Tôn Chỉ Hành Đạo (Quyển 6)
CHÁNH VĂN : ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
CHÚ GIẢI : THIỆN TÂM
LƯU HÀNH NỘI BỘ
CHÚ GIẢI QUYỂN SÁU CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ĐẠO
(Cũng có tên là “TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO”)
SỰ CÚNG LẠY CỦA NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA
(SGTVTB 2004, tr. 210-213)
A- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ.
CHÁNH VĂN
Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán
nguyện:
“Cúi kính dưng
hương trước Cửu-Huyền,
Cầu trên
Thất-Tổ chứng lòng thiềng.
Nay con
tỉnh-ngộ quy-y Phật,
Chí dốc tu hiền
tạo phước-duyên”.
Cấm hương, đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực
đọc tiếp:
“Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông,
Báo ơn
sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn.
Rày con xin giữ Đạo hằng,
Tu cầu Tông-Tổ
siêu thăng Phật-đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
Thoát nơi khổ
hải Liên-đài được lên.
Mong nhờ Đức Cả bề trên,
LƯỢC GIẢI :
-BÀI DƯNG HƯƠNG: (Theo ông Lâm Thế
Xương cho biết: Lúc ông chép các bài nguyện tại Tổ Đình (1939), Đức Thầy
mới viết bài dưng hương như vầy:“Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền, Cùng
trên Thất Tổ chứng lòng thiềng…”.Nghĩa là chữ đầu của câu thứ nhì là chữ
CÙNG chớ không phải chữ CẦU. Có lẽ sau nầy chép hoặc in lại nhiều lần nên trại
ra chữ Cầu. Theo ông, thành ngữ 4 chữ Cửu Huyền Thất Tổ dính liền nhau, nên Đức
Thầy viết câu trên có 2 chữ Cửu Huyền thì chuyển tiếp xuống câu dưới là “cùng
Thất Tổ”. Chẳng lẽ cầu Thất Tổ mà không cần Cửu Huyền sao ? Chúng tôi ghi vào
đây để sau nầy có dịp chúng ta cứu xét lại.)
1-Dưng hương cầu Cửu Huyền Thất Tổ chứng minh:
Con quì trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ,
thành tâm kính dâng nén hương, nguyện cầu ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp xin
chứng dám tấm lòng thành thật của con.
2-Nguyện hứa trước Cửu Huyền Thất Tổ:
Hôm nay con thức tỉnh qui y Phật pháp, quyết chí
lo tu hiền, làm lành lánh dữ để gây tạo phước duyên từ đây đến ngày kết quả.
– BÀI NGUYỆN LẠY CỬU HUYỀN THÁT TỔ:
Bài nầy gồm có 4 phần:
1-Lo cúng lạy tu hành để đáp ơn sanh dưỡng (câu 1 và 2): Con cúi lạy
Tổ tiên, Ông bà cha mẹ trong tộc họ để lo đền đáp công khó nhọc, sanh dưỡng cho
con nên hình vóc từ trước tới giờ.
2-Dốc tu theo Tôn chỉ để cầu Tông Tổ siêu
sanh Cực Lạc (câu 3 và 4): Từ nay con luôn luôn phụng hành theo Tôn
chỉ “Học Phật Tu Nhân” của Đức Thầy đã đề vạch và nguyện cầu Tông Tổ được siêu
sanh Cực Lạc an tọa trên đài sen báu.
3-Vừa tu cho đẹp mặt Tông môn, vừa cho mình
thoát trần về Phật (câu 5 và 6): Phần con chí nguyện trau dồi
tài đức để làm rạng rỡ Tông môn và quyết tu thoát khỏi bể trần thống khổ, hầu
vãng sanh về Cực Lạc.
4-Mong nhờ Cửu Huyền Thất Tổ gia hộ cho con
bền chí tu hành đến ngày kết quả (câu 7 và 8): Cuối cùng con tha thiết mong
cầu Cửu Huyền Thất Tổ ban ơn bố đức ủng hộ cho con được yên ổn thân tâm, kiên
chí tu hành mãi mãi cho đến ngày thành quả.
CHÚ THÍCH :
CỬU HUYỀN THẤT TỔ: Là thành ngữ chỉ chung cho
Tổ Tiên ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ.
CỬU HUYỀN: Theo Nho Giáo (Hán học)
thì Cửu Huyền tức là Cửu tộc. Gồm có: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng,
Huyền. Có nghĩa trên mình bốn bực là Ông Sơ, ông Cố, ông Nội, Cha, giữa là mình
và dưới mình bốn bực là con, cháu, cháu chắt, cháu chít.
Xưa, đời Hạ Võ có đúc 9 cái đỉnh bằng đồng để
thờ Tổ Tiên tộc họ. Trào nhà Nguyễn, Việt Nam ta cũng có tạo ra Cửu đỉnh đặt
tại nhà Thái Miếu, ý cũng để nhớ đến Tổ Tiên, nòi giống. Song nên nhớ là thờ
lạy 4 bực trên, đã qua đời, còn cứu độ và liên đới trách nhiệm thì luôn cả 4
cấp dưới. (Dẫn theo ý Đức Thầy đã giải cho ông Huỳnh Hữu Phỉ nghe. Ông Phỉ giữ
trang giấy ấy, đã ép vào giấy kiếng và giữ còn tới bây giờ. Cũng đã có nhiều
anh em ép hoặc photo để kỷ niệm.)
THẤT TỔ: Theo Phật Giáo (Phật học)
thì Thất Tổ là “Tổ tông bảy đời”, do chữ “Thất Thế Phụ Mẫu” có nghĩa mỗi lần
sanh ra xác thân đều có tổ tiên cha mẹ mà bảy lần như vậy gọi là “Tổ Tông bảy
đời”. Theo phong tục ở Ấn Độ, con số 7 là số tượng trưng cho con số nhiều (vô
lượng). Bởi từ vô thỉ tới giờ con người chết đi, sanh lại không biết bao nhiêu
lần. Cho nên Thất Tồ là chỉ cho ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ. Đức
Thầy đã bảo:
“Ngày nào đắc được lục thông,
Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.
Căn cứ hai lý giải trên, tựu trung là một
thành ngữ, ghép hai từ ngữ Hán học “Cửu Huyền” và Phật học “Thất Tổ” lại thành
một thành ngữ “Cửu Huyền Thất Tổ”. Ban sơ là tiếng cầu chúc nhau (chúc cầu Cửu
Huyền Thất Tổ nội ngoại), sau thành thói quen, nên dùng làm thành ngữ chỉ chung
cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp. Đức Thầy đã xác định:“Phụ mẫu
thâm ân vô lượng kiếp”. Và:
“Đầu cúi lạy Cửu Huyền Thất Tổ,
Ngõ đáp ơn báo bổ sanh thành”.
LÒNG THIỀNG: Lòng thành.
TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ.
Hiểu rõ những điều sai lầm từ trước mà khởi lòng tự giác tu hành theo Đạo lý.
Đức Thầy từng kêu gọi:
“Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.
PHƯỚC DUYÊN: Phước đức và nhân duyên,
(nghĩa của chữ phước điền) tức là làm những việc phước thiện để gây
duyên lành về sau. Đức Thầy có câu:
“Ông bà có sẵn của tiền,
Lại thường làm ruộng phước duyên để
dành”.
SANH DƯỠNG: Cũng viết là sinh dưỡng,
tức sanh ra và nuôi cho lớn khôn, do chữ “Cúc Dục”. Kinh thi của Thánh giáo có
câu:“Phụ hề sanh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, dục
báo thâm ân, hạo nhiên võng cực”. (Cha sanh ta, mẹ đẻ ta, thương thay cha
mẹ sanh ta khó nhọc, muốn đáp ơn sâu, thật ơn ấy như trời cao chẳng cùng).
Còn Kinh Phật có giải mười điều ơn của cha mẹ
như sau:
1-Thập ngoạt hoài thai: Mười tháng cưu mang.
2-Lâm sản thọ khổ: Sanh đẻ chịu khổ.
3-Sanh tử vong ưu: Sanh được con mừng mà quên
lo rầu.
4-Yến khổ thổ cam: Uống đắng nhổ ngọt.
5-Hồi can tựu thấp: Nhường chỗ khô, nằm chỗ
ướt.
6-Nhũ bộ dưỡng dục: Bú mớm và nuôi nấng.
7-Tẩy trạc bất tịnh: Giặt rửa mọi điều dơ
bẩn.
8-Viễn hành ức niệm: Con đi xa thì cha mẹ nhớ
tưởng.
9-Vị tạo ác nghiệp: Vì con mà cha mẹ làm điều
chẳng lành.
10-Cứu cánh lân mẫn: Cha mẹ thương con không
có cái thương nào bằng.
Đức Thầy thường khuyên:
“Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc”.
DÀY CÔNG:Công phu nhiều lắm khó
lường được.
NHỌC NHẰN: Vất vả cực nhọc.
ĐẠO HẰNG: Đạo thường xưa nay, tức
mọi phép tắc mà người người đều tuân theo để ăn ở xử thế cho phải lẽ,
phải phép đúng với bổn phận con người; phân làm 5 mối thường hằng (ngũ thường)
là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Chữ “Đạo hằng” ở đây còn có nghĩa Đức Thầy dạy
tín đồ thường ngày đều thực hành đúng theo con đường Đạo mà mỗi người đã hứa nguyện
với Cửu Huyền Thất Tổ như trong bài nguyện đã nói trên.
PHẬT ĐÀI: Đài Phật ngự, đây chỉ cho
đài sen báu ở cõi Cực Lạc.
LIÊN ĐÀI: Đài sen, cũng có ý nghĩa
như trên.
ĐỨC CẢ: Đức lớn, tiếng tôn xưng và
cậy nhờ bề trên. Đây chỉ cho Cửu Huyền Thất Tổ.
CỘI TU: Gốc tu hành. Ý nói sự
tu hành như trồng cây, ai bền tâm vun phân tưới nước thì cây ắt đơm bông kết
quả tốt.
Đức Thầy bảo:
“Trồng cây lành vị quả thơm tho,
Tuy không thấy mà sau chẳng mất”.
B- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN PHẬT.
CHÁNH VĂN
1- BÀI NGUYỆN QUI Y
Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên
trán đọc bài Quy y:
“Nam-mô Ta-Bà Giáo-Chủ
Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (tam niệm)
Nam-Mô Thập Phương Phật.
Nam-Mô Thập Phương Pháp.
Nam-Mô Thập Phương Tăng.
“Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy,
Quan Thượng-Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn-thần, chư vị Năm Non
Bảy Núi, cảm-ứng chứng-minh, nay con nguyện cải-hối ăn-năn, làm lành lánh dữ,
quy-y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo”.
Cắm hương, lạy 4 lạy cũng được, hoặc
cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:(Bài Tây Phương Ngũ Nguyện
bên dưới ).
LƯỢC GIẢI :
Bài Nguyện Qui Y trước Bàn Phật có hai
phần:
–PHẦN NHỨT: Mỗi người của chúng ta
nguyện với vị Giáo chủ Đạo Phật. Kế tiếp là khắp mười phương chư Phật Pháp
Tăng, rồi Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, Chư Quan Cựu Thần, Chư
Vị Sơn Thần và Năm Non Bảy Núi chứng minh cho lời phát nguyện Qui y của chúng
ta.
–PHẦN NHÌ: Chúng ta tự quyết cải hối
những việc sai lầm vừa qua và tự nguyện từ đây ngăn tránh các điều quấy ác và làm
hết các việc tốt đẹp thiện lương. Nhứt tâm nương theo con đường Phật Đạo, tức
là giáo pháp và giới luật do các Ngài chỉ dẫn để tu tiến cho đến ngày thành
Đạo.
CHÚ THÍCH :
NAM MÔ: Xem lại chú thích tại tr.
135.
TA BÀ: Phiên âm của Phạn ngữ Saha,
dịch là Kham nhẫn hay Đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy kham chịu mọi điều
thống khổ, tức là cõi chúng ta đang ở. Đức Thầy từng bảo:
“Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,
Có bao người xét cho tột chỗ”.
GIÁO CHỦ: Vị đầu tiên khai sáng Đạo
Phật. Đây chỉ cho Đức Phật Thích Ca, bởi Ngài là Giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta
bà. Cho nên gọi chung là Ta Bà Giáo chủ. Đức Thầy có câu:
“Nam Mô Thích Ca Như Lai,
Ta bà giáo chủ xin Ngài chứng minh”.
BỔN SƯ: Xem chú thích bài “Cầu
nguyện cho người chết”, tr. 135.
MÂU NI: Xem chú thích tr. 135.
PHẬT: Xem chú thích tr. 135.
THẬP PHƯƠNG PHẬT, THẬP PHƯƠNG PHÁP, THẬP
PHƯƠNG TĂNG:
Mười phương thế giới đều có chúng sanh, tất có Phật giáo hóa, mà Phật muốn hóa
độ chúng sanh phải dùng Kinh Pháp nên gọi là Thập phương Phật và Thập phương
Pháp. Hễ có Phật có Pháp tất có Chư Tăng tức là các Đại đệ tử của Phật, nên gọi
là Thập phương Tăng. Nói chung là 10 phương thế giới đều có Tam Bảo: Phật,
Pháp, Tăng. Bài Qui y Đức Thầy dạy rộng như thế, Ngài đã từng bảo:
“Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát”.
PHẬT TỔ: Xem chú thích bài “Cầu
nguyện cho người chết”, tr.135.
PHẬT THẦY: Xem chú thích, tr. 21.
QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN: là Ngài Nguyễn Trung
Trực. Ông sanh năm 1837 tại tỉnh Bình Định (Trung phần Việt Nam), trong một gia
đình chài lưới ở cặp bờ biển. Con của Cụ Nguyễn trung Thăng. Cũng có thuyết nói
tên Ông là Chơn hay Lịch (Quản Chơn, Quản Lịch), ở tỉnh Tân An (Nam phần) song
vì bà Cụ, mẫu thân ông nói tiếng hơi cứng nên xác định quê ông ở Bình Định đúng
hơn.
Vì căm thù quân Pháp nên gia đình ông và số
người đồng hương di cư vào Định Tường (Nam phần). Trong đoàn có Cụ Quản Cơ Lê
Đình Vạn đứng ra chiêu tập nghĩa binh trên 200 người chực chờ đánh Pháp. Sau vì
già bịnh Cụ Vạn giao binh quyền cho ông Nguyễn Trung Trực, từ đấy ông lập được
nhiều chiến công oanh liệt như sau:
1- Ngày mùng 10-9-1861, Thủy sư Đô Đốc
Charner cho quân đổ bộ lên bờ sông Bảo Định. Chính Cụ Nguyễn điều động nghĩa
binh tiêu diệt hơn 30 binh sĩ Pháp và tên chỉ huy Bondais bị hạ ngay tại chỗ.
2- Ngày 22-6-1861 Tướng Paulin Vial tiến đánh
Định Tường, bị Cụ Nguyễn dùng kế không thành đánh tướng Paulin trọng thương và
quân Pháp chạy bán sống bán chết.
3- Kế tiếp quân Pháp gom toàn lực bao vây đồn
Thuộc Nhiêu. Cụ liền phân binh trong một đêm đánh triệt hạ 7 đồn binh của
chúng.
4- Ngày 11-12-1861 Ngài dùng hỏa công đánh
đốt chiếc tàu Espérance tại vàm sông Nhựt Tảo. Ngọn lửa cháy ngất trời cả một
khúc sông. Chính Cụ chém được đầu Trung Tá Parfait xách lên bờ cho dân chúng
xem.
5- Đêm 5-6-1866, Ngài tiến đánh đồn Kiên
Giang (Rạch Giá) giết được 5 võ quan Pháp và 67 lính Tây, bắt sống 6 tên, đoạt
được 100 khẩu súng và vô số đạn dược.
Sau cùng bị số người theo Pháp bày mưu bắt mẹ
Ngài và cả trăm đồng bào giam giữ; chúng buộc Ngài ra mặt mới trao trả. Bấy giờ
Ngài thấy cuộc kháng Pháp không thể kéo dài thêm nữa. Vả lại cần cứu sống hằng
trăm nạn nhân, nên Ngài giải tán nghĩa binh rồi tự trói mình ra nạp cho Pháp để
chuộc mẹ và số đồng bào ra. Quân Pháp dùng đủ cách dụ hàng, nhưng không lay
chuyển được lòng trung nghĩa của Ngài. Cho nên họ đem Ngài ra hành quyết vào
ngày 28-8 năm Mậu Thìn (27-8-1868). Trước khi tử hình Ngài có làm bài thơ tuyệt
mệnh, lời lẽ khí khái và thống thiết như sau:
“Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
Yêu giang đởm khí hữu long tuyền.
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa,
Báo hận thâm cừu bất đái thiên”.
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
“Theo việc binh nhung tự thuở trai,
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chan chan chẳng đội trời”.
Sau khi vị quốc vong thân, Ngài được vua Tự Đức sắc tứ truy phong
là “Quan Thượng Đẳng Đại Thần”. Hiện giờ đền thờ chánh của Ngài tại xã Vĩnh
Thạnh Trung, tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá).
(Về công nghiệp của Ngài, sau nầy Cụ Huỳnh Mẫn Đạt có viết hai câu
đối:
“Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần”.
Trong một bài thơ có đề cập đến Quan Thượng Đẳng Đại Thần do Đức
Thầy sáng tác năm Canh Thìn (1940) với tựa đề “Lý lịch”.
THƯỢNG thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu,
ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
ĐẠI pháp vô vi là chơn lý,
THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu”.
Thẩm xét bài thơ trên thấy hàm dung bao ý nghĩa chứng minh rằng
Ngài Nguyễn Trung Trực theo Đức Phật Thầy chuyển kiếp độ đời qua bốn chữ khoán
thủ.
CHƯ QUAN CỰU THẦN: Chư là chỉ số nhiều. Quan Cựu thần là các vị quan văn võ trung
cang nghĩa khí, tận tâm bảo vệ tổ quốc. Đây chỉ cho các quan cựu thần, từ hồi
lập quốc (Hùng Vương) tới giờ đã được ghi vào lịch sử. Đức Thầy bảo:
“Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”.
CHƯ VỊ SƠN THẦN, CHƯ VỊ NĂM NON BẢY NÚI: Chỉ cho các vị thần có nhiệm vụ trong vùng Năm
Non Bảy Núi, đã qui y Phật tu hành và theo Đức Thầy cứu dân độ thế trong thời
nầy. Đức Thầy có câu:
“Chư sơn bảy núi đều qui tựu,
Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày”.
Và:
“Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay”.
NĂM NON: Năm cái chỏm cao, tức
năm cái Vồ trên núi, gồm có:
1-Vồ Bò Hong: cao
716m, coi như đỉnh chót của núi Cấm, ở về hướng Tây (vì khi xưa người ta ít lui
tới, giống bò hong sinh nở ở đây nhiều nên có tên ấy).
2-Vồ Đầu: cao
584m, ở về hướng Tây Bắc (phải chăng vì là cái Vồ đầu tiên người ta gặp được
khi lên núi do ngã chợ Thum Chưn).
3-Vồ Bà: cao 579m, ở về hướng
Nam (vì ở đây có điện thờ Bà Chúa Xứ) .
4-Vồ Ông Bướm: cao
480m, ở về hướng Bắc (vì khi xưa có 2 đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An là ông
Bướm và ông Vôi ẩn náu nơi đây tu hành đắc Đạo).
5-Vồ Thiên Tuế: cao
514m, ở về hướng Đông,(vì nơi đây có mọc nhiều cây thiên tuế).
BẢY NÚI: Nghĩa của chữ Thất Sơn,
tức bảy ngọn núi ở vùng tỉnh Châu Đốc, gần biên thùy Miên Việt gồm có:
1-Anh Vũ Sơn: Núi
Két cao 125m, thuộc xã Thới Sơn, quận Tịnh Biên (Châu Đốc). Vì trên chót núi
nầy có mỏm đá giống hình mỏ chim két.
2-Ngũ Hồ Sơn: Núi
Dài Năm Giếng, gần núi Két, chưa rõ số thước.
3-Thiên Cẩm Sơn: tức núi Gấm trời, cũng có tên núi Cấm. Cao 716m, dài 7.500m,
ngang 6.800m, nằm giữa quận Tịnh Biên và Tri Tôn (Xem thêm chi tiết tại
tr. 106-107, Quyển Thượng Tập 1/3).
4-Liên Hoa Sơn: núi Tượng, cao 115m, dài 600m. ngang 400m, thuộc xã Ba Chúc, quận
Tri Tôn (Châu Đốc), vì núi nầy đứng xa nhìn lên đỉnh thầy giống hình con voi.
5-Thủy Đài Sơn: núi
Nước gần núi Tượng, cao 50m, cùng thôn với núí Tượng.
6-Ngọa Long Sơn: Núi Dài, cao 580m, dài 8.000m, thuộc quận Tri Tôn (Châu Đốc). Vì
núi nầy dài tới 8 cây số ngàn, giống con rồng nằm.
7-Phụng Hoàng Sơn: núi Tô, cao 614m, dài 5,800m, ngang 3.700m, thuộc quận Tri Tôn
(Châu Đốc).
Trên đây là dẫn theo tài liệu có nhiều người kể lại, nhưng xét ra
miền Bảy Núi còn có nhiều ngọn núi khác nữa, như: núi Trà Sư, Bà Đội Om, Nam
Vi, v.v. …
Vì vậy nên danh từ “Thất Sơn”(Bảy Núi) có nghĩa chỉ chung cho tất
cả đồi núi thuộc tỉnh Châu Đốc. Ông Ba Thới có đề cập đến:
“Mắt đoái nhìn Tiên cảnh Thất Sơn,
Ngùi ngùi nhớ Chúa đội ơn lộc Thầy”.
Đức Thầy nay cũng bảo:
“Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,
Miền Bảy Núi mà sau báu quí”.
QUI Y THEO MẤY NGÀI: Nương về và tu đúng theo lời chỉ dạy của các Ngài từ Đức Thích
Ca, mười phương Tam Bảo dẫn đến Quan Thượng Đẳng và Chư Quan Cựu Thần…Nếu ta
hành động đúng theo hạnh đức của bậc nào thì chứng đắc đến bậc đó, chớ chẳng
phải cố định một hạng. Có điều nên lưu ý là chúng ta “Tu hiền theo Phật Đạo”,
chớ không phải tu theo Thần Đạo. Đức Thầy đã hằng khuyên:
“Qui y thì khá làm y,
Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
2- BÀI TÂY PHƯƠNG NGŨ NGUYỆN
( 5 Lời nguyện hướng về Tây phương Cực lạc )
CHÁNH VĂN
Nam-Mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Đại-từ Đại-bi phổ-độ chúng-sanh
A-Di-Đà Phật.
Nam-Mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng,
Liên-Hoa hải-hội, thượng Phật từ-bi, Phật-vương độ chúng, thế-giới bình-an.
Nam Mô nhị nguyên cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh.
Nam-Mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng long phước thọ,
phụ-mẫu quá khứ trực vãng Tây-phương.
Nam-Mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái, giải-thoát
mê-ly.
Nam-Mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật-Thầy từ-bi xá tội đệ-tử tiêu
tai tịnh sự, trí-huệ thông-minh, giai đắc đạo quả.
Lạy 4 lạy rồi xá:
1 xá chính giữa niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
1 xá bên trái niệm: Nam-Mô Đại-Thế Chí Bồ-Tát.
1 xá bên mặt niệm: Nam-Mô Quan Thế-Âm Bồ-Tát.
LƯỢC GIẢI :
Hai hàng chữ in nghiêng lợt dưới bài “Qui Y” là lời chỉ dẫn của
Đức Thầy rất rành. Ngài dạy nguyện xong bài “Qui Y” rồi đứng lên cắm hương lạy
4 lạy, hoặc cắm hương nguyện luôn bài “Tây phương ngũ nguyện” rồi lạy một lần 4
lạy cũng được.
Đại ý câu mở đề bài “Tây phương ngũ nguyện” là chúng ta cầu nguyện
Đức Phật A Di Đà, tức là vị Giáo chủ Thế giới Cực Lạc mở lòng từ bi tiếp độ tất
cả chúng sanh trong cõi Ta bà được vãng sanh về cảnh giới của Ngài. Dụng ý của
Đức Thầy muốn dạy tín đồ noi gương Đức Phật, thể hiện lòng bác ái vị tha cứu
khổ vạn loại chúng sanh để đáp ơn Tam Bảo.
1- Nguyện thứ nhứt: Chúng ta cầu ba vị Vua ba cõi (tam
hoàng) và Đức Phật chủ tọa “Liên hoa hải hội” cùng vị Phật vương hộ độ cho thế
giới sớm hòa bình, nhân loại an cư vui sống.
Ngụ ý là Ngài dạy đáp ân Đất nước và đồng bào nhân loại.
2- Nguyện thứ nhì: Chúng ta cầu nguyện cho Tổ tiên Ông bà
từ vô thỉ đến nay đều được siêu sanh Tịnh Độ.
Có dụng ý đền ơn Tổ tiên tộc họ.
3- Nguyện thứ ba: Chúng ta cầu nguyện cho cha mẹ còn hiện
tiền được sống lâu, hạnh phúc và cha mẹ đã qua đời từ vô lượng kiếp đều được
vãng sanh về Tây phương Cực lạc.
Có dụng ý là đáp ơn sanh dưỡng của cha mẹ.
4- Nguyện thứ tư: Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể dân
chúng đều phát tâm tu hành, mở rộng lòng từ bi bác ái, để giải thoát cảnh mê đồ
thống khổ.
Có dụng ý là đáp ơn Đồng bào nhân loại và ơn Đàn na thí chủ.
5– Nguyện thứ năm: Chúng ta cầu nguyện Đức Phật Tổ, Phật
Thầy từ bi xá tội các đệ tử, được tai qua nạn khỏi, tật bịnh tiêu trừ, trí huệ
sáng suốt và tất cả được chứng đắc Đạo quả.
Câu nầy Đức Thầy cũng có dụng ý dạy tất cả môn đồ noi gương
hạnh của Phật và Tổ Thầy mà nuôi chí tu tiến cho đến ngày thành đạo giải thóat
hầu đáp ơn Tam Bảo.
Tóm lại, trong bài “Tây phương ngũ nguyện”, Đức Thầy có dụng ý dạy
tín đồ thành tâm khẩn nguyện và noi gương Đức Phật A Di Đà cùng Phật Tổ, Phật
Thầy thể hiện lòng từ bi cứu khổ vạn loại chúng sanh, lo đền đáp “Tứ đại trọng
ân” để xứng đáng với hạnh Bồ Tát, như trong Kinh “Tâm Địa Quán” Phật đã dạy:“Thượng
báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.
CHÚ THÍCH :
PHỔ ĐỘ: Cứu độ khắp cả, tế độ
các giới chúng sanh thoát khỏi cảnh mê đồ thống khổ, Đức Thầy có câu:
“Oai thần đem Đạo huyền thâm,
Nhiệm mầu phổ độ âm thầm ai hay”.
THIÊN HOÀNG: Cũng
gọi là Thiên đế. Có nghĩa vua cai quản các cõi Trời. Chỉ cho Đức Ngọc Đế hay
Thiên Đế Thích.
ĐỊA HOÀNG:
Diêm La Vương, vị vua cai quản các cõi Địa ngục.
NHƠN HOÀNG: Vua
cõi người. Chỉ cho vị Thánh Vương đời Thượng ngươn sắp tới. Trong Giảng Mười
Một Hồi, Ngài Huệ Lựu có nói:
“Minh Vương xuất thế ngôi cao,
Lập đời thượng cổ anh hào hiền lương”.
Đức Thầy nay cũng bảo:
“Đức Minh Vương ngự chốn Nam thành,
Đặng phân xử những người bội nghĩa”.
Các từ ngữ Tam hoàng nói trên, Đức Thầy có diễn giải một đoạn như
sau:
“Hiền lành chừng đó sum vầy,
Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
Đến đó ta mới mừng cười
Nhìn xem Ngọc Đế giữa trời định phân.
Thiên Hoàng mở cửa các lân,
Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn;
Mười cửa xem thấy ghê hồn,
Cho trần coi thử có mà hay
không ?
Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng đồng trừng trị kẻ lòng
tà gian.
Ấy là đến lúc xuê xangTam Hoàng trở lại là đời Thượng Ngươn”.
LIÊN HOA HẢI HỘI: Liên hoa là hoa sen. Có nghĩa trong sạch và thanh tịnh. Chỉ cho
người tu đắc đạo; Hải hội là hội lớn, chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn
đều cu hội rất đông như biển không thể đếm hết con số. Hiểu chung, từ ngữ “Liên
Hoa Hải Hội” là số người tu chứng, cu hội về đông như biển cả. Từ xưa Đức
Phật nào xuất thế đều có cu hội số đệ tử thành đạo, để xướng danh và thọ ký.
Như thời Đức Thích Ca có lập “Linh Sơn Hội” để truyền tâm ấn cho Ngài Ca Diếp.
Cho nên, Đức Kim Sơn Phật hiện nay cũng sẽ có “Liên Hoa Hải Hội”.
THƯỢNG PHẬT TỪ BI: Vị Phật chủ tọa Liên Hoa Hải Hội tới đây, đứng đầu chư Phật chứng
đắc hiện tại, chỉ cho Đức Kim Sơn Phật.
PHẬT VƯƠNG: Vua
Phật, vị Giáo Chủ cõi Phật ở tương lai, cũng như hiện tại các giới đều tôn xưng
Đức Thích Ca là Vua Pháp, vua Phật:“Ngài là vua Pháp tột cao”.(
ĐT).
-Ở đây còn có ý nghĩa chỉ cho vị Chuyển Luân Thánh Vương (tu gần
đắc quả Phật). Ngài có trách nhiệm, đem lại sự hòa bình an lạc cho nhân loại
khắp thế giới.
TỊNH ĐỘ: Cũng gọi là Tịnh Thổ,
tức cõi đất hoàn toàn trong sạch an nhiên, cũng gọi là Cực Lạc hay An Dưỡng
Quốc. Đức Thầy có câu:
“Cõi Tịnh Độ lắm điều thanh nhã,
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn”.
SIÊU SANH:
Vượt khỏi cảnh thế tục luân hồi, được trở về cõi bất sanh bất diệt. Bốn chữ
“Tịnh Độ Siêu Sanh” có nghĩa: người được Vãng sanh về quốc độ Cực Lạc của Đức
Phật A Di Đà, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử. Đức Thầy cho biết:
“Có người tu niệm đáng thương,
Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh”.
PHỤ MẪU TẠI ĐƯỜNG: Cha mẹ lúc còn sống.
TĂNG LONG PHƯỚC THỌ: Sống lâu, thêm tuổi và hưởng đầy hạnh phúc.
PHỤ MẪU QUÁ KHỨ: Cha mẹ qua đời từ vô lượng kiếp đến nay.
TRỰC VÃNG TÂY PHƯƠNG: Vãng sanh thẳng về cõi Tây Phương Cực Lạc.
VẠN DÂN: Muôn dân, chỉ chung
cho tất cả dân chúng loài người.
TỪ TÂM: Lòng lành, khởi tâm bỏ
dữ làm lành và thương xót muôn loài vạn vật.
BÁC ÁI: Lòng thương yêu rộng
lớn.
MÊ LY: Say mê đắm đuối theo
một việc gì, gần như không còn biết đến mọi sự vật bên ngoài. Đây chỉ cho sự mê
luyến cõi hồng trần.
XÁ TỘI: Tha tội.
TỊNH SỰ: Yên tịnh không việc gì
bận rộn lo sợ.
TIÊU TAI: Hết tai họa bệnh tật.
THÔNG MINH: Sáng
suốt, hiểu biết mọi sự rõ ràng, không lầm lạc.
GIAI ĐẮC ĐẠO QUẢ: Đều được chứng thành Đạo quả. Chỉ cho người tu đạt được mục đích
giải thoát.
ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT: Vị Bồ Tát đã chứng đắc lâu đời, có nghị lực oai thần to lớn cùng
cực biểu hiện cho đại trí huệ và đứng hầu bên hữu Đức Phật A Di Đà.
Trong Kinh Bi Hoa, nguyên Ngài là Thái Tử Ni Ma, con của Vua
Vô Tránh Niệm. Khi nghe Bảo Tạng Như Lai thuyết pháp, vua cha ngộ đặng chơn lý
phát tâm hành đạo thì Thái Tử cũng phát tâm tu hành, theo phụng sự Phật Bảo
Tạng và chúng tăng trọn 3 tháng. Ngài phát nguyện cầu thành Phật Đạo. Đức Bảo
Tạng liền thọ ký cho Ngài sẽ thành Đại Thế Chí Bồ Tát ở cõi Cực Lạc của
Đức Phật A Di Đà.
Khi tu chứng quả, Ngài dùng oai thần rộng lớn, trí huệ sáng mầu
soi khắp mười phương, khiến cho chúng sanh cảm đức mà tu tỉnh thoát khổ. Ngài
đặt bước đến đâu chư Thiên đều chấn động, chúng Ma Vương khiếp sợ, cung điện
nghiêng ngã. Vì Ngài có oai thần như vậy nên được đời tôn xưng là Đại Thế Chí.
Khi Đức Phật Thích Ca xuất thế, Ngài có hiện thân đến làm đệ tử, đặng trợ duyên
Phật sự, giáo hóa chúng sanh.
Trong Hội Lăng Nghiêm, Ngài Đại Thế Chí có trình bày pháp tu trước
Phật Thích Ca như vầy:
“Tôi còn nhớ trước kia thuở Phật Siêu Nhựt Quang ra đời, Ngài có
dạy tôi pháp Niệm Phật Tam Muội (chánh định), tôi nhờ niệm Phật theo pháp ấy,
nên chứng được “vô sanh pháp nhẫn”. Từ ấy tôi theo sát Phật A Di Đà, đứng hầu
bên hữu và tiếp độ chúng sanh về cõi Cực Lạc của Ngài”.
QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT: Có nghĩa nghe xét tiếng của cả chúng sanh trong pháp giới hầu
dùng thần thông cứu độ. Ngài cũng có tên là Quán Tự Tại hay Liên Hoa Thủ.
Là một vị Bồ Tát rất có lòng từ bi hay cứu khổ cứu nạn nên có danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát. Ở đâu cũng có thờ và tụng niệm đến danh hiệu của Ngài. Ngài biểu
hiện cho đại từ bi và đứng hầu bên tả Đức Phật A Di Đà.
Kinh Phật chép rằng lúc chưa xuất gia tu hành, Ngài là con đầu
lòng của Vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Khi Vua cha phát tâm hành
đạo theo Đức Bảo Tạng Như Lai thì Ngài cũng thức tỉnh tu hành, phát lời Đại
nguyện:“Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường Tam Bảo, và các
món thiện căn tôi đã từng tu tập pháp mầu xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Nguyện cứu độ tất cả chúng sanh khổ đau họa hoạn, khi có ai niệm đến danh hiệu
tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ khỏi khổ và đặng an vui”.
Vì vậy, trong thế gian nầy, chỗ nào, lúc nào khi có sự khổ đau,
chúng sanh nào niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng lòng từ mẫn, dùng
pháp mầu cứu độ chúng sanh đó. Hiện nay Bồ Tát Quan Thế Âm đang hầu một bên Đức
Phật A Di Đà tại cảnh giới Tây phương Cực Lạc và hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh
khắp mười phương về cõi ấy.
Bởi Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đồng có nguyện lực tiếp dẫn
chúng sanh mười phương vãng sanh về Cực Lạc như Đức Phật A Di Đà nên Đức Thầy
dạy chúng ta: Khi xá chính giữa niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì cũng xá hai bên
niệm danh hiệu hai vị Bồ Tát nói trên. (Cũng cần lưu ý Ngài Đại Thế Chí
đứng bên phải của Đức A Di Đà là phía trái của ta. Còn Ngài Quan Thế Âm đứng
bên trái của Phật, tức phía phải của ta).
CÚNG LẠY: Do
chữ “lễ bái”. Có nghĩa thành tâm cung kính nguyện, vái, xá hay lạy. Kinh Phật
xưa có giải 7 cách lạy, từ thô sơ đến tinh tế, người tu hành cần phải hiểu để
lạy cách nào cho kết quả. Xin đại lược như sau:
1-Ngã mạn lễ: Lạy cách ngã mạn, tức là thân tuy đứng lạy, song chẳng thật lòng
thành tín.
2-Cầu danh lễ: Lạy cách cầu danh, tức dối bày oai nghi, thường lạy Phật, niệm
Phật, chớ lòng luôn theo đuổi ngoại cảnh, hoặc vọng cầu sự linh thính, để người
khác khen ngợi mình có tu có chứng..
3-Thân tâm lễ: Thân tâm đồng lạy, tức ngoài thân tướng trang nghiêm, cung kính,
tinh tấn siêng năng, trong tâm luôn tưởng nhớ chư Phật, không một niệm sai
khác.
4-Trí huệ thanh tịnh lễ: Lúc lạy tâm trí yên lặng, trong sáng. Bên trong định huệ gồm đủ,
không mảy may tán loạn. Bên ngoài trần cảnh không làm chướng ngại hay chi phối
được.
5-Bình đẳng lễ: Thân tâm đều bình đẳng, đối với vạn pháp lúc nào cũng chẳng rời
tánh bổn lai; nhưng cũng không còn tướng nhơn ngã, xem vạn vật đồng nhất thể.
Cho nên khi lạy một Đức Phật, tức cảm thông hết mười phương chư Phật.
6-Chánh quán lễ: Lạy Phật bằng cách quán xét pháp thân toàn giác của mình, tức
nhiếp tâm chánh niệm; tuy lễ bái chư Phật mà cũng lễ bái Phật thân của mình,
lòng không còn nhiễm ô trần trược. Pháp thân mình cùng Phật đều hòa nhau tự tại
giải thoát.
7-Thật tướng lễ: Lạy cách trở về thật tướng chơn như. Các cách lạy trước đây còn
thấy có lễ, có quán, có tu, mình và chư Phật có khác; giờ đây gom về một, mình
và Phật cũng không, phàm thánh một nguồn, Thể và Dụng chẳng phải hai “Nhất
bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản”.
Tóm lại, trong bảy cách lễ bái trên đây, hai cách đầu gọi là tà
lễ, hành giả nên diệt trừ. Vì nếu khi lạy tâm còn cầu danh, ngã mạn thì dù
có lạy cũng luống công. Còn năm cách sau gọi là chánh lễ, tức là “Thân
tâm đồng nhứt, trí huệ thanh tịnh, bình đẳng, chánh quán và thật tướng”.
Nhà tu ráng rèn tập cho lòng có được như vậy tức mình và Phật không sai khác,
ấy là kết quả. Đức Thầy nay cũng dạy từ chỗ:“Khi cầu khi nguyện chuyện gì
thành tâm”, đi lần đến chỗ:“Vô Pháp tướng mới là thiệt
tướng” và “Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu”.
BÀN THÔNG THIÊN
(SGTVTB 2004, tr. 212)
CHÁNH VĂN
Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng
(lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.
Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Qui-Y, còn ba hướng
kia chỉ đọc bài Tây-Phương ngũ nguyện. (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).
(Khi cầu nguyện, nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).
Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.
LƯỢC GIẢI :
Lạy bàn Phật (Tam Bảo) xong, ra bàn Thông thiên cũng cầm hương xá
3 xá, quì xuống chấp tay đưa lên trán nguyện đọc bài “Qui y”; rồi xá xuống; cắm
hương đứng ngay thẳng, chấp tay vào ngực đọc tiếp bài “Tậy phương ngũ nguyện”
và lạy 4 lạy rồi cũng xá 3 xá: chính giữa và 2 bên…Nên nhớ khi xoay lạy 4 hướng
cũng phải xoay theo chiều thuận từ phải sang trái (chiều kim đồng hồ).
Lạy thì có 2 cách:“Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh”.
Lạy 4 hướng và mỗi hướng lạy 4 lạy cũng có ngụ ý là đền đáp “Tứ Ân”.
THỜI GIAN LỄ BÁI:
Căn cứ vào các đoạn Giảng Đức Thầy đã dạy, như:
“Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.
Và:
“Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.
Vậy là người tín đồ PGHH mỗi ngày lễ bái hai thời: Sáng và Chiều.
Lúc mới khai Đạo, Đức Thầy chưa ấn định hai thời cúng từ giờ nào đến giờ nào,
nên sau nầy trong Đạo có người cúng thời chiều quá sớm (mặt trời chưa lặn). Còn
thời sáng thì quá trễ (6-7 giờ còn đứng cúng trước bàn Thông thiên). Do đó, Ban
Phổ thông Giáo lý Trung Ương sau khi ra đời có họp bàn và phân định giờ cúng
như sau:
SÁNG: Vào khoảng 4 giờ đến 6 giờ (trước khi mặt trời mọc);
CHIỀU:Vào khoảng 6 giờ tới 8 giờ tối (sau khi mặt tời lặn).
Thấy ra cúng khoảng các giờ nầy rất thích hợp và thuận tiện cho
người Cư sĩ Tại gia ! (Theo lời Đức Ông – thân sinh Đức Thầy – và các ông
Nguyễn Chi Diệp, Huỳnh Hữu Phỉ…kể lại thì Đức Thầy không cho lễ bái 12 giờ đêm
(giờ Tý). Còn giờ Ngọ (12 giờ trưa) thì Ngài mặc nhận, không ép mà cũng không
cấm tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Miễn 2 giờ chánh: sáng và chiều đừng bỏ
sót là tốt).
CHÚ THÍCH :
BÀN THÔNG THIÊN: Bàn thờ thông lên Trời, cũng gọi là bàn thờ cộng đồng Tam Giáo
(Phật Thánh Tiên). (Xem lại phần chú thích ý nghĩa 3 ngôi thờ cúng ở Mục
Thờ Phượng, tr.119 ).
LẠY ĐỨNG: Lúc lạy đứng, bàn tay
trái để nơi ngực, bàn tay mặt chỏi nghiêng rồi từ từ cúi mình xuống, lật ngửa
hai bàn tay lên, trán úp sát xuống, hai cùi chỏ xuống tới chiếu và đụng 2 đầu
gối, hai chơn xuôi thẳng ra sau và khít lại:“Ngũ thể đầu địa” (cái đầu
và 2 đầu gối, 2 cùi chỏ, cả 5 cái đều sát chiếu).
Lúc đứng lên, bàn tay trái đem vào ngực, bàn tay mặt chống (trên
đầu gối trái) để nương mình lên, cần giữ cố định chân phải để làm chuẩn.. Khi
đứng thẳng, hai tay liền chấp vào ngực, xá 1 xá rồi mới lạy tiếp theo như trước
cho đủ 4 lạy.
LẠY QUÌ: Lưng thẳng, hai tay
chắp từ trên trán lạy xuống; lúc ngẩng lên, cũng thẳng lưng (quì thẳng chớ
không phải quì ngồi), hai bàn tay chắp vào ngực, rồi đưa lên tới trán mới lạy
xuống.
CÁCH XÁ: Khi
xá, chắp tay vào ngực rồi đưa lên trán, rồi lại đưa xuống sát ngực, đồng thời
đầu cúi xuống; trong mỗi xá, niệm một câu Phật hiệu. Không nên xá lia lịa khiến
niệm Phật không theo kịp.
NIỆM PHẬT
(SGTVTB 2004, tr. 212)
CHÁNH VĂN
Cúng xong, muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán
già thẳng lưng niệm: “Nam-Mô A-Di-Đà Phật”.
Hay niệm: “Nam Mô Tây-Phương Cực-lạc thế
giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng
hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật”.
(Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc
cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm) .
Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm,
ngồi rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc.
LƯỢC GIẢI :
Bài niệm Phật tạm chia làm 4 phần:
1- Niệm Phật theo thời khắc: Sau mỗi thời cúng thường
lệ, mỗi tín đồ đều ngồi niệm Phật với tư thế bán già, tức chân mặt gác lên chân
trái, hai tay chấp vào ngực hoặc xòe ra để chồng lên nhau như hai chân. Lưng
thẳng, vì nếu lưng cong thì ngồi lâu bị bịnh tức ngực và dễ hôn trầm. Ngồi tư
thế nầy tức là theo cách hàng ma của Ngài Văn Thù Bồ Tát. Thời gian niệm
Phật lâu hay mau, tùy theo sức khỏe của mỗi hành giả, chớ không cố định, nhưng
có điều là:“Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi”.( ĐT)
2- Niệm liên tiếp không ngừng nghỉ: Tức đi, đứng, nằm, ngồi,
uống, ăn, ngủ, nghỉ và trong mọi công tác sinh hoạt: cuốc đất, làm cỏ, quét
nhà, nấu cơm…người tu đều niệm Phật được cả. Đức Thầy hằng khuyên:
“Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.
Thì hiền lương quên mất điều tà,
Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.
Và:
“Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.
3- Niệm Phật thầm: “Lúc cầu nguyện và
niệm Phật chỉ niệm trong tâm”. Đấy là Đức Thầy dạy chúng ta niệm Phật
trong tâm tức niệm thầm, niệm bằng tâm tưởng; khi đó tâm ta mắc tưởng nhớ Phật
còn rảnh đâu mà vọng nghĩ chuyện khác. Hơn nữa, lúc niệm Phật thầm, mắt
ta xoay cái ngó vào trong để kiểm soát tâm ý mình một cách chặt chẽ không hề để
vọng niệm xen tạp. Tai ta cũng xoay cái nghe vào trong để nghe rõ từng
câu, từng tiếng niệm Phật. Lúc ấy dầu có bao nhiêu tiếng động bên ngoài, tâm ý
mình cũng không xao động tán loạn. Đây là lối tu “Phản văn, văn tự tánh”
của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thực hành và đã kết quả viên mãn.
Tóm lại, Đức Thầy có thực nghiệm và chứng đắc
mới dạy tín đồ cách niệm Phật thầm. Nếu ai cố gắng thực hành, chắc chắn tâm trí
mau thanh tịnh và sáng tỏ.
4- Niệm Phật cả hai câu “Lục tự” và câu “Tây
phương Cực Lạc Thế Giới tam…”: Sở dĩ Đức Thầy dạy tín đồ niệm Phật như vậy,
là vì nếu chỉ niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật” thì chúng ta chỉ cầu
Đức Phật A Di Đà tiếp độ cho cá nhân mình thôi. Như vậy mới được phần tự
giác. Còn chúng ta niệm luôn câu:“Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới…” là
cầu hết chư Phật ở cõi Cực Lạc và Đức Phật A Di Đà tiếp độ cả vạn loại chúng
sanh. Đây là được thêm phần giác tha. Bởi Đức Thầy dạy chúng ta vừa tu
cho mình (tự giác) và vừa tu cầu cho mọi người mọi giới (giác tha) để đạt đến
“Giác hạnh Viên mãn”.
“Tự giác, giác tha Ta phải nói”.( ĐT)
Tóm lại, Đức Thầy dạy tín đồ bài niệm Phật
nầy có dụng ý: tuy người tu mang hình thức tại gia, nhưng thực hành pháp Đại
thừa Bồ Tát Đạo, như Ngài từng bảo:
“Say Đạo huyền vi nước tịnh dương,
Say câu Bồ Tát rưới cho thường”.
CHÚ THÍCH :
NIỆM PHẬT: Do chữ “niệm Phật ức
Phật”. Có nghĩa: niệm Phật để tưởng nhớ Phật và làm theo hạnh Phật. Song
chữ niệm Phật có hai nghĩa: Sự và Lý.
1-VỀ SỰ: là dùng tâm tưởng nhớ Phật
để chừng bỏ thân tứ đại, linh hồn được sanh về cõi Phật, như Đức Thầy đã bảo:
“Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,
Hưởng
công niệm Phật rất yên lành”.
Ví như hai người, người nầy nhớ người kia mà
người kia không nhớ lại thì chẳng khi nào gặp nhau. Bằng hai người đồng nhớ thì
sớm muộn gì cũng gặp. Phật lúc nào cũng nhớ thương chúng sanh mãi trôi lăn
trong vòng khổ, nên hằng tìm kiếm cứu vớt đem về. Thế mà chúng sanh không chịu
nhớ Phật thì chẳng bao giờ được gặp. Bằng chúng sanh biết nhớ Phật liên tục,
tức đặng gặp Phật tiếp độ.
Theo nghĩa nầy người niệm Phật phải thành tâm
khẩn thiết, nhớ Phật như con nhớ cha mẹ, kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu
cứu thì việc vãng sanh Cực Lạc sẽ chắc chắn như lấy đồ trong túi.
2-VỀ LÝ: là mượn tiếng niệm Phật để
trừ hết vọng niệm phiền não, tức tâm bình tịnh, huệ nhựt hiện bày, và được trở
về với tánh toàn giác, hay bản lai thanh tịnh của chính mình. Ví như ly nước
đục lọc hết cặn cáu, còn lại chất nước trong. Bởi ngoài vọng tâm không có Phật,
ngoài phiền não không có Bồ Đề, “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”.(
ĐT)
Người niệm Phật theo nghĩa nầy sẽ trực kiến:“Tự
Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” mà thành quả giải thoát tại thế gian. Như
Đức Thầy đã dạy:
“Tu cầu Phật hóa tánh tình,
Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu
dao”.
CẦU NGUYỆN LÚC ĂN CƠM – CHAY LẠT – ĐI XA NHÀ.
(SGTVTB 2004, tr. 212-213)
CHÁNH VĂN
NGUYỆN LÚC ĂN CƠM
Mỗi khi ăn cơm với mắm muối
chi cũng vậy, đều nguyện vái Cửu Huyển, Thất Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ quá vãng về ăn
với mình để tỏ lòng hiếu thảo.
ĂN CHAY.
Đến ngày đơm quảy có chi
cúng nấy
Ăn chay ngày 14-15, 29-30,
tháng thiếu 29-1, có nhang thì đốt, không có thì nguyện không.
Hàng năm, đến ba ngày xuân
nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1 phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng
chay, qua đến ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra mắt
không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng
thôi.
ĐI XA NHÀ.
Đi làm ruộng đến thời cúng,
ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Còn đi xa thì nguyện tưởng trong tâm
cũng được.
LƯỢC GIẢI :
Ba đề mục trên đây, chúng tôi chỉ chú thích các
từ ngữ, nhưng cũng bàn về tục lệ chung quanh ba ngày Tết. Theo ý Đức Thầy dạy
thì hãy bỏ các tục lệ dị đoan mê tín, chỉ giữ lại những tục lệ chơn chánh như:
Chiều 29 hoặc 30 năm cũ (tùy theo tháng 12 đủ
hay thiếu), giữ tục cúng ông bà tức Cửu Huyền Thất Tổ (cúng chay), 12 giờ đêm
30 Tết cúng rước giao thừa, nhưng không nên dựng nêu, treo bùa hay đốt
pháo…Ngày mùng ba, chỉ dùng bông hoa cúng tế Trời Phật, chớ không nên sát sanh
gà vịt, coi giò, coi đầu chi hết. Không nên đốt hoặc dán giấy vàng bạc. Không
rượu chè say sưa, cờ bạc, đá gà…
CHÚ THÍCH :
ĂN CHAY: Cũng viết là ăn trai,
tức là không ăn những vật có mạng sống (hữu tình), mà chỉ ăn những vật không có
mạng sống (vô tình), như: rau cải, trái củ và tương chao, đậu hủ…
Ăn chay đối lập với ăn mặn,
cho nên mục đích của sự ăn chay là để tăng trưởng lòng nhơn, nuôi dưỡng
đức tánh từ bi, diệt tâm hiếu sát để tránh luân hồi quả báo.
1- Chay kỳ: Ăn mỗi tháng 4 ngày, như
Đức Thầy dạy những người mới tu, hạng thấp nhứt là cũng phải giữ đúng qui tắc:“Chay
bốn bữa ấy là qui tắc”.
Rồi lần lần tiến lên mỗi tháng 6 ngày hoặc 10
ngày hay mỗi năm ăn ba tháng có 3 cái rằm lớn là: Thượng ngươn (tháng giêng),
Trung ngươn (tháng 7), Hạ ngươn (tháng 10). Rồi tùy theo trình độ và lòng nhơn
của mình mà tiến lên.
2- Chay trường (hay trường chay) : Tức
là ăn chay suốt luôn không có ngày giờ nào ăn mặn.
Song nhà tu không chỉ có khẩu chay mà
cần phải có tâm chay mới đạt kết quả trọn vẹn. Người giữ tâm chay
là giữ giới hạnh tinh nghiệm, những tư tưởng tà vạy, bợn nhơ dứt sạch, lòng
luôn luôn thanh tịnh ngay chánh:“Từ bi, bác ái. dĩ đức, háo sanh…” Đức Thầy
từng dạy:“Tâm chay hậu tấn rán tu thân”. Và:
“Chữ Nam Mô trì giái giữ chay,
Chay được tánh chay tâm mới quí”
ĐƠM QUẢY: Cũng gọi là giỗ quảy, đơm
cúng trong ngày giỗ. Có nghĩa đem cỗ (các thức ăn) dâng lên bàn thờ cúng ông bà
cha mẹ đã qua đời. Đức Thầy có câu:
“Giường linh đơm quảy mới là,
Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi !”
BA NGÀY XUÂN NHỰT: Ba ngày Tết, vì ba ngày
Tết nhằm đầu mùa Xuân (Tiết nguyên đán). Chữ Tết do chữ tiết đọc trại, xưa
người ta kể mùng một, mùng hai và mùng ba, tiếng dùng chỉ chung cho các
ngày Tết. Nhưng hiện nay Đức Thầy dạy là 29-30 và mùng một (hai ngày
cuối một năm và một ngày đầu năm). Ngài từng nói:
“Nhắn nhủ khắp nơi hỏi một bài,
Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai”.
NGUYỆN TƯỞNG TRONG TÂM: Cầu nguyện và niệm Phật
thầm trong tâm chớ không đọc lớn tiếng.
Đăng nhận xét