CHÚ GIẢI QUYỂN NĂM KHUYẾN THIỆN
Chú giải từ câu 607 – 776 (Quyển 5 Khuyến Thiện)
CHÁNH VĂN
607.Tham tiền tài
thường vướng nạn eo,
Tham sắc đẹp nhà
tan cửa nát.
Lúc tận số nằm
trơ một xác,
Gẫm kim-tiền
bội-bạc bất tài.
Không làm cho ta
được sống dai,
612.Lại chẳng bước
tiễn đưa một bước.
Thà nghèo thanh
hơn giàu mà trược,
Lo vun-trồng cội
phước về sau.
Muốn trừ tham
phải liệu cách nào,
616.Phải bố-thí diệt
lòng ích-kỷ.
Tâm chánh niệm
thường thường suy nghĩ,
Vật ở trần như
bọt nước làn mây.
Thân Ta còn rày
đó mai đây,
LƯỢC GIẢI (Từ câu 607 đến câu 620) :
-Đoạn giảng trên Đức Thầy tiếp tục luận giải về tai hại của ác
tham lam. Những kẻ vì quá ham tiền của nên phải lâm vòng tai nạn, cửa nát nhà
tan, không sao kể xiết. Xưa nay sử sách hằng ghi chép, cũng vì tham tiền của mà
các nước gây cuộc chiến tranh, tạo nên cảnh cơ hàn chết chóc cho nhân loại.
Hàng quan lại vì tham sự nghiệp tước quyền mà đưa đến cảnh hại nhà, bán nước.
Nhỏ hơn nữa là hạng gian phi cũng vì tham nên mang tội trộm cướp, giết người.
Còn sự đam mê sắc đẹp làm cho cơ đồ danh thể tiêu tan thì có ai lạ gì với các
nhà vua: Kiệt, Trụ, U…Đến như kẻ tu hành mà còn tham sắc thì khó mong thoát
vòng sanh tử.
-Xét ra, bạc vàng và sắc đẹp dù ta có tạo được, nhưng đến phút từ
biệt cõi đời thì bao nhiêu sự nghiệp, của tiền, vợ đẹp, con ngoan đều phải để
lại cho kẻ khác làm chủ và sai khiến. Bấy giờ ta mới biết những sự vật ấy chẳng
giúp ta kéo dài thêm kiếp sống và giúp đưa tiễn ta thêm một bước nào.
-Vậy để giải trừ ác tham lam, trước hết Đức Thầy khuyên mọi người:
thà sống trong cảnh nghèo túng mà lòng luôn được sạch trong và giữ tròn tiết
tháo, còn hơn kẻ sống trong nhung lụa mà tâm mãi bợn nhơ. Vậy hãy lo trau sửa
thân tâm, tô bồi phước hạnh để sau nầy cội lành đặng đơm bông kết quả.
-Kế tiếp, Ngài đưa ra hai phương cách diệt trừ lòng ham muốn: Một
là Bố thí, tức đem bạc tiền cơm áo, thuốc men chu cấp những kẻ nghèo đói,
bệnh tật, hoặc đem Kinh pháp giác tỉnh người biết tu hành, hay dùng phương tiện
giúp người khỏi cơn sợ hãi. Trong lúc giúp ích cho đời, hành giả không nên khởi
tâm mong cầu danh lợi hay phước báo và cũng chẳng phân biệt giữa người bố thí
với kẻ thọ thí mà chỉ vì lòng từ mẫn và bổn phận vậy thôi. Được thế thì lòng vị
kỷ tham lam sẽ dứt hẳn. Phương pháp thứ hai là dùng tâm tưởng nhớ chơn chánh
để xét rằng vạn vật trong thế gian như làn mây bọt nước, dễ rã dễ tan. Đến
như thân xác của ta do bốn chất: đất, nước, lửa, gió hợp thành nên không thể
giữ còn mãi được mà một ngày nào đây nó sẽ tan biến. Đã nhận rõ thân xác nầy
không thật của ta thì bao nhiêu gia tài sự nghiệp, vợ đẹp con ngoan hay danh vị
tước quyền kia cũng chỉ là ảo mộng và tất cả đều đi theo định luật hợp tan. Nếu
ai quán xét được như thế, tất màn lưới danh, lợi, tình không còn trói buộc
trong luân hồi khổ lụy. Bấy giờ nhà tu sẽ được thung dung trên bước đường giải
thoát: “Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao.”(Khuyến Thiện,
Q.5).
CHÚ THÍCH :
THAM TIỀN TÀI THƯỜNG VƯỚNG NẠN EO: Người quá tham muốn tiền của bạc vàng, làm
điều bất chánh nên thường gặp nhiều tai nạn.
Xưa kia, ông Bàn Công Cư Sĩ vốn người giàu sang lại sẵn lòng Bố
thí. Mỗi khi có ai đến xin hoặc mượn tiền của, ông bảo hai người bạn vào mở tủ
lấy vàng bạc trao cho họ.
Hai người bạn ấy có lòng tham, nên mỗi lần mở tủ đều lấy
riêng một ít vàng bạc đem giấu trên núi. Lâu ngày số vàng đó rất nhiều, hai
người cùng nhau toan tính đến xin ông Bàn Công cho nghỉ việc. Ông vui vẻ bằng
lòng còn cho hai người thêm một số tiền của khá nhiều.
Hai anh từ gĩa gánh đồ ra đi, họ cùng nhau phân công: một người
lên núi trước, một người xuống chợ mua rượu thịt mang lên cùng vui một tiệc rồi
sẽ chia vàng ra về. Lúc đó, anh đi chợ suy nghĩ: số vàng ấy chia cho bạn mình
phân nửa rất uổng, chi bằng tìm cách giết nó đi. Anh liền vào tiệm ăn uống no
say, rồi mua thuốc độc tẩm vào thức ăn khác, xách về thuốc anh trên núi. Còn
anh trên núi cũng nghĩ như thế, nên bẻ cây núp vào bụi rậm dựa lề đường, chờ
anh đi chợ về ngang đập một cây thật mạnh. Bị đánh bất ngờ anh đi chợ tránh
không kịp nên ngã lăn vẫy chết. Anh kia nhảy ra lôi xác bạn ném vào bụi kín,
rồi thâu lượm thức ăn tiến lên chỗ giấu vàng. Với ý định ăn uống xong sẽ đào
lấy vàng ra về, nhưng khi ăn vào bị thuốc độc làm anh đau đớn nhào lộn, thế là
mấy phút sau anh cũng từ biệt cõi đời. Bấy giờ số đồ ăn còn lại, các loài chim
bay ngang đáp xuống ăn cũng bị chết rất nhiều.
Hôm sau, có người trong xóm đi núi phát giác được chuyện đó, về
báo cho ông Bàn Công hay, ông đoán biết mọi việc liền cho người nhà lên chôn
hai xác chết và than rằng “Cũng vì tham vàng bạc mà bao người phải chết, đến
các loài chim bởi tham ăn nên mạng sống chẳng còn.”(Nhơn tham tài tắc tử,
Điểu tham thực tắc vong). Từ đó ông Bàn Công càng gia tăng việc bố thí hơn
trước, và ông có làm bài Kệ tỉnh đời như sau:
“Người đời trọng châu báu,
Ta quí một mảy tịnh.
Tiền lắm lụy lòng người,
Tịnh được thấy chân tánh”.
Đức Thầy hiện nay cũng từng khuyến cáo:
“Tham chi giả tạm của tiền,
Như chim vào lưới xích xiềng trói thân”(Hoài Cổ)
THAM SẮC ĐẸP NHÀ TAN CỬA NÁT: Người ham muốn sắc dục quá độ tất phải tan nhà nát cửa, thân danh
chẳng còn, bởi lòng tham sắc là nguyên nhân của khổ lụy và nguồn gốc của sanh
tử luân hồi. Cổ nhân từng nói:“Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”(Sắc đẹp của
người con gái tuy không phải sóng gió, nhưng dễ nhận chìm được người).
Thời Hậu Đế nhà Minh (Trung Hoa) có nàng Tiểu Nga, nhan sắc tuyệt
trần, chồng là Vương Hóa Chiêu. Hai vợ chồng sống trong cảnh nghèo túng với một
mẹ già, song vẫn được hoà hiếu êm đẹp. Trong xóm lại có chàng Trác Háo Sắc, một
nhà hào phú. Anh thấy nhan sắc của Tiểu Nga quá đê mê nên sanh tà tâm. Háo Sắc
mưu tính đem tiền trợ giúp Hóa Chiêu và kết bạn thân. Hóa Chiêu ngỡ thật nên
thị nhận. Từ ấy lúc nào Sắc cũng tỏ ra là người bạn tốt.
Ít lậu sau Sắc rủ bạn đi buôn xa. Đêm nọ thuyền neo nghỉ giữa sông
vắng, Sắc bày tiệc rượu ép Hóa Chiêu uống thật say, rồi thừa cơ hội xô xuống
nước. Chiêu cố ngoi lên mấy lần, nhưng bị Háo Sắc dùng sào nạng nhận chìm luôn,
rồi giả vờ la khóc ầm ỉ. Các bạn chèo thức dậy ai cũng tiếc thương, nhưng giữa
dòng nước mênh mông khó tìm lại xác thể, đành quay thuyền về báo tin buồn…
Hóa Chiêu chết, Háo Sắc luôn đóng kịch, tỏ ra bi thảm hơn ai hết
và tiếp tục hộ trợ gia đình Tiểu Nga. Mẹ con Tiểu Nga và xóm làng đều tưởng
Chiêu té mà chết thật nên không còn ai nghi ngờ gì nữa.
Thời gian trôi qua hai năm, Sắc mới cậy người hỏi Tiểu Nga làm vợ,
vì đã thọ ơn quá nhiều nên mẹ chồng ép nàng dâu ưng Háo Sắc. Lúc đầu Tiểu Nga
quyết thủ tiết, sau rồi cũng đành chịu. Vợ chồng sống trên 10 năm, sanh được
hai đứa con. Nhân một đêm trăng thanh gió mát, vợ chồng cùng ra bờ hồ hứng
cảnh, rồi bày tiệc ăn uống, ngâm thơ. Bỗng từ dưới hồ sen một con ếch nổi lên.
Tiểu Nga liền lấy cây nạng chọc ếch, ếch lặn xuống rồi lại nổi lên mấy phen như
vậy. Háo Sắc trông thấy nhớ lại cảnh mình giết Hóa Chiêu thuở nọ, nên bất giác
ngâm lên hai câu thơ:
“Hồi ức thập tam niên tiền sự,
Huyên tợ hà mô lục thủy thời”.
(Nhớ lại việc mười ba năm trước,
Mường tượng ngày nay ếch
sật sừ)
Tiểu Nga vừa nghe sanh nghi, liền bảo chồng chép ra để mình họa
lại. Sắc ngỡ nàng chẳng hiểu nên chép lên mảnh giấy, Tiểu Nga suy đoán biết
chắc sự tình, liền nắm Háo Sắc la lớn:“Chính người nầy đã giết chồng trước
của tôi !” Quan lính bắt Háo Sắc tra tấn. Sắc cung khai tự sự và bị kết án
tử hình. Khi chôn xác chồng xong, Tiểu Nga thức suốt đêm suy nghĩ: cũng vì sắc
đẹp của mình mà làm hai người chồng phải chết, đoạn nàng viết thơ để lại rồi tự
sát…
Đọc chuyện trên thấy rằng: Háo Sắc vì tham đắm nhan sắc của Tiểu
Nga mà tiền của tiêu tan, thân chết nơi đao kiếm và danh xấu lưu để nghìn thu.
Song đó là người đời, còn trong giới tu hành nều chưa dứt được lòng nhiễm sắc
thì dù bực tiên gia cũng phải hườn tục, như chuyện Trần Muội Lý và Đoàn Minh
Đạo (sự tích Vọng phu).
Điều nầy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật răn dạy:“Về các
thứ ham muốn không thứ gì tai hại bằng sắc dục. Cái ham vể sắc dục là cái ham
lớn nhứt. Cái ham lớn ấy may chỉ có một. Nếu có cái ham nào cũng to như thế thì
tất cả con người ở dưới gầm trời, không ai có thể tu đắc Đạo được”.
Đức Thầy nay cũng khuyên:“ Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy
mình.”( Sấm Giảng, Q.3). Và:“Sắc mến nó ngày kia lao khổ.”(GMTK,
Q.4).
TẬN SỐ: Hết số mạng, tức chết.
KIM TIỀN: Vàng bạc, chỉ chung về
bạc tiền của cải.
NGHÈO THANH:
Nghèo túng mà trong sạch, không hề tham gian nhơ bợn hay bợ đỡ một ai.
GIÀU TRƯỢC: Giàu
mà nhơ bẩn xấu xa, làm giàu bằng cách gian tham, lường gạt người hoặc hối lộ
nịnh hót mà có của.
CỘI PHƯỚC: Cũng
gọi là cội phúc. Có nghĩa: cái gốc của phước đức, do sự tu hành, làm lành lánh
dữ mà được. “Tu là cội phúc, tình là dây oan”(Truyện Kiều). Đức Thầy
từng khuyên “Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ”. Hoặc là:“Vun
trồng cội phúc chờ mùa trổ bông”.
BỐ THÍ: Xem chú thích tại
tr.177-179, Tập 2/3.
ÍCH KỶ: Xem chú thích tại tr.
73, Tập 2/3.
CHÁNH NIỆM: Xem
chú thích tại tr. 145, Tập 3/3.
CHÁNH VĂN
621.Ác thứ chín
Hận-Sân luận tiếp,
Lửa trong tâm
chẳng đốt mà lừng.
Nổi lôi đình đâu
có định chừng,
624.Cho ta biết mà
toan giữ trước.
Tánh sân-nộ
thường làm bạo-ngược,
Nên loài người ở
cõi thế-gian.
Giận hờn nhau
thù-oán dẫy tràn,
628.Mới có cuộc tranh
tài đấu lực.
Hơn tự-đắc,
khoe-khoang dõng sức,
Phải bị người
hềm-khích ghét-ganh.
Thua hổ-ngươi làm
chuyện bất lành,
632.Gây nghiệp dữ oan
oan tương báo.
Trong cơn giận kể
gì nhơn đạo,
Tỷ như con cọp dữ
trên rừng.
Gặp thịt toan cấu
xé tưng bừng,
636.Phân từ mảnh mới
là thỏa dạ.
Diệt được nó tâm
trần thong-thả,
Ta thường nên tập
tánh khoan-dung.
Thiệt-hành đi
đừng có ngại-ngùng,
640.Tha-thứ kẻ lỗi
lầm ngu-xuẩn.
Và nhẫn-nhịn đừng
ham tranh-luận,
Khỏi mất lòng tất
cả mọi người.
Tánh thuần-lương
vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng
tín-đồ Phật-Giáo.
Nay ta đã quy-y
cầu Đạo,
646.Gây-gổ là trái
thuyết từ-bi.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 621 đến câu 646) :
-Đến ác thứ chín là tánh nóng giận, hờn ghét phát xuất từ Ý
nghiệp. Về hành trạng và tai hại của nó, Đức Giáo Chủ ví như cái lò lửa có sẵn
trong tâm ý của mỗi người, chẳng cần đốt mà nó vẫn cháy lên dữ dội. Nghĩa là
khi lòng sân hận phát lên thì nó biểu lộ bằng những tiếng la hét, cộc cằn thô
lỗ, bằng gương mặt hầm hừ quạu quọ và bằng những hành động hung tợn, có thể đi
đến đánh đập chém, giết. Sự bộc phát của nó chẳng hề có triệu chứng báo tin cho
ta biết trước mà gìn giữ. Cho nên Đức Phật dạy các môn đồ: Lòng nóng giận là
ngọn lửa mạnh, các người khá nên đề phòng, chớ để nó xâm nhập vào tâm. Con giặc
cướp giựt công đức không gì hơn nóng giận.(Sân tâm thậm ư mảnh hỏa, thường
phòng hộ, vô linh đắc nhận kiếp công đức tặc vô quá sân nhuế).
-Lại nữa, mỗi khi có điều phật ý thì không còn sự hung bạo nào mà
người ta chẳng làm. Do đó giữa loài người gây ra biết bao mối hận thù, hờn oán
rồi dẫn đến sự tranh tài, đấu lực, sát hại lẫn nhau.
-Hễ có đấu tranh tất có bên thắng bên bại. Kẻ thắng thế không khỏi
tự đắc khoe khoang, càng làm cho người khác ghét ganh hềm khích. Trái lại,
những kẻ bị thua kém phải thẹn thuồng xấu hổ, ôm lòng căm tức nên họ tìm đủ mưu
mô để trả đũa. Vì thế đôi đàng cứ tiếp tục gây nghiệp chẳng lành để rồi trả
vay, vay trả mãi không bao giờ dứt.
-Mỗi khi sự nóng giận của con người đến mức tột độ thì còn kể gì
là bà con ruột thịt hay Đạo lý luân thường. Tướng trạng của họ lúc bấy giờ như
một mãnh hổ đang chực vồ bắt con mồi. Quyêt định phải phân thây xẻ thịt đối
phương mới vừa bụng. Nhưng không bao giờ được như ý, vì kẻ nghịch lúc nào cũng
cừu thù và tìm cách chống trả, khiến hai bên chẳng khi nào yên vui thư thái.
-Cho nên Đức Thầy bảo khi nhà tu diệt trừ được tánh nóng giận:“Tâm
ta được thảnh thơi, trí ta được thong thả.”(Thập Ác: Ác sân nộ).
Bởi nghiệp báo bất lành và mối dây thù oán đã cắt đứt. Song để diệt trừ được ác
sân nộ, Ngài đưa ra ba phương pháp đối trị: Thứ nhứt là đức
khoan dung: khi có người phạm lỗi với mình, cần xét rằng những kẻ
ấy vì kém trí, thiếu tu mới lầm lỗi như thế, họ là người đáng thương hại hơn
thù ghét, nên ta sẵn lòng rộng lượng tha thứ cho họ, tức sự nóng giận không
còn. Pháp thứ nhì là đức nhẫn nhục: nếu gặp trường hợp kẻ khác
dùng uy lực chèn ép, đánh đập hay mắng nhiếc thì ta nên nhẫn nhịn. Vì xét rằng
sự trạng đó là do mối “oan oan tương báo” từ trước, giờ đây ta nên đoạn
dứt, không nên nối thêm: “Dĩ đức báo oán, oán tự tiêu tan”. Đức Thầy đã
hằng khuyên:
“Sân si phỏng có điều thêm bận,
Nhẫn nhịn ắt không chuyện kéo dài”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
Và: “Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán.”(GMTK, Q.4).
Còn pháp thứ ba là lòng từ bi: bởi xét rằng:“ Đạo Phật là đạo từ bi, bác
ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ, tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn
chẳng đổi.”(Huấn Lịnh). Nay ta là một tín đồ đã qui y với Phật để sau nầy
đạt được Đạo quả như Ngài, tất nhiên ta phải nuôi dưỡng lòng tử bi, thương xót
tất cả chúng sanh như chính mình thương mình thì lý nào còn mang lòng thù oán
hay hờn giận một ai. Đức Thầy từng dạy:“Từ bi đâu vướng mối hiềm xưa.”(Trả
lời cụ Phạm Thiều).
Hoặc là:“Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,
Chữ từ bi ta diệt nó liền.
Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù oán tiêu tan mất
hết.”(GMTK, Q.4) Tóm lại,
nhà tu có hành trì được ba phương cách kể trên tức trừ tận gốc ác sân nộ và tâm
trí được tự tại an vui.
CHÚ THÍCH :
HẬN SÂN: Cũng gọi là sân
hận, sân nộ hay sân nhuế, viết tắt là Sân, Phạn ngữ :Byâpâto, có
nghĩa nóng giận, hờn ghét, thù hằn. Tánh nóng giận phát xuất từ tâm ý phẫn uất
rồi bộc lộ ra lời nói cộc cằn hay hành động hung tợn. Trong Qui Sơn Cảnh Sách
có giải:“Giận lộ ra tướng thô gọi là sân, giận ngầm trong bụng gọi là
phẫn. Lại giận người gọi là sân, giận mình gọi là nhuế”.
Sân là một trong Tam chướng (Tham, Sân, Si), một trong Ngũ độn sử và ác thứ
chín trong Thập ác. Đối với nhà tu, Sân là món tai hại rất lớn. Kinh Hoa Nghiêm
có câu:“Nhứt niệm sân tâm khởi, Bá vạn chướng môn khai. Vị phiền não chi
căn, Thọ tam đồ chi khổ”.
(Tâm khởi một niệm sân si,
Trăm ngàn cửa chướng tức thì mở khai.
Phiền não là gốc chẳng sai,
Ba đường chịu khổ khó ngày thoát ra).
Thuở xưa, thời Phật còn trụ thế, có Bà Thanh Đề, vốn là một tín nữ
giàu có, thường thân cận với chúng tăng, cúng dường nghe pháp. Hôm nọ Bà ngồi
lột lúa ra và cạo từ hột cho thật trắng, đựng đầy một bát đem đến Tịnh xá cúng
dâng. Vị sư trưởng trong đó, trí sáng biết trước được chuyện ấy, nên kêu tiểu
tăng dặn: Mai nầy sẽ có đại lễ đem đến cúng (do công phu và nhiệt tâm của bà
Thanh Đề).
Sáng lại, tiểu tăng ra cổng chực đón, ngỡ đại lễ là nhiều mâm
nhiều quả, nên lo tiếp người nầy kẻ nọ, không để ý đến bà Thanh Đề đang đội bát
gạo quì tại cửa. Trời càng trưa bụng càng đói, Thanh Đề quá tức giận tiểu tăng,
liền đổ bát gạo xuống đất hai chân chà đạp. Làm thế cũng chưa hết giận, bà về
nhà phá giới thôi tu và giết chó lấy thịt làm nhưn bánh, đem đến Tụ lạc của
chúng tăng ở mà cúng dường. Ý là gạt các ông ấy ăn lầm phạm giới cho bõ ghét.
Vì nghiệp sân quá mạnh, bà Thanh Đề phạm giới sát sanh và quyết
hại người tu nên sau đó mấy ngày bà bị sốt nặng rồi chết, linh hồn bà bị đọa
vào ngục A tỳ chịu sự hành phạt, đói khổ thảm thiết.
Do đó, kinh Phật thường bảo:“Nhứt niệm sân tinh chi hỏa, năng
thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn.”(Một đốm lửa sân hận phát lên, nó sẽ đốt
cháy cả muôn rừng công đức của mình).
Cho nên Đức Thầy khuyên:
“Chữ gây gổ là sân hãy diệt,
Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.”(GMTK, Q.4)
LÔI ĐÌNH: Sấm
sét. Nổi lôi đình là nổi tánh giận dữ, la ó như sấm sét nổ.
SÂN NỘ: Nghĩa như chữ Sân hận
đã giải trên.
BẠO NGƯỢC: Tàn
bạo, ngang ngược.
TỰ ĐẮC: Tự cho mình là hơn
người.
HỀM KHÍCH:
Cũng viết là hiềm khích. Có nghĩa oán ghét chống báng nhau, luôn luôn muốn gây
chuyện.
HỔ NGƯƠI: Mắc cỡ, dáng rụt rè e
sợ.
OAN OAN TƯƠNG BÁO: Đây là một thành ngữ, có nghĩa: Nếu ta hại người thì bị người tìm
cách trả thù lại, cứ thế mà gây thù kết oán, hết đời nầy sang đời nọ. Hoặc giả,
oán thù tiếp nối hết kiếp nầy sang kiếp khác rồi kiếp khác nữa. Đức Thầy có
câu: “Cuộc đời vay trả, trả vay đồi dời.”(Viếng Làng Phú
An).
NHƠN ĐẠO: Xem
chú thích tại tr. 152 Tập 1/3.
TÂM TRẦN: Xem
chú thích tại tr. 22, Tập 3/3.
KHOAN DUNG: Xem
chú thích “khoan dung đại độ”, tr. 225, Tập 3/3.
NGU XUẨN: Đần độn mê si, làm những
việc càn dở.
NHẪN NHỊN: Xem chú thích tại tr. 133,
Tập 3/3..
TRANH LUẬN: Cãi nhau để giành lẽ phải
về mình.
THUẦN LƯƠNG:Xem chú thích tại tr. 204,
Tập 3/3.
TÍN ĐỒ: Những người cùng chung một
tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm thiện nam tín nữ tại gia (Xem thêm tr. 61, tập
1/3).
PHẬT GIÁO: Xem chú thích tại tr. 57,
Tập 2/3.
QUI Y: Phạn ngữ: Namâh. Qui là
nương về, Y là làm y
theo. Nghĩa chung là nương về với Tam Bảo (Phật Pháp Tăng) và trì hành đúng y
theo lời Pháp giới của Tổ Thầy đã dạy. Đức Thầy có giải:“Qui là về, mà về
đâu ? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu. Vậy Qui y đầu Phật là
nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải
từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo
cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt
ở chỗ giữ giới luật hằng ngày.”(Lời Khuyên Bổn Đạo, SGTVTB 2004,
tr. 449-450).
Và Ngài luôn nhắc nhở:
“Qui y thì khá làm y,
Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
(Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)
CHÁNH VĂN
647.Ác thứ mười đoạn
chót Mê-Si,
Nguyên tăm-tối từ
hồi vô thỉ.
Màn vô-minh che
mờ căn trí,
650.Nên thường khi
nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân
vật-chất kém hơn,
Chẳng tìm biết
tinh-thần đạo-đức.
Dệt lưới nghi đeo
điều phiền-phức,
654.Bịn-rịn đời
cực-khổ tang-thương.
Khi nói làm ít
chịu suy lường,
Mãi phạm tội nên
rằng nghiệp ác.
Diệt mê-si phải
nương thuyền giác,
Muôn việc làm
chính-trực khôn-ngoan.
Đừng bạ đâu tin
bướng nghe càn,
660.Làm ngu-muội đọa
thân uổng kiếp.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 647 đến câu 660) :
-Đến ác thứ mười là ý thức mê mờ tăm tối, gốc tối tăm ấy nó
không có đầu mối, do một vòng nhân duyên luân chuyển, hết cái nầy đến cái khác
cứ tiếp nối nhau luôn. Chính nó là vô minh, từ vọng niệm bất giác làm cho ánh
sáng trí tuệ bị mờ đi, nên thấy ngược lại chơn lý. Gặp tà nhận chánh, thấy
chánh tưởng tà, sự giả cho là thật, sự thật cho là giả, vội chạy theo vật chất
phù hoa để bồi bổ cho tấm thân huyễn giả, chẳng màng nghĩ đến tinh thần đạo đức
là gì ?
-Do đó sự nghi ngờ lầm lẫn càng lúc càng tăng, như màn lưới dệt
chồng thêm mãi, khiến tâm hồn lúc nào cũng bị phiền toái lo âu, bởi kiếp sống
hồng trần luôn đổi thay và đau khổ. Thế mà chúng sanh mãi mến tríu không muốn
rời rứt thoát ly. Và trước khi nói hay làm việc gì, con người ít chịu đo lường
suy xét, nên mãi lâm vào vòng tội lỗi, kết thành nghiệp ác lâu đời mà phải
cuồng quay trong bánh xe sanh tử.
-Để giải trừ ác mê si tà kiến, Đức Thầy kêu gọi hành giả
hãy trở về với lòng giác ngộ (Bồ đề), trau giồi trí huệ cho sáng suốt, phá tan
màn vô minh vọng hoặc. Đặng vậy, ta sẽ được kết quả: từ việc làm đến lời nói
đều ngay chánh công bình, tránh khỏi vòng dị đoan mê tín và dứt sạch mối nghi
ngờ, do dự mà thẳng bước trên con đường chân lý, đi đến cõi bất diệt bất sanh
(Niết bàn). Bằng ngược lại rất uổng cho một kiếp sanh được làm người đã không
tiến hóa lại bị thối đọa trong mê đồ thống khổ.
CHÚ THÍCH :
MÊ SI: Lòng mê mờ không nhận
rõ sự lý, tức cái tâm vô minh, khởi lên các vọng hoặc điên đảo (tà kiến), khiến
con người lầm lũi trong tội lỗi, như người đi đêm chẳng thấy đường, lạc vào hầm
hố. Mê si đối ngược với trí huệ, trong Kinh Pháp Cú, Phật đã bảo:“Si mê là
Mẹ đẻ của muôn tội lỗi, Trí huệ là Cha sanh của muôn hạnh lành”.
Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:
“Trần tâm trừ dứt cuộc mê si,
Quan sát Đạo mầu nẻo ẩn vi”.
(Cho Ô. Trần Quang Hạnh)
Thời xa xưa về trước, tại khu rừng nọ, có các loài chim cả mấy
ngàn con, chúng đều tôn chim khổng tước làm chúa. Hằng ngày chúng chia
nhau kiếm những trái cây ngon lành về dâng cho chim khổng tước và chầu chực như
phò một nhà vua.
Hôm nọ, có chim thanh tước (mái) bay ngang. thấy dáng điệu
thướt tha, sắc lông óng ánh, chim khổng tước say mê, vội bỏ bầy bay theo òn ỹ
thanh tước. Từ ấy đôi chim sống bên nhau. Khổng tước phải vất vả tìm các thứ
trái cây tươi, ngon đem về nuôi thanh tước.
Bấy giờ, Hoàng Hậu trong nước mang bệnh nặng, Vua truyền ngự y
điều trị đủ phương thuốc, nhưng bịnh không bớt. Một hôm, bà nằm mộng thấy có
thần nhơn mách bảo: bệnh nầy nếu có thịt chim khổng tước mà ăn thì hết liền.
Sáng ra bà thuật cho Vua nghe, Vua liền truyền cáo: Ai đem nạp chim khổng tước,
Vua sẽ gả Công chúa và thưởng thêm 100 lượng vàng.
Khi ấy các thợ săn nỗ lực lùng kiếm; có một thợ săn đi tận rừng
sâu, thấy đôi chim tước đang đậu trên cây có nhiều trái. Anh chờ trời tối đem
bẫy lên gài. Sáng hôm sau chim khổng tước đáp xuống liền bị mắc bẫy; còn thanh
tước thoát khỏi, bay lượn qua mấy vòng rồi đi luôn. Thợ săn đem chim xuống.
Khổng tước hỏi:
-Anh bắt tôi để làm gì ?
-Đem về nạp cho Hoàng Hậu ăn thịt để hết bịnh, và ta đặng lãnh
thưởng và cưới được Công chúa.
-Nếu anh thả tôi ra, tôi sẽ chỉ cho anh một hòn núi vàng xài trọn
đời không hết.
-Mi nên biết, hòn núi vàng sao bằng ta cưới được Công chúa làm vợ.
Đoạn, thợ săn mang chim về nạp cho Vua.
Trước sân chầu, Khổng tước tâu: Bệ hạ sai người bắt tôi, mục đích
là muốn cho lịnh bà hết bịnh, vậy hãy đem bát nước lại đây tôi chú nguyện vào
đó, lịnh bà uống vào sẽ hết liền, song với điều kiện là Bệ hạ đừng giết tôi.
Vua y lời, quả nhiên sau khi uống bát nước, Hoàng Hậu khỏi bệnh
ngay. Vua rất vui mừng, liền phán: hiện dân chúng trong thành cũng mắc bịnh như
Hoàng hậu khá nhiều, ngươi nên cứu hộ luôn thể. Khổng tước liền chú nguyện
xuống hồ nước, dân chúng chen nhau đến múc uống, bệnh chi cũng được lành cả.
Việc xong, Khổng tước tâu với Vua: nay bịnh của lịnh bà và dân
chúng đều được lành, xin Bệ hạ y lời thả tôi về rừng cũ. Vua liền chuẩn y.
Khổng tước bay đậu trên tường nhìn xuống nói:
-Tâu Bệ hạ, sự việc vừa qua, tôi gẫm lại trong đời có 3 hạng người
mê si.
-Vua bảo: Ngươi hãy giải thích cho Trẫm rõ ?
Khổng Tước tâu:
-Thứ nhứt là tôi đây mê si: Trước kia tôi làm chúa tể các loài
chim, suốt ngày có kẻ hầu hạ và hiến dâng đủ thứ cây trái. Tôi lại đắm say sắc
đẹp của Thanh tước mà bỏ bầy đem thân làm tôi mọi cho nó, đến đổi phải mắc bẫy,
thiếu chút nữa là căn mạng chẳng còn.
Thứ nhì là anh thợ săn đây si mê: lúc bắt được tôi, tôi có van xin
nếu được thả, tôi sẽ chỉ cho anh một hòn núi vàng, anh không bằng lòng vì quyết
lấy được Công chúa mà thôi. Giờ đây, Vua đã xét nhờ tôi chú nguyện Hoàng Hậu
mới hết bịnh chớ không phải là nhờ ăn thịt tôi, nên thợ săn chỉ được thưởng
vàng, chớ chẳng được lấy Công chúa. Thế là hai món: núi vàng và Công chúa thợ
săn đều hỏng cả !
-Thứ ba là Vua mê si: Bệ hạ vì quá nịnh ái Hoàng Hậu mà ra lịnh
bắt tôi và liều đánh đổi Công chúa cùng 100 lượng vàng, trong lúc không suy
nghĩ người nạp chim có xứng đáng và đủ tài đức làm phò mã chăng ? Rồi nay vì
tôi cứu được lịnh bà và dân chúng, Bệ Hạ mới thả tôi, chớ thật ra lòng Bệ hạ có
nhân từ bác ái gì đâu.
Nói xong, Khổng tước cất cánh về rừng xanh. Cả Vua tôi, dân chúng
đồng tán thán. Đây quả là vị Bồ Tát hóa thân đến giác tỉnh chúng ta ! Tất cả
đồng hướng theo Khổng tước bái tạ !
NGUYÊN: Nguồn gốc, chỗ khởi
đầu, mới phát sanh.
VÔ THỈ: Không có chỗ khởi đầu.
Vạn vật trong thế gian, như chúng sanh và các pháp đều không có chỗ bắt đầu.
Kiếp sống ngày nay là do nhân duyên ở đời trước mà có, và kiếp sống đời trước
cũng do nhân duyên đời trước nữa sanh ra, cứ như thế lưu chuyển không biết đâu
là đầu là cuối.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ
đến nay, sanh tử cứ nối tiếp nhau mãi, đều do chỗ không biết cái chơn tâm
thường trụ và thể tánh trong sạch mà nhận lầm và chạy theo cái vọng tưởng không
chơn thật, mới tạo thành nghiệp sanh tử nên phải luân chuyển mãi mãi. (Nhứt
thiết chúng sanh tùng vô thỉ lai, tánh tịnh minh thể, dụng như vọng tưởng, thử
tưởng bất chơn, cố hữu luân chuyển).
VÔ MINH: Xem chú thích tại tr.
254, Tập 3/3.
CĂN TRÍ: Gốc rễ của sự sáng
suốt, chỗ phát sanh ra trí huệ.
NHẬN NGỤY LÀM CHƠN: Nhận lầm sự giả dối tà vạy cho là thật. Đức Thầy có giải:“… Ý
thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp
chánh tưởng tà…”(Sơ Giải Tứ Diệu Đề).
HUYỄN THÂN:Xem
chú thích: tr.271-272, Tập 3/3.
ĐẠO ĐỨC: Xem chú thích tại tr.
99, Tập 3/3.
DỆT LƯỚI NGHI: Lòng
nghi hoặc, do dự không quyết đoán ví như mặt lưới. Dệt lưới ghi là bện kết thêm
sự nghi ngờ trong lòng mỗi ngày một thêm dày đặc thêm. Nghi là một trong “Ngũ
độn sử”. Có hai hạng nghi:
a)- Hạng không tu thì nghi rằng:
1. Không có luật nhân quả báo ứng.
2. Không có sự luân hồi.
3. Không có cảnh giới của chư Phật.
4. Sau khi chết là mất.
5. Không có sự xem xét của Thần Thánh.
b)- Hạng đã tu song chưa nắm vững chơn lý nên cũng còn nghi
rằng:
1. Từ trước tới giờ mình đã tạo nhiều nghiệp ác, nay chỉ tu trong
một lúc, biết có sự tiếp độ của chư Phật chăng ?
2. Những phiền não: tham, sân, si nơi mình chưa dứt sạch, biết
niệm Phật có được tiếp dẫn về Cực lạc chăng ?
3. Sự tu hành của mình có ảnh hưởng cứu rổi được tổ tiên cha mẹ
không ?
4. Sau khi mạng chung biết có được Đức Phật y như lời nguyện rước
thần thức mình về Cực lạc chăng ?
5. Công phu tu hành ngày nay, có được sự hỗ trợ của các đấng thiêng
liêng giúp mình đến hội Long Hoa và hội Long Hoa có thật hay không ?
PHIỀN PHỨC: Phiền
là nhiều, phức là cái gì chồng lên nhau. Ý chỉ sự bận bịu
rắc rối lôi thôi.
BIN RỊN: Trìu mến, quấn quít
không chịu xa lìa từ bỏ, mãi mãi bận bịu không dứt.
TANG THƯƠNG: Xem
chú thích: tr. 280, Tập 3/3.
SUY LƯỜNG: Suy
xét, đo lường. Ý nói nghiệm xét, cân nhắc kỹ lưỡng để rõ việc hư nên tốt xấu
như thế nào. Đức Thầy có câu:
“Xét suy cho cạn cổ kim,
Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.”
(Để Chơn Đất Bắc)
NGHIỆP ÁC: Cũng
viết là ác nghiệp. Có nghĩa những hành động xấu xa tội ác, do trước gieo
nhân hung dữ, sau bị quả xấu, khổ trả lại. Cho nên nghiệp ác cũng có tên
là “hắc nghiệp”. Nghiệp ác ở đây có ý nói vì mê si nên thân, khẩu,
ý vi phạm mười điều ác.
Sách Đồng Nghĩa Ký viết:“Nghiệp hữu nhị nghĩa: Nhứt động tác
nghĩa, nhị vi nhân nghĩa.”(Nghiệp có hai nghĩa: một gọi là việc hành động,
hai là gieo nhân).
Tổ Qui Sơn cũng nói: Nghiệp quả kéo lôi thật khó trốn tránh,
như tiếng hòa vang trong thuận, hình ngay bóng thẳng, nhơn quả rõ ràng, đâu
không lo sợ. (Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị, thinh hòa hưởng thuận,
hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ).
Đức “Thầy cũng từng cho biết:
Vướng nghiệp trần
hoàn bởi quả nhân,
Gây ra kiếp số chịu phong
trần.”
(Rứt Cái Ngu Đần)
THUYỀN GIÁC: Xem
chú thích: tr. 199, Tập 3/3.
CHÁNH TRỰC:
Chơn thật, thẳng thắn; nghĩa bóng: hết lòng vì dân vì nước.
ĐỌA THÂN: Thân
rơi vào cảnh khổ. Có hai cách: Một là vì mê si nên bị danh, lợi, tình đày đọa
xác thân phải vật bắt với trường đời, vô vàn vất vả; hai là sau khi chết cái
thân trung ấm bị đọa vào ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
UỔNG KIẾP: Hư
đi một kiếp làm người vì chẳng tu hành tiến hóa được, lại bị thối hóa, đọa lạc
xuống chỗ thấp hèn. Ví như cây trồng sắp có trái vội bỏ, không vun phân tưới
nước nên cây bị héo chết rất uổng !
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật bảo:“Trong đời có sáu việc
khó: 1. Khó gặp Phật ra đờ,. 2. Khó nghe được Chánh pháp, 3. Khó sanh ở Trung
độ, 4. Khó được thân người, 5. Khó được tâm biết lo sợ, 6. Khó được năm căn:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đầy đủ”. Xét ra sáu điều khó nói trên, nay chúng
ta đã vượt khỏi, nếu không biết giác ngộ tu hành thì rất uổng cho một kiếp
sống.
CHÁNH VĂN
661.Ác trừ xong hiện
ra thiện nghiệp,
Lóng nguồn chơn
Phật tiếp-dẫn cho.
Trồng cây lành
vị-quả thơm-tho,
664.Tuy không thấy mà
sau chẳng mất.
Dầu ai có cười ta
khờ-khật,
Cũng đừng phiền
xao-lãng chơn tâm.
Mong tiếng kêu
thấu đến Tòng-lâm,
668.Cùng thiện-tín
bá-gia hưởng-ứng.
Muốn Phật-Giáo từ
đây bền vững,
Đừng riêng lo
lợi-dưỡng một mình.
Nếu xuất-gia thì
phải hy-sinh,
672.Cả vật-chất
tinh-thần lo Đạo.
Chớ giả-dối mà
mang sắc áo,
Mượn bồ-đề chuỗi
hột loè người.
Làm cho dân
khinh-dể ngạo cười,
676.Tội-lỗi ấy luật
nào dung thứ.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 661 đến câu 676) :
-Đoạn nầy ý nói người tu hành khi trừ xong mười điều ác thì đắc
được mười điều lành, ấy gọi là trọn lành, song phải lóng sạch phàm tâm, tiêu
trừ hết vi tế phiền não (tham, sân, si) để được trọn sáng. Cũng như lu nước đục
lọc hết cặn cáu thì trở về màu trong lặng, chất nước ấy không đục lại. Nhà tu
khi đạt tới đó tức là kiến diện Phật tâm (ngộ Phật tri kiến), hoặc được chư
Phật tiếp dẫn vể Tây phương Cực lạc. Lại nữa, căn cứ vào luật nhân quả:“Trồng
bông kiểng giống chi hưởng nấy.”(GMTK, Q.4), kẻ làm lành lánh dữ
tất được sự an vui giải thoát, tuy hiện giờ chưa thấy chớ sau nầy sẽ kết quả
chắc chắn, không hề sai chạy.
-Đức Thầy hằng khuyên nhủ, kẻ tu hành, dầu có bị người đời chê
ngạo ngu khờ, ta cũng đừng buồn lòng thối chuyển mà lơ đễnh việc trau tâm sửa
tánh. Và Ngài cũng kêu gọi khắp Tăng Ni, Phật tử, từ bực xuất gia đến hàng cư
sĩ tại gia hãy thẩm xét cho chín chắn mà hưởng ứng theo lời khuyến thiện trong
đây.
-Bởi Ngài nhận rằng: Muốn cho nền Đạo Phật được bền chắc và phát
triển lan rộng hầu cứu rỗi các tầng lớp chúng sanh thì điều trước tiên là các
giới tu hành hãy dẹp lòng vị kỷ riêng tư. Nếu là kẻ xuất gia muốn xa lìa bể tục
cần phải có tinh thần xả kỷ, lợi tha, an bần lạc đạo để dồn hết tâm cơ trí lực
vào việc công nghĩa, giác chúng tu thân.
-Kế tiếp, là không nên mượn màu sắc nhà tu, trang diện hình thức
bên ngoài để lừa dối bá gia mà bên trong chẳng thật tâm hành đạo. Vì nếu tu như
thế sẽ bị người đời khinh Phật ngạo tăng, làm mất thanh danh chung cho Đạo,
luật pháp không thể nào tha thứ được.
CHÚ THÍCH :
THIỆN NGHIỆP: Các
việc làm lành của ba phần: Thân, Khẩu, Ý. Tức là thập thiện nghiệp, ngược với
thập ác nghiệp. Đức Giáo Chủ bảo:“Sau khi diệt được Thập ác rồi, tự nhiên
mười điều lành hiện ra”. Mười điều lành ấy gồm có:
1- Đã không sát sanh mà luôn có lòng từ bi thương người mến
vật và tận tâm cứu giúp.
2- Đã không đạo tặc lại hay làm việc nghĩa, giúp đời.
3- Đã không hành động tà dâm mà tâm hằng trong sạch, lễ độ
và tôn trọng luân thường đạo lý.
4- Đã không dùng lời lưỡng thiệt lại luôn nói lời thành
thật chánh đáng.
5- Đã không phạm ỷ ngôn lại thường nói lời tốt lành êm dịu.
6- Đã không phạm ác khẩu mà nói toàn lời thanh bai hiền
đức.
7- Đã không nói vọng ngữ lại hằng nói những lời chân chánh
đúng với sự thật.
8- Đã không có ý tham lam, bỏn sẻn mà luôn có lòng bố thí,
vị tha, tự tại vô ngại.
9- Đã không có ý sân hận, tật đố lại hằng dụng tâm hoan hỉ
từ bi, nhẫn nhục và khoan dung.
10- Đã không còn mê si tà kiến mà
luôn phát sanh trí huệ và chánh kiến.
LÓNG NGUỒN CHƠN: Tâm ý con người ví như một nguồn nước, nếu khuấy lên là đục, bằng
lóng lại là trong. Người hành đạo một khi lòng lóng lắng được thì tham, sân, si
dứt bặt, chơn trí hiện bày như một nguồn nước trong lặng nhìn thấy tận đáy.
TIẾP DẪN: Dắt
đường, dùng mọi cách chỉ đường vào Đạo hay rước đưa về cõi Phật. Bởi chúng sanh
ham mê các sự giả dối ở trần thế, chìm nổi trong cạm bẫy luân hồi, nên Phật và
chư Bồ tát hóa hiện giảng dạy cho họ thấu hiểu đạo mầu để lo tu hành giải
thoát. Ấy gọi là tiếp dẫn.
Còn người tu pháp môn Tịnh Độ, chí tâm niệm Phật làm lành thì lúc
lâm chung được thấy Phật A Di Đà hiện đến tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.
VỊ QUẢ: Cũng gọi là quả vị, tức
là ngôi vị thành tựu của các nhà tu hành đạo đức. Như vị quả La Hán, vị quả
Duyên Giác, vị quả Bồ Tát hay Phật. Đức Thầy từng khuyên:“Nếu bền lòng vị
quả cao thăng.”(Sa Đéc).
XAO LÃNG: Bỏ lơi, không để ý
đến. Ví dụ: Xao lãng việc tu học.
CHƠN TÂM: Lòng thanh tịnh trong
sáng, chẳng nhiễm ô trần trược hay vọng tưởng, ngược với vọng tâm hay giả
tâm. Pháp Tánh Tông có lập ra cửu thức, chơn tâm là thức thứ chín
(Am-ma-la thức). Bởi tự tánh của nó hoàn toàn trong sạch nên gọi là chơn
tâm, còn tám thức trước do vô minh khởi ra nên gọi là vọng tâm.
Trong Kinh Di Đà có tỷ dụ:“Nước biển thường trụ chẳng thay đổi. Chơn tâm của
mỗi chúng sanh cũng vậy, nó vẫn trong sạch, thường trụ từ vô thỉ đến nay. Còn
sóng biển thì có khởi, có diệt, lúc có, lúc không, tức là vô thườ., Các vọng
tâm của chúng sanh cũng thế”.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật phán:“Tất cả chúng sanh từ vô thỉ
đến nay chết đi sống lại mãi là tại họ chẳng biết cái chơn tâm thường trụ, thể
tánh nó vẫn trong sạch sáng mầu”.
Đức Thầy cũng viết:
“Lìa xa Địa ngục thảm sầu,
Khỏi nơi hầm lửa đặng cầu chơn tâm”.
(Dịch các câu chú thường niệm)
TÒNG LÂM: Phạn ngữ: Samgha, có
nghĩa rừng tòng. Ý nói chỗ chư tăng và người thế tục hòa hợp với nhau để tu học
Giáo lý, cũng như nhiều cây hợp lại thành rừng. Xưa, Thời Phật trụ thế thường
cu họp đại chúng lại trong cảnh rừng mà thuyết pháp, như: rừng của Thái Tử Kỳ
Đà hay Trúc Lâm.v.v…Vì thế tòng lâm cũng chỉ chỗ thuyết pháp, dạy đạo có
chùa chiền vườn tược. Nhưng chữ Tòng Lâm ở đây chì cho giới Tăng Ni xuất
gia.
THIỆN TÍN: Xem
chú thích: Tín nữ – Thiện nam, tr. 61, Tập 1/3.
HƯỞNG ỨNG: Hưởng
là tiếng vang; Ứng là tiếng đáp lại. Ý nói bằng lòng nghe theo lời kêu
gọi.
LỢI DƯỠNG: Lấy
lợi để nuôi thân mình.Trí Độ Luận có viết:“Sự lợi dưỡng không khác con giặc
nó làm hoại các gốc công đức, tỷ như mưa đá làm hại năm thứ lúa vậy”.
XUẤT GIA: Xem
chú thích: tr. 87-88, Tập 3/3.
HY SINH: Xem chú thích: tr. 67,
Tập 1/3..
BỒ ĐỀ CHUỖI HỘT: Xâu chuỗi làm bằng hột bồ đề, các Tăng Ni hay dùng nó lần theo
tiếng niệm Phật (niệm Phật lần chuỗi). Chuỗi có hai loại: Chuỗi trường có 108
hột, chuỗi tay có 18 hột. Ở đây chỉ cái gì thuộc về hình thức (sự tướng), đối
với nội tâm (vô vi).
CHÁNH VĂN
677.Tu còn ham chay
to đám bự,
Đặng thế-gian
dưng cúng bạc tiền.
Dối rằng : lo
tu-bổ chùa chiền,
680.Mà làm của xài
riêng cho thỏa.
Bảo làm sao dân
không sa-ngã,
Nghe lời rù Tông
nọ phái kia.
Cả tăng-đồ trong
nước chia-lìa,
684.Riêng pháp-bảo,
riêng chùa, riêng Phật.
Trong bá-tánh
sầu-thành chất-ngất,
Mãi nghi nan
chẳng biết đàng nào.
Lòng mến yêu
chẳng nệ công-lao,
688.Mượn bút mực đôi
lời trần thuyết.
Tùy thiện-tín
hiểu Ta giả thiệt,
Làm hay không
chẳng dám ép nài.
Nguyện mười
phương chư Phật đáo lai,
692.Đồng tiếp-dẫn
chúng-sanh giải-thoát.
LƯỢC GIẢI (từ câu 677 đến câu 692) :
-Đến đây, Đức Thầy nhận thấy trong Đạo Phật thời nay có số nhà tu
ham tổ chức những cuộc làm chay, cầu siêu linh đình để thâu nhận tài vật của bá
tánh đem đến cúng dâng. Hoặc mượn cớ tu sửa chùa am để quyên tởi tiền bạc khắp
nơi, rồi cắt xén làm của riêng mà ăn xài cho thỏa thích như hiện giờ ai cũng
thấy một số sư tăng trụ trì trong các chùa cũng có gia đình, cũng tích trữ của
tiền, con vợ, nào khác kẻ thế tục.
-Lối tu như vậy, bảo làm sao bá tánh chẳng chán chê, xa lánh và
thối chuyển lòng tin tưởng đối với Tam Bảo. Nhân đó, tình trạng phân chia Tông,
Phái, Chùa, Pháp trong giới Tăng đồ càng lúc càng tăng; dẫn đến sự chỉ trích,
tranh giành môn đồ uy tín giữa nhau. Họ xem mỗi ngôi chùa là sự nghiệp riêng mà
họ có quyền thọ hưởng.
-Cảnh huống nói trên, khiến cho bá tánh trông vào rất đau buồn,
bán tín bán nghi. Muốn tìm một chỗ nương tựa, song chẳng biết nơi đâu là hành
động đúng chân lý. Thấy thế, lòng Đức Giáo Chủ quá thương xót nên tạm dùng giấy
mực thuyết minh lẽ thực hư cho mọi người được rõ.
-Với lời lẽ luận giải trong đây mỗi thiện nam tín nữ cần xem coi
và nhận xét đúng hay không ? Có làm theo hay chăng, là tùy ý, chớ Ngài không
bao giờ nài ép một ai. Dầu vậy, với tấm lòng bác ái vị tha của bậc Giác ngộ,
lúc nào Ngài cũng cầu nguyện với chư Phật mười phương, đồng tiếp độ các giới
chúng sanh sớm lên bờ giải thoát.
CHÚ THÍCH:
TU BỔ: Sửa chữa, sửa sang lại
những chỗ đã hư hỏng.
THỎA: Vừa lòng thích ý.
LỜI RÙ: Thì thầm to nhỏ, có
tánh cách quyến rủ.
TĂNG ĐỒ: Xem chú thích: tr.85,
Tập 3/3.
PHÁP BẢO: Phạn ngữ:
Dharma-ratna, có nghĩa: Những lời giáo pháp của chư Phật thuyết dạy rất quí báu
như châu ngọc, bởi nhờ đó chúng sanh mới biết tỉnh ngộ tu hành và thoát khổ.
Pháp Bảo là một trong ba ngôi quí báu (Phật Pháp Tăng). Pháp còn ví như thuyền
bè, hay đưa người vượt khỏi biển khổ: sanh, lão, bệnh, tử; ví như đèn đuốc dùng
soi sáng lối đi và như món thuốc thần diệu để chữa lành các chứng bịnh phiền
não. Vì thế người Phật tử tôn kính Giáo pháp, Kinh giảng cũng như tôn kính Phật
và chư Tăng vậy.
Kinh Niết Bàn có chép:“Thanh Tịnh Pháp Bảo, nan đắc kiến văn,
Ngã kim đắc văn, du như manh qui, tri phù mộc khổng !”(Vật quí báu là pháp
trong sạch, khó mà được nghe thấy. Nay ta đã được nghe thấy, dường như con rùa
mù, gặp đặng bọng cây nổi).
Bởi Pháp Bảo quí báu như thế nên Đức Thầy hằng khuyên:“Cao
sâu lý diệu vàng mười khó mua.”(Viếng Làng Mỹ Hội Đông).
Hoặc là: “Kệ kinh tụng niệm đêm thanh,
Ấy là châu ngọc để dành về sau.”(Sấm Giảng, Q.1).
SẦU THÀNH: Cũng
viết là thành sầu. Có nghĩa: Nỗi buồn rầu, đau khổ quá nhiều và chất ngất như
thành như lũy, khó mà giải cho hết. Cổ nhân từng bảo:
“Nhứt tọa sầu thành cư hỏa trạch,
Đa manh kim kích lạc du đàng”.
(Một ngày ở thế cũng như ở trong các thành sầu và nhà lửa, còn đêm
ngủ như ngồi trên mũi giáo).
NGHI NAN: Ngờ
vực khó tin nên không quyết định được.
TRẦN THUYẾT: Nói
và bày tỏ ra.
MƯỜI PHƯƠNG: Xem
chú thích: tr. 203, Tập 3/3.
GIẢI THOÁT: Xem
chú thích: tr. 34, Tập 3/3.
CHÁNH VĂN
KỆ:
693.Đêm thanh hiên
nguyệt dựa kề,
Nhìn xem thế-sự não-nề
tâm-can.
Từ Ta nương chốn
Phật-đàng,
696. Dứt
tâm trần-cấu chẳng màng vinh-huê.
Trần-hoàn
thiện-tín còn mê,
Thêm lời
giục-thúc gọi về đàng tu.
Dốc lòng vạch
ngút mây-mù,
700. Đặng dìu
bá-tánh đường tu chen vào.
Lời Thầy cạn tỏ
âm-hao,
Để truyền
hậu-thế vàng thau lọc-lừa.
Tu cầu thuận gió
hòa mưa,
704. An-hòa
nhơn-vật phước thừa trời ban.
Tu cầu thoát chốn
gian-nan,
Cầu trong
chư quốc chư bang giao-hòa
Tu cầu yên nước
lợi nhà,
708. Cửu-huyền
Thất-tổ Diêm-La thoát hình.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 693 đến câu 708) :
-Đoạn nầy ý nói trong một đêm trời trong cảnh tịnh, bóng trăng vừa
rọi trước mái hiên, Đức Giáo Chủ chạnh nghĩ đến sự đời hiện tại khiến lòng bắt
đau xót. Hồi tưởng, từ khi nương thân vào cửa Đạo, tâm Ngài đã dứt sạch lòng
nhiễm ô trần tục, chẳng màng đến sự cao sang đài các:“Thân tuy còn tục
tâm lìa cõi mê.”(Khuyến Thiện, Q.5).
-Ngài cũng nhận xét khắp trong thiện tín còn có số người đắm
say cảnh đời khổ lụy, nên Ngài viết thêm đoạn Kệ nầy, hầu giục giã họ nhanh
chơn trên đường tu thân lập hạnh. Phần Ngài đã quyết tâm dùng ánh sáng trí huệ,
chiếu phá sự mê mờ cho khắp chúng sanh, bằng cách sáng tác Kệ Kinh để dìu dắt
bá gia đưa vào nẻo Đạo. Trong đó Ngài đã giải bày cặn kẽ, từ sự biến chuyển của
cơ tận diệt đến Giáo lý siêu mầu, chẳng những có ích lợi cho giới tu hành hiện
tại, còn giúp cho người sau, nương theo đó mà lọc lừa tu sửa.
-Về sự hành đạo, Ngài dạy mỗi người phải thật tâm thành ý lo tu
tập để mong đạt đến kết quả là Trời Phật sẽ ban cho mọi người và vạn vật một
cuộc sống hòa vui thuận thảo, mưa gió hợp thời.
-Bởi do mỗi người biết hướng theo lẽ phải, lánh dữ làm lành, nên
cảnh chiến tranh gian khổ không còn diễn ra; và cả thế giới biết liên kết,
tương trợ lẫn nhau, riêng nước ta cũng được hòa bình an lạc. Nhứt là mỗi người
đều lo trau giồi phước hạnh và hồi hướng công đức cho Tổ Tiên Cha Mẹ đồng thoát
khỏi sự hình phạt chốn Diêm đài, siêu thẳng về Cực lạc.
CHÚ THÍCH :
KỆ: Xem chú thích: tr. 156
Tập 1/3..
ĐÊM THANH: Ban
đêm trời êm lặng trong trẻo. Đức Thầy có câu, trong bài “Vọng Bắc Hòa Nam”:
“Gió đưa nhằm lúc đêm thanh,
Lời ta dạy dỗ như nhành ghẹo chim”.
HIÊN NGUYỆT: Hiên
là mái nhà, nguyệt là mặt trăng. Ý nói bóng trăng vừa rọi tới mái hiên.
THẾ SỰ: Sự đời. Ý chỉ mọi sự
việc và cảnh huống trong đời:“Vui gì thế sự mà mong nhân tình.”(Cổ thi)
Đức Thầy cũng từng viết:“Thế sự bao la ta chẳng quản.”( Để
Chơn Đất Bắc).
NÃO NỀ: Đau xót và buồn chán ê
chề.
TÂM CAN: Tim và gan. Ví dụ: Đau
đớn tâm can (đau xót trong lòng)
TRẦN CẤU: Xem
chú thích: “trần cấu tạo”, tr. 200 Tập 3/3.
TRẦN HOÀN: Xem
chú thích: tr. 82, Tập 1/3.
GIỤC THÚC: Cũng viết là thúc giục.
Có nghĩa: giục giã, thúc hối làm việc gì cho sớm, cho mau rồi.
VẠCH NGÚT MÂY MÙ: Vạch là vẹt ra, banh xé
ra, ngút mây mù là mây khói bốc lên như sương mù che lấp một cái gì. Ý chỉ sự
mê mờ tăm tối (vô minh) che khuất trí sáng của chúng sanh. Nghĩa chung là Đức
Thầy dùng trí huệ vẹt phá sự mê tối cho chúng sanh. Như Ngài từng bảo trong bài
“Viếng Làng Mỹ Hội Đông”:
Tinh thần hiệp vén ngút mây,
Vẹt
cho rõ mặt Tớ Thầy hạ ngươn”.
ÂM HAO: Tin tức. Ý cho biết mọi
việc sắp tới.
HẬU THẾ: Đời sau, sau nầy hay người
đời sau.
TU CẦU: Tu là trau sửa, cầu
là mong mỏi, là tìm kiếm cho đến nơi. Nghĩa chung là quyết trau thân hành Đạo
và tầm cầu cho thấu đạt mục đích (thành quả). Đức Thầy từng dạy:
“Cầu tu cho đạt ngũ
hương,
Hươi gươm trí huệ Ma Vương hãi hùng”.
(Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
Hoặc : “Tu cầu cứu vớt Tổ tông,
Với cho bá tánh máu hồng bớt rơi.”
(Sấm
Giảng, Q.3)
AN HÒA: Yên ổn và hòa vui thuận
thảo.
PHƯỚC THỪA TRỜI BAN: Được thừa hưởng phước lộc do Trời Phật ban cho, nhưng cũng nhờ
công năng tu hành tác phước của mỗi người mà có chớ chẳng phải chỉ cầu mong
suông mà được. Luật trời ở đây là chỉ luật nhân quả. Thánh nhân từng bảo:“Vi
thiện giả thiên báo chi dĩ phúc, Vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ họa.”(Người
làm lành thì Trời trả cho bằng phước, Kẻ làm điều chẳng lành (dữ) trời trả cho
bằng họa).
GIAO HÒA: Giao
thiệp hòa hảo với nhau.
CỬU HUYỀN THẤT TỔ: Xem chú thích: tr. 117-118, Tập 1/3.
DIÊM LA: Xem chú thích: “Diêm
vương”, tr. 146, Tập 1/3.
CHÁNH
VĂN
709.Tu cầu Phật hóa
tánh tình,
Lưới mê chẳng buộc nhẹ
mình tiêu-dao.
Tu cầu cửa Phật
đặng vào
712. Gót sen
thong-thả xiết bao thanh-nhàn.
Tu cầu bịnh tật
tiêu-tan,
Từ-bi hỉ-xả
Phật ban phép lành.
Tu cầu thoát khỏi
tử sanh,
Nương theo Phật-Quốc lời
lành hằng nghe.
Cõi trần đừng đắm
ngựa xe,
Đeo tuồng
mộng-huyễn lập-lòe sắc hương.
719.Tu cầu trăm họ
hiền lương,
Đồng thinh
niệm Phật tai-ương chẳng còn.
Tu cầu gia-đạo
vuông tròn,
Chồng hòa
vợ thuận cháu con thảo hiền.
Tu cầu thoát khỏi
xích-xiềng,
724. Dựa kề chơn Phật
xa miền trần-lao.
Tu cầu chóng hết
binh đao,
Gặp đời
bình trị xiết bao vui-vầy
Mắt nhìn chư Phật
đông dầy,
728. Thành vàng điện
ngọc trò Thầy đăng tiên.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 709 đến câu 728) :
-Tiếp theo đoạn trước, Đức Giáo Chủ khuyên mỗi hành giả cần tu cho
tánh mình đồng hòa với chư Phật, tức là đổi phiền não thành Bồ đề. Bởi lòng
phàm và tánh Phật chẳng phải hai, hễ còn tham, sân, si ô nhiễm là chúng sanh,
bằng lọc hết chúng ra tức trở thành Phật. Đặng vậy thì mạng lưới vô minh (mê
si) chẳng còn trói buộc ta trong luân hồi sanh tử mà lúc nào cũng thong dong tự
tại. Bấy giờ gọi là kiến diện Phật tâm hay bất cứ cảnh giới của vị Phật
nào hành giả cũng vẫn đến được, ấy là hoàn toàn giải thoát.
-Còn lúc đang hành đạo, nhà tu cần quyết tâm chuyển nghiệp: niệm
Phật làm lành ắt được chư Phật hộ trì qua cơn bịnh tật để tiến thẳng đến Niết
bàn, dứt đường sanh tử, hoặc vãng sanh về nước Phật, luôn được nghe pháp mầu và
tu tập thêm cho đến khi đắc đạo.
-Song muốn được kết quả như trên, hiện giờ hành giả không nên đắm
nhiễm sự cao sang, màu sắc. Vì mọi cảnh vật ấy đều là tạm giả, như chiêm bao
bóng bọt vậy thôi, và nó cũng là miếng mồi thường câu nhử chúng ta dễ rơi vào
bể khổ.
-Ngoài sự tu do chính mình, Đức Thầy còn dạy phải tu cầu cho bá
tánh hầu thể hiện lòng tự giác, giác tha, tức là vừa cầu nguyện vừa nêu gương
hạnh, cảm hóa mọi người đều biết hiếu thuận từ hòa, một lòng tu tiến để được
gần Phật gần Thầy và sớm thoát khỏi cảnh trần ai sầu khổ.
-Đức Giáo Chủ còn khuyên mỗi tín đồ hãy tu cầu cho thế giới sớm
dứt tai họa chiến tranh, cả nhân loại đều chung sống cảnh thanh bình an lạc.
Bấy giờ vạn dân sẽ thấy Phật, Tiên, Thánh lâm phàm “…định ngôi phân thứ gây
cuộc hòa bình cho Vạn Quốc chư bang.”(trong Bài Sứ Mạng).
Và cảnh:
“Phương Nam rạng ngọc chói lòa.
Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh trực,
Quân cùng thần náo nức vui tươi”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
Đây là cảnh bồng lai tại thế, Trời Phật sẵn dành cho những ai vẹn
tròn đức hạnh.
CHÚ THÍCH :
PHẬT HÓA TÁNH TÌNH: Tánh chúng sanh trở thành tánh Phật. Cũng có nghĩa nhờ Phật lực
khai hóa cho chúng sanh biết cách tu hành để được đồng hòa với Phật tánh.
LƯỚI MÊ: Sự mê si, tà kiến trói
buộc chúng sanh trong luân hồi sanh tử, như bị mạng lưới bao vây khó mà thoát
ra được.
TIÊU DAO: Cũng gọi là tiêu diêu.
Có nghĩa thông thả, tự do đi đây đi đó, không gì bó buộc. Ý chỉ người tu khi
được giải thoát. Đức Thầy có câu:
“Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
Vân du Võ trụ thanh nhàn biết bao.”(Hoài Cổ)
TỪ BI HỈ XẢ: Xem
chú thích: tr. 340-341, Tập 3/3.
PHẬT QUỐC: Xem
chú thích: tr. 55, Tập 1/3.
MỘNG HUYỄN: Cũng
gọi là mộng ảo. Mộng là giấc chiêm bao, huyễn là giả dối, không
thật. Tuồng mộng huyễn là tuồng đời giả tạo không thật có. Ý nói kiếp sống và
mọi cảnh vật vinh sang phú quí đều là tạm giả, không bền chắc lâu dài. Ví như
giấc chiêm bao tối còn sáng mất.
Trong truyện Bát Tiên có chép: Thời nhà Đường (Trung Hoa) có Lữ
Đồng Tân (Lữ Sinh), một hôm mang gói đi thi, giữa đường có ghé vào quán
cơm, kêu nấu nồi gạo lúa huỳnh (bắp tẻ). Chủ quán đem chiếu gối mời
khách nằm nghỉ, đợi nấu cơm chín sẽ dùng. Đồng Tân vừa nằm xuống là ngủ, chiêm
bao thấy đến kinh thành thi đỗ tấn sĩ, lại đi dẹp giặc có công to và cưới được
vợ đẹp. Sau sanh nhiều con, rồi con sanh ra cháu, tất cả đều ăn học thông minh.
Cả gia đình sống cuộc đời vinh hiển. Thoạt có tiếng động, Đồng Tân chợt tỉnh,
bỗng nghe chủ quán vừa gõ trên miệng nồi vừa hát:“Nồi bắp vẫn còn ngòi,
Chiêm bao đà thấy cháu”.
Lữ Đồng Tân ôn lại điềm mộng, lòng chán ngán cuộc lợi danh. Lại
nghĩ, ông chủ quán hiểu hết cảnh chiêm bao của mình mới hát lên câu ấy, quả là
vị Phật Tiên gì đây ? Đồng Tân liền cầu xin chủ quán cho theo tu học đạo lý.
Nguyên chủ quán ấy là Hớn Chung Ly Tiên Ông, nhân dịp vân du thấy
Đồng Tân có căn Tiên nên giả làm chủ quán để giác tỉnh. Từ đó Lữ Đồng Tân theo
Hớn Chung Ly và sau tu thành Tiên.
Do điển tích nói trên về sau văn chương thường dùng “Giấc Huỳnh
Lương” để chỉ cho cuộc đời giả tạm. Kinh Vô Lượng Thọ có câu: Cả thảy sự
vật trong đời dầu có rồi cũng mất, ví như giấc chiêm bao không thật, lại cũng
như tiếng dội kêu lên rồi hết.(Giác liễu nhất thiết pháp, du như mộng, như
hưởng).
Đức Thầy nay từng bảo:“Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo.”(Không
Buồn Ngủ) nên Ngài thường kêu gọi: “Dương gian mau tỉnh trong
tràng mộng,
Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao”.
(Hai Mươi Chín Tháng Chạp)
LẬP LÒE: Chập chờn, khi bừng
lên khi hạ xuống. Đây ý nói sự chưng diện màu sắc lòe loẹt, song các sự vật ấy
không bền chắc.
SẮC HƯƠNG: Hai
điều trong lục trần (Xem chú thích: “Lục trần”, tr. 28-29 Tập 3/3).
TAI ƯƠNG: Xem chú thích: tr. 78,
Tập 2/3..
GIA ĐẠO: Phép tắc ở trong nhà,
cách thức cư xử trong gia đình thân tộc.
TRẦN LAO: Trần
là bụi bậm; lao là khổ nhọc. Ý nói chúng sanh ở cõi trần chịu nhiều sự nhớp nhơ
đau khổ như kẻ ở trong lao ngục. Đức Thầy từng nói:
“Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù
Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng”
(Không Buồn Ngủ)
ĐĂNG TIÊN: Lên
cõi Tiên. Ý nói nhà tu khi đắc đạo. Cõi tiên ở đây chỉ cho đời Thượng ngươn
Thánh đức, bởi ngày ấy:
“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng hoàng,
Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.
(Không Buồn Ngủ)
Hoặc:“Bồng lai tại thế non dường sánh.”(Bạc
Liêu) Và: “Tiên cảnh kìa kìa
gần lộ vẻ,
Chờ người hữu phước đến liên đài”.
(Cho Ô. Nguyễn Thanh Tân)
CHÁNH VĂN
729.Ai mà muốn đặng
phước-duyên,
Nghe lời
khuyến-thiện lòng liền phát tâm.
Tu cho rõ mối
huyền-thâm,
732. Qui đầu
Phật-Pháp khỏi lâm tai-nàn.
Phước đức quí hơn
bạc vàng,
Những người
bạc-ác giàu sang ích gì.
Chi bằng ăn ở
nhu-mì,
736. Nghe lời Phật
Thánh kính vì người trên.
Hiếu-trung lòng
chớ vội quên,
Sống lo
trọn Đạo, thác lên Tiên-Đài.
Nam-mô miệng niệm
hằng ngày,
740. Lánh lời dua-mị
học rày kệ kinh.
Trau tâm luyện
tánh cho minh,
Chuyên lo
niệm Phật sửa mình cho trơn.
Lóng tai nghe rõ
tiếng đờn,
Không dây
không phím oán hờn cũng không.
Đờn tây rồi lại
đờn đông,
Trách trong
bá-tánh gặp sông quên nguồn.
Phàm-trần như chỉ
rối cuồn,
748. Mà còn say-đắm
theo tuồng lẳng-lơ.
Lời lành mắt lấp
tai ngơ,
Đua theo vật-chất
hẫng-hờ đàng tiên.
Hố sâu tình-dục
lại ghiền,
752. Ghiền cho đến
lúc chúng khiêng quan-tài.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 729 đến câu 752) :
-Đoạn giảng trên ý dạy rằng nếu ai muốn đặng nhân duyên phước đức,
khi nghe được lời khuyên trong đây, hãy sớm phát tâm tu học đạo lý. Và cố hành
trì làm sao cho thấu đạt lẽ cao sâu mầu diệu để nương theo con đường Phật pháp
của Tổ Thầy đã vạch hầu vượt khỏi vòng tai khổ.
-Vả lại, từ xưa đến nay bạc vàng của cải chẳng bao giờ sánh bằng
phước đức, vì vàng bạc dù có nhiều đến đâu, tiêu xài thời gian cũng hết. Tuy ta
cố giữ, nhưng khi nhắm mắt cũng chẳng mang theo được món nào. Còn phước đức,
chẳng những giúp người an thân trong hiện kiếp mà tương lai còn được thành quả
giải thoát. Xưa nay những kẻ làm giàu bằng cách gian ác, chẳng đem lại lợi ích
lâu dài, lại còn mang thêm khổ lụy. Cho nên, chúng ta cần tuân thủ theo lời
Phật Thánh, đối xử với mọi người đều được hiền hòa lễ độ, kính người trên,
thương kẻ dưới để mang lại đời sống an lành trong xã hội.
-Điều cần nhứt là phải trau giồi trung hiếu, vẹn đáp Tứ ân. Vì
trung hiếu ở đây là chỉ cho giềng mối của Đạo làm người. Nếu ai làm tròn nhân
đạo, trả xong nợ thế trong kiếp sống, lúc lâm chung sẽ siêu thoát lên cõi Tiên
và tiến đến cõi Phật:“Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi
tòa sen.”(Sấm Giảng, Q.3). Song muốn cho sự kết quả cao chắc
hơn, ngày ngày hành giả cần chuyên tâm niệm Phật làm lành, chừa bỏ những lời
dối gian, dua nịnh, trì tâm tu học Kệ Kinh, tức học Phật và hành tri Phật
đạo.
-Nhờ có thông hiểu Kệ Kinh mới thấu đạt yếu pháp Thiền Tịnh mà Đức
Thầy chỉ dạy. Nghĩa là mỗi hành giả vừa tự trau sửa tâm trí cho sáng suốt (tu
Thiền) và vừa trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” để nhờ tha lực Phật gia hộ
(tu Tịnh), tức thân tâm được trọn lành trọn sáng, chẳng còn vướng bận các trần
ai nghiệp báo.
-Lại nữa, lời Pháp giáo của Đức Thầy ví như tiếng đờn, mà đờn ở
đây lại không dây không phím:“ Đờn ta vốn thiệt không dây.”(Từ
Gĩa Bổn Đạo Khắp Nơi). Chính đó là “Chánh pháp vô vi” nên Ngài khuyên nhà tu,
khi xem Sấm Giảng chẳng phải chỉ nhìn sơ qua trên mặt văn tự, mà hãy bình tâm
lặng ý để suy tìm, mới mong thấu đạt chơn lý.
-Lời Sấm Kinh (tiếng đờn) đã truyền bá khắp nơi, song chưa mấy
người thức tỉnh nên Ngài thống trách những kẻ đã hân hạnh sanh được thân người
và thụ hưởng mọi sự cao sang về vật chất, lại quên đi căn lành gốc đạo từ
trước. Kìa, cảnh trần sắp đến hồi rối loạn, sao nhơn sanh mãi đắm say theo
tuồng ảo ảnh, bất chánh vô liêm !
-Bao lời lành lẽ Đạo của Phật Thánh chỉ dạy là con đường siêu
thoát an nhiên, thế mà bá tánh vẫn làm ngơ, không hề để ý. Mảng đua đòi những
vật chất phù hoa, đắm nhiễm cuộc lợi danh tình ái để rồi bị mê ghiền mãi mãi,
cho đến khi từ biệt cõi đời cũng chưa dừng lại.
CHÚ THÍCH :
PHƯỚC DUYÊN:
Phước đức và nhân duyên (nghĩa của chữ phước thiện), tức làm những việc phước
thiện để gây duyên lành về sau. Đức Thầy có dạy:
“Ông Bà có sẵn của tiền,
Lại thường làm ruộng phước duyên để dành”.
(Cho Thằng Tân)
KHUYẾN THIỆN:Xem
chú thích Tiêu đề Q.5,tr.183 Tập 3/3).
HUYỀN THÂM:Xem
chú thích tại tr. 37, Tập 1/3. PHẬT PHÁP: Xem chú thích tại
tr. 54, Tập 1/3.
PHƯỚC ĐỨC: Xem
chú thích tại tr. 123, Tập 2/3.
BẠC ÁC: Hung dữ gian ác, hay
quên ơn, chẳng hề thương nghĩ đến ai:“Những người bạc ác tinh ma.”
(Truyện Kiều).
NHU MÌ: Xem chú thích tr. 89,
Tập1/3.
KÍNH VÌ: Xem chú thích tại
tr.90, Tập 1/3.
HIẾU TRUNG: Xem
chú thích tại tr. 141, Tập 2/3.
TIÊN ĐÀI: Chỗ Tiên ngự. Đây chỉ
ngôi vị ở cảnh Tiên Phật.
NAM MÔ: Xem chú thích tại tr.
81, Tập 1/3.
DUA MỊ: Cũng gọi là du mị.
Có
nghĩa bưng bợ, tâng bốc người để nhờ cậy. Đức Thầy có câu:“Cứ theo cái lối a
dua.”(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi).
KINH KỆ: Xem chú thích tại tr. 156,
tập 1/3.
GẶP SÔNG QUÊN NGUỒN: Sở dĩ có nước sông là gốc
từ trên nguồn chảy xuống mà kẻ được uống nước sông lại quên nguồn. Cho nên
thành ngữ nầy nhằm thống trách những kẻ sanh được thân người và có nơi ăn chốn
ở, lại không nhớ đến công ơn Tổ Tiên nòi giống. Đức Thầy từng nói trong “Giã Từ
Bổn Đạo Khắp Nơi”: “Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,
Được
thân sung sướng vội lìa Tổ Tông”.
–Gặp sông quên nguồn cũng còn có nghĩa
những kẻ được hưởng sự cao sang sung sướng hiện giờ là do có căn tu hành từ
trước mà nay vội quên đi, chẳng chịu hồi đầu hướng thiện, để vun vén thêm (tu
hành) cho cội lành ấy sớm được kết quả viên mãn (thành đạo). Đức Thầy hằng
thống trách:“Biết gốc lành sao cội không gìn.”(Thu Đã
Cuối).
LẲNG LƠ: Xem chú thích tại
tr. 320, Tập 3/3.
MẮT LẤP TAI NGƠ: Xem chú thích “tai lấp mắt
ngơ“, tr. 161, Tập 1/3.
HẪNG HỜ: Thờ ơ, không để ý hay
tưởng nhớ tới..
HỐ SÂU TÌNH DỤC: Lòng ham muốn sắc đẹp, vị
danh tiền của như cái hố rất sâu, ai sa vào đấy khó mà thoát ra được. Người
càng đắm say tình dục, càng chìm trong hố sâu tội lỗi, như voi sa lầy, càng vẫy
vùng càng bị lún thêm. Cho nên nhà tu cần phải tránh xa tình dục.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy:“Người
hành đạo như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, thấy lửa phải tránh. Người nhập đạo đối với
lòng ham muốn tình dục cũng phải tránh như thế.”
CHÁNH
VĂN
753.Nhắm
mắt cũng nắm hai tay,
Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
Chỉ có tội phước hỡi còn,
756.
Đến nơi thẩm-phán cửa son Diêm-Đài.
Phước nhiều tiên-cảnh lên rày,
Tội nhiều sa-đọa nhiều ngày thảm-thê.
Chừng ấy mới biết chỉn ghê,
760.
Ăn-năn chẳng kịp khó bề tính-toan.
Ngày nay sớm đến Phật-đàng,
Tu cầu chư Phật cứu an linh-hồn.
Tội tiêu phước hưởng trường-tồn,
764.
Không còn mắc nẻo dại-khôn luân-hồi.
Thấy đời khó nỗi yên ngồi,
Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao.
Nữ nam muốn rõ âm-hao,
768. Rán trau
đức-hạnh ngày sau sẽ tường.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 753 đến câu 768) :
-Đức Giáo Chủ cho biết kiếp sống của con người dầu có tạo ra của
tiền danh vọng, vợ đẹp hầu xinh hay vật chất thật nhiều đi nữa, nhưng khi nhắm
mắt cũng chẳng mang theo được món nào. Thật là:“Chiêm bao cuộc thế chẳng
thường còn.”(Cho cô Võ thị Hợi). Duy có nghiệp thiện ác lúc nào cũng đeo
sát bên ta, có sức mạnh dắt linh hồn ta đến cõi Diêm đài để được công
minh phán xét.
-Bấy giờ Vua Diêm Vương căn cứ vào nghiệp tội, phước của con người
mà quyết định. Hễ ai tạo phước đức được siêu sanh lên cõi Tiên Phật, bằng gây
nghiệp tội ác sẽ bị đọa vào các cảnh giới thấp hèn, chịu muôn ngàn thảm khổ.
Đến đấy, dù ta có hối hận ăn năn những hành động tội ác quá khứ hay muốn
tìm phương sửa đổi cũng không thể kịp.
-Chi bằng ngay bây giờ, chúng ta nên hồi tâm giác tỉnh, nương theo
con đường Đạo pháp của Tổ Thầy đã vạch, lo trau sửa thân tâm. Làm lành niệm
Phật cho tội quả tiêu mòn, phước hạnh được gia tăng. Đặng vậy, chư Phật mới có
thể tiếp độ linh hồn chúng ta“Về Cực lạc thảnh thơi an dưỡng, Ấy là ngày
ban thưởng công tu.”(Cho Ô. Cò Tàu Hảo), không còn bị luân
chuyển trong sáu đường luân hồi sanh tử nữa.
-Trước khi kết thúc đoạn KỆ, Đức Thầy nhắc lại một lần nữa: Vì
Ngài chẳng nỡ ngồi yên, nhìn cảnh bi thương, thống khổ, mà cả chúng sanh đang
gánh chịu nên cần viết thêm ít lời. Trong đây, Ngài phân tách những gì thấp,
cao, tội, phước một cách rành mạch để khắp nữ nam xem coi và nhận xét nếu ai
muốn biết sự trạng từ đây sắp tới diễn ra thế nào, hãy sớm tu thân lập hạnh,
rồi đến ngày kết cuộc sẽ thấy rõ:
“Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật được Trời,
Coi phép lạ của Tiên của Thánh.”
(Kệ
Dân, Q.2)
CHÚ THÍCH :
THẨM PHÁN: Thẩm
vấn và phân xử, quyết đoán. Đức Thầy có câu, trong bài “Đến Làng Nhơn
Nghĩa”:
“Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Chờ nơi thẩm phán sẽ cung khai”.
DIÊM ĐÀI: Đài của Vua Diêm Vương
ngự, nơi phân xử tội trạng của người chết (cảnh Địa ngục). Đức Thầy cho biết:
“Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng.”(Tư Tưởng).
SA ĐỌA: Sa là rơi rụng, đọa
là rớt xuống, hư hỏng tội lỗi. Đây chỉ cho những kẻ bình nhựt làm điều tội
ác, khi chết bị đọa vào các cảnh giới thấp hèn, như: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc
sanh…Đức Thầy hằng cảnh tỉnh:
“Đừng có ham lên mặt hùng anh,
Sa Địa ngục uổng thân uổng kiếp.”(Kệ Dân, Q.2)
CHỈN GHÊ: Xem
chú thích tại tr. 124, Tập 1/3..
PHẬT ĐÀNG:
Xem: Phật đường, tr.11 Tập 3/3.
LINH HỒN: Phần khôn biết (tinh
thần) trong con người. Mỗi chúng sanh khi chết rồi, tùy theo nghiệp lành, dữ mà
linh hồn đi đầu thai để tạo ra thân xác khác, hoặc sanh qua cảnh giới khác.
Theo Đạo giáo thì mỗi người có ba hồn: Linh hồn, Giác hồn và Mê
hồn. Linh hồn là một bửu quang có công năng phán quyết mọi tư tưởng và hành
động, ngôn ngữ. Hai bên Linh hồn có Giác hồn và Mê hồn:
–Mê hồn luôn luôn xúi giục người làm những việc quấy: mê
danh, mến lợi, tham chạ dục tình.v.v…
-Trái lại, Giác hồn thì thanh tịnh nên yếu thế hơn Mê hồn.
Vì vậy, nên Linh hồn thường dễ bị Mê hồn cám dỗ theo đường tà quấy. Cho nên
người biết tu hành lúc nào cũng phải lấy Linh hồn làm chủ:“Cho linh hồn
cai quản châu thân.”(GMTK, Q.4), rồi theo Giác hồn mà đạt đến chỗ bất
sanh bất diệt (Niết Bàn), tức gom ba hồn hợp lại làm một, để trở về Giác tánh.
Như Đức Lục Tổ đã dạy:“Hội giả xưng vi Phật tánh, bất hội giả hoán tác linh
hồn” (Người đã tỏ ngộ thì gọi là Giác tánh, người chưa tỏ ngộ thì gọi là
Linh hồn).
Đức Thầy cũng khuyên:
“Đem về giác tánh chơn như,
Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.
(Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
DẠI KHÔN LUÂN HỒI: Sáu nẻo luân hồi được chia ra làm hai phần:
1-phần Thiện (khôn) gồm có ba đường: Trời, Người, A Tu La.
2-phần Ác (dại) có ba đường: Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục.
Sở dĩ có luân hồi là do ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý gây ra. Các
nghiệp ấy cứ tiếp nối nhau luôn, tạo thành sức mạnh lôi kéo chúng sanh, sau khi
mạng chung phải đi đầu thai vào một thân xác khác để đền trả tiền nghiệp hoặc
thỏa mãn lòng khát ái; cứ thế mà lên xuống mãi mãi trong sáu đường sanh tử, rất
thống khổ.
Về nghiệp dẫn đi đầu thai gồm có bốn thứ:
1/-Tích lũy nghiệp: Do các nghiệp tạo trong
nhiều đời trước còn chất chứa lại, đợi khi có cơ hội cảm đến là nghiệp lực ấy
dẫn đi đầu thai.
2/-Tập quán nghiệp: Do các nghiệp tạo trong đời hiện
tại cứ tiếp tục mãi thành ra thói quen thường mơ màng tưởng tượng đến, nên
nghiệp lực ấy dẫn đi đầu thai.
3/-Cực trọng nghiệp: Do các nghiệp tạo quá nặng
(mạnh) nên khi tâm niệm vừa máy động là nghiệp lực ấy dẫn đi đầu thai.
4/-Cận tử nghiệp: Do nghiệp tạo lúc gần lâm chung
như: luyến ái, tức giận, buồn khổ…quá mãnh liệt nên khi chết rồi là nghiệp ấy
dẫn đi đầu thai.
Còn phần tạo nghiệp và thọ báo của mỗi chúng sanh không giống nhau
cứ tùy nghiệp mà đầu thai và tùy nghiệp mà thọ báo. Như ai phạm mười điều ác
quá nặng và tội ngũ nghịch thì sanh vào Địc ngục; (Tội Ngũ nghịch: Giết
cha, giết mẹ, giết bậc A La hán, làm cho thân Phật chảy máu, phá sự hòa hiệp
của chúng Tăng.) còn phạm mười điều ác mà lòng tham lam nặng thì sanh vào Ngạ
quỉ; cũng phạm mười điều ác mà lòng mê si nặng thì đầu thi vào Súc sanh.
Khi vào con đường súc sanh cũng tùy nghiệp mà thọ báo hình loại
khác nhau, như trong “Cu Xá Luận” có nói:“Kẻ dâm dục quá thì sanh làm bồ
câu, se sẻ, oan ương; Kẻ sân nộ quá thì sanh làm rắn rít; Kẻ ngu si quá thì
sanh làm heo, dê, trai, hến; Kẻ kiêu mạng quá thì sanh làm cọp, beo, sư tử; kẻ
giễu cợt quá thì sanh làm khỉ vượn; Kẻ keo kiệt và tật đố quá thì sanh làm chó
đói”.
Đó là phần Ác nghiệp, còn phần Thiện nghiệp: Nếu
người tu được mười điều lành thì đặng sanh về cõi Trời; làm được năm điều lành
thì sanh vào cõi Người; làm mười điều lành, nhưng lòng còn nóng giận, nhân ngã,
tật đố thì sanh về cõi Thần (A Tu La).
Sự đầu thai nói trên, tuy rằng: Khôn dại, vui khổ có khác, song
cũng đồng nằm trong luân hồi sanh tử; chỉ có từ bực A La Hán trở lên mới khỏi
vòng luân hồi trong Lục đạo.
CHÁNH VĂN
769.Ngôn-từ đạo hạnh
ý Thầy khuyên,
Hạnh đức ân-cần
rán tập chuyên.
Thất-tổ cửu-huyền
nơi chín suối,
772. Mỉa-mai xa lánh
sáu đường duyên.
VÔ-thượng thậm
thâm dĩ ý truyền,
DANH-ngôn chép để
rạch đàng Tiên.
CƯ-gia Tịnh-Độ
tâm viên-mãn,
776.SĨ xuất văn-từ
dốc dạy khuyên.
NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA
MÂU-NI PHẬT
( tam niệm )
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
LƯỢC GIẢI (Từ câu 769 đến câu 776) :
-Đến đây, Đức Giáo Chủ viết hai bài thi tứ cú để kết luận quyển
Khuyến Thiện:
Hai câu 1 và 2 của bài
thơ thứ nhứt khuyên rằng những lời lành lẽ đạo, Ngài đã luận giải trong
đây, mỗi tín đồ phải để tâm ghi nhớ và chuyên cần tu tập. Cả hai phương diện
tâm đức và hạnh nết, luôn trau sửa và lọc lừa để được hiền hòa ngay chánh:
“Trí hiền tâm đức chùi lau,
Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.”(Sấm Giảng, Q.3).
–Câu 3 và 4: Ngài cho biết nếu hành giả tu tiến được như
trên, tức Ông Bà Cha Mẹ đã quá vãng từ vô lượng kiếp, dù ở nơi Địa ngục hay bất
cứ cảnh giới nào cũng lần lượt đặng siêu thăng và chẳng còn phải luân chuyển
trong sáu đường sanh tử:“Cửu Huyền Thất Tổ Diêm la thoát hình.”(Khuyến
Thiện Q.5).
–Bài thi thứ nhì, Ngài viết lối khoán thủ cách cú, xem dọc
xuống sẽ thấy bốn chữ đầu của mỗi câu là “VÔ DANH CƯ SĨ”, biệt hiệu của Đức
Thầy, và Ngài cũng có ý nêu hạnh tu tại gia cho mỗi tín đồ y cứ theo đó mà trì
hành. Nghĩa là chỉ xuất gia (giải thoát) bằng nội tâm chớ không chấp xuất gia
nơi hình thức.(Ra khỏi nhà cửa Tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới).
–Câu 1 của bài thi nầy, Đức Giáo Chủ cho biết: Giáo Pháp
của Phật cao thượng không có gì cao bằng và sâu kín mầu diệu không có chi so
sánh hay diễn tả cho hết được. Mà xưa kia Đức Phật đã “dĩ tâm ấn tâm, dụng ý
truyền ý” cho Tổ Ca Diếp và qua 33 vị Tổ từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Rồi thời
gian trước đây trên 100 năm có Đức Phật Thầy Tây An ra đời (1807-1856) cũng đã
đắc truyền Chánh pháp ấy, như Ngài từng viết:“Thọ truyền mối Đạo Thích Ca,
Màu thiền tâm ấn phép nhà nhiệm thay !” Hôm nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng đã
chứng thọ tâm truyền cái Tâm ấn Thiền Tông nói trên.
–Câu 2: Vẫn biết chánh pháp vô vi lìa cả văn từ ngôn ngữ và
mọi hình thức, nhưng vì lòng từ bi cùng có trách nhiệm thị hiện độ đời, nên Đức
Giáo Chủ phải tạm dùng lời Kệ giảng mà Khai thị con đường siêu thoát (Đạo) để
phương tiện tiếp đưa chúng sanh ra khỏi rừng mê khổ.
–Câu 3: Đức Thầy nói rõ từ trước Ngài cũng tu Pháp Tịnh Độ
với hạnh tại gia và đã chứng đắc hoàn toàn (Giác hạnh viên mãn), tức đạt được “Tịnh
độ tự tâm, Di Đà tự tánh”.
–Câu 4: Nay vì muốn rộng độ các tầng lớp nhân sinh nên Ngài
phải mượn văn từ viết ra Kinh Sấm, khuyến hóa mọi người chuyên tâm làm lành
niệm Phật (Tịnh độ) để được kết quả như Ngài.
-Đại lược bài thi khoán thủ trên đây, thấy rằng Đức Giáo Chủ PGHH
đã đắc thọ tâm truyền cả hai Giáo pháp Thiền Tông và Tịnh Độ. Nay vì có bổn
phận khai hóa chúng sanh giữa thời mạt pháp, nên Ngài chuyển kiếp tạm dùng Kinh
Giảng khai sáng Đạo mầu, giác tỉnh quần sanh, song tu Thiền Tịnh hầu tiến đến
Niết bàn, Cực lạc, thoát vòng sanh tử luân hồi.
CHÚ THÍCH :
NGÔN TỪ: Lời nói hay văn tự,
cũng có nghĩa là lời lành. Ý dùng văn chương để diễn tả lời lành ý Đạo. Đây chỉ
cho lời Kinh Giảng của Đức Thầy.
ĐẠO HẠNH: Xem chú thích: tr.
160, Tập 1/3.
HẠNH ĐỨC: Xem chú thích: “Đức
hạnh”, tr. 111, Tập 2/3.
ÂN CẦN: Xem chú thích: tr.
230, Tập 2/3.
THẤT TỔ CỬU HUYỀN: Xem chú thích: tr. 117-118, Tập 1/3.
CHÍN SUỐI: Do
chữ cửu tuyền. Tương truyền dưới cõi âm phủ có chín cái suối. Cho nên
trong văn chương thường dùng chữ chín suối hay cửu tuyền để chỉ
cho cõi âm phủ (Địa ngục):“Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”(Truyện
Kiều).
MỈA MAI: Mang máng, hơi giống. Các
loài chim người ta nuôi đem lột lưỡi, dạy nói tiếng người, ban đầu còn mang
máng (hơi giống) nhưng sau rồi cũng nói được rõ ràng: “Con oanh tập nói trên
cành mỉa mai”(Truyện Kiều). Ở đây ý nói việc chắc chắn sẽ được như vậy,
nghĩa là người tu khi hạnh đức đầy đủ (chứng đạo) thì cứu được Cửu Huyền Thất
Tổ thoát khỏi luân hồi:“Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu Huyền thăng”.
SÁU ĐƯỜNG DUYÊN: Tức sáu đường luân hồi.
Bởi tùy theo nhân duyên tạo tác của mỗi người mà khi chết linh hồn phải sanh
vào sáu cõi: Trời, Người, A Tu La, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục.
VÔ THƯỢNG THẬM THÂM: Vô thượng, Phạn ngữ
:Anouttara, phiên âm là A-bạt đa-la, A-nậu đa-la. Có nghĩa: Cao hơn hết, cao
không có gì cao hơn, trên không có chi trên bằng. – Vô thượng dùng chỉ cho trí
đức, quả vị hay pháp giáo…Thậm thâm là rất sâu kín mầu nhiệm. Đức Thầy
từng viết:“Chữ thậm thâm trong Kinh Phật giáo.”(GMTK,
Q.4).
“Vô thượng thậm thâm” ở đây chỉ cho
chánh pháp, đọc đủ là “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”. Có nghĩa: Giáo
pháp của Phật rất thâm sâu, mầu diệu không có chi sánh bằng. Kinh Tịnh Danh
bảo:“Pháp vô hữu tỷ, vô tương đãi cố.”(Diệu pháp không có chi sánh, cũng
không có gì tương đối được). Đây gọi là Chánh pháp vô vi. Đức Thầy từng nói,
trong bài “Cho Ô. Tham Tá Ngà”:
“Huyền Pháp thâm trầm thơm bất
tuyệt,
Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”
Và: “Xả thân tầm Đạo vô vi,
Nhiệm
mầu thâm diệu nan tri lão bày”.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
Các Kinh xưa mỗi đầu quyển đều có bài Kệ khai
Kinh:
“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn ức nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa”.
(Chánh pháp cao sâu rất diệu mầu,
Trăm nghìn muôn kiếp dễ tìm đâu.
Nay con nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai đạt ý mầu).
DĨ Ý TRUYỀN: Lấy
ý mà truyền ý, dụng tâm mà ấn tâm. Đây chỉ cho cái “Chánh pháp nhãn tàng,
Niết bàn diệu tâm”. Pháp Bửu Đàn Kinh có giải “Chánh pháp nhãn tàng là
thanh tịnh Pháp nhãn tức là tâm đức của Phật. Tâm nầy thấy và hiểu suốt Chánh
pháp nên gọi là Chánh Pháp Nhãn. Sâu rộng và hàm chứa muôn đức, nên gọi là
Tàng.” Kinh Pháp Hoa gọi là “Phật Tri Kiến”.
Niết Bàn Diệu Tâm là bản thể của Phật tâm. Tâm thể vắng lặng nên gọi là Niết bàn;
không thể đo lường và phân biệt được nên gọi là diệu. Chánh Pháp Nhãn
nầy, xưa Đức Phật đã truyền qua 33 vị Tổ mà nay Đức Giáo Chủ cũng được chứng
thọ.
Bởi cái tâm ấn nầy không thể dùng lời lẽ văn tự mà giảng luận hay
truyền thọ; khi nào tâm của hành giả được hoàn toàn thanh tịnh, đồng hòa với
thể tánh (Phật) thì Phật và chư Tổ mới dùng tâm ý mà ấn truyền cho.
DANH NGÔN: Lời
nói hay, có ý nghĩa và luôn được truyền tụng, người ta thường lưu nhắc để răn
đời. Ở đây ý nói Đức Giáo Chủ phương tiện dùng văn tự, ngôn ngữ luận truyền
giáo lý pháp môn để giác tỉnh người đời.
RẠCH ĐÀNG TIÊN:
Rạch là vạch ra, đàng Tiên là con đường về cảnh Tiên. Đàng Tiên ở đây chỉ con
đường siêu thoát, đối với nẻo tục. Đức Thầy có câu:
“Dạy cho trần thế phỉ tình,
Đàng Tiên cõi tục
phân minh hai đường”.
(Sám
Giảng Q.3)
CƯ GIA: Nói cho đủ là cư sĩ
tại gia hay tại gia cư sĩ. Có nghĩa: người tu Đạo Phật, nhưng ở tại
nhà (Xem thêm phần Tiêu Đề Q.5, Tập 3/3).
TÂM VIÊN MÃN: Tâm
tròn đầy sáng suốt. Đây chỉ cho người tu Phật đã chứng đắc hoàn toàn. Chính nó
là một trong ba giác: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn.
Qui Sơn Cảnh Sách có chép:“Tam giác viên minh, cố xưng vi Phật:
Nhứt giả tự giác, ngộ tánh chơn thường, liễu hoặc hư vọng, Nhị giả giác tha,
Vận vô duyên từ, độ hữu tình giới. Tam giả giác hạnh viên mãn: cùng nguyên cực
để, hạnh quả viên cơ.”(Ba giác tròn sáng cho nên xưng là Phật. Ba giác
là 1. Tự giác: Tự mình tỏ ngộ tánh chơn thường, hết sự mê lầm dối gia.
2. Giác tha: Đem lòng từ vô duyên độ cõi hữu tình. 3. Giác hạnh viên
mãn (Biết cùng nguồn tận đáy, hạnh mãn, quả tròn vậy).
VĂN TỪ: Văn chương, dùng chữ
nghĩa diễn tả lời lẽ, ý tứ mà mình muốn nói. Đây chỉ cho việc Đức Thầy dùng
giấy mực viết ra Kinh Giảng để khuyên người tu hành.
NAM MÔ: Xem chú thích tại tr.
81, Tập 1/3.
BỔN SƯ: Ông thầy căn bản. Theo
Phật giáo thì tôn Đức Thích Ca Như Lai là vị thầy căn bản (cội gốc). Vì Ngài là đấng Giáo Chủ
khai sáng Đạo Phật.
THÍCH CA: Xem chú thích tại
tr. 113, Tập 2/3.
MÂU NI: Phạn ngữ:Mouni, phiên âm
là Mâu-ni, dịch là Tịch-mặc. Có nghĩa: lặng lẽ trong sáng. Tuy làm các hạnh
lành, giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên trong sạch, không hề xao động hay
thiên chấp.
Kinh Di Đà Sớ Sao có giải chung bốn chữ Thích
Ca Mâu Ni trong hai nghĩa sau:
1/-“Nhứt giả đối đãi thuyết: Tắc năng giả
thiện quyền phương tiện, khúc trực cơ nghi. Nhơn giả trí đức hồng ân phổ triêm
vạn loại thị đại bi lợi vật. Tịch tắc trừng nhiên bất động, đốn tức vạn duyên.
Mặc tắc mạc nhi vong ngôn, vĩnh ly hy luận, thị đại trí minh lý giả”.
(Một là theo nghĩa đối đãi thì năng
là khéo dùng phương tiện chiều uốn thích hợp với căn cơ của chúng sanh. Nhơn
là trí đức hồng ân thấm nhuần khắp muôn loài, đó là lòng đại bi lợi vật. Tịch
là lắng lặng không động, dứt bặt muôn duyên. Chữ mặc là bặt vậy quên
lời, hằng rời hý luận, ấy là đại trí hợp với chơn lý vậy).
2/-“Nhị giả viên dung khuyết: Dĩ bi tức
tri cố, chung nhựt độ sanh, vô sanh khả độ, động nhứt tịnh giả. Dĩ trí tức bi
cố; bất khởi nhứt niệm, năng độ chúng sanh tịnh bất động giả. Cố tri thiên cử
nhị tư, nãi chí nhứt ngôn; Phật chi toàn đức; nhíp vô bất tận.”(Hai theo
nghĩa viên dung: Do vì Trí tức là Bi, nên trọn ngày độ sanh mà không có
tướng chúng sanh nào khá độ, đây tức là động mà tịnh vậy. – Do vì Trí tức là
Bi, nên chẳng khởi lên một mảy niệm mà thường độ chúng sanh, đây tức là tịnh mà
động vậy. Cho nên biết rằng chỉ nói hai chữ bi và trí nhẫn đến một lời, thì
toàn đức của Phật đều gồm được hết).
PHẬT: Xem chú thích: tr. 65,
Tập 1/3.
A
DI ĐÀ PHẬT:
Xem chú thích: tr. 136, Tập 1/3./.
Đăng nhận xét