha Đất mẹ.
-Riêng về nước Việt Nam thì do điển tích bà Âu Cơ vợ của Lạc Long Quân, sanh ra một cái bọc, có trăm trứng và nở ra một trăm người con. Tương truyền một trăm người con ấy, sản sanh giống dân Việt Nam, nên từ đó dân tộc Việt Nam đều gọi nhau bằng Đồng Bào. Đức Thầy thường kêu gọi: Hỡi đồng bào! Hỡi đồng bào!” (Khuyến Nông).Và:“Đồng bào ai nỡ dứt tình.”(Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh).
TÌNH NHƠN LOẠI: Tình người, tức mối tình giữa loài người với nhau rất tương quan mật thiết, lúc nào cũng có lòng thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, không phân biệt màu da chủng tộc. Tục ngữ có câu:“Chữ rằng: thố tử hồ bi, Huống người là giống tinh vi ở đời.
Đức Thầy nay cũng dạy giữa nhân loại phải biết thương nhau:“Nếu thiệt người thì biết thương người.”(GMTK, Q.4). Và:
“Ví như loại sanh cầm hồ thố,
   Còn thương nhau lại huống chi người.
  (Diệu Pháp Quang Minh)   
YỂM BÁCH: Yểm là che lấp; bách là áp bức, làm ngặt. Nói chung là dùng thế lực dìm che, đàn áp người một cách thắt ngặt.
SANH VẬT: Mạng sống của loài người và các loài vật khác.
KIÊU CÁCH: Tư cách kiêu hãnh, khinh người, kiêu căng tự đắc.Ví dụ: Cử chỉ kiêu hãnh, nói năng kiêu cách. Đức Thầy hằng khuyên trong bài “Nang Thơ Cẩm Tú”:
    “Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu cách,
Các con lành khá chọn ngay đường”.
VIỆT ĐÀN: Cũng gọi là Đàn Việt, Phạn ngữ: Dânapati. Việt có nghĩa vượt qua, Đàn là bố thí hay thí chủ. Ý nói người có tín tâm tu hành hay làm việc bố thí thì được vượt qua biển khổ sanh tử. Đây chỉ chung cho giới tu hành. Truyện Kiều có câu:
    “Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa già”.
MẠNG NGƯỜI: Mạng sống của con người.

    CHÁNH VĂN
577.   Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
    Gẫm Thánh-Thần đâu có tư riêng. 
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền, 
580.   Hoặc hiện kiếp làm điều bạo-ác.
    Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,  
    Lo thuốc thang khẩn-vái Phật Trời. 
    Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời, 
584.   Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả. 
    Đấng Thần-Minh công bình trực dạ,
    Đâu ăn lo đổi họa làm may. 
    Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này, 
588.   Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
    Chẳng biết thân còn toan chứa đựng, 
    Quả bất lành chưa trả vay thêm. 
    Cầu cho đời sóng lặng gió êm, 
592.   Đặng bá-tánh an-nhàn tu niệm.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 577 đến câu 592) :
-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyên không nên sát hại mạng người, đoạn nầy Ngài luận đến người đối với thú cầm sanh vật.
Sở dĩ loài người hay giết các sanh vật là vì sự ăn uống, sự vui thích và sự cúng tế. Song ở đây với giai đoạn đầu của người tu, Ngài chỉ đề cập đến phần cúng tế. Việc sát vật cúng tế Thần Thánh để cầu cho tiêu tội, Ngài cấm tuyệt, vì Thánh Thần không riêng vị một ai và các Ngài cũng không bao giờ dùng các thức ăn của thế gian. Nếu ta còn làm thế là mê tín, càng cúng càng thêm mang họa hại.
-Còn việc cúng tế Tổ Tiên cha mẹ thì Đức Thầy cũng tùy theo trình độ và lòng nhân của mỗi tín đồ mà khuyên họ nên bỏ bớt sự sát hại sanh vật dần dần cho đến khi dứt hẳn. Hãy xét rằng sự bệnh tật của mỗi người là do nghiệp sát mà ra (kiếp trước hay kiếp hiện tại chứa lòng hung dữ sát hại hoặc đánh đập các sanh vật).
-Giờ đây muốn khỏi cơn khổ vì bịnh tật,  bệnh nhơn phải biết hối cải các hành động sát hại thuở trước và tự nguyện từ đây không còn tái phạm để lo trau giồi phước hạnh, bố thí phóng sanh và đáp đền bốn ân lớn. Đồng thời cần lo trị liệu thuốc men, cầu nguyện  Phật Trời một cách thành kính thiết tha hầu được các Ngài nhủ lòng từ bi mà gia hộ giúp bịnh tình  mau thuyên giảm:
    Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam lổ Phật ban.”
  (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
-Vả lại, các đấng thần linh trước kia vốn là một con người có lòng trung cang nghĩa khí, chánh trực công bình mà nên ngôi vị  thì lý đâu còn dùng vật lo lót mà đổi họa ra phúc hay sao ? Vậy mỗi người nên lấy tâm sáng suốt suy xét vấn đề nầy cho chính xác; bởi do luật nhân quả mà mọi việc lành dữ của mình đều được báo ứng phước tội về sau.
-Do đó, nên biết những người hiện giờ gặp phải tai họa ốm đau là do đã gieo nghiệp bất lành từ trước; giờ đây, nếu họ lại giết hại thêm  thì mối nợ cũ chưa đền xong lại còn tiếp tục vay thêm nợ mới. Ôi ! Nhân tàn sát đã gieo thì quả chiến tranh, bệnh tật làm sao tránh khỏi ! Bởi lòng từ bi, Đức Thầy cầu mong mọi người sớm dứt nghiệp sát sanh hại vật để thế giới được hoà bình và bá tánh được an nhàn tu niệm.

CHÚ THÍCH :
GIẾT VẬT: làm chết mạng sống của các loài thú như: Trâu, bò, gà, vịt, heo, chó…Kinh Luật Chuyển Ngữ Đạo nói:“Ví như hí sát giả, hậu sanh tác thủy thương phù du chi trùng, triêu sanh mộ tử.”(Phàm làm người mà ưa sát sanh hại vật, đời sau phải làm con phù du chập chờn trên mặt nước, hễ sớm mai sanh ra thì chiều lại phải chết). Đức Lục Tổ đã khuyên:“Muôn loài đều có Đạo, chớ sát hại loài nào”.
CÚNG TẾ: Đem đồ vật đặt lên bàn thờ mà vái  lạy. Cúng tế có hai phần: Cúng tế Tổ tiên Cha mẹ và cúng tế Thần Thánh Trời Phật.
GẪM THÁNH THẦN ĐÂU CÓ TƯ RIÊNG: Người đời thường lầm tưởng Thần Thánh cũng như kẻ thế gian: bất công ham ăn của hối, nên đem lễ vật cúng tế để cầu cho được việc nọ, việc kia. Điều đó rất sai lầm huyễn hoặc. Kinh Minh Thánh từng bảo:“Thiên Địa vô tư, Thần Minh ám sát; bất vị tế hưởng nhi giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa.”(Trời đất không tư vị một ai, đấng thần minh âm thầm xem xét rõ ràng, chẳng vì cúng tế mà xuống phước, cũng chẳng vì thất lễ mà xuống họa).
Xét theo đây thì việc cúng tế Ông bà Cha mẹ, Đức Thầy cũng tùy theo trình độ tu tiến của mỗi người mà khuyên bớt sát vật lần lần cho đến khi cử hẳn. Còn việc cúng tế Thần Thánh thì tuyệt đối không nên giết một con vật nào, dù là rất nhỏ, vì Ngài đã dạy:“Không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm cho hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.”(Lời Khuyên Bổn Đạo, SGTVTB 2004, tr. 214-215).
CĂN TIỀN: Cội gốc phước hay tội đã gây từ những kiếp trước. Đây chỉ cho gốc tội do ác sát sanh. Kinh Phật từng bảo: Những người kiếp nầy bị chết yểu hay nhiều bịnh, đều do nghiệp sát sanh của đời trước trả lại (Kim sanh đoản mạng đa bịnh giả, giai tùng sát nghiệp trùng lai).
HIỆN KIẾP: Kiếp sống trong hiện tại.
BẠO ÁC: Hung dữ ác độc. Ý chỉ cho tánh hung hăng hay chém giết người và đánh đập sát hại các thú cầm sanh vật.
ĂN NĂN: Xem chú thích tại tr. 34 Tập 2/3.
PHƯỚC ĐIỀN: Ruộng phước, ý chỉ sự tu phước, như: bố thí, giúp đời làm các việc từ thiện. Bởi các việc ấy có năng lực tăng trưởng phước đức cho nhà tu. Như nhà nông gieo lúa xuống ruộng tốt, đến mùa thu hoạch lúa được nhiều. Kinh Phật dạy có ba miếng ruộng tốt nhất.
1- Ân điền: Cũng gọi là “báo ân phước điền”. Có nghĩa: đáp ơn rộng lớn của Tổ tiên cha mẹ.
2- Kính điền: Cũng gọi là “Công đức phước điền”. Có nghĩa: đền đáp hồng ân Tam Bảo (Phật Pháp Tăng).
3- Bi điền: Cũng gọi là“Từ bi phước điền”. Có nghĩa: Mở lòng thương yêu và cứu tế vạn loại chúng sanh.
TẠO TÁC: Gầy dựng, làm nên, lập ra.
TỪ BI HỶ XẢ: Đây là “Tứ vô lượng tâm”. Có nghĩa là bốn tâm đức rộng lớn của chư Phật và hàng Bồ Tát, bởi không thể so lường được nên gọi là vô lượng. Cũng viết là: Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả.
1/-Từ vô lượng tâm là tâm ban cho chúng sanh những điều vui vẻ.
2/-Bi vô lượng tâm là tâm cứu vớt chúng sanh thoát khỏi khổ não, sanh tử luân hồi.
3/-Hỉ vô lượng tâm là thấy chúng sanh thoát khổ, được vui thì hết lòng vui mừng theo.
4/-Xả vô lượng tâm là tâm tuy  cứu vớt chúng sanh, nhưng không hề chấp trước.
Bốn đức này Đức Thầy có giải:   
1)-Đức Từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não.
2)-Đức Bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe, làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng.
3)-Đức Hỷ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã.
4)-Đức Xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền trần, tha thứ hết thảy những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh, tài sắc, nhìn cõi đời chẳng sanh lòng luyến ái.”(Chư Phật Có Bốn Đại Đức, SGTVTB 2004, tr. 452-453).
Tứ Vô Lượng Tâm có hai thứ:
1-Tứ vô lượng tâm thế gian: Bực Bồ Tát thi hành bốn đức từ, bi, hỉ, xả giúp ích cho người để độ họ biết tu hành và phát tâm nguyện tu thành Phật.
2-Tứ vô lượng tâm xuất thế gian: Bậc Phật làm xong bốn đức ấy để độ thoát những người tu hành, đến đó cũng gọi là “Tứ đại vô lượng tâm”.
Trong Tứ đại vô lượng tâm lại có hai bực:
Tu được ba đức: Từ, Bi, Hỉ thì chứng “Cực ái như nhứt tử địa”, tức địa vị của bực thương tất cả chúng sanh như nhau, tỷ như con một của mình.
Tu thêm đức Xả thì chứng được “Không bình đẳng địa”, tức địa vị của bực đã đắc lý không khôngbình đẳng, là chẳng còn phân biệt cha mẹ, vợ con, anh em, thân tộc, oán thù, v.v…Cũng chẳng còn thấy ấm, giới, nhập, chúng sanh thọ mạng (giả).
Đức Thầy hằng dạy tín đồ:
Học câu hỉ xả đại từ,
Nêu gương nghĩa sĩ, dạ tư chớ gần.”Thiên Lý Ca)
THẦN MINH: Bực Thần Thánh đã sáng suốt, biết rõ tâm niệm của mỗi chúng sanh. Sách Thánh có câu:“Nhơn gian tư ngữ thiên văn như lôi, ám thất khuy tâm thần mục như điển.”(Lời nói riêng của nhân gian, trời nghe như sấm nổ, lòng tính quấy trong nhà kín, mắt thần xem như điển chớp).
CÔNG BÌNH: Xem chú thích tại tr. 36, Tập 3/3.
TRỰC DẠ: Lòng ngay thẳng thanh liêm.
TÂM LINH: Xem chú thích tại  tr. 235 Tập 2/3.
ĐIỀU HỌA PHƯỚC ẤY CƠ BÁO ỨNG: Câu nầy ý nói các điều họa hay phúc mình đang thọ hưởng hiện giờ là cái nghiệp mình đã gây tạo vừa qua, giờ nó trả lại. Kinh Minh Thánh  bảo: Những sự làm lành lánh dữ, việc báo ứng như bóng theo hình; đừng nói làm dữ không báo, vì còn đợi chuỗi ác cho đầy đủ mới thấy; đừng nói làm lành không ứng, chỉ còn chờ quả thiện cho tròn mới hay.(Tạo tác thiện thiện ác ác, như ảnh tùy hình; mạc đạo tạo tác bất báo, trực đãi ác quán mãn dinh; mạc đạo tu thiện vô ứng, trực đãi thiện quả vô thành).
Cách đây chẳng xa, có anh Trần Văn Tám, người ở xã Phong Mỹ, Quận Cao lãnh (Kiến Phong – Nam phần Việt Nam), vào đầu năm 1947, anh di cư vào Đồng Tháp Mười để tránh nạn giặc Pháp ruồng bố.
Hôm nọ, có người đem bán con rùa nhỏ bằng cái chén, anh liền mua để phóng sanh. Trước khi thả rùa, anh có khắc tên họ và ngày, tháng, năm trên lưng của nó. Đến năm 1954 anh lên Sài Gòn mua bán càng ngày càng khá nên mua được chiếc xe tải loại chở hàng hóa. Anh thường chở hàng mướn xuống các tỉnh miền Tây.
Vào cuối năm 1967, anh giao hàng tại tỉnh lỵ Ba Xuyên (Sóc Trăng). Sáng sớm, trên đường xe trở về Sài Gòn, đến khoảng vắng hai bên toàn là đồng ruộng; anh chợt thấy con rùa lớn hơn trái dừa đang bò ngang giữa đường. Vì sợ xe cán con rùa nên anh Tám nắm tay tài xế bảo dừng lại, anh nhảy xuống bắt rùa định thả xuống mương lộ. Song anh rất ngạc nhiên khi nhìn thấy các lằn chữ: tên họ và ngày, tháng, năm thả rùa mà anh đã khắc lúc nọ. Anh vừa vuốt ve rùa, vừa nghĩ: đã 20 năm qua con rùa lớn như thế nầy và từ Đồng Tháp sao nó bò tới đây thật cũng lạ. Anh liền kêu tài xế xuống, giải thích cho nghe rồi đem rùa thả xuống mương lộ.
Khi ấy trên đường một chiếc xe tải hàng khác và hai chiếc xe Lam, qua mặt xe anh chạy trước một đỗi, bỗng bị cán cốt mìn nổ tung, ba chiếc xe bị lật xuống ruộng, người chết, kẻ bị thương nằm chung quanh.
Anh Tám giựt mình nhớ lại, nếu không nhờ gặp con rùa lúc nãy thì mình và chiếc xe cũng đã tiêu mất rồi. Anh hồi tưởng lúc trước mình chỉ phóng sanh một con rùa mà bây giờ nó cứu lại cả hai mạng sống và chiếc xe, nghĩ công nó nhiều hơn mình gấp bội. Khi về tới nhà anh Tám thuật lại cho vợ nghe, vợ chồng đều rơi nước mắt, cảm thương con vật biết ơn. Từ đó vợ chồng anh Trần văn Tám càng thương người mến vật và tinh tấn tu hiền hơn lúc trước. Chuyện xảy ra thật đúng với câu:“ Điều họa phước ấy cơ báo ứng”.
SÓNG LẶNG GIÓ ÊM: Gió hết, sóng chẳng còn. Thành ngữ nầy ngụ ý mong cho đời dứt chiến tranh để thế giới sớm được thanh bình, bá tánh an cư lạc nghiệp. Bởi có gây nghiệp sát sanh mới có quả chiến tranh, chết chóc; cũng như có gió thì sóng mới nổi lên. Cổ nhân thường bảo:
    “Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia gia hộ hộ đồng tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái bình”.
(Kệ của Từ Thọ Thiền Sư)
     (Tất cả chúng sanh không nghiệp giết,
Mười phương nào có động đao binh,
Nơi nơi chốn chốn đồng tu niệm,
Sanh chúng yên vui hưởng thái bình).

   CHÁNH VĂN
593.   Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,  
    Muốn bao gồm của thế một mình. 
    Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh, 
596.   Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
    Thấy của người thèm khô nước miếng, 
    Tính làm sao lường gạt lấy đi. 
    Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
600.   Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
    Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa, 
    Của thế trần như mật dính dao. 
    Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào, 
    Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
    Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn, 
606.   Nhắm mắt rồi đâu có mang theo. 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 593 đến câu 606) :
-Đến tội ác thứ tám là lòng tham lam độc ác, đây thuộc phần ý nghiệp. hành trạng của nó là lòng tham gian quá độ, muốn sao tóm hết tiền của trong thế gian về làm của mình. Nào lâu đài dinh thự, ăn mặc sung sướng, thân thế vang danh, tước quyền sang cả, nào:“Tiền nhiều đất rộng cò bay mút đồng..(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện).
-Hễ thấy ai có nhiều tiền của thì lo tính mưu kế gạt lấy cho bằng được. Với lòng ham muốn ấy chẳng biết sao cho vừa, càng có của lại càng tham hơn, chẳng khác nào cái túi cao su, dồn vào bao nhiêu cũng chẳng thấy đầy. Người có lòng tham họ bất kể hành động ra sao, tài vật tốt hay xấu đều muốn dồn hết về cho mình.
-Để cảnh tỉnh số người ấy, Đức Giáo Chủ nhắc lại lời của Đức Phật khi xưa:“Sắc đẹp với giàu sang, hai thứ ấy như mật dính trên lưỡi dao, những người tham ngọt kê lưỡi liếm, nên bị đứt. Kẻ nào ham danh lợi, tất phải chết vì lợi danh như thế đó”. Nay Đức Thầy cũng hằng cho biết, trong bài “Luận Việc Tu Hành”:
    “Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
  Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.
Hoặc trong bài “Ai Người Tri Kỷ”:
    “Bá tánh say sưa mùi phú quí,
    Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao.”
Nếu ai mãi tham đắm của thế, đến khi vương cảnh khổ mới hối hận ăn năn thì việc rất muộn.
-Đức Thầy ý thức cho bá gia được rõ, những tài vật trong thế gian đều là tạm giả, như hạt sương buổi sáng mau rã mau tan. Hiện giờ dầu ta có ham muốn, dùng đủ mưu gian kế độc giành lấy tiền của cho nhiều, nhưng đến khi tử thần gõ cửa cũng chẳng đem đặng vật nào, lại còn vương mang tội khổ để rồi phải luân chuyển báo đền.

CHÚ THÍCH :
THAM HIỂM: Tham (Scr: Kama Mdhymâgama), có nghĩa: ham muốn thái quá. Hiểm là độc ác. Nói chung là lòng quá ham muốn về vật chất, như: danh, lợi, tình…và hành động ác độc để tóm thâu các thứ ấy về mình. Bởi nó là một tội ác trong ý nghiệp, nên gọi là lòng tham hiểm. Thêm nữa, kẻ có lòng tham thường hay ganh ghét đố kỵ những người có tài đức hơn mình. Cho nên tánh tham lam đi cập với tật đố. Kinh Phật thường liệt nó là một trong tam độc hay ba món phiền não căn bản (Tham, Sân, Si). Nó cũng  đứng đầu trong năm cái ngu độn (Ngũ độn sử: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi).
Tục ngữ thường nói “Tham thì thâm, dầm thì đen”.
Đức Phật thường cho biết:“Lòng ham muốn là nguồn gốc của mọi thống khổ ở thế gian, cũng là nguyên nhân của sự luân hồi sanh tử”. Và:  “Không có lửa nào bằng lửa tham, không có tội nào bằng lòng đố kỵ ganh ghét”.
Theo ý nầy, ông Thanh Sĩ có luận:
    “Tham vốn là căn nguyên sự khổ,
Tham là mồ vô số sanh linh.
    Tham danh tham lợi tham tình,
   Càng tham càng thấy lòng mình không an.
Tham khi được rồi toan lo giữ,
Rủi mất đi sanh sự rầu buồn.
    Trong lòng cứ rạo rực luôn,
    Phải tham là vốn cội nguồn khổ chăng?”
THÂN VINH: Thân mình được sống trong cảnh giàu sang sung sướng và danh giá hơn người.
THẲNG KIẾNG: Thẳng cánh.
TÚI THAM: Lòng tham của con người quá độ, không ngằn mé, tham hoài được hoài, chẳng biết bao nhiêu cho vừa nên gọi nó là cái túi không đáy. Ngạn ngữ từng nói “Biển sâu dễ lấp, túi tham khó đầy”.
Đức Thầy nay cũng bảo:
    “Dương trần phú trọng bần khinh,
     Mảng lo bươi móc cầu vinh thân phàm.
Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.
  (Từ Gĩa Làng Nhơn Nghĩa)
HỐI HẬN: Giận mình đã làm điều quấy ác, không đúng với lẽ phải, nên rất hổ thẹn, hối tiếc ăn năn.
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt có nói:“Nếu người nào phạm tội nặng mà tự trách lấy mình, ăn năn không tạo nữa thì có thể dứt được những tội căn bản”.
CỦA TẠM: Tài vật tạm bợ, không chắc thật lâu bền. Ý nói tất cả gia tài sự nghiệp đến vợ con, dù ta có gây tạo thật nhiều cũng không bền chắc.
Sách Mãnh Tỉnh có nói:
“Nam lai Bắc vãng tảo Tây Đông,
Khán đắc phù sinh tổng thị không.
Thiên dã không, Địa dã không,
Nhơn sanh yểu yểu tại kỳ trung.
Thê dã không, tử dã không,
Huỳnh tiền thượng lộ bất tương phùng.
Kim dã không, ngân dã không,
Tử hậu hà tàng tại thủ trung”.
    (Xét cho cùng Nam Bắc Tây Đông,
    Gẫm kiếp phù sinh vốn thiệt không.
    Trời cũng không đất lại cũng không,
    Người sanh cõi tạm như mây khói.
    Vợ con cả thảy cũng đều không,
    Trên bước huỳnh tuyền đâu gặp đặng.
    Vàng cũng không, tiền bạc cũng không,
    Chết rồi cũng nắm lấy tay không).
TÀN NHẪN: Nỡ lòng làm việc tàn ác, chẳng chút nới tay.

Đăng nhận xét

[facebook][blogger]

Ẩn Danh Cư Sĩ PGHH 1939

Liên Hệ với PGHH 1939

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget